Chuyến tàu 16 giờ 50 2-4
Chuyến tàu 16
giờ 50
Agatha
Christie
Chương hai
Tác giả:
Agatha Christie
Trung thành với
nguyên tắc mà mẹ và bà đã giáo dục, cụ thể là, một phụ nữ quý tộc trong bất cứ
trường hợp nào cũng không được tỏ thái độ sửng sốt, thậm chí ngạc nhiên, bà
Marple chỉ khẽ dướn đôi lông mày, gật gù nhẹ mái đầu.
Bà nói:
- Nhìn thấy tận mắt cảnh tượng như thế, chị chấn động là phải, Gilucuddy thân
mến! Nhưng chị có thể kể tỉ mỉ toàn bộ cho tôi nghe bây giờ được không?
Thì đó cũng chính là điều bà Gilucuddy đang muốn làm. Để bà bạn ngồi chiếc ghế
nệm bên lò sưởi ấm áp, bà Gilucuddy tháo đôi găng tay, bắt đầu kể, giọng vẫn
còn thảng thốt.
Bà Marple lặng lẽ, nín thở chăm chú lắng nghe. Nghe xong, bà mới cố ghìm cơn
cảm xúc, thở ra thật nhẹ, rồi mới nói, giọng kiên quyết:
- Chị Gilucuddy thân mến, tôi nghĩ tốt nhất là chị cần lên phòng nghỉ ngơi. Vào
đấy, chị có thể tháo mũ, rửa mặt mũi, rồi xuống ăn tối. Ta tạm gác tất cả các
câu chuyện này, bàn bạc kỹ lưỡng mọi khả năng xem thế nào.
Bà Gilucuddy tán thành.
Thế là trong bữa tối, đôi bạn trò chuyện hàn huyên, bình luận về cuộc sống đang
diễn ra trong thị trấn Mary Mead này. Trong câu chuyện bà Marple kể có chuyện
về một vụ tai tiếng mới xảy ra gần đây về cách xử sự của bà vợ ông chủ hiệu
thuốc tây và câu chuyện về cô giáo trường tiểu học phản đối nhà chức trách địa
phương. Lát sau câu chuyện chuyển sang bình phẩm về thời tiết khắc nghiệt mùa
đông năm nay. Nhưng trong khi trò chuyện, khách vẫn còn có vẻ bồn chồn, không
tập trung hoàn toàn vào câu chuyện. Thấy vậy, bà Marple chủ nhà bèn mời bạn
sang phòng khách, ngồi bên lò sưởi, rồi bà bước đến tủ rượu, lấy ra một chai
pha lê chạm trổ tinh vi và hai chiếc ly.
- Tôi không muốn chị dùng cà phê! - bà Marple nói: Thần kinh chị đã căng thẳng
quá mức rồi. Tôi muốn chị nhấp một chút rượu anh thảo tôi tự ngâm lấy, rồi sau
đó dùng một tách nước sắc cam túc.
Bà Gilucuddy ngoan ngoãn tuân theo. Nhưng nhấp xong một ngụm chất an thần quả
là khó nuốt, bà không nhịn được hỏi luôn:
- Marple, chị không nghĩ là tôi tưởng tượng ra tất cả câu chuyện đấy kia chứ?
Hay chị cho tôi là đã tưởng tượng?
- Tất nhiên tôi không cho là chị tưởng tượng, bà Marple chân thành đáp.
Khách thở phào nhẹ nhõm:
- Nghe chị nói thế tôi thấy nhẹ cả người, vì từ lúc người nhân viên soát vé
nói, tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng nhẽ không ai tin là tôi đã nhìn thấy thật hay
sao? Tất nhiên anh nhân viên đường sắt kia nói năng rất lịch sự, nhưng tôi thấy
rõ anh ta không tin… anh ta…
Bà Marple lấy giọng dịu dàng ngắt lời bạn:
- Nên thông cảm với anh ta. Chị phải công nhận là câu chuyện của chị, mới thoạt
nghe, người ta dễ nghi là không có thật. Nó có vẻ quá quái đản. Hơn nữa anh ta
đã biết chị là ai đâu…
Bà Gilucuddy lại lộ vẻ bực bội.
Bà Marple liền nói tiếp:
- Câu chuyện kỳ quái, nhưng trên cõi đời này, thiếu gì chuyện kỳ quái như thế!
Nghe chị kể, tôi chợt nhớ có một lần tôi đã chứng kiến một cảnh tượng xảy ra
đúng trong một đoàn tàu chạy song song với đoàn tàu của tôi. Một đứa bé gái
chơi với con gấu bông, bỗng quăng con gấu, trúng vào đầu một ông già đang thiu
thiu ngủ, khiến ông ta choàng tỉnh dậy và nổi cáu. Tôi đã tận mắt chứng kiến
câu chuyện xảy ra giữa ông và đứa bé, cùng thái độ của những người ngồi gần đó.
Đang rỗi rãi, tôi quan sát kỹ đến mức có thể kể lại hình dạng, quần áo từng
người, họ đã nói gì và thái đội ra sao, chính xác một trăm phần trăm. Chị
Gilucuddy này, chị bảo gã đàn ông đó đứng quay lưng về phía chị, nghĩa là chị
không thấy rõ mặt y phải không?
- Đúng thế, tôi không nhìn được mặt gã.
- Còn người phụ nữ? Chị thấy hình dạng chị ta chứ? Trẻ hay già?
- Khá trẻ. Khoảng ba mươi, ba mươi nhăm gì đó. Tôi khó nói được chính xác.
- Đẹp không?
- Làm sao tôi biết? Lúc đó mặt cô ta méo xệch, lưỡi thì lè ra…
- Măng tô bằng lông thú, nhưng tôi thấy có vẻ cũ vì màu đã bạc. Không đội mũ,
tóc vàng.
- Tuy gã đàn ông không quay mặt về phía chị, nhưng chị có nhận xét thấy đặc
điểm nào của gã không?
Bà Gilucuddy suy nghĩ một hồi lâu rồi đáp:
- Gã cao lớn. Tóc đen, hình như thế. Tấm măng tô hắn mặc rất dày nên không đoán
được khổ vai.
Bà thở dài, thất vọng nói thêm:
- Mấy chi tiết đó quá ít ỏi, chẳng giúp ích được gì mấy!
- Chị đừng nghĩ thế, bà Marple trấn an ban. Mấy chi tiết đó không phải không có
giá trị đâu. Đợi sáng mai, chúng ta sẽ còn biết thêm nữa.
- Sáng mai?
- Đúng thế! Tôi đoán báo chí sáng mai sẽ đưa tin về vụ việc này. Bởi giết người
thì không khó, nhưng cái khó là làm sao thủ tiêu được cái xác. Tôi đoán sau khi
gây án, hung thủ tất phải xuống ngay chỗ ga tàu đỗ gần nhất… Mà là toa giường
ngủ phải không?
- Không!
- Nghĩa là không phải tàu chạy chặng xa. Dù sao thì chắc chắn ga tàu đó đỗ liền
sau đấy là ga Brackhamton. Ta đặt khả năng, hung thủ bỏ lại xác nạn nhân ở một
góc kín đáo trên toa tàu, rồi xuống ga, không quên dựng cổ áo măng tô lên che
mặt, cốt để không ai nhìn thấy mặt hắn… Chà, tôi tin là sự việc đã diễn ra đúng
như tôi đoán. Nếu vậy, sớm muộn người ta cũng tìm thấy thi thể nạn nhân. Tôi
tin rằng chuyện một phụ nữ bị giết trên toa tàu hỏa, các báo chí không đời nào
bỏ qua. Rồi chúng ta sẽ thấy!
Sáng hôm sau, không một tờ báo nào nói đến vụ án mạng. Thấy vậy, lúc ăn điểm
tâm, đôi bạn già chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man, không ai nói lên một
lời. Sau bữa điểm tâm, họ ra vườn dạo chơi, nhưng niềm thích thú mọi khi hôm
nay không còn. Quả thật bà Marple có chỉ cho bạn thấy mấy cây hoa đẹp, nhưng
bản thân bà cũng không thiết tha là bao.
Hai người lặng lẽ một lúc rồi đột nhiên bà Gilucuddy đứng lại, nhìn thẳng vào
mắt bạn:
Vậy theo chị, ta nên làm thế nào bây giờ?
Câu hỏi đơn giản, nhưng chứa đựng cả một nỗi băn khoăn lớn lao. Bà Marple không
đoán lầm.
- Tôi còn đang nghĩ, bà đáp.
Bà Gilucuddy khẽ rùng mình,
Thấy vậy, bà Marple nói tiếp:
- Tôi tính tốt nhất ta ra đồn cảnh sát trình bày toàn bộ câu chuyện với trung
sĩ Cornish. Anh ta rất thông minh, biết kiên nhẫn lắng nghe, lại rất quen biết
tôi. Tôi tin Cornish sẽ báo cáo lên cấp trên toàn bộ câu chuyện này.
Thế là sau đấy 45 phút đồng hồ, hai bà đứng trước một người đàn ông khoảng
30-40 tuổi, khuôn mặt sáng sủa, thái độ niềm nở, nhưng vẫn giữ vẻ nghiêm túc.
- Chào bà Marple! Bà cần tôi giúp gì đây?
- Tôi muốn ông lắng nghe câu chuyện của bà bạn tôi, bà Gilucuddy.
Lời đề nghị được trung sĩ chấp nhận ngay.
Nghe xong, viên trung sĩ im lặng suy nghĩ một lúc lâu. Anh kín đáo chăm chú
quan sát người kể chuyện và anh tin bà Gilucuddy này không thuộc loại phụ nữ
nhẹ dạ, dễ bị cuốn theo các thứ hoang tưởng. Hơn nữa, bà Marple tỏ vẻ rất tin
vào bà bạn mà trung sĩ thì đã biết rất rõ bà. Bà Marple không phải là người
nông nổi. Không cứ anh mà cả thị trấn Mary Mead này biết rõ tính tình bà: Bên
ngoài có vẻ sởi lởi, thật ra bà rất hiểu biết và có nghị lực.
Viên trung sĩ cảnh sát ho nhẹ một tiếng thông cổ họng rồi nói với bà Gilucuddy:
- Tất nhiên có thể bà nhìn nhầm, nhưng tôi không tin là như thế. Dù sao, đó mới
chỉ là môt khả năng. Đôi khi hành khách ngồi trên tàu dễ buồn chán, thả cho trí
tưởng tượng bay bổng. Cho nên cũng có khả năng điều bà nhìn thấy không phải là
chuyện trầm trọng như bà nghĩ.
Câu nói đó làm bà Gilucuddy bực bội:
- Tôi biết tôi nhìn thấy gì chứ!, bà chua chát nói.
"Vậy là bà ta không chịu buông xuôi sự việc này, viên trung sĩ thầm nghĩ.
"Mà bản thân mình cũng phải thận trọng, nhưng mình vẫn cảm thấy bà này nói
có lý".
Nghĩ như vậy, nhưng khi nói ra miệng, anh ta lại tỏ ý nghi hoặc:
- Bà đã báo nhà ga và vừa rồi bà đã tường trình cho tôi. Theo đúng nguyên tắc,
chúng tôi sẽ tiến hành điều tra theo đúng trình tự. Bà có thể tin ở tôi là cuộc
điều tra sẽ được tiến hành.
Mãn nguyện, bà Marple nghiêng đầu lịch sự cảm ơn. Bà Gilucuddy, tuy không chia
sẻ niềm lạc quan ấy, nhưng cũng không nói gì.
Viên trung sĩ Cornish nói tiếp. Lần này anh ta hướng về phía bà Marple. Không
phải để nghe những gợi ý, mà để biết bà này nghĩ thế nào về toàn bộ câu chuyện.
- Căn cứ vào tất các sự kiện kia, theo bà thì thi thể nạn nhân hiện ra sao?
Bà Marple đáp ngay, không hề ngập ngừng:
- Tôi nghĩ có hai khả năng. Tất nhiên cách đầu tiên hiện ra trong trí óc hung
thủ là giấu thi thể nạn nhân vào một góc nào đó trên tàu, nhưng chuyện đó không
thể có, vì nếu vậy, đến ga cuối cùng, khi làm vệ sinh các toa, nhân viên đường
sắt tất phải phát hiện thấy cái xác.
Trung sĩ Cornish làm một cử chỉ tán thành.
Bà Marple nói tiếp:
- Do đấy, thủ phạm chỉ còn một cách duy nhất, đẩy thi thể nạn nhân ra khỏi tàu
giữa lúc tàu đang chạy. Vậy thì xác người phụ nữ kia ắt phải nằm bên cạnh đường
ray, khốn nhưng cho đến nay chưa ai nhìn thấy. Theo tôi phán đoán thì ngoài
cách ấy ra hung thủ không còn cách nào khác để giấu xác chết.
Lúc này bà Gilucuddy mới lên tiếng:
- Người ta đã từng nói đến những xác chết giấu trong hòm xiểng. Nhưng thời nay
hành khách không mang hòm mà xách va li. Mà va li nhỏ như thế, thì làm sao có
thể nhét thi thể một con người vào được?
Viên trung sĩ suýt bật cười, nhưng vì lịch sự anh ta cố nén lại:
- Tôi đồng ý với cả hai bà. Nếu như có xác chết, thì lúc này người ta đã phải
phát hiện ra rồi, nếu không thì cũng chỉ chờ vài hôm nữa thôi. Dù sao, tôi cũng
xin hứa với hai bà là biết được gì thêm về vụ này tôi sẽ báo hai bà biết ngay.
Nhân đây tôi thấy cần nêu thêm một khả năng: Tuy bị bóp cổ nhưng người phụ nữ
kia không chết. Và không phải không có khả năng bà ta đã ra khỏi tàu.
- Nếu vậy ắt phải có người giúp, bà Marple nói. Và nếu như thế, khách đi tàu
không chỉ chú trọng ý đến tình trạng chị ta, mà chú ý cả người dìu chị ta. Và
khi đó, anh ta sẽ trả lời rằng chị ta bị ốm.
- Bà hoàn toàn có lý, trung sĩ Cornish nói. Và nếu người ta phát hiện có người
đau nặng hoặc bất tỉnh trên tàu, họ sẽ gọi cấp cứu, đưa chị ta đến bệnh viện
ngay. Khi đó cảnh sát sẽ được thông báo. Cho nên chỉ ngày mai, hai bà sẽ được
nghe đăng tin về vụ việc này.
Nhưng đến hết ngày hôm ấy, vẫn không nghe thấy có tin tức gì hơn. Cả hôm sau
cũng thế. Rồi chập tối ngày thứ ba, bà Marple nhận được thư của trung sĩ
Cornish:
Một cuộc điều tra kỹ lưỡng đã được tiến hành xung quanh vụ việc bà kể tôi nghe,
nhưng không đem lại kết quả nào. Người ta không thấy một xác chết nào. Không
bệnh viện nào đã tiếp nhận một phụ nữ như hai bà vừa kể. Người ta cũng không
tìm thấy dấu vết nào của một người ra khỏi ga có người khác dìu đi. Xin bà tin
rằng mọi việc tìm kiếm có thể tiến hành đều đã được thực hiện. Tôi nghĩ đến khả
năng, có thể bà bạn của bàn nhìn thấy cảnh tượng như thế, nhưng sự thật không
đến nỗi trầm trọng như bà ấy tưởng chăng?
Trung thành với nguyên tắc mà mẹ và bà đã giáo dục, cụ thể là, một phụ nữ quý
tộc trong bất cứ trường hợp nào cũng không được tỏ thái độ sửng sốt, thậm chí
ngạc nhiên, bà Marple chỉ khẽ dướn đôi lông mày, gật gù nhẹ mái đầu.
Bà nói:
- Nhìn thấy tận mắt cảnh tượng như thế, chị chấn động là phải, Gilucuddy thân
mến! Nhưng chị có thể kể tỉ mỉ toàn bộ cho tôi nghe bây giờ được không?
Thì đó cũng chính là điều bà Gilucuddy đang muốn làm. Để bà bạn ngồi chiếc ghế
nệm bên lò sưởi ấm áp, bà Gilucuddy tháo đôi găng tay, bắt đầu kể, giọng vẫn
còn thảng thốt.
Bà Marple lặng lẽ, nín thở chăm chú lắng nghe. Nghe xong, bà mới cố ghìm cơn
cảm xúc, thở ra thật nhẹ, rồi mới nói, giọng kiên quyết:
- Chị Gilucuddy thân mến, tôi nghĩ tốt nhất là chị cần lên phòng nghỉ ngơi. Vào
đấy, chị có thể tháo mũ, rửa mặt mũi, rồi xuống ăn tối. Ta tạm gác tất cả các
câu chuyện này, bàn bạc kỹ lưỡng mọi khả năng xem thế nào.
Bà Gilucuddy tán thành.
