nhathongnguyen

Không có gì xa lạ đối với con người

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2020

soi chi mong manh

soi chi mong manh





















CHƯƠNG 29

Tối hôm đó và cả sáng hôm sau vẫn không thấy có điện từ An-ma A-ta gọi tới. Nếu Mi-rô-nốp không bận nhiều việc đến nỗi anh không còn chú ý đến thời gian nữa, thì chắc hẳn anh sẽ rất sốt ruột.

Thiếu tướng Va-xi-li-ép đã nói đúng: các chuyên gia xét nghiệm ở Mát-xcơ-va đã kết thúc nhanh chóng cuộc xét nghiệm. Họ đã khẳng định là tên giả danh Trê-nhi-a-ép này hoàn toàn khỏe mạnh, và hắn giả điên, mặc dầu rất đạt.

Ngay sau khi có kết quả xét nghiệm, người ta đã đưa tên Trê-nhi-a-ép giả mạo vào tù và Mi-rô-nốp phải chuẩn bị để hỏi cung hắn. Vì vậy anh không có thì giờ nhớ tới việc ông anh của Cô-nhi-lê-va và chuyến đi công tác ở An-ma A-ta của Lu-ga-nốp.

Nhưng chính hai người này lại nhắc anh nhớ tới họ một cách bất ngờ: giữa lúc đang bận việc thì có điện gọi An-đrây.

-- Vâng, tôi nghe đây, -- Mi-rô-nốp nói khi anh vừa cầm lấy ống nghe.

-- An-đrây I-va-nô-vích, chào cậu, -- giọng nói quen thuộc vang lên. -- Mình đây, Lu-ga-nốp đây. Mình gọi điện từ sân bay...

-- Chào cậu, Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích, cậu gọi điện từ sân bay nào thế? -- Mi-rô-nốp hỏi. -- Cậu phải có mặt ở An-ma A-ta cơ mà?

-- Mình vừa ở An-ma A-ta về, bây giờ mình đang ở đây, ở Mát-xcơ-va, ở ngoài sân bay đây. Mình gọi điện từ sân bay đấy.

-- Mình vẫn chưa hiểu: sao cậu không gọi điện từ An-ma A-ta. Sao lại về Mát-xcơ-va? Cậu giải thích đi.

-- Mình không thể giải thích qua máy điện thoại được! -- Lu-ga-nốp cáu gắt. -- Khoảng một tiếng hoặc tiếng rưỡi nữa mình sẽ tới chỗ cậu, lúc đó tự cậu sẽ hiểu. Cậu lấy cho mình giấy vào cửa để khỏi phải chờ đợi. Hai giấy nhé, cho mình và Cô-nhi-lép...

-- Cho cả Cô-nhi-lép, -- Mi-rô-nốp ngạc nhiên. -- Cô-nhi-lép nào? Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích ấy à?

-- Chứ còn ai nữa? Tất nhiên là Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích, anh trai cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na ấy. Ông ấy đang ở đây với mình.

Qua giọng nói của Lu-ga-nốp, thấy rõ là anh đang sốt ruột.

-- Được rồi, -- Mi-rô-nốp nói. -- Mình sẽ lấy giấy vào cửa ngay bây giờ. Cậu có biết chỗ đến nhận giấy không? Liệu cậu có tìm thấy mình không?

-- Có, mình biết rồi, mình đến đấy không phải là lần đầu.

-- Có cần cho xe ra sân bay đón không?

-- Không cần. Chúng mình sẽ đi xe và chỉ độ hơn một tiếng nữa là đã có mặt ở chỗ cậu rồi. Như vậy nhanh hơn.

-- Thôi được, tùy cậu, -- Mi-rô-nốp đồng ý. Anh vẫn chưa thật trấn tĩnh trước sự xuất hiện bất ngờ của Lu-ga-nốp và hơn nữa lại có cả người anh trai của Cô-nhi-lê-va nữa.

Thế là không tiến hành hỏi cung Trê-nhi-a-ép được nữa. Trong vòng một tiếng, tiếng rưỡi thì làm gì được?

Trong những ngày vừa qua đã có rất nhiều biên bản hỏi cung tên B., Pơ-sê-glôn-xcai-a và Xê-mê-nốp và bây giờ An-đrây phải bắt tay vào nghiên cứu các biên bản này. Anh so sánh đối chiếu xem mỗi tên gián điệp bị bắt đã khai từng vấn đề, từng sự kiện như thế nào. Anh suy nghĩ và phân tích từng chi tiết trong các vấn đề đó. An-đrây đang nghiên cứu tập biên bản thì Lu-ga-nốp và Cô-nhi-lép đến.

Nếu như An-đrây không biết trước là Lu-ga-nốp đi cùng với ai, thì chắc rằng anh vẫn đoán được người cùng đến với Lu-ga-nốp là anh ruột của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Cô-nhi-lê-va, vì ông anh rất giống cô em gái: cũng khuôn mặt trái xoan và từ mũi, miệng cho đến cằm đều rất giống cô. Thực ra Mi-rô-nốp chưa bao giờ nhìn thấy Cô-nhi-lê-va khi cô ta còn sống, nhưng anh đã nhiều lần nghiên cứu kỹ ảnh cô nên không thể nhầm được.

Tác phong của Cô-nhi-lép tỏ ra ông là một con người có nghị lực, dũng cảm. Lúc này trông ông có vẻ mệt mỏi, khuôn mặt rám nắng không phải của dân thành phố, và cũng không phải của người đi nghỉ mát ngoài biển. Khuôn mặt ông gầy dưới bộ tóc cháy nắng rối bù.

-- Chào ông Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích. Ông vừa từ chỗ khảo sát về đây?-- An-đrây hỏi sau khi Lu-ga-nốp giới thiệu hai người với nhau. Họ cùng ngồi xung quanh bàn. -- Ở rừng núi vất vả lắm nhỉ?

-- Vâng việc khảo sát thăm dò là công việc khó nhọc, -- Cô-nhi-lép nói, không dấu nổi vẻ xúc động. -- Nhưng xin lỗi, tôi không muốn nói chuyện khác bây giờ. Cuộc khảo sát địa chất cũng như toàn bộ công tác của tôi hiện nay không liên quan gì đến mục đích tôi đến đây. Tôi muốn nói chuyện về cô em gái tôi, về Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na...

-- Tôi biết, -- Mi-rô-nốp thận trọng nói. -- Tôi hiểu. Câu chuyện thế nào, tôi xin nghe ông.

-- Tôi được biết rằng Ôn-ga bị coi là một kẻ phản bội, một gián điệp, -- Cô-nhi-lép càng nói càng tỏ ra rất xúc động. -- Đây là một sự hiểu lầm, một sự hiểu lầm khủng khiếp. Ôn-ga suốt đời là một con người trung thực, lương thiện. Đôi khi cô ấy nóng nảy, hấp tấp, và có thể phạm sai lầm, có thể là sai lầm nghiêm trọng, nhưng cô ta vẫn là một người trong trắng, trung thực. Tôi biết chắc điều này và xin bảo đảm như vậy. Tôi xin chịu trách nhiệm về...

-- Xin ông cứ bình tĩnh, ông Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích ạ,ông cứ bình tĩnh. Việc gì phải lo lắng sớm như vậy?

Mi-rô-nốp đứng dậy, rót nước vào cốc và đưa cho Cô-nhi-lép rồi anh lại ngồi xuống. Anh cảm thấy hơi bực mình: sao cậu Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích lại kéo đến Mát-xcơ-va cái ông anh bảo vệ cho cô em gái này.

-- Ông cứ bình tĩnh, -- anh nhắc lại. -- Tôi hiểu những điều lo lắng của ông. Nhưng mong ông cũng hiểu chúng tôi: những bằng chứng phản lại cô em gái của ông thì có rất nhiều và rất quan trọng. Các cuộc điều tra đã được tiến hành và tôi xin bảo đảm với ông là các cuộc điều tra được thực hiện hết sức nghiêm túc và khách quan. Hiện nay cuộc điều tra chưa kết thúc nên tôi chưa có thể nói gì với ông được: tôi không có quyền...

-- Trời ơi, ông nói gì vậy? -- Cô-nhi-lép ôm lấy đầu. -- Những điều tôi lo lắng thì có gì là quan trọng trong việc này, ông có thể và không có thể nói gì về việc này? Ôn-ga đã không còn nữa, cô ấy dẫu sao cũng đã chết rồi!

-- Đã chết rồi? -- Mi-rô-nốp vội nhắc lại. -- Nhưng sao ông lại biết việc này?

Cô-nhi-lép ngạc nhiên nhìn Mi-rô-nốp và đau đớn nhăn mặt.

-- Xin lỗi, sao ông lại hỏi những câu lạ lùng như vậy, sao lại nói với tôi bằng cái giọng như thế? Tôi được biết việc này là do Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích, do đồng chí Lu-ga-nốp.

Mi-rô-nốp nhìn Lu-ga-nốp với vẻ tức giận, nhưng Lu-ga-nốp vẫn ngồi yên, rất bình tĩnh.

-- Tôi không yêu cầu và cũng không chờ đợi ông thông báo cho biết việc gì cả. Vì đã muộn rồi, -- Cô-nhi-lép lạnh nhạt nói. -- Vấn đề chủ yếu không phải là những nỗi lo lắng của tôi, mà là vấn đề phục hồi danh dự của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Mặc dầu cô ấy đã chết... Vấn đề là phải phát hiện xem ai là người đã giết cô ấy. Chính vì vậy mà tôi đến đây.