Thế là trong bữa tối, đôi bạn trò chuyện hàn huyên, bình luận về cuộc sống đang
diễn ra trong thị trấn Mary Mead này. Trong câu chuyện bà Marple kể có chuyện
về một vụ tai tiếng mới xảy ra gần đây về cách xử sự của bà vợ ông chủ hiệu
thuốc tây và câu chuyện về cô giáo trường tiểu học phản đối nhà chức trách địa
phương. Lát sau câu chuyện chuyển sang bình phẩm về thời tiết khắc nghiệt mùa
đông năm nay. Nhưng trong khi trò chuyện, khách vẫn còn có vẻ bồn chồn, không
tập trung hoàn toàn vào câu chuyện. Thấy vậy, bà Marple chủ nhà bèn mời bạn
sang phòng khách, ngồi bên lò sưởi, rồi bà bước đến tủ rượu, lấy ra một chai
pha lê chạm trổ tinh vi và hai chiếc ly.
- Tôi không muốn chị dùng cà phê! - bà Marple nói: Thần kinh chị đã căng thẳng
quá mức rồi. Tôi muốn chị nhấp một chút rượu anh thảo tôi tự ngâm lấy, rồi sau
đó dùng một tách nước sắc cam túc.
Bà Gilucuddy ngoan ngoãn tuân theo. Nhưng nhấp xong một ngụm chất an thần quả
là khó nuốt, bà không nhịn được hỏi luôn:
- Marple, chị không nghĩ là tôi tưởng tượng ra tất cả câu chuyện đấy kia chứ?
Hay chị cho tôi là đã tưởng tượng?
- Tất nhiên tôi không cho là chị tưởng tượng, bà Marple chân thành đáp.
Khách thở phào nhẹ nhõm:
- Nghe chị nói thế tôi thấy nhẹ cả người, vì từ lúc người nhân viên soát vé
nói, tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng nhẽ không ai tin là tôi đã nhìn thấy thật hay
sao? Tất nhiên anh nhân viên đường sắt kia nói năng rất lịch sự, nhưng tôi thấy
rõ anh ta không tin… anh ta…
Bà Marple lấy giọng dịu dàng ngắt lời bạn:
- Nên thông cảm với anh ta. Chị phải công nhận là câu chuyện của chị, mới thoạt
nghe, người ta dễ nghi là không có thật. Nó có vẻ quá quái đản. Hơn nữa anh ta
đã biết chị là ai đâu…
Bà Gilucuddy lại lộ vẻ bực bội.
Bà Marple liền nói tiếp:
- Câu chuyện kỳ quái, nhưng trên cõi đời này, thiếu gì chuyện kỳ quái như thế!
Nghe chị kể, tôi chợt nhớ có một lần tôi đã chứng kiến một cảnh tượng xảy ra
đúng trong một đoàn tàu chạy song song với đoàn tàu của tôi. Một đứa bé gái
chơi với con gấu bông, bỗng quăng con gấu, trúng vào đầu một ông già đang thiu
thiu ngủ, khiến ông ta choàng tỉnh dậy và nổi cáu. Tôi đã tận mắt chứng kiến
câu chuyện xảy ra giữa ông và đứa bé, cùng thái độ của những người ngồi gần đó.
Đang rỗi rãi, tôi quan sát kỹ đến mức có thể kể lại hình dạng, quần áo từng
người, họ đã nói gì và thái đội ra sao, chính xác một trăm phần trăm. Chị
Gilucuddy này, chị bảo gã đàn ông đó đứng quay lưng về phía chị, nghĩa là chị
không thấy rõ mặt y phải không?
- Đúng thế, tôi không nhìn được mặt gã.
- Còn người phụ nữ? Chị thấy hình dạng chị ta chứ? Trẻ hay già?
- Khá trẻ. Khoảng ba mươi, ba mươi nhăm gì đó. Tôi khó nói được chính xác.
- Đẹp không?
- Làm sao tôi biết? Lúc đó mặt cô ta méo xệch, lưỡi thì lè ra…
- Măng tô bằng lông thú, nhưng tôi thấy có vẻ cũ vì màu đã bạc. Không đội mũ,
tóc vàng.
- Tuy gã đàn ông không quay mặt về phía chị, nhưng chị có nhận xét thấy đặc
điểm nào của gã không?
Bà Gilucuddy suy nghĩ một hồi lâu rồi đáp:
- Gã cao lớn. Tóc đen, hình như thế. Tấm măng tô hắn mặc rất dày nên không đoán
được khổ vai.
Bà thở dài, thất vọng nói thêm:
- Mấy chi tiết đó quá ít ỏi, chẳng giúp ích được gì mấy!
- Chị đừng nghĩ thế, bà Marple trấn an ban. Mấy chi tiết đó không phải không có
giá trị đâu. Đợi sáng mai, chúng ta sẽ còn biết thêm nữa.
- Sáng mai?
- Đúng thế! Tôi đoán báo chí sáng mai sẽ đưa tin về vụ việc này. Bởi giết người
thì không khó, nhưng cái khó là làm sao thủ tiêu được cái xác. Tôi đoán sau khi
gây án, hung thủ tất phải xuống ngay chỗ ga tàu đỗ gần nhất… Mà là toa giường
ngủ phải không?
- Không!
- Nghĩa là không phải tàu chạy chặng xa. Dù sao thì chắc chắn ga tàu đó đỗ liền
sau đấy là ga Brackhamton. Ta đặt khả năng, hung thủ bỏ lại xác nạn nhân ở một
góc kín đáo trên toa tàu, rồi xuống ga, không quên dựng cổ áo măng tô lên che
mặt, cốt để không ai nhìn thấy mặt hắn… Chà, tôi tin là sự việc đã diễn ra đúng
như tôi đoán. Nếu vậy, sớm muộn người ta cũng tìm thấy thi thể nạn nhân. Tôi
tin rằng chuyện một phụ nữ bị giết trên toa tàu hỏa, các báo chí không đời nào
bỏ qua. Rồi chúng ta sẽ thấy!
Sáng hôm sau, không một tờ báo nào nói đến vụ án mạng. Thấy vậy, lúc ăn điểm
tâm, đôi bạn già chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man, không ai nói lên một
lời. Sau bữa điểm tâm, họ ra vườn dạo chơi, nhưng niềm thích thú mọi khi hôm
nay không còn. Quả thật bà Marple có chỉ cho bạn thấy mấy cây hoa đẹp, nhưng
bản thân bà cũng không thiết tha là bao.
Hai người lặng lẽ một lúc rồi đột nhiên bà Gilucuddy đứng lại, nhìn thẳng vào
mắt bạn:
Vậy theo chị, ta nên làm thế nào bây giờ?
Câu hỏi đơn giản, nhưng chứa đựng cả một nỗi băn khoăn lớn lao. Bà Marple không
đoán lầm.
- Tôi còn đang nghĩ, bà đáp.
Bà Gilucuddy khẽ rùng mình,
Thấy vậy, bà Marple nói tiếp:
- Tôi tính tốt nhất ta ra đồn cảnh sát trình bày toàn bộ câu chuyện với trung
sĩ Cornish. Anh ta rất thông minh, biết kiên nhẫn lắng nghe, lại rất quen biết
tôi. Tôi tin Cornish sẽ báo cáo lên cấp trên toàn bộ câu chuyện này.
Thế là sau đấy 45 phút đồng hồ, hai bà đứng trước một người đàn ông khoảng
30-40 tuổi, khuôn mặt sáng sủa, thái độ niềm nở, nhưng vẫn giữ vẻ nghiêm túc.
- Chào bà Marple! Bà cần tôi giúp gì đây?
- Tôi muốn ông lắng nghe câu chuyện của bà bạn tôi, bà Gilucuddy.
Lời đề nghị được trung sĩ chấp nhận ngay.
Nghe xong, viên trung sĩ im lặng suy nghĩ một lúc lâu. Anh kín đáo chăm chú
quan sát người kể chuyện và anh tin bà Gilucuddy này không thuộc loại phụ nữ
nhẹ dạ, dễ bị cuốn theo các thứ hoang tưởng. Hơn nữa, bà Marple tỏ vẻ rất tin
vào bà bạn mà trung sĩ thì đã biết rất rõ bà. Bà Marple không phải là người
nông nổi. Không cứ anh mà cả thị trấn Mary Mead này biết rõ tính tình bà: Bên
ngoài có vẻ sởi lởi, thật ra bà rất hiểu biết và có nghị lực.
Viên trung sĩ cảnh sát ho nhẹ một tiếng thông cổ họng rồi nói với bà Gilucuddy:
- Tất nhiên có thể bà nhìn nhầm, nhưng tôi không tin là như thế. Dù sao, đó mới
chỉ là môt khả năng. Đôi khi hành khách ngồi trên tàu dễ buồn chán, thả cho trí
tưởng tượng bay bổng. Cho nên cũng có khả năng điều bà nhìn thấy không phải là
chuyện trầm trọng như bà nghĩ.
Câu nói đó làm bà Gilucuddy bực bội:
- Tôi biết tôi nhìn thấy gì chứ!, bà chua chát nói.
"Vậy là bà ta không chịu buông xuôi sự việc này, viên trung sĩ thầm nghĩ.
"Mà bản thân mình cũng phải thận trọng, nhưng mình vẫn cảm thấy bà này nói
có lý".
Nghĩ như vậy, nhưng khi nói ra miệng, anh ta lại tỏ ý nghi hoặc:
- Bà đã báo nhà ga và vừa rồi bà đã tường trình cho tôi. Theo đúng nguyên tắc,
chúng tôi sẽ tiến hành điều tra theo đúng trình tự. Bà có thể tin ở tôi là cuộc
điều tra sẽ được tiến hành.
Mãn nguyện, bà Marple nghiêng đầu lịch sự cảm ơn. Bà Gilucuddy, tuy không chia
sẻ niềm lạc quan ấy, nhưng cũng không nói gì.
Viên trung sĩ Cornish nói tiếp. Lần này anh ta hướng về phía bà Marple. Không
phải để nghe những gợi ý, mà để biết bà này nghĩ thế nào về toàn bộ câu chuyện.
- Căn cứ vào tất các sự kiện kia, theo bà thì thi thể nạn nhân hiện ra sao?
Bà Marple đáp ngay, không hề ngập ngừng:
- Tôi nghĩ có hai khả năng. Tất nhiên cách đầu tiên hiện ra trong trí óc hung
thủ là giấu thi thể nạn nhân vào một góc nào đó trên tàu, nhưng chuyện đó không
thể có, vì nếu vậy, đến ga cuối cùng, khi làm vệ sinh các toa, nhân viên đường
sắt tất phải phát hiện thấy cái xác.
Trung sĩ Cornish làm một cử chỉ tán thành.
Bà Marple nói tiếp:
- Do đấy, thủ phạm chỉ còn một cách duy nhất, đẩy thi thể nạn nhân ra khỏi tàu
giữa lúc tàu đang chạy. Vậy thì xác người phụ nữ kia ắt phải nằm bên cạnh đường
ray, khốn nhưng cho đến nay chưa ai nhìn thấy. Theo tôi phán đoán thì ngoài cách
ấy ra hung thủ không còn cách nào khác để giấu xác chết.
Lúc này bà Gilucuddy mới lên tiếng:
- Người ta đã từng nói đến những xác chết giấu trong hòm xiểng. Nhưng thời nay
hành khách không mang hòm mà xách va li. Mà va li nhỏ như thế, thì làm sao có thể
nhét thi thể một con người vào được?
Viên trung sĩ suýt bật cười, nhưng vì lịch sự anh ta cố nén lại:
- Tôi đồng ý với cả hai bà. Nếu như có xác chết, thì lúc này người ta đã phải
phát hiện ra rồi, nếu không thì cũng chỉ chờ vài hôm nữa thôi. Dù sao, tôi cũng
xin hứa với hai bà là biết được gì thêm về vụ này tôi sẽ báo hai bà biết ngay.
Nhân đây tôi thấy cần nêu thêm một khả năng: Tuy bị bóp cổ nhưng người phụ nữ
kia không chết. Và không phải không có khả năng bà ta đã ra khỏi tàu.
- Nếu vậy ắt phải có người giúp, bà Marple nói. Và nếu như thế, khách đi tàu
không chỉ chú trọng ý đến tình trạng chị ta, mà chú ý cả người dìu chị ta. Và
khi đó, anh ta sẽ trả lời rằng chị ta bị ốm.
- Bà hoàn toàn có lý, trung sĩ Cornish nói. Và nếu người ta phát hiện có người
đau nặng hoặc bất tỉnh trên tàu, họ sẽ gọi cấp cứu, đưa chị ta đến bệnh viện
ngay. Khi đó cảnh sát sẽ được thông báo. Cho nên chỉ ngày mai, hai bà sẽ được
nghe đăng tin về vụ việc này.
Nhưng đến hết ngày hôm ấy, vẫn không nghe thấy có tin tức gì hơn. Cả hôm sau
cũng thế. Rồi chập tối ngày thứ ba, bà Marple nhận được thư của trung sĩ
Cornish:
Một cuộc điều tra kỹ lưỡng đã được tiến hành xung quanh vụ việc bà kể tôi nghe,
nhưng không đem lại kết quả nào. Người ta không thấy một xác chết nào. Không
bệnh viện nào đã tiếp nhận một phụ nữ như hai bà vừa kể. Người ta cũng không
tìm thấy dấu vết nào của một người ra khỏi ga có người khác dìu đi. Xin bà tin
rằng mọi việc tìm kiếm có thể tiến hành đều đã được thực hiện. Tôi nghĩ đến khả
năng, có thể bà bạn của bàn nhìn thấy cảnh tượng như thế, nhưng sự thật không
đến nỗi trầm trọng như bà ấy tưởng chăng?
رمز علامة
Chuyến tàu 16
giờ 50
Agatha
Christie
Chương ba
Tác giả:
Agatha Christie
Vớ vẩn, làm như
trò đùa ấy, bà Gilucuddy kêu lên giận dữ. Đây là một vụ án mạng một trăm phần
trăm!
Nói xong bà quay sang nhìn bà bạn bằng cặp mắt nghi ngờ, mặc dù bà Marple thản
nhiên.
Bà Gilucuddy nói tiếp, không giấu giếm nỗi bực bội:
- Marple, chị nói thẳng ra. Chị cũng cho là tôi nhìn nhầm chứ gì? Hoặc chị cho
là tôi đã tưởng tượng ra tất cả những chuyện đó? Chị nói thật đi, Marple! Thật
lòng chị cho là thế nào?
Bà Marple đĩnh đạc nói:
- Bất cứ ai cũng có lúc lầm. Đúng thế, bất cứ ai, kể cả chị Gilucuddy. Nhưng
tôi vẫn tin rằng trong trường hợp này chị không lầm. Khốn nhưng bây giờ chị
không còn cách nào nữa.
Nếu bà Gilucuddy đang trong tâm trạng điềm tĩnh, hẳn bà đã chú ý đến chữ
"chị" được nhấn mạnh kia.
- Chị đã báo cho trưởng ga, rồi trình bày toàn bộ sự việc cho cảnh sát, đúng
thế không nào?
Trái với sự chờ đợi của bà Marple, bà bạn chỉ im lặng.
Lát sau bà Gilucuddy nói:
- Về một mặt nào đó, nhận định của chị làm tôi đỡ áy náy. Bởi chị biết đấy, sau
lễ Noel này tôi sẽ đi Ceylan ngay. Tôi hoàn toàn không muốn hoãn chuyến đi mà
tôi mong đợi lâu nay. Nhưng chị đã thừa biết tính tôi đấy, khi thấy bổn phận
phải làm một việc gì đó, bao giờ tôi cũng gạt mọi trở ngại để cố làm tròn.
- Tôi biết tính chị chứ, Gilucuddy, nhưng tôi nhắc lại, chị ở lại đây cũng
chẳng ích gì.
- Điều này phụ thuộc vào cơ quan cảnh sát. Và nếu họ cố tình ngu xuẩn...
- Chị bạn thân mến, cảnh sát không ngu xuẩn đâu. Điều họ cần biết là sự thật
diễn ra như thế nào.
Vẻ ngạc nhiên trên mặt bà Gilucuddy chứng tỏ bà chưa thấy hết tầm quan trọng
của lời nhận xét kia. Nhìn thấy bạn như vậy, bà Marple hiểu ra rằng bà bạn mình
tuy sống rất nghiêm túc, nhưng lại thiếu óc tưởng tượng.
Bà Gilucuddy một lần nữa bực tức ngắt lời bạn:
- Nhưng rõ ràng một người phụ nữ đã bị giết.
- Đồng ý! Nhưng kẻ giết người là ai? Vì động cơ gì? Và hiện nay xác chị ta đang
ở đâu?
- Tìm hiểu nhiệm vụ đó là nhiệm vụ của cảnh sát.
- Đúng thế! Nhưng hiện nay họ chưa tìm ra. Do đấy chúng ta có thể nhận định:
Hung thủ hết sức khôn ngoan! Hết sức! Tôi có thể suy ra như thế này. Gã đàn ông
đã giết chị ta trong một cơn giận dữ, y không ghìm được, có nghĩa y không có
chủ định giết người từ trước. Tôi đoán là như thế, bởi nếu y suy tính cẩn thận
từ trước, hẳn không đời nào y giết người đúng vào lúc chỉ vài phút nữa tàu đến
ga. Tôi cho rằng giữa hung thủ và nạn nhân đã diễn ra một cuộc cãi lộn ghen
tuông và đến lúc không ghìm nổi, y mới gây án.
Bà Marple cau mày suy nghĩ. Bà mải suy nghĩ đến mức bà Gilucuddy gọi hai lần mà
bạn vẫn không nghe thấy.
- Tai chị điếc hay sao đấy?, bà Gilucuddy kêu lên.
- Có thể! Tôi cảm thấy thời nay người ta không phát âm rành rọt như xưa nữa.
Nhưng sẽ không đúng nếu chị bảo tôi không nghe thấy chị nói. Đúng ra tôi không
muốn nghe.
Hơi tự ái, bà Gilucuddy nói tiếp:
- Tôi chỉ định hỏi chuyện khác: Về tàu đi London. Liệu tôi đáp chuyến tàu trưa,
tôi có đến kịp để dùng bữa phụ giữa buổi chiều với bà chị họ của tôi được
không?
- Nếu vậy tôi khuyên chị nên đáp chuyến tàu 12h15'. Như thế chị vẫn kịp dùng
bữa trưa ở đây với tôi. Tất nhiên tôi sẽ bảo chị nấu bếp chuẩn bị bữa ăn sớm
hơn thường lệ một chút.
- Được đấy, nhưng…
Muốn chặn trước sự từ chối, bà Marple nói ngay:
- Tôi không muốn biết bà chị họ liệu có bực mình nếu thấy chị đến không kịp bữa
ăn phụ buổi chiều không?
Bà Gilucuddy lo lắng nhìn bạn:
- Chị nói thế nghĩa là sao?
- Bởi tôi đang nghĩ, có lẽ tôi nên cùng đi London với chị. Sau đó, hai chúng ta
sẽ đi ngược lại chặng đường từ ga Paddington đến thành phố Brackhamton. Ta sẽ
ngồi trên đúng chuyến tàu chị đã đi hôm qua để đến đây. Sau đó, chị cứ chuyển
tàu tiếp tục lên thủ đô, còn tôi quay trở lại đây một mình... Tôi xin nói thêm
là chị cho tôi cho tiền vé được không?
Bà Marple một mực nài nỉ về điều đề nghị này. Bà biết tính bạn mình bao giờ
cũng sòng phẳng. Tuy nhiên ý định đi một chuyến tàu nữa làm bà Gillicuddy ngạc
nhiên. Bà hỏi:
- Chị định đi như thế là nhằm mục đích gì? Để chứng kiến một vụ án mạng nữa hay
sao?
- Tất nhiên là không rồi. Nhưng thú thực tôi muốn kiểm nghiệm trên thực tế điều
chị đã kể tôi nghe... biết nói với chị thế nào đây? Thôi tôi nhớ ra rồi: Tôi
muốn nhìn thấy khung cảnh xảy ra vụ án.
Thế là hôm sau, khi đến ga Paddington - London, đôi bạn già vội vã xuống rồi
lại lên chuyến tàu 16h50 kia. Chỉ có hai người ở trong căn phòng của toa hạng
nhất, họ ngồi đối diện nhau, mỗi người một góc phòng.
Lần này không có đoàn tàu nào chạy song song bên cạnh. Chốc chốc lại có một
đoàn tàu từ phía London tới, lao vun vút vượt lên rồi mất hút vào bóng đêm. Mỗi
lần thấy có tiếng ầm ầm bên cạnh, bà Gillicuddy, mắt chăm chú nhìn đồng hồ tay,
lại giật mình nhỏm dậy. Lát sau bà quyết định đáp lại cặp mắt dò hỏi của bà
bạn:
- Tôi rất khó nói chính xác giờ đến lúc mỗi ga, bởi tôi phải nhìn kỹ mới nhận
được ra.
Bà Marple nói:
- Năm phút nữa tàu sẽ đến ga Brackhamton.
Đúng lúc đó nhân viên soát vé mở cửa phòng bước vào. Bà Marple đưa mắt nhìn
bạn, nhưng bà Gillicuddy ra hiệu ý nói không phải người nhân viên hôm trước.
Bấm lỗ vào tấm vé xong, người nhân viên bước ra, loạng choạng vì đường tàu đi
vào một đoạn đường vòng cung.
- Ga Brackhamton kia rồi, bà Marple nói.
Đúng thế, đoàn tàu đang giảm tốc độ chỗ đường tránh. Cau có, bà Gillicuddy nói:
- Cuộc đi thế này là vô ích. Hay chị thấy thêm được gì chăng chị Marple?
- Tôi e là không thấy thêm được gì, bà Marple đáp, giọng ngập ngừng.
- Thế là phí tiền vô ích! Bà Gillicuddy nhăn mặt.
Bà không nói câu này nếu như bà bạn không nhất quyết từ chối nhận cho bà chi
một nửa tiền vé.
Đoàn tàu chạy vào nhà ga lớn này một cách bình thường, giống hệt như mọi khi:
vẫn tiếng cửa mở toa ầm ầm, tiếng người huyên náo chen chúc nhau. Nhìn quang
cảnh này, bà Marple nảy ra nhận xét: Tình trạng nhốn nháo như thế này thì một
người dễ dàng trà trộn vào đám đông, rồi lẻn ra cửa ga, thậm chí lên một toa
khác cũng không ai biết. Nhưng còn xác chết thì y giải quyết bằng cách nào mà
bỗng nhiên mất tăm như thể bốc thành khói bay lên trời vậy? Nhận xét thứ hai:
Nếu người ta không thấy xác chết trong toa tàu nơi xảy ra vụ án, có nghĩa nó đã
giấu được ở một nơi không ai ngờ tới.
Lúc xuống sân ga để lên chuyến tàu đi thủ đô London, bà Gillicuddy chia tay với
bạn:
- Viết thư cho tôi nhé, Marple. Nhưng chị nên nhớ một điều là chị không còn trẻ
trung gì đâu, đừng lao vào cuộc phiêu lưu nào nữa!
Trong lúc nhìn theo bà bạn đi xa dần, bà Marple ngắm nghía dáng đi đường bệ của
bạn. Gillicuddy lên đường sang Ceylan với một lương tâm thanh thản. Chị ấy đã
làm tròn bổn phận của mình và không phải áy náy gì nữa.
Sau khi tàu chuyển bánh, bà thu mình vào góc phòng, vẫn không thấy thanh thản.
Bà miên man suy nghĩ. Bà đang đứng trước một băn khoăn cần giải quyết: phải xử
sự thế nào đây? Lạ một nỗi là bà có cảm giác, giống như bạn bà lúc trước, đó là
phận sự kia bà có bổn phận phải làm tròn.
Quả là chị Gillicuddy cho rằng hai người đã làm tất cả những gì có thể làm. Mà
về phía chị ấy như thế là đúng. Nhưng khi suy nghĩ kỹ, bà Marple lại thấy mình
không thể như vậy. Bà cảm thấy mình muốn khám phá ra vụ án này cần phải hết sức
khôn khéo. Nhưng làm như vậy liệu có phải mình kiêu căng không? Có thể nhưng
nếu thế, ta nên xử sự như thế nào bây giờ? Đột nhiên, bà nhớ lại câu dặn dò của
bà bạn: Chị không còn trẻ trung nữa đâu!
Nhưng nỗi do dự kết thúc rất nhanh. Trong đầu Marple đã hình thành cả một kế
hoạch chiến đấu, giống như một bản kế hoạch chi thu, lỗ lãi của một doanh
nghiệp. Đối với việc tiến hành một cuộc điều tra, bà kê ra các lập luận “nên”
và “không nên”.
Về mặt thuận lợi, bà nhẩm tính:
1. Mình đã có khá nhiều kinh nghiệm về cuộc đời và con người.
2. Huân tước Henry Clithering vốn có tình bạn chân thành với mình, lại có con
trai đang làm việc ở Cục Điều tra tại thủ đô London.
3. David, con trai thứ hai của cháu mình là Raymond West lại là nhân viên cao
cấp trong công ty hoả xa.
4. Leornard, con trai chị bạn mình là Griselda chuyên sưu tầm các bản đồ đường
xá.
Marple suy nghĩ rất lâu về bốn thuận lợi trên, nhưng như thế phải chăng mình
chưa tính đến các khó khăn. Mà khó khăn thứ nhất là sức khỏe của mình. Điều này
không được quên.
Bà thầm nghĩ: "Mình không còn ở tuổi có thể đi hết chỗ này đến chỗ kia để
tiến hành cuộc điều tra, tìm ra điều bí mật".
Tuy vào tuổi này mình vẫn còn được thế này là rất quý, nhưng cần phải công nhận
mình đã già. Bác sĩ Haydock đã cấm bà làm vườn, vậy liệu ông ta có đồng ý để bà
lao vào việc điều tra một vụ sát nhân không? Bởi việc bà dự tính làm chính là
như thế. Liệu bà có gỡ được cái nút rắm rối này không? Mà đã làm, bà sẽ phải
nhận trách nhiệm về mình. Trước kia, việc săn lùng một tên thuỷ thủ tùy thuộc
vào nhiều hoàn cảnh đưa đẩy, nhưng lần này bà chỉ có thể tự mình giải quyết.
Nghĩ đến đây, Marple thấy ngại lao vào một cuộc phiêu lưu đầy gian khó. Lúc
này, sau một ngày căng thẳng, bà thấy không muốn vạch ra bất cứ một kế hoạch
nào. Mong ước duy nhất chỉ là về nhà cho thật nhanh, rồi đi ngủ. Mai bà sẽ dạo
chơi thanh thản trong vườn, cố tránh làm bất cứ thứ gì có thể khiến bà mệt.
Gạt đi mọi suy nghĩ, bà Marple cố bắt mình nhích lại gần cửa sổ để nhìn ra
ngoài, đúng lúc trước mắt bà hiện ra một đoạn đường vòng cung của đường ray.
Một đoạn đường vòng cung…
Rất chậm chạp, một ý nghĩ từ từ hiện ra trong đầu bà, vậy là nhân viên soát vé
đến bấm lỗ trên tấm vé đúng vào trước lúc đoàn tàu đi vào đoạn đường vòng cung
này và đoạn tàu đi hết đường vòng cung là đến ga Brackhamton.
Trong óc bà đột nhiên nảy ra một ý nghĩ! Mới chỉ là ý nghĩ thôi, nhưng hoàn
toàn khác với....
Bà Marple bỗng thấy mặt bà nóng bừng lên, bao mệt mỏi đột nhiên tan biến. Bà tự
nhủ mình phải viết thư ngay cho David. Và một ý nghĩ thứ hai loé lên trong đầu
bà: Tại sao mình lại chưa nghĩ đến chị người làm cũ của mình nhỉ: Florence
trung thành?
Không chút ngập ngừng, bà Marple lập tức nghiên cứu lại hết sức tỉ mỉ bản kế
hoạch hành động vạch ra lúc trước. Nhận thấy kỳ nghỉ lễ Noel sắp tới là một yếu
tố trì hoãn, bà tự nhủ: Ít ra mình cũng nhân dịp gửi thư chúc mừng Noel, yêu
cầu luôn đưa cháu là David West gửi theo một số thông tin.
Thêm nữa, trong bữa tiệc ông mục sư chồng bà bạn tổ chức, bà có thể trò chuyện
với Leonard, con trai ông. Ai cũng biết Leornard say mê sưu tầm các loại bản đồ
đường bộ cũng như đường sắt và bà thấy nhất thiết phải khai thác anh ta. Biết
đâu anh ta chẳng có một bản đồ với tỷ lệ xích cao, có thể giúp bà tìm hiểu sâu
địa thế vùng này?
Leonard không hề dò đoán động cơ thầm kín của bà bạn mẹ anh mà vui vẻ đáp ứng,
chỉ yêu cầu bà dùng xong thì trả lại ngay.
Mấy hôm sau, bà Marple nhận được thư trả lời của Daniel West:
Bà yêu quý,
Bà lại có âm mưu làm chuyện gì thế? Nhưng dù là chuyện gì đi nữa thì cháu cũng
xin trả lời câu hỏi của bà:
Hai chuyến tàu bà quan tâm là hai chuyến 16h33 và 17h. Chuyến thứ nhất tàu
thường, chuyến thứ hai tàu tốc hành. Thông thường, chuyến thứ nhất chạy trước
và cũng đến ga Brackhamton trước chuyến 16h50 của bà, còn chuyến tàu tốc hành
khởi hành sau, nhưng đuổi kịp và vượt lên trước chuyến tàu 16h50 của bà ở chỗ
sắp đến ga Brackhamton.
Cháu đoán điều bà muốn biết liên quan đến vụ tai tiếng ở thị trấn gần đây và
trong một chuyến đi tàu bà đã tình cờ nhìn thấy vợ ông thị trưởng trong vòng
tay ông thanh tra cung đường, có đúng thế không ạ? Một cuộc ngao du tình cảm
vào kỳ nghỉ cuối tuần mà! cảm ơn bà về chiếc áo len cho, đúng thứ cháu đang ao
ước.
Cháu yêu của bà.
David.
Bà Marple mỉm cười trước khi nghiên cứu các thông tin. Bà bạn Gillicuddy đã kể
lại rõ ràng là đoàn tàu có vụ án mạng không có toa giường ngủ. Như vậy không
thể là chuyến tàu nhanh mà chỉ có thể là chuyến tàu 16h33. Thế thì mình phải đi
thử chuyến đó vậy.
Hôm sau, bà Marple đi London. Lúc về tất nhiên, bà chọn chuyến tàu 16h33,
chuyến của đoàn tàu có vụ án mạng. Khách thưa thớt, ngăn bà ngồi chỉ có một
mình bà. Chuyến đi yên ổn, không có biến cố nào. đến mỗi ga số khách lên xuống
lẻ tẻ. Trước khi đến ga Brackhamton, đoàn tàu chạy vào đường vòng cung mà bà đã
chuẩn bị đón trước. Đến lúc đó, bà Marple vội vàng đứng lên, rồi thử “diễn lại”
vụ án bằng cách quay lưng ra phía cửa sổ, giống tư thế của tên hung thủ hôm đó.
Cửa sổ này bà đã buông rèm xuống sẵn.
Bà Marple nhận thấy lúc chạy trên đoạn vào cung, đoàn tàu luôn thay đổi tốc độ
cho nên những ai không ngồi mà đứng sẽ rất mất thăng bằng, thậm chí bị hất ngửa
ra phía cửa sổ, làm chệch rèm. Bà Marple nhìn ra ngoài nhưng lúc này trời đã
tối, bà rất khó nhìn thấy gì.
Bà Marple vốn có ưu điểm kiên trì nhẫn nại. Thế là sáng hôm sau bà lại ra tàu
đi London. Bà tranh thủ thời gian ở đây đi mua sắm vài thứ cần thiết. Mua bán
xong, bà Marple quay ra ga Paddington, lên chuyến tàu 12h10, là chuyến đến
Brackhampton vào lúc trời còn sáng để dễ quan sát.
Trước khi tàu đến ga Brackhampton khoảng 15 phút, bà lấy trong cặp tấm bản đồ
của Leonard ra nhận xét. Tấm bản đồ này bà đã nghiên cứu đến mức thuộc lòng
từng chi tiết nhỏ, cho nên bây giờ bà dễ dàng xác định đúng vị trí của đoàn tàu
từng lúc là đang ở điểm nào trên bản đồ. Đoạn đường vòng cung này khá dài. Bà
áp mũi vào kính cửa sổ chăm chú nhìn mặt đất bên dưới. Trên đoạn này, đường sắt
được đắp khá cao, từ đó xuống bãi cỏ là sườn khá dốc. Rỗi bà đưa mắt nhìn rộng
ra xung quanh. Nhà ga Brackhampton đã hiện ra ở cuối đoạn vòng cung.
Ngay tối hôm đó, bà Marple viết một lá thư gửi cho Florence Hill số 4, đại lộ
Madeson, thành phố Brackhampton. Sáng hôm đó, lúc ra thư viện thị trấn bà
nghiên cứu kỹ lưỡng bản danh bạ của thành phố và cuốn từ điển địa lý của tỉnh,
không quên nghiên cứu cả một cuốn lịch sử địa phương.
Cho đến lúc đó, chưa co một thứ gì trái với ý nghĩ đang ám ảnh bà, một ý nghĩ
hiện lên vãn còn lờ mờ. Vậy là điều bà phỏng đoán đã có lý. Bây giờ chỉ cần đẩy
tiếp lên.