-- Nhưng sau khi Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích cho ông biết rằng em gái ông đã chết, thì ông có thể biết gì hơn về những điều anh ấy và chúng tôi đã biết? Và hơn nữa, ai là kẻ giết người? Nhưng kẻ giết người thì chúng tôi đã biết. Quả thật, tôi cũng chưa hiểu... -- Mi-rô-nốp khoát tay.

-- Không, -- Cô-nhi-lép phản đối. -- Ông không thể biết được kẻ đã giết Ôn-ga. Nói cho đúng hơn là ông đã biết được kẻ giết cô ấy, nhưng hắn là người thế nào thì ông chưa rõ.

-- Thế còn ông, ông đã rõ rồi à? -- Mi-rô-nốp không dấu nổi vẻ bất bình, kêu lên.

-- Rất có thể là như vậy, -- Cô-nhi-lép nói với vẻ bình tĩnh và tự tin.

Mi-rô-nốp ngạc nhiên nhìn Cô-nhi-lép: cái ông Cô-nhi-lép này lại định lòe bịp anh hay sao thế? Sao ông ta lại quá tự tin như vậy? Đã nửa năm nay ông ta lang thang trên khắp núi rừng Thiên Sơn, lại ở xa cô em gái, và có lẽ trong đời chưa bao giờ gặp tên Trê-nhi-a-ép, vậy thì làm sao lại có thể biết được ai là người núp dưới danh hiệu này? Mi-rô-nốp định "kê" cho Cô-nhi-lép một trận, nhưng không kịp: Lu-ga-nốp đã can thiệp vào câu chuyện.

-- Này các đồng chí, -- anh giận dữ nói. -- Các đồng chí làm sao thế. Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích, bức thư đâu? Tại sao không đưa bức thư cho An-đrây I-va-nô-vích? Các đồng chí cứ nói những chuyện ây làm gì? Chúng ta đã để mất thời gian vô ích!

-- Ờ nhỉ, bức thư! -- Cô-nhi-lép lúng túng. -- Xin lỗi, tôi quên khuấy mất... Tôi mong rằng các đồng chí hiểu cho tâm trạng của tôi lúc này.

Ông rút từ túi trong áo vét một phong bì dầy cộp và đưa cho Mi-rô-nốp.

-- Tôi xin lỗi, -- ông nhắc lại, -- chính bức thư này đã dẫn tôi đến Cục an ninh nhà nước. Điều không may cho tôi là đã quá muộn... Phải, đã quá muộn...

Mi-rô-nốp cầm bức thư và chăm chú xem xét phong bì. Anh nhận thấy ngay rằng trên phong bì không ghi địa chỉ của người gửi, nhưng có đóng dấu của nơi gửi -- thành phố Crai-xcơ và ngày tháng gửi thư -- ngày mười lăm tháng Năm năm nay.

"Ngày mười lăm tháng Năm, -- Mi-rô-nốp thầm nghĩ, -- trước khi Cô-nhi-lê-va chết đúng hai tuần. Nhưng bức thư này đến An-ma A-ta từ khi nào? Nó đã nằm ở đâu gần nửa năm nay? Theo dấu bưu điện An-ma A-ta thì bức thư này đã được chuyển bằng máy bay tới An-ma A-ta ngày mười tám, nghĩa là trước ngày Cô-nhi-lê-va bị giết một tuần rưỡi. Nhưng tại sao mãi đến giờ Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích mới đem bức thư đến đây. Sao trước đây ông ta lại im lặng?"

Cô-nhi-lép thấy Mi-rô-nốp chăm chú nhìn các dấu bưu điện trên phong bì, ông vội giải thích:

-- Như thế này, đồng chí ạ. Đoàn thăm dò của chúng tôi rời An-ma A-ta đúng vào sáng sớm hôm mười tám tháng Năm. Nếu như tôi nán lại một ngày, thì đã nhận được bức thư này đúng lúc... Nhưng... nhưng nếu như vậy thì đã chẳng nói làm gì...

Vài ba ngày trước khi tôi lên đường đi thăm dò địa chất, -- Cô-nhi-lép nói tiếp, sau khi dừng lại một phút, -- tôi đã cho gia đình về quê nhà tôi ở U-crai-na, nghỉ mát. Ở nhà chẳng có ai cả. Nhà tôi và các cháu đã trở về nhà trước tôi khá lâu, vào cuối tháng Tám đầu năm học. Trong khi tôi đi vắng thì ở nhà nhận được rất nhiều thư. Tôi quan hệ thư từ với nhiều người, mà vợ tôi thì không có thói quen đọc trộm thư. Những bức thư gửi cho tôi, vợ tôi đã xếp lại trên bàn làm việc của tôi. Như vậy 3bức thư này đã nằm trên bàn làm việc của tôi trước khi tôi trở về nhà... Sau đó ra sao, chắc cũng chẳng cần phải giải thích: tôi thấy bức thư liền đọc ngay và sau đó thì chạy đến Cục an ninh nhà nước. Ở đấy, sau khi người ta biết sự việc có liên quan đến cô em gái tôi và bức thư này gửi từ Crai-xcơ, các đồng chí không hỏi gì tôi cả, mà chỉ đề nghị tôi chờ. Sau đó thì đồng chí Lu-ga-nốp đến và bây giờ thì chúng tôi ở đây. Đồng chí đọc thư đi và mọi chuyện sẽ rõ ràng.

Mi-rô-nốp rút trong phong bì ra mấy tờ giấy dày đặc những dòng chữ nhỏ và không đều. Ôn-ga Cô-nhi-lê-va viết:

"Anh Ghê-oóc-ghi thân yêu!

Em rất khổ tâm phải viết thư cho anh nói về chuyện này, nhưng cũng chẳng còn ai nữa, anh tha lỗi cho em. Không hiểu sao, trong đời em, những lúc gặp khó khăn em thường hay nghĩ tới anh. Em có lỗi là bao nhiêu năm nay em đã giấu anh nhiều chuyện. Anh Ghê-oóc-ghi, anh giúp em. Em đã đến bước đường cùng rồi, em sợ quá! Nếu như anh có thể đến với em, anh sẽ biết cần phải làm gì. Em đang viết những điều ngu dại, lộn xộn, nhưng tất cả đều rất kinh khủng, đều hết sức nặng nề...

Lần hai anh em mình gặp nhau khi chiến tranh kết thúc, em đã không nói với anh hết sự thật. Em sợ. Nhưng không thể im lặng được nữa rồi. Em sẽ cố gắng kể lại từ đầu. Em đã nói với anh là sau khi người ta chuyển em về vùng địch hậu, em đã làm nhân viên điện đài của một đội du kích. Sau đó em bị thương và bị bắt làm tù binh. Em đã nói như vậy. Nhưng em chưa nói với anh và chưa nói với ai về những điều đã xảy ra với em trong địa ngục phát-xít. Ở trại giam của chúng, người ta bị chết hàng ngày, hàng giờ. Em không hiểu sao lúc bấy giờ em đã bị thương và kiệt sức mà lại còn sống được. Nhưng em sống, em đã sống mặc dầu ở đó có một cuộc gặp gỡ mà mọi việc đều bắt đầu từ đấy...

Em không muốn và không thể viết thật tỷ mỉ, nhưng ở trại giam, trong số những tù binh, có lần em đã gặp một người và nhận ra hắn. Có lẽ anh cũng nhận ra hắn nếu anh gặp, nhưng cũng chưa chắc. Tốt nhất là anh đừng gặp hắn bao giờ cả! Thế thôi. Hắn cũng nhận ra em và ra hiệu cho em biết: này, đừng để lộ ra. Hãy im lặng. Một vài ngày sau, người đó đến nhà lán nơi em ở. Hắn đưa đến cho em một mẩu bánh mì của trại giam, một miếng mỡ lợn và cái đáng quý hơn là những lời nói phấn khởi, đầy tin tưởng ở tương lai. Từ đó hắn bắt đầu lui tới thường xuyên, đem thêm thức ăn cho em và các bạn gái của em, hắn đưa bọn em trở lại cuộc sống. Hắn là ai, sao hắn lại khéo léo tìm cách làm những việc này, chúng em cũng không biết, nhưng chúng em tin rằng hắn là một trong những người lãnh đạo của tổ chức bí mật, mà chúng em đoán là tổ chức này có trong trại giam. Các bạn gái cùng cảnh ngộ như em, đã mừng cho em: vì em đã gặp được một người đồng chí, một người bạn. Hắn đã chú ý đến em nhiều hơn các bạn khác, vì em mà hắn lui tới đây luôn...

Em không biết và không còn nhớ là bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng đã trôi qua: lúc bấy giờ em rất ít suy nghĩ. Nhưng rồi đến một ngày, một ngày khủng khiếp mà mỗi giây phút của ngày hôm đó không bao giờ xóa nhòa trong tâm trí em. Ngay từ buổi tối, trong toàn trại giam đã lan ra tin đồn, đâu như là tổ chức bí mật định chuẩn bị cho tù nhân chạy trốn tập thể, đã bị tiêu diệt, đâu như là những người lãnh đạo của tổ chức này đã bị bắt.

Sáng hôm sau, tất cả những tù nhân trong trại giam đều phải đứng xếp hàng ở ngoài bãi. Bọn em đứng đấy có lẽ đến hai tiếng đồng hồ. Mọi người đứng im phăng phắc dưới những họng súng máy và súng liên thanh, trước những cái mõm rộng hoác của bầy chó săn. Ở giữa bãi cỏ đặt một dãy giá treo cổ. Em đếm có mười một cái giá treo cổ...

Nhiều người trong bọn em,do quá yếu đã ngã gục xuống và không bao giờ còn đứng dậy được. Họ đã bị bắn chết. Có lẽ như vậy họ còn thanh thản hơn. Nhưng em đã cố chịu đựng, đã đứng vững...

Bỗng nghe thấy tiếng ồn ào. Những người tù nhân bị xử tử đã xuất hiện, mười một người bị xử tử. Trời, họ bị làm sao vậy! Họ lê bước nặng nề, chân vấp ngã trong từng bước đi, quần áo rách rưới, mặt mày thâm tím vì bị đánh đập, họ bị hành hạ nhưng không khuất phục. Và họ đã chết như những người anh hùng.

Em sẽ không viết tỷ mỉ. Thật là khủng khiếp... Nhưng điều khủng khiếp nhất không phải chuyện đó. Điều khủng khiếp nhất đang chờ đợi em.

Bọn chỉ huy trại giam đứng vây quanh những cái giá treo cổ, những cái giá đã cắt đứt sinh mệnh các đồng chí chúng ta, những người tốt nhất trong bọn em. Trong bọn chỉ huy đó, em đã nhìn thấy cái người ấy. Không, hắn không bị xiềng xích, không mặc quần áo của trại giam: hắn mặc quân phục theo kiểu bọn Đức. Hắn tỏ ra ngang hàng với những tên đao phủ đứng đấy.

Thật không thể tả được là em đã đau khổ như thế nào, khi nhìn thấy hắn với bộ mặt như vậy. Nhưng nỗi đau khổ của em không phải chỉ có thế. Tên chó đểu ấy đã đi dọc theo các hàng người để tìm kiếm ai đó. Em lạnh toát cả người vì biết rằng hắn đang tìm ai...Khi nhìn thấy em, hắn tiến lại gần, hắn thân mật vuốt má em và nói to: "Đừng sợ, cô bé ạ, mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy". Rồi hắn lại đi tiếp. Em không biết tại sao lúc bấy giờ em không nhổ nước bọt vào bộ mặt đê tiện của hắn và không tát vào mặt hắn: em quả là đã bị kiệt sức, không cử động được...

Sau đó thì sao, liệu có nên viết ra đây không. Nếu như các bạn cùng chiến đấu của em đã không giết em, thì cũng chỉ vì không ai muốn bẩn tay. Nhưng họ đã khinh em, đã khinh em biết dường nào!.. Không, thật là khủng khiếp khi nhớ lại điều này.

Mấy ngày sau, người ta gọi em đến gặp tên chỉ huy trại giam. Ở đấy có cả hắn, cái con thú ấy. Nhưng không, em không bị đánh đập, không bị nhạo báng. Chúng đã nói với em như nói với người cùng một ý chí, như với người của chúng và điều này làm em không sao chịu nổi. Em cắn môi và im lặng. Nhưng chúng chẳng quan tâm đến cái đó, chúng đã quyết định thay em tất cả.

"Cô Ôn-ga, -- tên chỉ huy trại giam nói, -- cô không thể ở lại đây được nữa. Ngày mai cô sẽ phải chuyển đến một trại giam khác, ở đó dễ chịu hơn. Nhưng cô phải thay đổi tên: bây giờ đã quá nhiều người biết tên Cô-nhi-lê-va, và trại giam khác cũng có thể biết. Từ nay cô sẽ là Vê-lít-cô. Ôn-ga Vê-lít-cô. Cô nhớ nhé".

Em nghĩ thế nào cũng được: Cô-nhi-lê-va hay Vê-lít-cô... Dù thế nào đi chăng nữa thì em đã có số tù của trại giam. Em chẳng còn chờ đợi gì hơn, ngoài cái chết. Nhưng em vẫn chưa được chết, mà vẫn sống, với cái họ mới là... Ôn-ga Vê-lít-cô.

Ngày hôm sau, người ta chuyển em đến một trại giam khác, rồi sau đó lại đến một trại giam khác nữa...Gần một năm sau, chiến tranh kết thúc. Em không gặp hắn nữa và cũng chẳng ai đụng chạm đến em nữa. Chúng đã quên rồi chăng?

Chiến tranh kết thúc. Em ở miền Tây Đức và nằm trong tay bọn Mỹ, trong trại giam những người tù binh được giao trả. Gần một năm sau, mọi việc lại tái diễn từ đầu: người ta gọi em đến, lần này đến gặp bọn chỉ huy người Mỹ. Trong phòng làm việc có hai tên ăn mặc thường phục, lần đầu tiên em nhìn thấy chúng. Thì ra chúng đã biết rõ mọi chuyện về em, chúng còn biết cả vì sao em trở thành Vê-lít-cô. Không để mất thời giờ vô ích, chúng nói rằng chúng định trao trả em cùng với một số tù binh khác cho chính quyền Liên-xô, nhưng nếu ở đó người ta biết chuyện của em, thì em sẽ bị xử bắn.

Em nhún vai: đối với tôi thì thế nào cũng được. Chúng nhận thấy thế, và một trong hai tên Mỹ nói: "Chị không nên coi thường việc này. Chị hãy nghĩ đến những người thân của mình. Nếu chị bị phát giác thì điều đó sẽ gây ra hậu quả rất xấu cho anh trai, bà cô và ông chú của chị. Ông chú của chị là giáo sư nổi tiếng Na-vơ-rô-xki, phải không? Rồi ông ấy sẽ ra sao?"

Không, những đau khổ của em vẫn chưa chấm dứt. Lần đầu tiên người ta nói về những người thân thích của em và đây là điều mà em lo sợ nhất từ trước đến nay.

"Nhưng việc gì chị phải chết, -- vẫn tên Mỹ ấy nói. -- Những điều chúng tôi biết về chị thì người Nga không biết và có thể sẽ không biết. Hơn nữa họ sẽ không bao giờ biết được, nếu như chị cư xử tốt".

Thì ra, "cư xử tốt" có nghĩa là: trở về Tổ quốc và trở thành kẻ phản bội".

Mi-rô-nốp ngừng đọc thư và suy nghĩ. Phải rồi, những chữ: "Người Nga không biết... và sẽ không biết", "...cư xử tốt..." đối với anh rất quen thuộc. Tất nhiên rồi! Vì đây chính là những chữ ghi trong mẩu giấy đã tìm thấy dưới lần vải lót chiếc áo của Ôn-ga Cô-nhi-lê-va.

Lu-ga-nốp nhìn anh và gật đầu ra hiệu: cậu đọc đi, đọc nữa đi.

An-đrây lại tiếp tục đọc thư:

"Anh Ghê-oóc-ghi, -- Cô-nhi-lê-va viết. -- Anh thử tưởng tượng xem, em không hề làm điều gì xấu, thế mà người ta đã dồn em vào bẫy và dụ dỗ em làm một kẻ bán nước, một kẻ phản bội...

Tất nhiên là em đã từ chối. Lúc đó chúng nói là thế nào cũng trả em về vùng thuộc Chính quyền xô-viết và thế nào cũng báo với các cơ quan an ninh của Chính quyền xô-viết về em, và như vậy em sẽ làm hại đời anh, làm hại gia đình anh, hại chú và cô...Anh hiểu chứ?

Biết làm thế nào, đâu là lối thoát? Em đã trằn trọc suốt đêm và cuối cùng quyết định: sáng hôm sau em đồng ý làm theo yêu cầu của chúng, đã ký một bản hợp đồng nào đó và nhận địa chỉ mà em sẽ phải đến Vô-rô-ne-giơ (người ta yêu cầu em phải đến nhà chú và cô ở vùng Vô-rô-ne-giơ) và mấy ngày sau em đã ở vùng thuộc Chính quyền xô-viết.

Tất nhiên là em đã không đi Vô-rô-ne-giơ: em không muốn thực hiện những việc làm bỉ ổi của chúng. Em chỉ có một mục đích là: trở về Tổ quốc, ấn náu ở đâu đó rồi chết, chết trên mảnh đất thân yêu.

Nhẽ ra là như vậy, nếu như em không đến Cui-bư-sép và không gặp Xa-đốp-xki. Ồ, anh Ghê-oóc-ghi ạ, anh ấy thật là một người tốt, anh ấy đã làm cho em biết bao nhiêu điều tốt! Còn em thì sao?

Em đang nói gì thế này!.. Thôi được, anh gắng kiên nhẫn một chút, bức thư sắp kết thúc rồi. Em sẽ không kể về thời gian sau đó,mà chỉ kể về thời gian hai năm gần đây. Anh cũng biết là hàng ngày hàng giờ anh Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích đã trả em về cuộc sống như thế nào, anh ấy đã trở thành chồng em và chúng em đã sống như thế nào... Nhưng anh không biết là trong những năm đó em đã sống trong lo sợ như thế nào, em hoảng sợ mỗi khi trông thấy một người lạ mặt: liệu có phải người này do bọn Mỹ phái đến không? Nhưng không, hình như chúng đã để mất hút em. Vì tin là như vậy, nên em đã đồng ý lấy Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích. Nhưng nỗi lo lắng vẫn không nguôi, mặc dầu mỗi ngày một bớt đi.