Nhưng bước đi thứ hai này đòi hỏi tốn nhiều công sức và tuổi tác của bà không
kham nổi. Muốn đẩy cuộc điều tra đến cùng, không thể tự làm một mình, phải có
thêm lực lượng hỗ trợ. Nếu không, bao công sức bỏ ra đến giờ chỉ là công cốc.
Bà Marple đã nghĩ đến rất nhiều người, nhưng chưa thấy ai thích hợp. Người thì
không đủ thông minh để đảm nhiệm, người có đủ thì lại đang quá bận, không thể
bỏ ra một thời gian giúp bà.
Đang lúc gần như tuyệt vọng, chợt mặt bà rạng rỡ và cái tên buột ra khỏi miệng
bà:
- Lucy Eyelessbarrow!
Vớ vẩn, làm như trò đùa ấy, bà Gilucuddy kêu lên giận dữ. Đây là một vụ án mạng
một trăm phần trăm!
Nói xong bà quay sang nhìn bà bạn bằng cặp mắt nghi ngờ, mặc dù bà Marple thản
nhiên.
Bà Gilucuddy nói tiếp, không giấu giếm nỗi bực bội:
- Marple, chị nói thẳng ra. Chị cũng cho là tôi nhìn nhầm chứ gì? Hoặc chị cho
là tôi đã tưởng tượng ra tất cả những chuyện đó? Chị nói thật đi, Marple! Thật
lòng chị cho là thế nào?
Bà Marple đĩnh đạc nói:
- Bất cứ ai cũng có lúc lầm. Đúng thế, bất cứ ai, kể cả chị Gilucuddy. Nhưng
tôi vẫn tin rằng trong trường hợp này chị không lầm. Khốn nhưng bây giờ chị
không còn cách nào nữa.
Nếu bà Gilucuddy đang trong tâm trạng điềm tĩnh, hẳn bà đã chú ý đến chữ
"chị" được nhấn mạnh kia.
- Chị đã báo cho trưởng ga, rồi trình bày toàn bộ sự việc cho cảnh sát, đúng
thế không nào?
Trái với sự chờ đợi của bà Marple, bà bạn chỉ im lặng.
Lát sau bà Gilucuddy nói:
- Về một mặt nào đó, nhận định của chị làm tôi đỡ áy náy. Bởi chị biết đấy, sau
lễ Noel này tôi sẽ đi Ceylan ngay. Tôi hoàn toàn không muốn hoãn chuyến đi mà
tôi mong đợi lâu nay. Nhưng chị đã thừa biết tính tôi đấy, khi thấy bổn phận
phải làm một việc gì đó, bao giờ tôi cũng gạt mọi trở ngại để cố làm tròn.
- Tôi biết tính chị chứ, Gilucuddy, nhưng tôi nhắc lại, chị ở lại đây cũng
chẳng ích gì.
- Điều này phụ thuộc vào cơ quan cảnh sát. Và nếu họ cố tình ngu xuẩn...
- Chị bạn thân mến, cảnh sát không ngu xuẩn đâu. Điều họ cần biết là sự thật
diễn ra như thế nào.
Vẻ ngạc nhiên trên mặt bà Gilucuddy chứng tỏ bà chưa thấy hết tầm quan trọng
của lời nhận xét kia. Nhìn thấy bạn như vậy, bà Marple hiểu ra rằng bà bạn mình
tuy sống rất nghiêm túc, nhưng lại thiếu óc tưởng tượng.
Bà Gilucuddy một lần nữa bực tức ngắt lời bạn:
- Nhưng rõ ràng một người phụ nữ đã bị giết.
- Đồng ý! Nhưng kẻ giết người là ai? Vì động cơ gì? Và hiện nay xác chị ta đang
ở đâu?
- Tìm hiểu nhiệm vụ đó là nhiệm vụ của cảnh sát.
- Đúng thế! Nhưng hiện nay họ chưa tìm ra. Do đấy chúng ta có thể nhận định:
Hung thủ hết sức khôn ngoan! Hết sức! Tôi có thể suy ra như thế này. Gã đàn ông
đã giết chị ta trong một cơn giận dữ, y không ghìm được, có nghĩa y không có
chủ định giết người từ trước. Tôi đoán là như thế, bởi nếu y suy tính cẩn thận
từ trước, hẳn không đời nào y giết người đúng vào lúc chỉ vài phút nữa tàu đến
ga. Tôi cho rằng giữa hung thủ và nạn nhân đã diễn ra một cuộc cãi lộn ghen
tuông và đến lúc không ghìm nổi, y mới gây án.
Bà Marple cau mày suy nghĩ. Bà mải suy nghĩ đến mức bà Gilucuddy gọi hai lần mà
bạn vẫn không nghe thấy.
- Tai chị điếc hay sao đấy?, bà Gilucuddy kêu lên.
- Có thể! Tôi cảm thấy thời nay người ta không phát âm rành rọt như xưa nữa.
Nhưng sẽ không đúng nếu chị bảo tôi không nghe thấy chị nói. Đúng ra tôi không
muốn nghe.
Hơi tự ái, bà Gilucuddy nói tiếp:
- Tôi chỉ định hỏi chuyện khác: Về tàu đi London. Liệu tôi đáp chuyến tàu trưa,
tôi có đến kịp để dùng bữa phụ giữa buổi chiều với bà chị họ của tôi được
không?
- Nếu vậy tôi khuyên chị nên đáp chuyến tàu 12h15'. Như thế chị vẫn kịp dùng
bữa trưa ở đây với tôi. Tất nhiên tôi sẽ bảo chị nấu bếp chuẩn bị bữa ăn sớm
hơn thường lệ một chút.
- Được đấy, nhưng…
Muốn chặn trước sự từ chối, bà Marple nói ngay:
- Tôi không muốn biết bà chị họ liệu có bực mình nếu thấy chị đến không kịp bữa
ăn phụ buổi chiều không?
Bà Gilucuddy lo lắng nhìn bạn:
- Chị nói thế nghĩa là sao?
- Bởi tôi đang nghĩ, có lẽ tôi nên cùng đi London với chị. Sau đó, hai chúng ta
sẽ đi ngược lại chặng đường từ ga Paddington đến thành phố Brackhamton. Ta sẽ
ngồi trên đúng chuyến tàu chị đã đi hôm qua để đến đây. Sau đó, chị cứ chuyển
tàu tiếp tục lên thủ đô, còn tôi quay trở lại đây một mình... Tôi xin nói thêm
là chị cho tôi cho tiền vé được không?
Bà Marple một mực nài nỉ về điều đề nghị này. Bà biết tính bạn mình bao giờ
cũng sòng phẳng. Tuy nhiên ý định đi một chuyến tàu nữa làm bà Gillicuddy ngạc
nhiên. Bà hỏi:
- Chị định đi như thế là nhằm mục đích gì? Để chứng kiến một vụ án mạng nữa hay
sao?
- Tất nhiên là không rồi. Nhưng thú thực tôi muốn kiểm nghiệm trên thực tế điều
chị đã kể tôi nghe... biết nói với chị thế nào đây? Thôi tôi nhớ ra rồi: Tôi
muốn nhìn thấy khung cảnh xảy ra vụ án.
Thế là hôm sau, khi đến ga Paddington - London, đôi bạn già vội vã xuống rồi
lại lên chuyến tàu 16h50 kia. Chỉ có hai người ở trong căn phòng của toa hạng
nhất, họ ngồi đối diện nhau, mỗi người một góc phòng.
Lần này không có đoàn tàu nào chạy song song bên cạnh. Chốc chốc lại có một
đoàn tàu từ phía London tới, lao vun vút vượt lên rồi mất hút vào bóng đêm. Mỗi
lần thấy có tiếng ầm ầm bên cạnh, bà Gillicuddy, mắt chăm chú nhìn đồng hồ tay,
lại giật mình nhỏm dậy. Lát sau bà quyết định đáp lại cặp mắt dò hỏi của bà
bạn:
- Tôi rất khó nói chính xác giờ đến lúc mỗi ga, bởi tôi phải nhìn kỹ mới nhận
được ra.
Bà Marple nói:
- Năm phút nữa tàu sẽ đến ga Brackhamton.
Đúng lúc đó nhân viên soát vé mở cửa phòng bước vào. Bà Marple đưa mắt nhìn
bạn, nhưng bà Gillicuddy ra hiệu ý nói không phải người nhân viên hôm trước.
Bấm lỗ vào tấm vé xong, người nhân viên bước ra, loạng choạng vì đường tàu đi
vào một đoạn đường vòng cung.
- Ga Brackhamton kia rồi, bà Marple nói.
Đúng thế, đoàn tàu đang giảm tốc độ chỗ đường tránh. Cau có, bà Gillicuddy nói:
- Cuộc đi thế này là vô ích. Hay chị thấy thêm được gì chăng chị Marple?
- Tôi e là không thấy thêm được gì, bà Marple đáp, giọng ngập ngừng.
- Thế là phí tiền vô ích! Bà Gillicuddy nhăn mặt.
Bà không nói câu này nếu như bà bạn không nhất quyết từ chối nhận cho bà chi
một nửa tiền vé.
Đoàn tàu chạy vào nhà ga lớn này một cách bình thường, giống hệt như mọi khi:
vẫn tiếng cửa mở toa ầm ầm, tiếng người huyên náo chen chúc nhau. Nhìn quang
cảnh này, bà Marple nảy ra nhận xét: Tình trạng nhốn nháo như thế này thì một
người dễ dàng trà trộn vào đám đông, rồi lẻn ra cửa ga, thậm chí lên một toa
khác cũng không ai biết. Nhưng còn xác chết thì y giải quyết bằng cách nào mà
bỗng nhiên mất tăm như thể bốc thành khói bay lên trời vậy? Nhận xét thứ hai:
Nếu người ta không thấy xác chết trong toa tàu nơi xảy ra vụ án, có nghĩa nó đã
giấu được ở một nơi không ai ngờ tới.
Lúc xuống sân ga để lên chuyến tàu đi thủ đô London, bà Gillicuddy chia tay với
bạn:
- Viết thư cho tôi nhé, Marple. Nhưng chị nên nhớ một điều là chị không còn trẻ
trung gì đâu, đừng lao vào cuộc phiêu lưu nào nữa!
Trong lúc nhìn theo bà bạn đi xa dần, bà Marple ngắm nghía dáng đi đường bệ của
bạn. Gillicuddy lên đường sang Ceylan với một lương tâm thanh thản. Chị ấy đã
làm tròn bổn phận của mình và không phải áy náy gì nữa.
Sau khi tàu chuyển bánh, bà thu mình vào góc phòng, vẫn không thấy thanh thản.
Bà miên man suy nghĩ. Bà đang đứng trước một băn khoăn cần giải quyết: phải xử
sự thế nào đây? Lạ một nỗi là bà có cảm giác, giống như bạn bà lúc trước, đó là
phận sự kia bà có bổn phận phải làm tròn.
Quả là chị Gillicuddy cho rằng hai người đã làm tất cả những gì có thể làm. Mà
về phía chị ấy như thế là đúng. Nhưng khi suy nghĩ kỹ, bà Marple lại thấy mình
không thể như vậy. Bà cảm thấy mình muốn khám phá ra vụ án này cần phải hết sức
khôn khéo. Nhưng làm như vậy liệu có phải mình kiêu căng không? Có thể nhưng
nếu thế, ta nên xử sự như thế nào bây giờ? Đột nhiên, bà nhớ lại câu dặn dò của
bà bạn: Chị không còn trẻ trung nữa đâu!
Nhưng nỗi do dự kết thúc rất nhanh. Trong đầu Marple đã hình thành cả một kế
hoạch chiến đấu, giống như một bản kế hoạch chi thu, lỗ lãi của một doanh
nghiệp. Đối với việc tiến hành một cuộc điều tra, bà kê ra các lập luận “nên”
và “không nên”.
Về mặt thuận lợi, bà nhẩm tính:
1. Mình đã có khá nhiều kinh nghiệm về cuộc đời và con người.
2. Huân tước Henry Clithering vốn có tình bạn chân thành với mình, lại có con
trai đang làm việc ở Cục Điều tra tại thủ đô London.
3. David, con trai thứ hai của cháu mình là Raymond West lại là nhân viên cao
cấp trong công ty hoả xa.
4. Leornard, con trai chị bạn mình là Griselda chuyên sưu tầm các bản đồ đường
xá.
Marple suy nghĩ rất lâu về bốn thuận lợi trên, nhưng như thế phải chăng mình
chưa tính đến các khó khăn. Mà khó khăn thứ nhất là sức khỏe của mình. Điều này
không được quên.
Bà thầm nghĩ: "Mình không còn ở tuổi có thể đi hết chỗ này đến chỗ kia để
tiến hành cuộc điều tra, tìm ra điều bí mật".
Tuy vào tuổi này mình vẫn còn được thế này là rất quý, nhưng cần phải công nhận
mình đã già. Bác sĩ Haydock đã cấm bà làm vườn, vậy liệu ông ta có đồng ý để bà
lao vào việc điều tra một vụ sát nhân không? Bởi việc bà dự tính làm chính là
như thế. Liệu bà có gỡ được cái nút rắm rối này không? Mà đã làm, bà sẽ phải
nhận trách nhiệm về mình. Trước kia, việc săn lùng một tên thuỷ thủ tùy thuộc
vào nhiều hoàn cảnh đưa đẩy, nhưng lần này bà chỉ có thể tự mình giải quyết.
Nghĩ đến đây, Marple thấy ngại lao vào một cuộc phiêu lưu đầy gian khó. Lúc
này, sau một ngày căng thẳng, bà thấy không muốn vạch ra bất cứ một kế hoạch
nào. Mong ước duy nhất chỉ là về nhà cho thật nhanh, rồi đi ngủ. Mai bà sẽ dạo
chơi thanh thản trong vườn, cố tránh làm bất cứ thứ gì có thể khiến bà mệt.
Gạt đi mọi suy nghĩ, bà Marple cố bắt mình nhích lại gần cửa sổ để nhìn ra
ngoài, đúng lúc trước mắt bà hiện ra một đoạn đường vòng cung của đường ray.
Một đoạn đường vòng cung…
Rất chậm chạp, một ý nghĩ từ từ hiện ra trong đầu bà, vậy là nhân viên soát vé
đến bấm lỗ trên tấm vé đúng vào trước lúc đoàn tàu đi vào đoạn đường vòng cung
này và đoạn tàu đi hết đường vòng cung là đến ga Brackhamton.
Trong óc bà đột nhiên nảy ra một ý nghĩ! Mới chỉ là ý nghĩ thôi, nhưng hoàn
toàn khác với....
Bà Marple bỗng thấy mặt bà nóng bừng lên, bao mệt mỏi đột nhiên tan biến. Bà tự
nhủ mình phải viết thư ngay cho David. Và một ý nghĩ thứ hai loé lên trong đầu
bà: Tại sao mình lại chưa nghĩ đến chị người làm cũ của mình nhỉ: Florence
trung thành?
Không chút ngập ngừng, bà Marple lập tức nghiên cứu lại hết sức tỉ mỉ bản kế
hoạch hành động vạch ra lúc trước. Nhận thấy kỳ nghỉ lễ Noel sắp tới là một yếu
tố trì hoãn, bà tự nhủ: Ít ra mình cũng nhân dịp gửi thư chúc mừng Noel, yêu
cầu luôn đưa cháu là David West gửi theo một số thông tin.
Thêm nữa, trong bữa tiệc ông mục sư chồng bà bạn tổ chức, bà có thể trò chuyện
với Leonard, con trai ông. Ai cũng biết Leornard say mê sưu tầm các loại bản đồ
đường bộ cũng như đường sắt và bà thấy nhất thiết phải khai thác anh ta. Biết
đâu anh ta chẳng có một bản đồ với tỷ lệ xích cao, có thể giúp bà tìm hiểu sâu
địa thế vùng này?
Leonard không hề dò đoán động cơ thầm kín của bà bạn mẹ anh mà vui vẻ đáp ứng,
chỉ yêu cầu bà dùng xong thì trả lại ngay.
Mấy hôm sau, bà Marple nhận được thư trả lời của Daniel West:
Bà yêu quý,
Bà lại có âm mưu làm chuyện gì thế? Nhưng dù là chuyện gì đi nữa thì cháu cũng
xin trả lời câu hỏi của bà:
Hai chuyến tàu bà quan tâm là hai chuyến 16h33 và 17h. Chuyến thứ nhất tàu
thường, chuyến thứ hai tàu tốc hành. Thông thường, chuyến thứ nhất chạy trước
và cũng đến ga Brackhamton trước chuyến 16h50 của bà, còn chuyến tàu tốc hành
khởi hành sau, nhưng đuổi kịp và vượt lên trước chuyến tàu 16h50 của bà ở chỗ
sắp đến ga Brackhamton.