Nhưng khi em nghĩ là mọi sự đã qua rồi, thì lại xảy ra một việc không lường trước được: em và anh Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích đi nghỉ ở Xô-tri. Lúc đó em đã viết thư cho anh. Ồ, nếu như em có thể biết được chuyến đi này sẽ kết thúc ra sao!..

Mấy ngày sau khi chúng em đến đấy, chúng em đã quyết định đến khu vườn bách thảo, và ở đấy... ở đấy em đã gặp người ấy. Phải, đúng là hắn, vẫn khỏe mạnh, sung sức. Điều đáng sợ nhất là chính hắn đã nhận ra em. Em định chạy trốn, nhưng vô ích. Hắn đã bám riết lấy em. Em khẩn khoản nói với Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích là hãy bỏ hết tất cả, mau đi khỏi nơi này. Em mong được trốn thoát. Nhưng em không thể giải thích cho chồng em điều gì được... Còn anh Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích thì không hiểu em, những yêu cầu của em, anh ấy coi là làm nũng, đỏng đảnh.

Ngày hôm sau, lợi dụng lúc Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích không có mặt ở nhà nghỉ, tên chó đểu ấy đã lọt vào phòng em, hắn đã lén lút lọt vào phòng em như một tên ăn trộm...

Hắn nói ngắn gọn: ngay từ những lời đầu tiên, em đã biết là hắn biết tất cả về em, về bản hợp đồng em đã ký với bọn Mỹ. Hắn nói: "Này, cô em thân mến, hoặc là cô đi theo tôi, làm tất cả những việc tôi yêu cầu, hoặc là ngay ngày mai, Chính quyền xô-viết sẽ biết về những hành động xấu xa của cô. Không những số phận của cô đang nằm trong tay cô, mà cả số phận của anh trai cô, của bà cô và của chồng cô nữa. Cô không còn cách nào khác đâu".

Đúng, không còn cách nào khác, và em đã bỏ chồng em, đã trở thành "vợ" của kỹ sư trung tá Trê-nhi-a-ép (hiện giờ hắn đang làm việc với danh nghĩa như vậy).

Thời gian đầu hắn không gò ép em vào công việc của hắn. Hắn cố gắng đánh gục em hoàn toàn. Nhưng dù hắn cố gắng đến đâu, cũng không đạt được mục đích. Đúng, em không đủ sức để đấu tranh công khai chống lại hắn, nhưng em quyết không trở thành kẻ giúp việc của hắn trong những việc làm đê tiện và tội lỗi.

Em biết nói gì bây giờ? Tình hình hiện nay đã căng thẳng đến tốc độ, em đang chờ đợi cái chết từng giờ từng phút, em không sợ chết. Có chết em mới được giải thoát. Nhưng còn anh, gia đình anh, còn Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích, mọi người rồi sẽ ra sao? Nếu em không sợ điều này, thì đã từ lâu em tố giác hắn hoặc em đã tự vẫn. Nhưng em còn biết làm gì, khi cái chết đang đe dọa cả những người thân?

Anh Ghê-oóc-ghi, anh thân yêu, em bị dày vò, em đau khổ quá chừng, em đã kiệt sức rồi. Em nên làm gì bây giờ? Làm gì đây? Đã gần một năm nay, cứ mỗi lần viết thư cho anh, em lại xé, lại xé..."

Mi-rô-nốp lại dừng đọc, anh xoa tay lên trán: đây rồi, đây là câu trả lời, tại sao có mẩu giấy bất hạnh đó...

"Cứ mỗi lần viết thư cho anh, em lại xé, lại xé, -- Mi-rô-nốp đọc lại, -- nhưng bức thư này thì em gửi, không thể xé được nữa. Em van anh, anh đến với em, anh sẽ tìm cho em lối thoát. Nếu anh không thể đến được thì anh viết thư hoặc đánh điện. Em sẽ nghĩ cách và sẽ đến chỗ anh. Nhưng anh đừng viết thư đề địa chỉ nhà em, mà để lưu lại bưu cục, nếu không thì bức thư sẽ rơi vào tay con thú ấy. À, trong những ngày gần đây tự dưng hắn tỏ ra rất âu yếm, hắn cứ thuyết phục em nên đi nghỉ mát. Hắn lại định làm gì đây?

Hôm nay là ngày mười lăm. Khoảng ba, bốn hôm nữa anh sẽ nhận được thư này. Em sẽ đợi thư trả lời của anh trong mười ngày. Nghĩa là khoảng hai mươi bảy, hai mươi tám. Anh có thể sẽ không trả lời: em hiểu hết... Ôn-ga của anh".

Đọc xong những dòng thư cuối cùng, An-đrây nghiến răng và nắm chặt hai bàn tay đến nỗi chòi cả xương ở các ngón. Anh đứng phắt dậy bước tới gần Cô-nhi-lép và chìa tay cho ông:

-- Ông Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích, xin ông thứ lỗi tôi đã tiếp ông không được vui vẻ lắm, nhưng ai có thể biết trước được?.. Còn Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na... Ôi, Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na! Sao mà dại dột thế! Bọn chúng đã dọa dẫm và lừa bịp cô ấy đến mức độ nào! Lẽ ra cô ấy phải nói hết sự thật với ông, với Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích và cuối cùng phải đến gặp chúng tôi. Chẳng lẽ cô ấy vẫn chẳng hiểu gì cả hay sao? Không, cô ấy đã không hiểu và đây là hậu quả... Nhưng chúng ta hãy gác chuyện đó lại, bây giờ còn xét xử gì nữa? Chúng ta đi vào việc. Thế nào, ông Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích, ông có thể cho biết những gì về cái người đó? Hắn là ai? Theo bức thư thì thấy rằng ông có thể biết hắn.

-- Tôi không thể đoán trước là ai, -- Cô-nhi-lép khoát tay nói. -- Trong những ngày vừa qua tôi đã hàng chục, hàng trăm lần cố nhớ lại tất cả những người mà tôi và Ôn-ga cùng quen biết, những người này cũng không nhiều, mà vẫn không tài nào đoán được là ai. Trong số những người đó, những người mà tôi biết, thì không ai có thể hành động được như vậy...

Mi-rô-nốp suy nghĩ:

-- Này ông Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích ạ, -- Mi-rô-nốp đột nhiên nói. -- Nếu chúng tôi chỉ cho ông xem người đó... Trê-nhi-a-ép ấy?

Cô-nhi-lép bỗng rùng mình.

-- Nếu cần... -- ông nén xúc động nói. -- Nếu đồng chí thấy cần thiết... Tôi xin sẵn sàng...

-- Chúng ta sẽ làm như thế này, -- Mi-rô-nốp quyết định. -- Đây này, ở chỗ tường này có một chỗ lõm vào, chỗ này để treo áo măng-tô và có tấm màn che kín. Tôi sẽ gọi tên Trê-nhi-a-ép giả ấy đến hỏi cung một lúc, còn ông thì ngồi ở chỗ có bức màn che này, chỗ ấy cũng rộng. Từ chỗ ấy ông sẽ nhìn thấy hắn còn hắn thì sẽ không nhìn thấy ông. Ông đồng ý chứ?

Cô-nhi-lép nhún vai:

-- Tùy đồng chí, tôi hoàn toàn tin cậy ở đồng chí. Đồng chí cũng thấy đấy.

Mi-rô-nốp ra lệnh cho gọi tên mạo danh Trê-nhi-a-ép đến hỏi cung, còn anh thì cùng với Lu-ga-nốp chuẩn bị chỗ nấp cho Cô-nhi-lép. Việc chuẩn bị cũng đơn giản nên đã xong xuôi trước khi tên giả danh Trê-nhi-a-ép được dẫn vào phòng.

-- Thế nào, ông...-- Mi-rô-nốp ngừng lại, -- ông Trê-nhi-a-ép. Đã lâu chúng tôi không gặp ông. Sao, chúng ta lại bắt đầu làm quen nhau chứ?

-- Gâu! -- Trê-nhi-a-ép ngập ngừng kêu, mắt liếc nhìn Mi-rô-nốp. -- Gâu!

Mi-rô-nốp khinh bỉ nhăn mặt:

-- Thôi, đủ rồi. Ông không phải là chó và cũng không phải bị điên: đây là biên bản xét nghiệm. Nào, ông hãy nói chuyện như một người bình thường đi!

Gã Trê-nhi-a-ép giả vẫn câm lặng liếc nhìn Mi-rô-nốp.

-- Sao, -- Mi-rô-nốp hỏi với vẻ nhạo báng, -- không được bắt chước tiếng chó sủa, bây giờ ông lại định giở trò giả câm hay sao? Cũ rồi! Ông Trê-nhi-a-ép ạ, cũ rồi. Ông nên nghĩ cái gì mới mẻ một chút! Tôi hỏi ông lần cuối cùng. Ông có định cung khai hay không?

-- Tôi không có gì để khai cả, -- Trê-nhi-a-ép bỗng khẽ nói.