Cháu đoán điều bà muốn biết liên quan đến vụ tai tiếng ở thị trấn gần đây và
trong một chuyến đi tàu bà đã tình cờ nhìn thấy vợ ông thị trưởng trong vòng
tay ông thanh tra cung đường, có đúng thế không ạ? Một cuộc ngao du tình cảm
vào kỳ nghỉ cuối tuần mà! cảm ơn bà về chiếc áo len cho, đúng thứ cháu đang ao
ước.
Cháu yêu của bà.
David.
Bà Marple mỉm cười trước khi nghiên cứu các thông tin. Bà bạn Gillicuddy đã kể
lại rõ ràng là đoàn tàu có vụ án mạng không có toa giường ngủ. Như vậy không
thể là chuyến tàu nhanh mà chỉ có thể là chuyến tàu 16h33. Thế thì mình phải đi
thử chuyến đó vậy.
Hôm sau, bà Marple đi London. Lúc về tất nhiên, bà chọn chuyến tàu 16h33,
chuyến của đoàn tàu có vụ án mạng. Khách thưa thớt, ngăn bà ngồi chỉ có một
mình bà. Chuyến đi yên ổn, không có biến cố nào. đến mỗi ga số khách lên xuống
lẻ tẻ. Trước khi đến ga Brackhamton, đoàn tàu chạy vào đường vòng cung mà bà đã
chuẩn bị đón trước. Đến lúc đó, bà Marple vội vàng đứng lên, rồi thử “diễn lại”
vụ án bằng cách quay lưng ra phía cửa sổ, giống tư thế của tên hung thủ hôm đó.
Cửa sổ này bà đã buông rèm xuống sẵn.
Bà Marple nhận thấy lúc chạy trên đoạn vào cung, đoàn tàu luôn thay đổi tốc độ
cho nên những ai không ngồi mà đứng sẽ rất mất thăng bằng, thậm chí bị hất ngửa
ra phía cửa sổ, làm chệch rèm. Bà Marple nhìn ra ngoài nhưng lúc này trời đã
tối, bà rất khó nhìn thấy gì.
Bà Marple vốn có ưu điểm kiên trì nhẫn nại. Thế là sáng hôm sau bà lại ra tàu
đi London. Bà tranh thủ thời gian ở đây đi mua sắm vài thứ cần thiết. Mua bán
xong, bà Marple quay ra ga Paddington, lên chuyến tàu 12h10, là chuyến đến
Brackhampton vào lúc trời còn sáng để dễ quan sát.
Trước khi tàu đến ga Brackhampton khoảng 15 phút, bà lấy trong cặp tấm bản đồ
của Leonard ra nhận xét. Tấm bản đồ này bà đã nghiên cứu đến mức thuộc lòng
từng chi tiết nhỏ, cho nên bây giờ bà dễ dàng xác định đúng vị trí của đoàn tàu
từng lúc là đang ở điểm nào trên bản đồ. Đoạn đường vòng cung này khá dài. Bà
áp mũi vào kính cửa sổ chăm chú nhìn mặt đất bên dưới. Trên đoạn này, đường sắt
được đắp khá cao, từ đó xuống bãi cỏ là sườn khá dốc. Rỗi bà đưa mắt nhìn rộng
ra xung quanh. Nhà ga Brackhampton đã hiện ra ở cuối đoạn vòng cung.
Ngay tối hôm đó, bà Marple viết một lá thư gửi cho Florence Hill số 4, đại lộ
Madeson, thành phố Brackhampton. Sáng hôm đó, lúc ra thư viện thị trấn bà
nghiên cứu kỹ lưỡng bản danh bạ của thành phố và cuốn từ điển địa lý của tỉnh,
không quên nghiên cứu cả một cuốn lịch sử địa phương.
Cho đến lúc đó, chưa co một thứ gì trái với ý nghĩ đang ám ảnh bà, một ý nghĩ
hiện lên vãn còn lờ mờ. Vậy là điều bà phỏng đoán đã có lý. Bây giờ chỉ cần đẩy
tiếp lên.
Nhưng bước đi thứ hai này đòi hỏi tốn nhiều công sức và tuổi tác của bà không
kham nổi. Muốn đẩy cuộc điều tra đến cùng, không thể tự làm một mình, phải có
thêm lực lượng hỗ trợ. Nếu không, bao công sức bỏ ra đến giờ chỉ là công cốc.
Bà Marple đã nghĩ đến rất nhiều người, nhưng chưa thấy ai thích hợp. Người thì
không đủ thông minh để đảm nhiệm, người có đủ thì lại đang quá bận, không thể
bỏ ra một thời gian giúp bà.
Đang lúc gần như tuyệt vọng, chợt mặt bà rạng rỡ và cái tên buột ra khỏi miệng
bà:
- Lucy Eyelessbarrow!
رمز علامة
Chuyến tàu 16
giờ 50
Agatha
Christie
Chương bốn
Tác giả:
Agatha Christie
Lucy
Eyelessbarrow năm nay 32 tuổi. Tên của cô đã được biết đến trong một số giới.
Do thành tích học tập xuất sắc tại trường Đại học Oxford, Khoa Toán, cô có
triển vọng tiến xa hơn trên con đường sư phạm. Nhưng ngoài năng khiếu toán học,
Lucy còn có thêm cách suy nghĩ tỉnh táo khiến cô nhận thấy nghề nhà giáo là một
nghề bạc bẽo.
Không những thế, quanh quẩn mãi ở các trường đại học làm Lucy thấy chán ngấy.
Cô thích giao du với những người bình thường, trình độ học thức kém mình, mà số
này thì lại rất đông, cho nên cô không ở lại với ai lâu. Lucy thích cuộc sống
liên tục thay đổi. Cuối cùng, vì không phải không cần tiền, cô sẵn sàng nhận
làm một việc nào đó để có tiền.
Ai cũng biết rằng, muốn thoả mãn nhu cầu đó, cần phải tìm một lĩnh vực hoạt
động không quá vướng chân. Và nếu cần, Lucy không ngần ngại làm cả chân phục vụ
các gia đình miễn là có tiền mà lại không mất tự do, lại luôn được thay đổi
khung cảnh. Những người quen biết đều ngạc nhiên thấy một cô gái tốt nghiệp Đại
học Oxford lại đi vào cuộc sống kiểu làm thuê cho các gia đình như vậy.
Lucy đạt thành công ngay và thành công lâu bền. Độ bền mà không hiếm những bà
vợ bảo chồng: "Kỳ này em có thể đi cùng với anh sang Mỹ, vì giao nhà cửa
cho Lucy Eyelessbarrow thì yên tâm hoàn toàn".
Và các bà vợ ấy nói không ngoa: Không thể kiếm được một người quản gia nào
thông minh, đảm đang như Lucy. Cô phục dịch người già, người ốm, trẻ con và bất
cứ ai cũng hoàn toàn thoả mãn. Lucy còn có tài đối xử tế nhị, khéo léo với
những người nổi tiếng khó tính khó nết nhất, kể cả những người nghiện ngập rượu
chè. Và lòng kiên nhẫn của cô đối với các con vật thì quả không ai bằng. Lucy
đúng là một viên ngọc quý.
Số người nhờ cô nhiều đến nỗi Lucy cuối cùng quyết định chỉ phục vụ trong một
phạm vi nhỏ, gồm những gia đình cô đã biết hợp với sở thích cá nhân của cô hơn
cả.
Chính vào lúc Lucy vừa quyết định như vậy thì cô nhận được thư của bà Marple.
Cô quen biết bà cách đây 2 năm, khi ấy anh chàng Raymond West mà ta đã biết, có
điều kiện gửi cô đến chăm sóc cho bà lúc đó vừa chữa khỏi bệnh viêm màng phổi,
đang thời kỳ dưỡng bệnh.
Gạt kỷ niệm cũ đó đi, Lucy đọc đi đọc lại lá thư của bà già. Trong thư bà
Marple hỏi xem cô có muốn đọc một sứ mệnh, "một sứ mệnh khá đặc
biệt", bà nhấn mạnh như vậy và nếu muốn thì mời cô đến gặp bà thử trao đổi
xem.
Lucy bối rối. Cô đang có quá nhiều nơi tha thiết mời, nhưng mấy chữ trong thư
"sứ mệnh khá đặc biệt" làm cô chú ý. Không những thế lòng mến mộ đối
với bà Marple đã vượt lên trên mọi suy tính khác. Thế là Lucy lập tức gọi điện
thoại cho bà báo rằng cô có thể gặp bà ngay từ ngày mai tại London, trong câu
lạc bộ riêng của cô. Câu trả lời của cô được bà Marple chấp nhận ngay.
Kết quả là cuộc đối thoại đã diễn ra tại nơi quy định. Không khí yên tĩnh ở nơi
này hoàn toàn thích hợp với cuộc trò chuyện kín đáo. Sau những lời ca tụng
thường lệ. Lucy đi ngay vào việc:
- Tôi e chỉ có thể rảnh rỗi được một thời gian không dài. Vì vậy xin bà cho
biết bà định giao cho tôi việc gì vậy?
- Một công việc bình thường, quả là như thế!, bà Marple bình thản nói, rất đơn
giản nhưng nhưng hơi bất ngờ đấy: Tôi muốn cô tìm một tử thi.
Lucy không ngạc nhiên, nhưng một nỗi hoài nghi lướt qua trên gương mặt cô: Bà
này định khai thác tất cả mọi khả năng của cô sao? Nhưng ý nghĩ khó chịu đó lập
tức tan biến: Bà Marple nổi tiếng tỉnh táo, thăng bằng. Do đấy bà nói ra điều
gì đều đã qua suy nghĩ chín chắn.
- Tử thi nào vậy, thưa bà Marple? Cô điềm tĩnh hỏi.
- Tử thi một người phụ nữ bị giết, nói cụ thể là bị bóp cổ chết trên một đoàn
tàu hoả, bà Marple đáp cũng điềm tĩnh không kém.
- Thế thì đúng là bất ngờ thật! Xin bà cho biết thêm một số chi tiết?
Khi nghe xong một cách hết sức chăm chú, Lucy chỉ đưa ra một nhận xét:
- Tất cả còn tùy thuộc vào bà Gilucuddy kia nhìn thấy thật hay chỉ là do tưởng
tưởng ra…
Câu nói có giá trị tương đương một câu hỏi.
Bà Marple đáp không chút ngập ngừng.
- Bà Gilucuddy không thuộc loại người tưởng tượng ra bất cứ thứ gì bao giờ.
Chính vì thế mà tôi tin bà ấy. Bà bạn tôi thuộc loại phụ nữ phải khó khăn lắm
mới chịu tin vào một chuyện vượt ra ngoài mức bình thường. Bà ấy không bao giờ
tưởng tượng ra điều gì, hoặc bị một ám ảnh nào đó chi phối. Có thể nói bà
Gilucuddy vững chãi như một khối đá.
- Tôi hiểu, Lucy nói, nhưng tại sao bà lại nghĩ đến tôi?
- Hồi cô đến nhà giúp tôi một thời gian, cô đã để lại trong tôi một ấn tượng
rất đậm, bà Marple dịu dàng đáp. Và cô thấy đấy, tôi yếu sức rồi, không còn đủ
sức khoẻ để liên tục di chuyển nơi này nơi khác nữa.
- Nghĩa là bà muốn tôi tiến hành cuộc điều tra. Nhưng phải chăng cảnh sát đã
làm tất cả những gì cần thiết? Hay bà cho rằng họ chưa dồn sức vào đó?
- Hoàn toàn không phải thế. Vấn đề ở đây chỉ là phỏng đoán cá nhân của tôi,
xung quanh chuyện cái xác chết biến mất. Tôi cho rằng cái xác tất nhiên phải
đang ở đây đó, làm sao "mất tăm" được? Người ta không thấy trên toa
tàu, có nghĩa là nó bị đẩy ra ngoài đoàn tàu. Nhưng lại chưa ai nhìn thấy nó
trên đường ray. Chính vì thế mà đã hai lần tôi lên tàu, mỗi lần đi theo một
hướng cốt để nghiên cứu xem nếu hung thủ đẩy xác chết ra ngoài, thì chỗ nào hắn
có thể đẩy xuống để khi nếu ai chỉ nhìn lướt qua rất khó thấy được? Và tôi đã
phát hiện ra có một chỗ như thế. Trước khi đến gia Brackhampton, đoàn tàu phải
chạy trên một đoạn vòng cung, ở đoạn này đường ray được đắp khá cao. Cô có thể
đoán được là khi chạy trên đoạn vòng cung, đoàn tàu phải hơi nghiêng và nếu có
kẻ đẩy xác chết ra ngoài, cái xác ắt phải rơi ra ngoài và lăn xuống chân dốc.
- Đúng thế! Nhưng nếu xảy ra như thế thì tìm ra có gì khó đâu?
- Tôi công nhận. Nhưng đó là khi…
- Khi thế nào, thưa bà?
- Khi cái xác vẫn nằm yên chỗ đó! Nhưng rõ ràng hung thủ đã đem nó đi khỏi đấy
rồi… Chuyện này tôi sẽ bàn với cô sau. Trước mắt, xin cô xem tấm bản đồ này đã,
đặc biệt là chân dốc ở chỗ tôi đoán hung thủ đã đẩy thi thể nạn nhân xuống.
Lucy cúi nhìn trong khi bà Marple đưa ngón tay chỉ giải thích:
- Chỗ này này, bên rìa một khu trang viên rất rộng nằm ở ngoại ô thành phố
Brackhamton. Trang viên này có một toà nhà lớn nằm trên, là sở hữu tư nhân,
thường được gọi là dinh cơ Rutherford Hall. Toà nhà do một kỹ nghệ gia giàu có
tên là Josiah Crackenthorpe xây năm 1884. Vào thời điểm đó dinh cư này gồm cả
toà nhà và trang viên, nằm trơ trụi một mình. Nhưng ngày nay đã có nhiều ngôi
nhà xây xung quanh. Nghe nói hiện nay người thừa kế của kỹ nghệ gia giàu có kia
là một ông già đang ở trong dinh cư này cùng với cô con gái. Tên ông là Luther,
họ là Crackenthorpe.
- Vậy bà muốn tôi làm gì?
- Bà Marple trả lời luôn.
- Tôi muốn cô xin được vào làm chân gia nhân trong dinh cơ Rutherford Hall.
Theo tôi biết thì dễ thôi vì tôi đã đọc thấy họ đăng cần thuê người giúp việc
trên báo địa phương mãi mà chưa ai đến nhận làm. Mà hiểu được thôi, ai cũng
ngại vào làm ở chỗ hẻo lánh vắng vẻ ấy.
- Điều ấy tôi công nhận, Lucy nói ngay.
Bà Marple khẽ ho một tiếng thông cổ họng rồi nói:
- Theo tôi biết, ông già Crackenthorpe có tính bủn xỉn. Chính vì thế, nếu ông
ta trả lương cho cô quá thấp, tôi xin bù thêm để cô có được hưởng một khoản
tiền công cao hơn mức cô nhận của người khác.
- Vì trong sứ mệnh này, tôi sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn, phải không
thưa bà Marple?
- Nói nguy hiểm có lẽ thích hợp hơn, bởi công việc của cô có thể sẽ nguy hiểm
đấy. Cô cần biết trước là như thế.
Lucy đăm chiêu nói:
- Vấn đề nguy hiểm hình như không ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi thì phải.
- Tôi cũng đoán như thế. Cô không thuộc loại người ngại nguy hiểm.
- Và bà cho rằng tôi thích nguy hiểm chăng? Sự thật là cho đến nay tôi chưa gặp
chuyện gì nguy hiểm. Nhưng quả thật bà cho rằng trong trường hợp này, công việc
có thể sẽ nguy hiểm?
- Tất nhiên. Cô thử nghĩ xem có một kẻ đã dám giết người và hắn đã tiến hành
rất đạt, không bị ai nghi ngờ gì hết. Hai bà già kể lại một câu chuyện khó tin
cho cảnh sát nghe và họ tiến hành điều tra nhưng không đạt kết quả. Cuối cùng
là vụ giết người của hắn được nhà chức trách cất vào hộc tủ thôi không điều tra
nữa. Trong điều kiện như thế, tôi không tin hung thủ chịu để yên cho ai muốn
bới tung vụ án của hắn lên, nhất là người đó muốn thành công.
- Tất nhiên rồi, công việc đầu tiên của tôi ở đấy là gì?
- Trước hết cô cần tìm những dấu vết ở gần đường tàu. Muốn thế, cô phải đi men
theo bên rìa khu trang viên kia, biết đâu còn một mảnh vải, một vật dụng nào
đó, tôi chưa biết. Cô cũng đừng quên quan sát xem tình trạng các bụi cây, đám
cỏ gần đấy có gì khác thường không.