-- À, -- Mi-rô-nốp mỉm cười, -- thấy chưa, thì ra ông vẫn chưa bị mất khả năng nói. Như vậy rất tốt. Ông hãy giải thích giúp, vì sao ông lại bầy ra tấn hài kịch chó sủa ngu dốt này? Ông định làm gì vậy?

-- Thưa ông dự thẩm, nhưng tôi có bầy ra tấn hài kịch nào đâu ạ. Quả thật là tôi bị ốm...

An-đrây không muốn tiếp tục hỏi cung nữa, vì không cần thiết. Cô-nhi-lép chắc đã nhìn rõ tên này, và điều đó là chủ yếu.

-- Này, ông...Trê-nhi-a-ép, -- Mi-rô-nốp bình tĩnh nói. -- Như vậy không được. Tôi không muốn mất thì giờ vô ích với ông. Ông về phòng giam và hãy suy nghĩ kỹ hơn. Hiện giờ cũng có vấn đề để ông phải suy nghĩ. Một vài ngày nữa tôi sẽ gọi ông, lúc ấy chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm chỉnh. Ông nên nhớ rằng chúng tôi biết về ông nhiều hơn là ông tưởng...

Trê-nhi-a-ép vừa được đưa ra khỏi phòng, thì Mi-rô-nốp vội đứng dậy đến chỗ có bức màn che và kéo màn. Cô-nhi-lép ngồi, hai tay ôm lấy đầu. Trên khuôn mặt tái nhợt đã thay đổi của ông, còn giữ lại những nếp nhăn vì căm giận. Ông nói khẽ, giọng nghẹn ngào:

-- Đúng, tôi biết hắn. Hắn là Ma-cốp-xki. Xéc-giơ Ma-cốp-xki...

Một tháng rưỡi sau,cuộc điều tra kết thúc. Nhưng thật ra Mi-rô-nốp và các đồng chí giúp việc của anh, cũng như Lu-ga-nốp và Xa-vê-li-ép (hai người này theo đề nghị của An-đrây đã lưu lại ở Mát-xcơ-va cho đến khi cuộc điều tra kết thúc) đã phải làm rất nhiều việc: nào là tiến hành các cuộc hỏi cung liên tục, nào là các cuộc đối chất, nào là khám nghiệm rồi lại tiếp tục đối chất. Những tên gián điệp bị bắt đã tỏ ra cố gắng trong cuộc chạy đua. Mỗi tên đều cố giãi bày những điều mà chúng biết (nhưng chúng nói nhiều về người khác và ít nói về bản thân). Mỗi tên đều sợ thua kém bọn đồng lõa của mình. Tên này chà đạp không thương tiếc tên kia, chúng vội vạch mặt lẫn nhau trong các cuộc đối chất.

Ma-cốp-xki cũng không chịu thua đồng bọn. Hắn hiểu rằng hắn đã bị lộ chân tướng, nên vội lao vào cuộc chạy đua theo những kẻ đã cung khai trước hắn, mong rằng với sự thú nhận "chân thành", hắn sẽ chèn được những tên khác.

Thì ra, Ma-cốp-xki đã có quan hệ với cơ quan tình báo Đức từ những năm ba mươi. Lúc bấy giờ, núp dưới danh hiệu tổ chức bí mật, hắn đã định tổ chức nhóm thanh niên chống Chính quyền xô-viết trong số những người trẻ tuổi ở Vô-rô-ne-giơ, nhưng hắn thất bại. Sau đó hắn chạy sang nước Đức phát-xít và hắn được tin dùng. Hắn được đưa vào làm việc trong tổ chức mật thám của bọn Ghét-ta-pô. Trong tổ chức này, hắn đã nhanh chóng đạt được danh vọng, nhất là sau cuộc tấn công phản trắc của bọn phát-xít Đức vào Liên-xô và trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Trong thời gian đó Ma-cốp-xki được đặc trách "công tác" về tù binh quân sự Liên-xô. Hắn khám phá ra các tổ chức bí mật của tù binh trong các trại giam của bọn phát-xít Hít-le, hắn đã thực hiện những hành động khiêu khích ghê tởm và là thủ phạm của hàng trăm vụ án mạng.

Giữa lúc này hắn đã gặp Ôn-ga Cô-nhi-lê-va trong một trại giam. Ma-cốp-xki nảy ra một kế hoạch quái gở: hắn định đầu độc Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na, dụ dỗ cô ta và tạo ra những điều kiện buộc Cô-nhi-lê-va phải trở thành gián điệp của cơ quan mật thám Đức. Vì đã mất hết những tình cảm của con người như lòng trung thực, tinh thần yêu nước, nghĩa vụ đối với Tổ quốc, nên hắn chủ quan tin vào sự thành công của hắn. Hắn không lường trước được rằng một cô gái hai mươi hai tuổi lại có nghị lực chống đối những âm mưu bỉ ổi của hắn, không chịu khuất phục và không trở thành kẻ bán nước.

Nhưng bọn mật thám Đức không có khả năng thực hiện âm mưu của chúng, không phải chỉ vì sự chống đối của Ôn-ga: chiến tranh đã kết thúc, chế độ phát-xít bị đổ nhào. Khi phát hiện ra Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Cô-nhi-lê-va trong một trại giam tù binh được giao trả, bọn tình báo Mỹ đã nhúng tay vào cuộc. Tác giả của toàn bộ mưu kế bỉ ổi này -- tên Ma-cốp-xki, lúc bấy giờ đã ở xa. Khoảng một năm rưỡi trước khi bọn Đức bị thất bại, số phận của Ma-cốp-xki đã chuyển sang một bước ngoặt mới. Một tên chỉ huy cỡ lớn của tổ chức tình báo Đức đã trực tiếp hỏi cung một chỉ huy liên đội du kích tên là Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích Trê-nhi-a-ép bị bắt làm tù binh, và tên Đức nhận thấy diện mạo của người chỉ huy du kích này có nhiều nét giống với tên tay sai Ma-cốp-xki của mình. Thế là số phận Ma-cốp-xki được quyết định. Một tuần sau, Ma-cốp-xki đã biến thành Trê-nhi-a-ép, cán bộ du kích bị hãm hại trong nhà tù của bọn Đức. Tên Ma-cốp-xki giả danh Trê-nhi-a-ép đã trở về vùng du kích với vết thương rất nặng, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.

Sau đó, hắn được chuyển đến vùng "Đất lớn", đến quân y viện, rồi trở lại đội ngũ, rồi những năm hòa bình.

Kiến thức về công tác xây dựng, sự nhanh trí, tính tháo vát và nghệ thuật cải trang tài tình đã giúp Ma-cốp-xki đóng vai Trê-nhi-a-ép rất đạt trong gần mười lăm năm trời. Ma-cốp-xki công tác nay đây mai đó ở các công trường xa, hắn không ở nơi nào quá một vài năm, và cố gắng tránh những nơi có thể gặp những người thân của ông Trê-nhi-a-ép thực sự.

Trong những năm đó Ma-cốp-xki làm gián điệp, chính vì công việc này mà hắn đã trở thành Trê-nhi-a-ép, nhưng bây giờ hắn không làm việc cho bọn Đức nữa, mà làm việc cho những ông chủ mới. Điều đó cũng không có gì lạ: ngay từ đầu những năm bốn mươi, trong khi làm việc cho bọn tình báo Đức ở Thụy-sĩ, tên Ma-cốp-xki đã lo xa và đặt quan hệ với tổ chức tình báo Mỹ. Tất nhiên là sau khi phát-xít Đức bị thất bại, tên gián điệp kỳ cựu này không thể sống vô chủ, không thể bị thất nghiệp.

Cuộc gặp gỡ với Cô-nhi-lê-va ở Xô-tri đối với Ma-cốp-xki rất bất ngờ. Đó chỉ là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, nhưng hắn đã biết lợi dụng cơ hội đó. Mặc dầu hắn đã dọa dẫm Ôn-ga, buộc cô ta phải bỏ Xa-đốp-xki và đi theo hắn, nhưng hắn vẫn không thể làm cho cô ta chịu khuất phục. Gần hai năm trời Ma-cốp-xki đã hành hạ Cô-nhi-lê-va, nhưng hắn không đạt được ý muốn. Khi thấy những cố gắng của hắn không đem lại kết quả gì, hắn đã thủ tiêu cô ta.

Toàn bộ bức tranh khả ố về những tội ác của Ma-cốp-xki và bọn đồng lõa của hắn đã dần được mở ra trong quá trình điều tra. Và giờ đây cuộn chỉ đã được tháo gỡ, tháo gỡ đến tận cùng. Cuộc điều tra đã kết thúc.

... Buổi sáng hôm ấy, khi đến chỗ làm việc, theo thói quen thiếu tá An-đrây Mi-rô-nốp giở tờ báo "Sự thật" ra đọc. Một bản thông báo ngắn ở cột báo cuối cùng đã đập ngay vào mắt anh: "Thông báo của Ủy ban an ninh nhà nước thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên-xô". An-đrây đọc: "Các cơ quan an ninh nhà nước đã phát hiện và bắt gọn một nhóm gián điệp của các cơ quan tình báo nước ngoài. Nhóm gián điệp này đã hoạt động trên lãnh thổ Liên-xô và đã giết hại những công dân xô-viết. Theo sự xác minh thì những thành viên trong nhóm này đã cấu kết với tên Ri-tra-rơ-đơ B., một người nước ngoài, thường xuyên qua lại Liên-xô với danh nghĩa là nhà du lịch. Bọn gián điệp đã cung cấp tài liệu tình báo cho tên này và nhận tiền của hắn. Cuộc điều tra sơ bộ về nhóm gián điệp nói trên đã kết thúc và đã chuyển giao cho tòa án".

"Thật là đơn giản, -- An-đrây cười thầm, -- "đã phát hiện", "đã bắt gọn"! Tất cả chỉ có mấy dòng chữ... Sau những dòng chữ này thì biết bao nhiêu khó khăn, biết bao nhiêu công sức? Nhưng sao mình lại triết lý như vậy, không biết Ki-rin Pê-tơ-rô-vích sẽ phát biểu thế nào? Thôi, đã đến giờ làm việc rồi".

...An-đrây để tờ báo sang một bên và kéo cặp giấy bìa nâu lại, trong cặp vẻn vẹn chỉ có mấy tờ giấy. Ngoài tấm bìa có dòng chữ ngắn ngủi: "Hồ sơ số..."

Mát-xcơ-va, 1961 - 1964

HẾT


Tìm kiếm với từ khoá:

Soi Chi Mong Manh




chuong 29          

1001 truyện trinh thám tuyệt hay
     
                                Gồm        “Chiếc Nhẫn Tình Cờ-Những Người Thích Đùa-Pháo Đài Số- Sherlock homes-Điệp Vụ Bí Ẩn-Chinh Đông Chinh Tây-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân-Xâu Chuỗi Ngọc Trai-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-Chuến Tàu 16 Giờ 50-Trại Giam Địa Ngục-Nnghinf Lẻ Một Đêm-Rừng Thẳm Tuyết Dày-Nam Tước Phôn gôn Rinh-xâu chuôi ngoc trai cái kính  chiếc khuy đong soi chi mong manh
 VV…”  https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm



soi chi mong manh

soi chi mong manh



CHƯƠNG 27

Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp vừa kịp đến sân bay lúc máy bay sắp cất cánh. Thật ra suốt dọc đường, anh lái xe đã phải mở hết tốc độ, không kể gì đến luật giao thông cả. Đây không phải lần đầu tiên họ phải chạy như vậy. Ngay chiều hôm đó hai người đã tới Ri-ga và lập tức liên hệ với ban chỉ huy đơn vị biên phòng. Sau khi thông báo cho họ biết về kế hoạch công tác sắp tới, Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đi đến thành phố Ven-xpin-xơ để gặp ông lão ngư dân.

Để thuận tiện cho việc "nhập vai", An-đrây Mi-rô-nốp và Va-xi-li Lu-ga-nốp chờ trời tối mới đầu đến nhà ông lão. Trong những ngày vừa qua Xéc-gây Xa-vê-li-ép đã sống ở đây. Ông già và Xa-vê-li-ép đang chuẩn bị đi ngủ. Khi thấy Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đến, Xéc-gây vui mừng chạy ra đón hai người. Nhìn phong cách, nét mặt và những cử chỉ nhanh nhẹn, dứt khoát của Xa-vê-li-ép, có thể thấy rõ là một tuần lễ sống ở bờ biển đã có tác dụng tốt đối với anh.

-- Thế nào, Xéc-gây, -- Mi-rô-nốp vui vẻ nói. -- Cậu đang dần dần nhập vai người địa phương rồi đấy nhỉ?

-- Tại sao lại "nhập vai"? Sao lại "dần dần"? -- Xa-vê-li-ép trả lời. -- Tôi đã là người địa phương rồi, đồng chí An-đrây I-va-nô-vích ạ, là người địa phương thực thụ đấy. Đồng chí có thể tin như vậy. Nếu không cứ hỏi bác I-man mà xem. Phải không?

-- Ồ, phải đấy, -- ông già nói, -- cậu cháu tôi nhập vai rất tốt, rất tốt. Các anh cứ yên tâm.

Mặc cho Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp từ chối, bác I-man và Xéc-gây vội đi nhóm lò, đánh vẩy cá để làm món dấm cá.

-- Này, nhập gia tùy tục đấy! -- Ông già nghiêm nghị nói khi Mi-rô-nốp đề nghị ông không nên mất thì giờ về việc cơm nước. -- Anh cứ nếm thử món dấm cá của chúng tôi rồi mới có thể nói được. Còn nếu có ngủ muộn một tiếng đồng hồ -- thì có việc quái gì! Chúng tôi vẫn thường thức đêm làm việc. Nghề cá chúng tôi là như vậy đó.

Trong khi nấu cá, An-đrây đã báo cho ông già và Xa-vê-li-ép biết là tối mai Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin sẽ tới đây. Trong khi ăn mọi người không muốn nói đến chuyện công tác: An-đrây và Lu-ga-nốp không muốn làm cho ông già mến khách này mất vui, nên không đả động gì đến chuyến đi công tác của mình, mà chỉ tấm tắc khen món cá ngon (mà quả là ngon thật).

Khi bữa ăn tối đã xong, Mi-rô-nốp liền mở một "cuộc họp bàn về công tác", theo như anh nói. Sau khi báo cho bác I-man và Xa-vê-li-ép biết về kế hoạch hành động, An-đrây thảo luận kỹ với họ về nhiệm vụ của từng người. Khi mọi việc đã rõ, An-đrây hỏi là anh có thể ẩn ở chỗ nào để Vôi-xê-khốp-xcai-a không nhìn thấy khi cô ta đến đây. Ông già hiểu ý anh ngay: ông im lặng đứng dậy và ra hiệu mời Mi-rô-nốp đi theo. Ở ngoài sân, có một gian kho nhỏ chứa dụng cụ nghề cá. Ông già I-man dẫn Mi-rô-nốp vào kho. Sau khi xem xét, An-đrây thấy rằng không còn chỗ nào tốt hơn chỗ này nữa. Bây giờ thì có thể yên tâm mà nghỉ ngơi.

...Ngày hôm sau, Vôi-xê-khốp-xcai-a -- cô ta chính là Pơ-sê-glôn-xcai-a, và Xa-vin đã đáp máy bay rời Crai-xcơ. Họ đi riêng từng người tới sân bay, ngồi riêng từng người trong máy bay và khi đến Ri-ga họ cũng tách ra từng người một. Nhưng ở cửa ra vào sân bay, Vôi-xê-khốp-xcai-a gật đầu ra hiệu cho Xtê-pan: bây giờ thì có thể đến gần được. Sau đó hai người cùng đi với nhau. Xtê-pan rất kích động, anh thấy rét run người: có gì đâu, lần đầu tiên anh tham gia vào công việc này. "Phải, -- anh mỉm cười thầm nghĩ. -- Việc này không giống như mình lái một chiếc máy bay mới. Ngồi trong máy bay mình thấy vững vàng hơn".

Vôi-xê-khốp-xcai-a thì ngược lại: cô ta bình tĩnh đến nỗi rất khó nhận thấy cô ta đang suy nghĩ gì. Trong những ngày này, cô ta luôn nói với Xtê-pan bằng một giọng hách dịch. Cô ta lạnh lùng, bình tĩnh như không hề chú ý đến việc gì cả.

Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin không nán lại lâu ở Ri-ga. Sau khi ăn lót dạ, hai người liền đi đến Ven-xpin-xơ ngay.

Trong khi ở Crai-xcơ, các tình báo viên cũng không ngồi yên: ngay sau khi Xcơ-vô-re-xki biết tin là máy bay chở Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin đã cất cánh, thì một tổ nhân viên Cục an ninh nhà nước đã kéo đến nhà của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Đại tá thân chinh hướng dẫn tổ này. Xcơ-vô-re-xki cũng không hy vọng gì nhiều: ông hiểu rằng một địch thủ có nhiều mánh lới như Pơ-sê-glôn-xcai-a chắc gì đã để lại dấu vết ở đây. Nhưng ông vẫn còn một hy vọng: biết đâu vẫn còn cái gì đó, vẫn còn một mảy may gì đó có tác dụng tốt trong việc phát hiện, điều tra.

Nhưng xem ra những hy vọng của ông mong manh lắm. Những người điều tra đã xem tất cả: quần áo, sách vở, bàn ghế (đồ đạc trong phòng xếp đặt rất ngăn nắp. Ngoài những đồ vật tối cần thiết, Vôi-xê-khốp-xcai-a hầu như không đem theo gì cả) và nói chung họ không phát hiện được gì khả nghi cả.

Nhưng bỗng Ki-rin Pê-tơ-rô-vích để mắt tới chiếc xắc du lịch: một cái xắc bình thường, đơn giản, không mới lắm, nhưng còn lành lặn, nằm lẻ loi ở một góc nhà, cạnh chiếc đi-văng.

Mọi người đã xem xét chiếc xắc du lịch này, không thấy có gì khả nghi nên đã vất nó vào một chỗ. Nhưng Xcơ-vô-re-xki vẫn thấy băn khoăn về cái xắc. Vì sao? Đại tá bỗng nhớ tới một việc: chính Vôi-xê-khốp-xcai-a đã đến nhận cái xắc này chứ không phải cái va-li, ở phòng gửi hành lý trên sân bay. Đây chính là cái xắc du lịch mà chìa khóa và biên lai nhận xắc để ở trong bao diêm, dấu trong ống máng nước. Trước mặt ông, có đúng là cái xắc mà Vôi-xê-khốp-xcai-a đã quên không thủ tiêu tang chứng đi không? Phải, chính là cái xắc ấy đây.