- Nếu tìm thấy thứ gì đó thì tôi phải làm thế nào?
- Tôi sẽ đến gần chỗ đó. Chị hầu phòng cũ của tôi hiện rút về thành phố
Brackhampton, mở một nhà trọ kiểu gia đình rất sang. Tôi sẽ thuê của chị ta một
phòng nhỏ và tiếp tục dưỡng bệnh giống như ở nhà tôi vậy. Về phần cô, cô cũng
nên nói cho chủ nhà là cô có một bà dì không được khoẻ ở gần đấy cho nên cô
muốn làm ở đó để thỉnh thoảng có thể chăm sóc bà dì. Đồng thời cô đề nghị nhà
chủ tạo cho cô một số thời gian để chăm sóc bà dì.
Lucy không ngập ngừng nói ngay:
- Lẽ ra tôi có một việc phải đi vào ngày kia, nhưng tôi có thể hoãn lại. Dù sao
tôi cũng chỉ dành được ba tuần lễ để làm việc bà giao.
- Ba tuần là thừa đủ, bà Marple trấn an cô gái. Nếu trong ba tuần chúng ta
không tìm thấy gì, tôi sẽ bỏ cuộc. Sức đâu mà theo đuổi một cái bóng!
Bà Marple đi rồi. Lucy ngồi suy nghĩ thêm vài phút, rồi cô gọi điện đến văn
phòng tuyển người làm ở thành phố Brackhampton, báo cho bà giám đốc, cũng chính
là người quen của cô, là cô muốn tìm một việc làm ở thành phố này để được ở gần
bà dì đã có tuổi đang đau ốm. Bà giám đốc kể ra một loạt chỗ làm, cô đều khéo
léo thoái thác cho đến khi bà ta kể đến nhà Rutherford Hall.
- Đúng rồi, chỗ như thế rất hợp với tôi đấy! Bây giờ Lucy mới dứt khoát nhận
lời.
Văn phòng liên hệ với tiểu thư Crackenthorpe. Và hai ngày sau, Lucy rời London
đến nơi làm việc mới.
Ngồi cầm tay lái chiếc ôtô nhỏ của mình, Lucy Eyelessbarrow cho xe chạy giữa
hai cánh cổng sắt đồ sộ. Một bên cổng là ngôi nhà nhỏ xây dành cho người bảo
vệ, ngôi nhà đã đổ nát. Có thể cho chiến tranh hoặc không ai trông nom. Lucy
cho xe chạy trên đồi ngoằn nghèo, hai bên trồng lộn xộn những cây cao rậm lá,
đến bậc thềm dẫn lên toà nhà chính. Cô suýt nghẹn thở vì đau lòng khi nhìn thấy
các bậc thang bằng đá nham nhở thảm hại, cỏ mọc um tùm giữa các khe đá.
Lucy giật dây chuông, tiếng chuông cũ kỹ rè rè kêu lên trong nhà. Vài phút sau,
một phụ nữ trung niên ăn mặc nhem nhuốc chậm chạp ra mở cửa. Chùi hai bàn tay
vào tạp dề màu nước dưa, bà ta chăm chú nhìn người lạ.
- Có phải chị là người nhà này đang đợi và có cái tên rất khó đọc đấy không?, bà
ta cau có hỏi.
- Vâng, chính tôi, Lucy bình thản đáp.
Bà giúp việc nhún vai rồi ra hiệu bảo Lucy đi theo vào nhà. Không gian trong
nhà lạnh lẽo. Đi hết gian tiền sảnh, bà ta mở một cánh cửa, tạo ra một tiếng
động khô khốc. Lucy ngạc nhiên bước vào một phòng khách khá lịch sự. Cô chú ý
đến chiếc tủ chật cứng những cuốn sách gáy mạ vàng.
- Chị đợi đây để tôi vào báo cô chủ, bà giúp việc nói, vẫn giọng cấm cảu.
Bà ta đi ra, đóng sập cửa lại. Lát sau, cửa lại mở và thoạt nhìn, Lucy hiểu
ngay rằng tiểu thư Emma Crackenthorpe là người sẽ làm cô mến.
Con gái vị chủ nhân toà nhà Rutheford Hall là một phụ nữ không trẻ lắm, không
đẹp nhưng cũng không xấu, tóc đen thả xuống ngang lưng, cặp mắt đen láy nhìn
thẳng thắn. Tấm váy vải tuýt và áo len dệt chui đầu hợp màu nhau chứng tỏ tiểu
thư là người có khiếu thẩm mỹ. Giọng nói của tiểu thư cũng khá dịu dàng.
- Chị Eyelessbarrow? Tiểu thư Emma Crackenthorpe chìa tay.
Tuy nhiên tiểu thư có dáng vẻ lo âu.
- Tôi đang lo, chưa biết liệu công việc tôi sẽ giao cho chị có làm chị vừa ý
xong không? Nói thật, tôi không cần một quản gia chỉ tay năm ngón, mà tôi cần
một người làm việc thật sự.
Lucy đáp ngay rằng đó là bình thường, người chủ nào chẳng lo như thế. Nhưng
ngay bản thân cô cũng có những nỗi lo.
Tiểu thư Crackenthorpe nói tiếp:
- Nhiều người cho rằng chỉ cần phủi bụi qua loa là đủ, nhưng tôi lại không tán
thành như thế và tôi tự làm cái công việc đơn giản ấy.
- Tôi rất hiểu. Cô chủ muốn tôi nấu bếp và giặt giũ phải không? Những việc đó
tôi hoàn toàn có thể làm được.
- Tòa nhà của chúng tôi rất rộng, tôi e cách bố trí các phòng rất không thuận
tiện cho việc chăm sóc. Tuy nhiên cha tôi và tôi chỉ sử dụng một phần của toà
nhà. Cần nói thêm để cho chị biết, cha tôi gần như một người tàn phế. Tôi có
nhiều anh em trai nhưng ít khi thấy mặt họ. Chết, tôi suýt quên. Nhà còn có 2
chị giúp việc. Bà Kidder đến làm các buổi sáng. Chị Hart chuyên lau chùi đồ
đồng và làm thêm một số việc vặt, nên chỉ đến đây mỗi tuần 3 buổi chiều. Vậy ra
chị có ôtô riêng?
- Vâng, nhưng có thể để nó ngoài trời, nếu nhà không có gian để xe. Tôi quen để
nó ngoài trời rồi.
- Không sao, nhà tôi có rất nhiều chuồng ngựa bỏ không, cho nên có tha hồ chỗ
để ôtô.
Tiểu thư Crackenthorpe suy nghĩ một lát rồi mới đưa ra một câu hỏi nữa:
- Tên chị rất nhiều người biết. Gia đình Kenedy quen tôi có kể tôi nghe về một
chị giúp việc tên là Lucy Eyelessbarrow. Có phải chính là chị đấy không?
- Chính tôi. Tôi có giúp việc phu nhân Kenedy thời gian bà ấy sinh con.
Một nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt tiểu thư Emma Crackenthorpe.
Bà ấy ca ngợi chị lắm. Nhưng tôi e lương của chị ở đây không được cao. Tôi đã
báo văn phòng môi giới việc làm biết lương chị sẽ là bao nhiêu rồi…
- Tôi biết. Ngần ấy là rất đủ đối với tôi! Thưa tiểu thư, tôi muốn kiếm việc
làm ở thành phố Brackhampton này chủ yếu vì tôi có bà dì tuổi cao lại ốm yếu
đang ở đây. Lương chỉ là chuyện thứ yếu. Vả lại, tôi không muốn ngồi rỗi. Nhân
đây, xin hỏi tiểu thư, liệu tôi có thể đôi lúc rảnh rỗi được không?
- Tất nhiên là được! Chị được tự do các buổi chiều, từ 12 đến 18 giờ, như thế
có thuận tiện cho chị không?
- Thế là quá thuận tiện.
Tiểu thư Crackenthorpe lại có vẻ ngập ngừng, rồi sau khi ho thông cổ họng, cô
nói tiếp:
- Lúc nãy tôi có kể là cha tôi không được khỏe, nhưng tôi thấy phải nói thêm rằng
cha tôi còn khó tính hơn nhiều, nhiều lúc nói những câu…
- Cô chủ yên tâm, tôi đã quen phục vụ những người già nên rất hiểu tính cách
các cụ.
Tiểu thư Crackenthorpe có vẻ yên lòng. Về phần mình, Lucy linh cảm thấy hai cha
con nhà này có vẻ xung khắc. Hẳn ông già tính nết lỗ mãng, cục cằn, cô thầm
nghĩ.
Tiểu thư Emma dẫn Lucy lên phòng dành cho cô, rộng nhưng lạnh lẽo. Có một lò
sưởi điện, không biết có chạy được không. Lucy chưa kịp mở thử thì tiểu thư
Emma đã vội vã đưa cô đi xem toàn bộ toà nhà, rất rộng, nhưng trông hoang tàn
thế nào ấy.
Lúc hai người đi đến một cánh cửa, tiếng quát từ bên trong vọng ra:
- Emma đấy phải không? Cô "quý nữ" đã đến! Ai dẫn nó đến đây cho ta
nhìn, xem mặt mũi nó khả ố đến mức nào!
Tiểu thư Emma ngượng ngùng nhìn Lucy, nhưng cô người làm này đã đáp lại bằng
một cái nhìn thông cảm.Hai người bước vào phòng. Đó là một gian phòng rộng lớn,
tường bọc thảm nhung. Các cửa sổ hẹp, chỉ để lọt vào một làn sáng yếu ớt nhưng
cũng đủ để Lucy thấy ngổn ngang bàn tủ bằng gỗ gụ, đóng theo kiểu thời Nữ hoàng
Victoria.
Cụ Crackenthorpe ngồi trên ghế dài, cây gậy có tay cầm bịt bạc đặt ở tầm tay.
Vóc dáng cao, chủ nhân toà nhà Rutherford Hall trông cụ như người rừng. Bộ râu
quai nón rậm rì khiến ông cụ có dáng của một con chó xù. Mái tóc dầy, đen, chen
một số sợi bạc. Cặp mắt rất nhỏ và nhấp nháy liên tục lộ ra một vẻ đa nghi.
- Cô cho tôi nhìn cô một cái, đột nhiên ông già hướng về phía Lucy.
Lucy tươi cười tiến về phía ông cụ.
Nhưng cụ Crackenthorpe có vẻ không chú ý đến thái độ niềm nở ấy:
- Tôi phải nói để cô biết ngay một điều. Cô thấy toà nhà lớn, nhưng đừng tưởng
chủ nhân nó lắm tiền. Nhà tôi không giàu, chỉ đủ ăn. Chúng tôi sống rất đạm
bạc. Nói cho cùng thì cá mè ngon không kém cá thu. Cô nhớ cho kỹ là tôi không
bao giờ chịu nổi thói hoang phí. Nếu tôi ở toà nhà này thì chỉ vì cha tôi đã
xây nó và tôi thích sống ở đây. Sau khi tôi chết, người ta sẽ bán nó đi, tôi
biết chắc chắn như thế. Thời nay có đứa nào tha thiết đến gia tộc đâu! Người ta
quên mất rằng khu trang viên mênh mông này đã giúp chúng tôi tránh xa được thế
giới bên ngoài. Tất nhiên, nếu đem bán toàn bộ dinh cư này để xây những ngôi
nhà mới thì được ối tiền, nhưng tôi còn sống ngày nào tôi không cho đứa nào làm
thế. Chúng phải đợi đến lúc chở xác tôi ra khỏi cái nhà này đã.
Cặp mắt ông già chăm chú nhìn Lucy, trong khi cô lo lắng nghe ông cụ nói.
Lucy chỉ đáp đơn giản:
- Tóm lại, toà nhà này là lâu đài của ông cụ.
- Cô mỉa mai tôi đấy hẳn?
- Hoàn toàn không! Tôi chỉ nghĩ rằng giữa thành phố mà có một dinh cơ rộng rãi,
thoáng đãng như thế này để ở thì thật là quý.
- Cô nói đúng! Chỉ khi gió thổi theo một hướng nào đó, ở đây mới nghe thấy
tiếng xe cộ ngoài phố xá vẳng đến, còn phần lớn thời gian, nơi đây yên tĩnh như
thôn quê.
Rồi ông cụ chuyển ngay sang nói với con gái:
- Chị gọi điện đến cho gã bác sĩ ngu xuẩn kia để biết, thứ thuốc cho ta vừa rồi
chẳng ăn thua gì hết!
Lúc đó hai người phụ nữ trẻ bước ra, ông cụ quát theo:
- Bảo cái mụ thích hút bụi ấy đừng có mà vào phòng này! Mụ chỉ làm rối tung
sách vở của ta thôi!
- Ra đến hành lang, Lucy hỏi:
- Cụ đau ốm đã lâu chưa tiểu thư?
Emma hững hờ đáp:
- Lâu lắm rồi… còn đây là bếp.
Một gian phòng thênh thang nhưng trống rỗng. Bếp lò rất to, nhưng lạnh tanh và
đầy rác rưởi. Lucy ngó vào chạn, rồi hỏi giờ giấc các bữa ăn.
Sau đó, tôi không bình phẩm gì hết, cô chỉ nói:
- Bây giờ thì tôi đã biết cả rồi! Tiểu thư cứ để mặc tôi làm và tôi đề nghị
tiểu thư không phải lo lắng gì hết.
Lúc quay về phòng chập tối, Emma thở vào nhẹ nhõm.
Cô tự nhủ: "Bà Kenedy nhận xét đúng. Chị người là mới đến này quả là tuyệt
vời".
Sáng hôm sau, Lucy dậy từ 6h, dọn dẹp một lúc cho tương đối ngăn nắp, sạch sẽ
xong, cô chuẩn bị bữa điểm tâm. Sau đó, bà người làm Kidder giúp cô sắp xếp
chăn đệm các giường ngủ. Xong xuôi, hai người ngồi vào bếp, ăn một bữa điểm tâm
đạm bạc.
Nhận thấy "cô mới đến không kênh kiệu" và nhấm nháp tách trà được
Lucy pha rất khéo, bà người làm thấy hào hứng muốn kể đủ thứ chuyện. Tuy vẻ
ngoài thấp bé và khô khan, nhưng tính tình bà ta lại khá sởi lởi.
- Cô biết không, cụ chủ Crackenthorpe là loại người hết sức bủn xỉn, luôn miệng
đe doạ con gái là chớ tiêu hoang. Nói riêng với cô, cô chủ khi cần dám chống
lại ông bố đấy. Nhất là khi mấy "ông quý tử" kia đến, cô chủ muốn bữa
ăn phải tươm tất.
- Mấy ông quý tử nào vậy?
- Cụ chủ có nhiều con chứ đâu phải có mỗi mình cô con gái. Anh cả là ông Edmund
thì đã chết trong chiến tranh. Anh thứ hai là Cedric chưa vợ hiện đang sống ở
nước ngoài, hình như làm nghề vẽ tranh thì phải. Ông thứ ba tên là Harold, mở
văn phòng kinh doanh ở London, ông này ra thủ đô sinh sống và lấy con gái ông
bá tước. Con út là cậu Alfred thì quá hư đốn, đã hai lần ra tòa suýt bị đi tù.
Còn ông con rể Bryan East nữa, chồng bà Edith, chị cô chủ Emma. Bà ấy chết đã
mấy năm, nhưng ông con rể vẫn sinh hoạt trong gia đình này. Cuối cùng là cậu
Alexander, con trai ông Bryan và bà Edith.Cậu ấy học trường nội trú, chỉ nghỉ
hè mới về đây một thời gian ngắn. Cô chủ Emma quý cậu ta như vàng.
Trong lúc lắng nghe và ghi nhớ các chi tiết ấy, Lucy vẫn luôn tay tiếp thức ăn
và rót trà nóng cho người làm.
- Bữa sáng nay ngon miệng quá, bà ta nói có phần ngạc nhiên sao cô người làm
mới này săn sóc bà chu đáo thế.
- Cô muốn tôi gọt khoai tây không, cô Lucy.
- Tôi gọt xong rồi!
- Chà, cô chịu khó quá đấy. Vậy thì tội gì tôi không về nhỉ?
Thế là bà ta chào Lucy rồi đi. Lucy chỉ tươi cười đáp, tay vẫn tiếp tục thu dọn
bát đĩa.
Buổi trưa, Lucy thu dọn xong bữa ăn, rửa sạch bát đĩa thì đã hai giờ. Đây là
giờ cô được tự do, theo như quy định của tiểu thư Emma. Việc đầu tiên cô xem
xét khu vườn xung quanh toà nhà, là thứ không lo bị ai chú ý. Các luống rau cằn
cỗi do không được chăm sóc. Lối đi thì cỏ dại mọc kín. Chỉ mỗi một luống ngay
cạnh tương đối xanh tốt, chắc tiểu thư Emma lúc rảnh rỗi đích thân chăm nom.
Trong lúc đi lang thang quan sát, Lucy gặp bác làm vườn, một ông già nghễnh
ngãng, làm ra vẻ bận rộn, thật ra chẳng làm gì, chỉ quanh quẩn bên ngôi nhà nhỏ
của ông ta ở góc vườn, gần chỗ chuồng ngựa. Từ chỗ này có một con đường đi
ngang qua bãi đất trống ngay trong trang viên ra tới chân con đê cao đặt đường
ray xe lửa. Lucy đi theo hướng đó.
Cô đã mấy lần thấy những đoàn tàu giảm tốc độ trước khi chạy vào đoạn đường
vòng cung mà bà Marple yêu cầu cô chú ý. Một phần lớn đoạn đường vòng cung này
chạy men theo rìa trang viên của gia đình Crackenthorpe. Lucy chui qua một cổng
xây vòm, ra đến con đường đất. Một bên con đường là bờ dốc của đường sắt, một
bên là bức tường bao của một xí nghiệp. Lucy đi tiếp trên con đường đất ấy ra
đến một phố nhỏ có những ngôi nhà một tầng đơn giản. Cô đã nghe thấy tiếng xe
cộ chạy ầm ầm của một con đường lớn gần đó, nhìn thấy một đứa trẻ đứng trước
cửa một ngôi nhà. Lucy không ngần ngại hỏi luôn:
- Em có biết trạm điện thoại nào gần đây không?
- Cô đến góc phố kia, có nhà bưu điện đấy.
Thật ra, đó không phải là bưu điện, chỉ là một máy điện thoại công cộng đặt
trong một ngôi nhà tư nhân. Quay số điện của bà Marple xong, cô giật nảy người
khi nghe thấy tiếng gắt ở đầu giây bên kia:
- Cụ Marple đang nghỉ! Bà cụ tuổi cao, có quyền không bị ai quấy rầy. Cô cho
tôi biết tên, tôi sẽ nói lại với cụ.
Hẳn là bà Florence "trung thành" canh gác cho bà Marple.
- Tôi là Lucy Eyelessbarrow, bà không cần đánh thức cụ Marple làm gì, chỉ vui
lòng nói lại với cụ là tôi đã đến nơi. Mọi thứ ổn thoả, đúng như cụ dự tính,
khi nào cần tôi sẽ liên hệ với cụ sau.
Rồi Lucy bình thản quay trở lại toà nhà Rutherford Hall.
Lucy Eyelessbarrow năm nay 32 tuổi. Tên của cô đã được biết đến trong một số
giới. Do thành tích học tập xuất sắc tại trường Đại học Oxford, Khoa Toán, cô
có triển vọng tiến xa hơn trên con đường sư phạm. Nhưng ngoài năng khiếu toán
học, Lucy còn có thêm cách suy nghĩ tỉnh táo khiến cô nhận thấy nghề nhà giáo
là một nghề bạc bẽo.
Không những thế, quanh quẩn mãi ở các trường đại học làm Lucy thấy chán ngấy.
Cô thích giao du với những người bình thường, trình độ học thức kém mình, mà số
này thì lại rất đông, cho nên cô không ở lại với ai lâu. Lucy thích cuộc sống
liên tục thay đổi. Cuối cùng, vì không phải không cần tiền, cô sẵn sàng nhận
làm một việc nào đó để có tiền.
Ai cũng biết rằng, muốn thoả mãn nhu cầu đó, cần phải tìm một lĩnh vực hoạt
động không quá vướng chân. Và nếu cần, Lucy không ngần ngại làm cả chân phục vụ
các gia đình miễn là có tiền mà lại không mất tự do, lại luôn được thay đổi
khung cảnh. Những người quen biết đều ngạc nhiên thấy một cô gái tốt nghiệp Đại
học Oxford lại đi vào cuộc sống kiểu làm thuê cho các gia đình như vậy.
Lucy đạt thành công ngay và thành công lâu bền. Độ bền mà không hiếm những bà
vợ bảo chồng: "Kỳ này em có thể đi cùng với anh sang Mỹ, vì giao nhà cửa
cho Lucy Eyelessbarrow thì yên tâm hoàn toàn".
Và các bà vợ ấy nói không ngoa: Không thể kiếm được một người quản gia nào
thông minh, đảm đang như Lucy. Cô phục dịch người già, người ốm, trẻ con và bất
cứ ai cũng hoàn toàn thoả mãn. Lucy còn có tài đối xử tế nhị, khéo léo với
những người nổi tiếng khó tính khó nết nhất, kể cả những người nghiện ngập rượu
chè. Và lòng kiên nhẫn của cô đối với các con vật thì quả không ai bằng. Lucy
đúng là một viên ngọc quý.
Số người nhờ cô nhiều đến nỗi Lucy cuối cùng quyết định chỉ phục vụ trong một
phạm vi nhỏ, gồm những gia đình cô đã biết hợp với sở thích cá nhân của cô hơn
cả.
Chính vào lúc Lucy vừa quyết định như vậy thì cô nhận được thư của bà Marple. Cô
quen biết bà cách đây 2 năm, khi ấy anh chàng Raymond West mà ta đã biết, có
điều kiện gửi cô đến chăm sóc cho bà lúc đó vừa chữa khỏi bệnh viêm màng phổi,
đang thời kỳ dưỡng bệnh.
Gạt kỷ niệm cũ đó đi, Lucy đọc đi đọc lại lá thư của bà già. Trong thư bà
Marple hỏi xem cô có muốn đọc một sứ mệnh, "một sứ mệnh khá đặc
biệt", bà nhấn mạnh như vậy và nếu muốn thì mời cô đến gặp bà thử trao đổi
xem.
Lucy bối rối. Cô đang có quá nhiều nơi tha thiết mời, nhưng mấy chữ trong thư
"sứ mệnh khá đặc biệt" làm cô chú ý. Không những thế lòng mến mộ đối
với bà Marple đã vượt lên trên mọi suy tính khác. Thế là Lucy lập tức gọi điện
thoại cho bà báo rằng cô có thể gặp bà ngay từ ngày mai tại London, trong câu
lạc bộ riêng của cô. Câu trả lời của cô được bà Marple chấp nhận ngay.
Kết quả là cuộc đối thoại đã diễn ra tại nơi quy định. Không khí yên tĩnh ở nơi
này hoàn toàn thích hợp với cuộc trò chuyện kín đáo. Sau những lời ca tụng
thường lệ. Lucy đi ngay vào việc:
- Tôi e chỉ có thể rảnh rỗi được một thời gian không dài. Vì vậy xin bà cho
biết bà định giao cho tôi việc gì vậy?
- Một công việc bình thường, quả là như thế!, bà Marple bình thản nói, rất đơn
giản nhưng nhưng hơi bất ngờ đấy: Tôi muốn cô tìm một tử thi.
Lucy không ngạc nhiên, nhưng một nỗi hoài nghi lướt qua trên gương mặt cô: Bà
này định khai thác tất cả mọi khả năng của cô sao? Nhưng ý nghĩ khó chịu đó lập
tức tan biến: Bà Marple nổi tiếng tỉnh táo, thăng bằng. Do đấy bà nói ra điều
gì đều đã qua suy nghĩ chín chắn.
- Tử thi nào vậy, thưa bà Marple? Cô điềm tĩnh hỏi.
- Tử thi một người phụ nữ bị giết, nói cụ thể là bị bóp cổ chết trên một đoàn
tàu hoả, bà Marple đáp cũng điềm tĩnh không kém.
- Thế thì đúng là bất ngờ thật! Xin bà cho biết thêm một số chi tiết?
Khi nghe xong một cách hết sức chăm chú, Lucy chỉ đưa ra một nhận xét:
- Tất cả còn tùy thuộc vào bà Gilucuddy kia nhìn thấy thật hay chỉ là do tưởng
tưởng ra…
Câu nói có giá trị tương đương một câu hỏi.
Bà Marple đáp không chút ngập ngừng.
- Bà Gilucuddy không thuộc loại người tưởng tượng ra bất cứ thứ gì bao giờ.
Chính vì thế mà tôi tin bà ấy. Bà bạn tôi thuộc loại phụ nữ phải khó khăn lắm
mới chịu tin vào một chuyện vượt ra ngoài mức bình thường. Bà ấy không bao giờ
tưởng tượng ra điều gì, hoặc bị một ám ảnh nào đó chi phối. Có thể nói bà Gilucuddy
vững chãi như một khối đá.
- Tôi hiểu, Lucy nói, nhưng tại sao bà lại nghĩ đến tôi?
- Hồi cô đến nhà giúp tôi một thời gian, cô đã để lại trong tôi một ấn tượng
rất đậm, bà Marple dịu dàng đáp. Và cô thấy đấy, tôi yếu sức rồi, không còn đủ
sức khoẻ để liên tục di chuyển nơi này nơi khác nữa.
- Nghĩa là bà muốn tôi tiến hành cuộc điều tra. Nhưng phải chăng cảnh sát đã
làm tất cả những gì cần thiết? Hay bà cho rằng họ chưa dồn sức vào đó?
- Hoàn toàn không phải thế. Vấn đề ở đây chỉ là phỏng đoán cá nhân của tôi,
xung quanh chuyện cái xác chết biến mất. Tôi cho rằng cái xác tất nhiên phải
đang ở đây đó, làm sao "mất tăm" được? Người ta không thấy trên toa
tàu, có nghĩa là nó bị đẩy ra ngoài đoàn tàu. Nhưng lại chưa ai nhìn thấy nó
trên đường ray. Chính vì thế mà đã hai lần tôi lên tàu, mỗi lần đi theo một
hướng cốt để nghiên cứu xem nếu hung thủ đẩy xác chết ra ngoài, thì chỗ nào hắn
có thể đẩy xuống để khi nếu ai chỉ nhìn lướt qua rất khó thấy được? Và tôi đã
phát hiện ra có một chỗ như thế. Trước khi đến gia Brackhampton, đoàn tàu phải
chạy trên một đoạn vòng cung, ở đoạn này đường ray được đắp khá cao. Cô có thể
đoán được là khi chạy trên đoạn vòng cung, đoàn tàu phải hơi nghiêng và nếu có
kẻ đẩy xác chết ra ngoài, cái xác ắt phải rơi ra ngoài và lăn xuống chân dốc.
- Đúng thế! Nhưng nếu xảy ra như thế thì tìm ra có gì khó đâu?
- Tôi công nhận. Nhưng đó là khi…
- Khi thế nào, thưa bà?
- Khi cái xác vẫn nằm yên chỗ đó! Nhưng rõ ràng hung thủ đã đem nó đi khỏi đấy
rồi… Chuyện này tôi sẽ bàn với cô sau. Trước mắt, xin cô xem tấm bản đồ này đã,
đặc biệt là chân dốc ở chỗ tôi đoán hung thủ đã đẩy thi thể nạn nhân xuống.
Lucy cúi nhìn trong khi bà Marple đưa ngón tay chỉ giải thích:
- Chỗ này này, bên rìa một khu trang viên rất rộng nằm ở ngoại ô thành phố
Brackhamton. Trang viên này có một toà nhà lớn nằm trên, là sở hữu tư nhân,
thường được gọi là dinh cơ Rutherford Hall. Toà nhà do một kỹ nghệ gia giàu có
tên là Josiah Crackenthorpe xây năm 1884. Vào thời điểm đó dinh cư này gồm cả
toà nhà và trang viên, nằm trơ trụi một mình. Nhưng ngày nay đã có nhiều ngôi
nhà xây xung quanh. Nghe nói hiện nay người thừa kế của kỹ nghệ gia giàu có kia
là một ông già đang ở trong dinh cư này cùng với cô con gái. Tên ông là Luther,
họ là Crackenthorpe.
- Vậy bà muốn tôi làm gì?
- Bà Marple trả lời luôn.
- Tôi muốn cô xin được vào làm chân gia nhân trong dinh cơ Rutherford Hall.
Theo tôi biết thì dễ thôi vì tôi đã đọc thấy họ đăng cần thuê người giúp việc
trên báo địa phương mãi mà chưa ai đến nhận làm. Mà hiểu được thôi, ai cũng
ngại vào làm ở chỗ hẻo lánh vắng vẻ ấy.
- Điều ấy tôi công nhận, Lucy nói ngay.
Bà Marple khẽ ho một tiếng thông cổ họng rồi nói:
- Theo tôi biết, ông già Crackenthorpe có tính bủn xỉn. Chính vì thế, nếu ông
ta trả lương cho cô quá thấp, tôi xin bù thêm để cô có được hưởng một khoản
tiền công cao hơn mức cô nhận của người khác.
- Vì trong sứ mệnh này, tôi sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn, phải không
thưa bà Marple?
- Nói nguy hiểm có lẽ thích hợp hơn, bởi công việc của cô có thể sẽ nguy hiểm
đấy. Cô cần biết trước là như thế.
Lucy đăm chiêu nói:
- Vấn đề nguy hiểm hình như không ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi thì phải.
- Tôi cũng đoán như thế. Cô không thuộc loại người ngại nguy hiểm.
- Và bà cho rằng tôi thích nguy hiểm chăng? Sự thật là cho đến nay tôi chưa gặp
chuyện gì nguy hiểm. Nhưng quả thật bà cho rằng trong trường hợp này, công việc
có thể sẽ nguy hiểm?
- Tất nhiên. Cô thử nghĩ xem có một kẻ đã dám giết người và hắn đã tiến hành
rất đạt, không bị ai nghi ngờ gì hết. Hai bà già kể lại một câu chuyện khó tin
cho cảnh sát nghe và họ tiến hành điều tra nhưng không đạt kết quả. Cuối cùng
là vụ giết người của hắn được nhà chức trách cất vào hộc tủ thôi không điều tra
nữa. Trong điều kiện như thế, tôi không tin hung thủ chịu để yên cho ai muốn
bới tung vụ án của hắn lên, nhất là người đó muốn thành công.
- Tất nhiên rồi, công việc đầu tiên của tôi ở đấy là gì?
- Trước hết cô cần tìm những dấu vết ở gần đường tàu. Muốn thế, cô phải đi men
theo bên rìa khu trang viên kia, biết đâu còn một mảnh vải, một vật dụng nào
đó, tôi chưa biết. Cô cũng đừng quên quan sát xem tình trạng các bụi cây, đám
cỏ gần đấy có gì khác thường không.
- Nếu tìm thấy thứ gì đó thì tôi phải làm thế nào?
- Tôi sẽ đến gần chỗ đó. Chị hầu phòng cũ của tôi hiện rút về thành phố
Brackhampton, mở một nhà trọ kiểu gia đình rất sang. Tôi sẽ thuê của chị ta một
phòng nhỏ và tiếp tục dưỡng bệnh giống như ở nhà tôi vậy. Về phần cô, cô cũng
nên nói cho chủ nhà là cô có một bà dì không được khoẻ ở gần đấy cho nên cô muốn
làm ở đó để thỉnh thoảng có thể chăm sóc bà dì. Đồng thời cô đề nghị nhà chủ
tạo cho cô một số thời gian để chăm sóc bà dì.
Lucy không ngập ngừng nói ngay:
- Lẽ ra tôi có một việc phải đi vào ngày kia, nhưng tôi có thể hoãn lại. Dù sao
tôi cũng chỉ dành được ba tuần lễ để làm việc bà giao.
- Ba tuần là thừa đủ, bà Marple trấn an cô gái. Nếu trong ba tuần chúng ta
không tìm thấy gì, tôi sẽ bỏ cuộc. Sức đâu mà theo đuổi một cái bóng!
Bà Marple đi rồi. Lucy ngồi suy nghĩ thêm vài phút, rồi cô gọi điện đến văn
phòng tuyển người làm ở thành phố Brackhampton, báo cho bà giám đốc, cũng chính
là người quen của cô, là cô muốn tìm một việc làm ở thành phố này để được ở gần
bà dì đã có tuổi đang đau ốm. Bà giám đốc kể ra một loạt chỗ làm, cô đều khéo
léo thoái thác cho đến khi bà ta kể đến nhà Rutherford Hall.
- Đúng rồi, chỗ như thế rất hợp với tôi đấy! Bây giờ Lucy mới dứt khoát nhận
lời.
Văn phòng liên hệ với tiểu thư Crackenthorpe. Và hai ngày sau, Lucy rời London
đến nơi làm việc mới.
Ngồi cầm tay lái chiếc ôtô nhỏ của mình, Lucy Eyelessbarrow cho xe chạy giữa
hai cánh cổng sắt đồ sộ. Một bên cổng là ngôi nhà nhỏ xây dành cho người bảo
vệ, ngôi nhà đã đổ nát. Có thể cho chiến tranh hoặc không ai trông nom. Lucy
cho xe chạy trên đồi ngoằn nghèo, hai bên trồng lộn xộn những cây cao rậm lá,
đến bậc thềm dẫn lên toà nhà chính. Cô suýt nghẹn thở vì đau lòng khi nhìn thấy
các bậc thang bằng đá nham nhở thảm hại, cỏ mọc um tùm giữa các khe đá.