"Nhưng nếu đây quả là cái xắc du lịch ấy, thì sự việc sẽ ra sao? -- Xcơ-vô-re-xki chợt nghĩ. -- Bởi vì lúc bấy giờ ở ngoài sân bay, Lu-ga-nốp đã xem xét kỹ và hầu như không phát hiện thấy gì cả. Nhưng... nhưng đã thật sự đã xem xét kỹ lưỡng chưa? Bởi vì lúc ấy thời gian và hoàn cảnh chưa cho phép xem xét kỹ được. Mặt khác, nếu lúc ấy trong xắc có cái gì, thì có lẽ cái đó từ lâu đã không còn ở trong xắc nữa".

Xcơ-vô-re-xki cầm lấy cái xắc và chăm chú xem xét. Đúng như vậy: cái xắc trống rỗng, cả ngoài, cả trong đều không có gì đáng chú ý. Nhưng... khoan đã... Cái gì thế này nhỉ? Tại sao ở đây, ở góc xắc, lần vải lót lại bị tháo chỉ? Đúng, đúng là bị tháo chỉ chứ không phải là rách. Lần vải lót bị tháo chỉ, tháo một cách cẩn thận, không bị xây cứt,có thể dễ dàng nhận thấy, nhưng không phải ai cũng có thể chú ý đến việc này, mà chỉ có Xcơ-vô-re-xki nhận thấy, vì ông đã biết lai lịch của cái xắc đó. Các nhân viên trong đội điều tra không nắm được toàn bộ quá trình theo dõi nên họ không biết gì về cái xắc. Vì vậy lần vải lót trong xắc bị tháo chỉ, cũng không làm cho họ phải chú ý. Nhưng Xcơ-vô-re-xki thì biết rõ về cái xắc. Ông thận trọng và từ từ sờ vào đáy chiếc xắc từ phía ngoài vào phía trong, hết sức chăm chú xem xét khoảng giữa lần vải lót bị tháo chỉ: trống rỗng! Trong đó không có gì. Phải, bây giờ thì không có gì, nhưng có lẽ lúc nào đó đã có cái gì đấy. Có thể là dưới lần vải lót đã có một tập giấy được xếp cẩn thận, nếu như không tháo lần vải lót ra thì không thể nhìn thấy được. Cái đó hoàn toàn có thể có. Hơn nữa rất có thể cho rằng trong đó không phải để một tập giấy mà là một tập phim ảnh rất mỏng.

Tất nhiên trong những điều kiện mà Lu-ga-nốp đã xem xét chiếc xắc, anh không thể tìm ra được "bức thông điệp", nếu như nó có nằm trong xắc.

Xcơ-vô-re-xki ra lệnh đình chỉ việc khám xét, rồi ông ra về, đem theo cả chiếc xắc của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Sau đó một tiếng rưỡi, theo lệnh của Xcơ-vô-re-xki, Ôn-ga Dê-len-cô được mời đến Cục an ninh nhà nước. Cô rụt rè, bước vào phòng. Ki-rin Pê-tơ-rô-vích, sau khi xin lỗi đã làm phiền đến cô, liền chìa cho cô xem chiếc xắc du lịch để trên bàn.

-- Thế nào, trước đây chị đã có dịp nhìn thấy cái này chưa?

-- Thật quả, tôi không biết, -- Dê-len-cô ngập ngừng nói. -- Hình như cái xắc này của Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích thì phải, tức là Trê-nhi-a-ép ấy mà, đồng chí biết chứ? Nhưng tôi không nhớ chắc chắn lắm, không, không chắc lắm. Có lẽ không phải cái này, mà chỉ là giống nhau thôi...

Dê-len-cô vừa ra về một lúc thì bà Lép-cô-vích đến.

-- Ối, trời ơi! -- Bà ta vung tay khi nhìn thấy cái xắc. -- Sao lại thế này nhỉ? Mới đầu ở ngoài ga đã tìm thấy cái va-li của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na,bây giờ lại thấy cái này ở đây, ở chỗ đồng chí... đây là cái xắc phải không? Ồ, đúng là đồ dùng của Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích.

-- Bà muốn nói là cái xắc này của Trê-nhi-a-ép phải không? -- Xcơ-vô-re-xki hỏi lại. -- Bà không nhầm chứ?

-- Không đâu, thưa đồng chí cục trưởng. Sao lại nhầm được. Chính là cái xắc của ông ta, của Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích đấy. Đúng là như vậy.

Sau khi bà Lép-cô-vích ra về, Ki-rin Pê-tơ-rô-vích Xcơ-vô-re-xki suy nghĩ. Ông hồi tưởng lại toàn bộ quá trình diễn biến các sự việc. Phải, Xcơ-vô-re-xki nghĩ, có lẽ là thế này: sau khi thu thập được một số tài liệu cần thiết cho bọn chủ, tên nặc danh Trê-nhi-a-ép (trước hắn, có thể là Cô-nhi-lê-va) đã treo cái bảng thông báo lên để làm dấu hiệu thông báo, hắn đã viết báo cáo và chụp ảnh bản báo cáo vào những tấm phim rất mỏng, hắn dấu những tấm phim này dưới lần vải lót xắc du lịch và gửi vào phòng bảo quản hành lý. Chìa khóa và biên lai đến nhận xắc hắn để trong bao diêm và dấu ở ống máng nước. Vôi-xê-khốp-xcai-a sau khi đã đọc được bản thông báo, liền tới chỗ hẹn, lấy biên lai đi nhận xắc. Sau đó cô ta dán những tấm phim mỏng vào bao diêm và trao cho Xê-mê-nốp đem đi Mát-xcơ-va chuyển cho tên B. Quả là khéo thật! Mặc dầu sự việc khá phức tạp, nhưng rất khéo léo tinh vi. Ở đây, giả dụ có nắm được một mắt xích -- nắm được Xê-mê-nốp hay là thậm chí nắm được Vôi-xê-khốp-xcai-a, thì vẫn chưa biết gì thêm ngoài mắt xích này. Không có đầu, không có cuối -- sợi dây xích bị gián đoạn. Cần phải phát hiện ra toàn bộ sự việc kể từ Cô-nhi-lê-va và Trê-nhi-a-ép cho đến tên B., thì mới có thể hoàn toàn tháo gỡ được cuộn chỉ rối. Mặc dầu sợi chỉ bền, nhưng rất mỏng manh, ôi, thật là mỏng manh!

"Nhưng chúng ta vẫn phát hiện được, -- Xcơ-vô-re-xki vui mừng nghĩ, -- đã phát hiện được rồi!" Nhưng ông lại nghĩ: "Phải, đã phát hiện được. Có đúng thế không? Sợi dây nối từ Trê-nhi-a-ép đến Vôi-xê-khốp-xcai-a hầu như đã rõ ràng, còn tiếp theo đó thì sao? Chưa có đoạn tiếp theo nào cả. Chưa có cơ sở để xác định rằng tên B. nhận tài liệu của chính Trê-nhi-a-ép chứ không phải người nào khác? Vì chưa có một bằng chứng nào cả. Mà đây lại là một mắt xích quan trọng nhất trong toàn bộ dây xích. Nếu cho rằng tên B. không nhận tài liệu của Trê-nhi-a-ép hoặc Vôi-xê-khốp-xcai-a, thì như vậy sẽ có rất nhiều điểm thắc mắc... Nhưng không! Tên B. phải nhận tài liệu của Trê-nhi-a-ép chứ không phải ai khác. Nhất định là như vậy!"

Ki-rin Pê-tơ-rô-vích tự phân tích một mình: "Được, đoạn dây từ Cô-nhi-lê-va -- Trê-nhi-a-ép đến tên B. đã được phát hiện ra. Cái đó không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng vẫn chưa rõ vai trò của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Có lẽ cô ta đã nhận nhiệm vụ thay thế Cô-nhi-lê-va trong sợi dây xích này. Khi Cô-nhi-lê-va không cần thiết nữa, người ta đã thủ tiêu cô ta đi. Nhưng ai là người núp dưới danh nghĩa Trê-nhi-a-ép? Hắn là người như thế nào, ở đâu ra? Cuối cùng, Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Cô-nhi-lê-va thực chất là người như thế nào? Cô ta là ai: là liên lạc, là người đi tuyển lựa hay là đại diện của một cơ quan tình báo nào? Biết bao nhiêu điều chưa rõ trong bài toán rắc rối này, cái của nợ ấy!"

Ki-rin Pê-tơ-rô-vích đang tự mình lý luận và phân tích thì có điện thoại Mát-xcơ-va gọi. Tướng Va-xi-li-ép đang gọi ông. Thiếu tướng vui mừng báo tin cho cục trưởng an ninh nhà nước Crai-xcơ biết rằng bản mật mã in trong tấm phim mỏng đã được khám phá. Nội dung bản mật mã là báo cáo về một số công trình quốc phòng và những số liệu về công trường xây dựng, nơi tên giả danh Trê-nhi-a-ép đã làm việc.