Lucy giật dây chuông, tiếng chuông cũ kỹ rè rè kêu lên trong nhà. Vài phút sau,
một phụ nữ trung niên ăn mặc nhem nhuốc chậm chạp ra mở cửa. Chùi hai bàn tay
vào tạp dề màu nước dưa, bà ta chăm chú nhìn người lạ.
- Có phải chị là người nhà này đang đợi và có cái tên rất khó đọc đấy không?,
bà ta cau có hỏi.
- Vâng, chính tôi, Lucy bình thản đáp.
Bà giúp việc nhún vai rồi ra hiệu bảo Lucy đi theo vào nhà. Không gian trong
nhà lạnh lẽo. Đi hết gian tiền sảnh, bà ta mở một cánh cửa, tạo ra một tiếng
động khô khốc. Lucy ngạc nhiên bước vào một phòng khách khá lịch sự. Cô chú ý
đến chiếc tủ chật cứng những cuốn sách gáy mạ vàng.
- Chị đợi đây để tôi vào báo cô chủ, bà giúp việc nói, vẫn giọng cấm cảu.
Bà ta đi ra, đóng sập cửa lại. Lát sau, cửa lại mở và thoạt nhìn, Lucy hiểu
ngay rằng tiểu thư Emma Crackenthorpe là người sẽ làm cô mến.
Con gái vị chủ nhân toà nhà Rutheford Hall là một phụ nữ không trẻ lắm, không
đẹp nhưng cũng không xấu, tóc đen thả xuống ngang lưng, cặp mắt đen láy nhìn
thẳng thắn. Tấm váy vải tuýt và áo len dệt chui đầu hợp màu nhau chứng tỏ tiểu
thư là người có khiếu thẩm mỹ. Giọng nói của tiểu thư cũng khá dịu dàng.
- Chị Eyelessbarrow? Tiểu thư Emma Crackenthorpe chìa tay.
Tuy nhiên tiểu thư có dáng vẻ lo âu.
- Tôi đang lo, chưa biết liệu công việc tôi sẽ giao cho chị có làm chị vừa ý
xong không? Nói thật, tôi không cần một quản gia chỉ tay năm ngón, mà tôi cần
một người làm việc thật sự.
Lucy đáp ngay rằng đó là bình thường, người chủ nào chẳng lo như thế. Nhưng
ngay bản thân cô cũng có những nỗi lo.
Tiểu thư Crackenthorpe nói tiếp:
- Nhiều người cho rằng chỉ cần phủi bụi qua loa là đủ, nhưng tôi lại không tán
thành như thế và tôi tự làm cái công việc đơn giản ấy.
- Tôi rất hiểu. Cô chủ muốn tôi nấu bếp và giặt giũ phải không? Những việc đó
tôi hoàn toàn có thể làm được.
- Tòa nhà của chúng tôi rất rộng, tôi e cách bố trí các phòng rất không thuận
tiện cho việc chăm sóc. Tuy nhiên cha tôi và tôi chỉ sử dụng một phần của toà
nhà. Cần nói thêm để cho chị biết, cha tôi gần như một người tàn phế. Tôi có
nhiều anh em trai nhưng ít khi thấy mặt họ. Chết, tôi suýt quên. Nhà còn có 2
chị giúp việc. Bà Kidder đến làm các buổi sáng. Chị Hart chuyên lau chùi đồ
đồng và làm thêm một số việc vặt, nên chỉ đến đây mỗi tuần 3 buổi chiều. Vậy ra
chị có ôtô riêng?
- Vâng, nhưng có thể để nó ngoài trời, nếu nhà không có gian để xe. Tôi quen để
nó ngoài trời rồi.
- Không sao, nhà tôi có rất nhiều chuồng ngựa bỏ không, cho nên có tha hồ chỗ
để ôtô.
Tiểu thư Crackenthorpe suy nghĩ một lát rồi mới đưa ra một câu hỏi nữa:
- Tên chị rất nhiều người biết. Gia đình Kenedy quen tôi có kể tôi nghe về một
chị giúp việc tên là Lucy Eyelessbarrow. Có phải chính là chị đấy không?
- Chính tôi. Tôi có giúp việc phu nhân Kenedy thời gian bà ấy sinh con.
Một nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt tiểu thư Emma Crackenthorpe.
Bà ấy ca ngợi chị lắm. Nhưng tôi e lương của chị ở đây không được cao. Tôi đã
báo văn phòng môi giới việc làm biết lương chị sẽ là bao nhiêu rồi…
- Tôi biết. Ngần ấy là rất đủ đối với tôi! Thưa tiểu thư, tôi muốn kiếm việc
làm ở thành phố Brackhampton này chủ yếu vì tôi có bà dì tuổi cao lại ốm yếu
đang ở đây. Lương chỉ là chuyện thứ yếu. Vả lại, tôi không muốn ngồi rỗi. Nhân
đây, xin hỏi tiểu thư, liệu tôi có thể đôi lúc rảnh rỗi được không?
- Tất nhiên là được! Chị được tự do các buổi chiều, từ 12 đến 18 giờ, như thế
có thuận tiện cho chị không?
- Thế là quá thuận tiện.
Tiểu thư Crackenthorpe lại có vẻ ngập ngừng, rồi sau khi ho thông cổ họng, cô
nói tiếp:
- Lúc nãy tôi có kể là cha tôi không được khỏe, nhưng tôi thấy phải nói thêm
rằng cha tôi còn khó tính hơn nhiều, nhiều lúc nói những câu…
- Cô chủ yên tâm, tôi đã quen phục vụ những người già nên rất hiểu tính cách
các cụ.
Tiểu thư Crackenthorpe có vẻ yên lòng. Về phần mình, Lucy linh cảm thấy hai cha
con nhà này có vẻ xung khắc. Hẳn ông già tính nết lỗ mãng, cục cằn, cô thầm
nghĩ.
Tiểu thư Emma dẫn Lucy lên phòng dành cho cô, rộng nhưng lạnh lẽo. Có một lò
sưởi điện, không biết có chạy được không. Lucy chưa kịp mở thử thì tiểu thư
Emma đã vội vã đưa cô đi xem toàn bộ toà nhà, rất rộng, nhưng trông hoang tàn
thế nào ấy.
Lúc hai người đi đến một cánh cửa, tiếng quát từ bên trong vọng ra:
- Emma đấy phải không? Cô "quý nữ" đã đến! Ai dẫn nó đến đây cho ta
nhìn, xem mặt mũi nó khả ố đến mức nào!
Tiểu thư Emma ngượng ngùng nhìn Lucy, nhưng cô người làm này đã đáp lại bằng
một cái nhìn thông cảm.Hai người bước vào phòng. Đó là một gian phòng rộng lớn,
tường bọc thảm nhung. Các cửa sổ hẹp, chỉ để lọt vào một làn sáng yếu ớt nhưng
cũng đủ để Lucy thấy ngổn ngang bàn tủ bằng gỗ gụ, đóng theo kiểu thời Nữ hoàng
Victoria.
Cụ Crackenthorpe ngồi trên ghế dài, cây gậy có tay cầm bịt bạc đặt ở tầm tay.
Vóc dáng cao, chủ nhân toà nhà Rutherford Hall trông cụ như người rừng. Bộ râu
quai nón rậm rì khiến ông cụ có dáng của một con chó xù. Mái tóc dầy, đen, chen
một số sợi bạc. Cặp mắt rất nhỏ và nhấp nháy liên tục lộ ra một vẻ đa nghi.
- Cô cho tôi nhìn cô một cái, đột nhiên ông già hướng về phía Lucy.
Lucy tươi cười tiến về phía ông cụ.
Nhưng cụ Crackenthorpe có vẻ không chú ý đến thái độ niềm nở ấy:
- Tôi phải nói để cô biết ngay một điều. Cô thấy toà nhà lớn, nhưng đừng tưởng
chủ nhân nó lắm tiền. Nhà tôi không giàu, chỉ đủ ăn. Chúng tôi sống rất đạm
bạc. Nói cho cùng thì cá mè ngon không kém cá thu. Cô nhớ cho kỹ là tôi không
bao giờ chịu nổi thói hoang phí. Nếu tôi ở toà nhà này thì chỉ vì cha tôi đã
xây nó và tôi thích sống ở đây. Sau khi tôi chết, người ta sẽ bán nó đi, tôi
biết chắc chắn như thế. Thời nay có đứa nào tha thiết đến gia tộc đâu! Người ta
quên mất rằng khu trang viên mênh mông này đã giúp chúng tôi tránh xa được thế
giới bên ngoài. Tất nhiên, nếu đem bán toàn bộ dinh cư này để xây những ngôi
nhà mới thì được ối tiền, nhưng tôi còn sống ngày nào tôi không cho đứa nào làm
thế. Chúng phải đợi đến lúc chở xác tôi ra khỏi cái nhà này đã.
Cặp mắt ông già chăm chú nhìn Lucy, trong khi cô lo lắng nghe ông cụ nói.
Lucy chỉ đáp đơn giản:
- Tóm lại, toà nhà này là lâu đài của ông cụ.
- Cô mỉa mai tôi đấy hẳn?
- Hoàn toàn không! Tôi chỉ nghĩ rằng giữa thành phố mà có một dinh cơ rộng rãi,
thoáng đãng như thế này để ở thì thật là quý.
- Cô nói đúng! Chỉ khi gió thổi theo một hướng nào đó, ở đây mới nghe thấy
tiếng xe cộ ngoài phố xá vẳng đến, còn phần lớn thời gian, nơi đây yên tĩnh như
thôn quê.
Rồi ông cụ chuyển ngay sang nói với con gái:
- Chị gọi điện đến cho gã bác sĩ ngu xuẩn kia để biết, thứ thuốc cho ta vừa rồi
chẳng ăn thua gì hết!
Lúc đó hai người phụ nữ trẻ bước ra, ông cụ quát theo:
- Bảo cái mụ thích hút bụi ấy đừng có mà vào phòng này! Mụ chỉ làm rối tung
sách vở của ta thôi!
- Ra đến hành lang, Lucy hỏi:
- Cụ đau ốm đã lâu chưa tiểu thư?
Emma hững hờ đáp:
- Lâu lắm rồi… còn đây là bếp.
Một gian phòng thênh thang nhưng trống rỗng. Bếp lò rất to, nhưng lạnh tanh và
đầy rác rưởi. Lucy ngó vào chạn, rồi hỏi giờ giấc các bữa ăn.
Sau đó, tôi không bình phẩm gì hết, cô chỉ nói:
- Bây giờ thì tôi đã biết cả rồi! Tiểu thư cứ để mặc tôi làm và tôi đề nghị
tiểu thư không phải lo lắng gì hết.
Lúc quay về phòng chập tối, Emma thở vào nhẹ nhõm.
Cô tự nhủ: "Bà Kenedy nhận xét đúng. Chị người là mới đến này quả là tuyệt
vời".
Sáng hôm sau, Lucy dậy từ 6h, dọn dẹp một lúc cho tương đối ngăn nắp, sạch sẽ
xong, cô chuẩn bị bữa điểm tâm. Sau đó, bà người làm Kidder giúp cô sắp xếp
chăn đệm các giường ngủ. Xong xuôi, hai người ngồi vào bếp, ăn một bữa điểm tâm
đạm bạc.
Nhận thấy "cô mới đến không kênh kiệu" và nhấm nháp tách trà được
Lucy pha rất khéo, bà người làm thấy hào hứng muốn kể đủ thứ chuyện. Tuy vẻ
ngoài thấp bé và khô khan, nhưng tính tình bà ta lại khá sởi lởi.
- Cô biết không, cụ chủ Crackenthorpe là loại người hết sức bủn xỉn, luôn miệng
đe doạ con gái là chớ tiêu hoang. Nói riêng với cô, cô chủ khi cần dám chống
lại ông bố đấy. Nhất là khi mấy "ông quý tử" kia đến, cô chủ muốn bữa
ăn phải tươm tất.
- Mấy ông quý tử nào vậy?
- Cụ chủ có nhiều con chứ đâu phải có mỗi mình cô con gái. Anh cả là ông Edmund
thì đã chết trong chiến tranh. Anh thứ hai là Cedric chưa vợ hiện đang sống ở
nước ngoài, hình như làm nghề vẽ tranh thì phải. Ông thứ ba tên là Harold, mở
văn phòng kinh doanh ở London, ông này ra thủ đô sinh sống và lấy con gái ông
bá tước. Con út là cậu Alfred thì quá hư đốn, đã hai lần ra tòa suýt bị đi tù.
Còn ông con rể Bryan East nữa, chồng bà Edith, chị cô chủ Emma. Bà ấy chết đã
mấy năm, nhưng ông con rể vẫn sinh hoạt trong gia đình này. Cuối cùng là cậu
Alexander, con trai ông Bryan và bà Edith.Cậu ấy học trường nội trú, chỉ nghỉ
hè mới về đây một thời gian ngắn. Cô chủ Emma quý cậu ta như vàng.
Trong lúc lắng nghe và ghi nhớ các chi tiết ấy, Lucy vẫn luôn tay tiếp thức ăn
và rót trà nóng cho người làm.
- Bữa sáng nay ngon miệng quá, bà ta nói có phần ngạc nhiên sao cô người làm
mới này săn sóc bà chu đáo thế.
- Cô muốn tôi gọt khoai tây không, cô Lucy.
- Tôi gọt xong rồi!
- Chà, cô chịu khó quá đấy. Vậy thì tội gì tôi không về nhỉ?
Thế là bà ta chào Lucy rồi đi. Lucy chỉ tươi cười đáp, tay vẫn tiếp tục thu dọn
bát đĩa.
Buổi trưa, Lucy thu dọn xong bữa ăn, rửa sạch bát đĩa thì đã hai giờ. Đây là
giờ cô được tự do, theo như quy định của tiểu thư Emma. Việc đầu tiên cô xem
xét khu vườn xung quanh toà nhà, là thứ không lo bị ai chú ý. Các luống rau cằn
cỗi do không được chăm sóc. Lối đi thì cỏ dại mọc kín. Chỉ mỗi một luống ngay
cạnh tương đối xanh tốt, chắc tiểu thư Emma lúc rảnh rỗi đích thân chăm nom.
Trong lúc đi lang thang quan sát, Lucy gặp bác làm vườn, một ông già nghễnh
ngãng, làm ra vẻ bận rộn, thật ra chẳng làm gì, chỉ quanh quẩn bên ngôi nhà nhỏ
của ông ta ở góc vườn, gần chỗ chuồng ngựa. Từ chỗ này có một con đường đi
ngang qua bãi đất trống ngay trong trang viên ra tới chân con đê cao đặt đường
ray xe lửa. Lucy đi theo hướng đó.
Cô đã mấy lần thấy những đoàn tàu giảm tốc độ trước khi chạy vào đoạn đường
vòng cung mà bà Marple yêu cầu cô chú ý. Một phần lớn đoạn đường vòng cung này
chạy men theo rìa trang viên của gia đình Crackenthorpe. Lucy chui qua một cổng
xây vòm, ra đến con đường đất. Một bên con đường là bờ dốc của đường sắt, một
bên là bức tường bao của một xí nghiệp. Lucy đi tiếp trên con đường đất ấy ra
đến một phố nhỏ có những ngôi nhà một tầng đơn giản. Cô đã nghe thấy tiếng xe
cộ chạy ầm ầm của một con đường lớn gần đó, nhìn thấy một đứa trẻ đứng trước
cửa một ngôi nhà. Lucy không ngần ngại hỏi luôn:
- Em có biết trạm điện thoại nào gần đây không?
- Cô đến góc phố kia, có nhà bưu điện đấy.
Thật ra, đó không phải là bưu điện, chỉ là một máy điện thoại công cộng đặt
trong một ngôi nhà tư nhân. Quay số điện của bà Marple xong, cô giật nảy người
khi nghe thấy tiếng gắt ở đầu giây bên kia:
- Cụ Marple đang nghỉ! Bà cụ tuổi cao, có quyền không bị ai quấy rầy. Cô cho
tôi biết tên, tôi sẽ nói lại với cụ.
Hẳn là bà Florence "trung thành" canh gác cho bà Marple.
- Tôi là Lucy Eyelessbarrow, bà không cần đánh thức cụ Marple làm gì, chỉ vui
lòng nói lại với cụ là tôi đã đến nơi. Mọi thứ ổn thoả, đúng như cụ dự tính,
khi nào cần tôi sẽ liên hệ với cụ sau.
Rồi Lucy bình thản quay trở lại toà nhà Rutherford Hall.
رمز علامة
Chuyến tàu 16 giờ 50
رمز علامة
Chuyến tàu 16 giờ
50