-- Tác giả bản mật mã này chính là tên mạo danh Trê-nhi-a-ép, chứ không phải ai khác, -- thiếu tướng khẳng định.

Ông nhận xét rằng, nói chung thì bản mật mã này cũng không giá trị lắm: nội dung rời rạc, không có hệ thống. Các chuyên gia được mời đến phân tích đã nhất trí rằng người viết mật mã đó phải là kẻ đã biết, am hiểu nhiều vấn đề bí mật. Nhưng vì vội vàng, không cẩn thận, nên đọc rất khó hiểu toàn bộ nội dung.

Sau khi chăm chú nghe thiếu tướng nói, Ki-rin Pê-tơ-rô-vích kể cho thiếu tướng biết về cái xắc du lịch và những dự đoán của ông về cái xắc này.

-- Hiện nay chưa tìm ra đầu mối sợi dây xích, -- Xcơ-vô-re-xki kết luận. -- Đoạn dây từ Trê-nhi-a-ép đến tên B. thì đã rõ rồi...

-- Này, -- thiếu tướng ngắt lời ông, -- cái anh chàng tự xưng là Trê-nhi-a-ép ấy hiện giờ như thế nào nhỉ, vẫn chưa tỉnh à? Vẫn kêu la như chó ấy à?

-- Vẫn kêu la, -- Xcơ-vô-re-xki thở dài.

-- Thế việc xét nghiệm đến đâu rồi? Đã có kết quả gì chưa? Sao lâu vậy?

-- Việc xét nghiệm rất dở, -- Ki-rin Pê-tơ-rô-vích nói. -- Phần lớn các chuyên gia xét nghiệm đều cho rằng Trê-nhi-a-ép bị điên: do hắn không chịu nổi sự căng thẳng về thần kinh. Nhưng cũng có một số cho rằng hắn chỉ giả vờ điên. Hiện giờ các chuyên gia xét nghiệm vẫn chưa nhất trí với nhau.

-- Như vậy không được, -- thiếu tướng khẳng định. -- Chúng ta không thể chờ đợi lâu hơn được. Vậy như thế này nhé: ngày mai đồng chí cho tên Trê-nhi-a-ép đi máy bay đến đây, đến Mát-xcơ-va. Ở đây có các chuyên gia về thần kinh giỏi hơn, có cả viện chuyên nghiên cứu về thần kinh nữa. Người ta sẽ xác định nhanh chóng hơn.

-- Vâng, -- Xcơ-vô-re-xki thở dài. -- Xin chấp hành. Nhưng cần gì phải để đến mai? Ngay hôm nay chúng tôi sẽ giải hắn đi...

Sau khi ra lệnh đưa tên Trê-nhi-a-ép giả đi Mát-xcơ-va và làm xong các việc trong ngày hôm đó, Ki-rin Pê-tơ-rô-vích ra về. Ông thích đi dạo trên các đường phố vui vẻ, sầm uất của thành phố Crai-xcơ vào những buổi tối như thế này. Trong khi đi đường, ông thường ngắm nhìn những người qua lại, lắng nghe tiếng cười ròn rã của đám thanh niên, và những đoạn câu vô tình lọt vào tai ông. Nhưng lần này, những ý nghĩ của ông lại tập trung vào việc khác: vào sự việc ở Lát-vi-a, nơi đây đang diễn biến giai đoạn cuối cùng của đợt công tác. "Các đồng chí ấy hiện giờ đang làm gì? -- Ki-rin Pê-tơ-rô-vích thầm nghĩ. -- Mọi việc có trôi chảy không? Vì đối phó với một kẻ địch như con Pơ-sê-glôn-xcai-a này, không phải chuyện đơn giản".

Nhưng thực ra, Xcơ-vô-re-xki không cần phải lo lắng nhiều. Ở Lát-vi-a mọi việc đều tiến hành theo đúng kế hoạch đã định. Xa-vin và Vôi-xê-khốp-xcai-a tới Ven-xpin-xơ vào buổi tối và đến ngay nhà ông già chở thuyền. Ông già I-man và người cháu (Xa-vê-li-ép đóng vai này rất đạt) tiếp đón hai người không nhiệt tình lắm, như là bị bắt buộc đón tiếp những người khách không ưa thích. Ông già mời Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin ngồi vào bàn ăn và đặt trước mặt hai người một chảo cá tươi rán.

-- Xin cảm ơn, nhưng tôi không muốn ăn. -- Vôi-xê-khốp-xcai-a từ chối.

-- Không, như vậy không nên, -- ông già kiên quyết mời. -- Khi nào đi ra biển cũng cần phải ăn. Chúng ta sẽ đi bao nhiêu lâu, năm hay mười tiếng đồng hồ, ai mà biết được?

Ngay lúc đó ông già I-man để ý tới áo khoác da của Xa-vin vứt lăn lóc trên ghế, bên cạnh là chiếc áo măng-tô của Vôi-xê-khốp-xcai-a được gấp xếp cẩn thận. Ông liền ra hiệu cho Xa-vê-li-ép: cất những cái này xuống nhà dưới. Xa-vin định đứng dậy để đi cất áo măng-tô, nhưng Vôi-xê-khốp-xcai-a bỗng phản đối.

-- Anh muốn mang áo của anh đi đâu tùy ý, -- cô ta nói nhỏ, -- nhưng đừng đụng đến áo măng-tô của tôi. Cứ để nó ở đây, ở phòng này.

-- Chậc, chậc, chậc, như vậy không nên! -- Ông già chậc lưỡi trách móc. -- Sao lại để áo khoác ngoài ở phòng ăn, phòng nghỉ như thế này được. Không nên.

Ông già cầm lấy chiếc áo khoác của Xa-vin và ôm chiếc áo măng-tô của Vôi-xê-khốp-xcai-a đi ra khỏi phòng, không chú ý đến phản ứng của Vôi-xê-khốp-xcai-a. Cô ta hiểu rằng dẫu sao cũng nên giữ quan hệ tốt với ông già trước khi rời khỏi đây, nên đành nhượng bộ.

Ông già I-man sau khi đem áo xuống nhà dưới, liền trở vào phòng.

-- Chúng ta sắp lên đường, -- ông già chậm rãi nói. -- Trời bắt đầu tối là chúng ta lên đường. Đi đêm tốt hơn vì trời tối công an biên phòng sẽ không nhìn thấy. Không nên đi ban ngày, vì mọi cái đều nhìn thấy rõ. Đi ban ngày nhiều khi phải quay lại.

Ông già im lặng, rít một vài hơi thuốc lá trong tẩu thuốc, rồi nhả khói lên trần nhà. Ông hỏi:

-- Tiền đâu? Trả tiền bây giờ đi.

-- Sao, ngay bây giờ à? -- Xtê-pan bực mình nói. -- Sao lại thế? Chúng ta đã thỏa thuận với nhau là chỉ trả tiền đầy đủ khi nào sang đến bên kia, bên kia bờ...

-- Cụ đã nhận tiền đặt trước rồi chứ? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a tiếp lời anh.

-- Tiền đặt trước thì nhận rồi, nhưng phải trả tất cả, trả tiền đô-la kia. Cậu chưa đưa tiền đô-la cho tôi. Sang bên kia bờ, các người sẽ đi mất, mà tôi thì cần phải gấp rút quay trở về. Không có thời gian. Rồi sẽ ra sao? Vậy phải trả đô-la ngay bây giờ.

Bắt đầu một cuộc tranh cãi gay gắt. Ông già không chịu nhượng bộ, Vôi-xê-khốp-xcai-a cũng không chịu thua. Xa-vin không tham gia vào cuộc. Còn Xa-vê-li-ép thì đi ra khỏi phòng: "Tôi ở ngoài cuộc, việc gì phải dính vào?.."

Hai người tranh cãi hồi lâu. Cuối cùng Vôi-xê-khốp-xcai-a khoát tay và nói giọng gay gắt:

-- Thôi được, bây giờ tôi sẽ đưa trước một số đô-la nhưng chỉ ít thôi. Khi nào đến nơi sẽ trả đầy đủ. Tôi nói dứt khoát đấy. Dứt khoát... Nếu cụ không muốn thì mặc kệ cụ.

Giữa lúc đó thì "người cháu" trở vào phòng, bác I-man buồn rầu nhìn anh rồi vội ngừng tranh cãi.

-- Thôi được, -- bác nói lầu bầu, -- đưa đô-la đây. Số còn lại để sau. Sắp đến giờ lên đường rồi.

Vôi-xê-khốp-xcai-a xoay người về phía tường, cô ta lấy người che chiếc ví tiền mà lúc nào cũng giữ khư khư trong tay. Cô ta rút trong ví ra một tệp giấy bạc, đếm xong, rồi ném qua bàn cho ông già.

Ông già nhanh nhẹn bắt lấy tiền, ông cũng cẩn thận đếm lại, rồi đem tiền cất vào cái tráp để trong tủ ở góc phòng. Sau đó ông ngồi xuống bàn và lấy bút chì hý hoáy viết vào mảnh giấy.

-- Gì vậy? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a sẵng giọng hỏi. -- Cụ viết gì vậy?

-- Giấy biên nhận, -- ông già bình tĩnh đáp. -- Tôi viết giấy biên nhận rằng, tôi đã nhận tiền đô-la, còn chị là người trả đô-la. Việc gì cũng phải theo nguyên tắc...

-- Giấy biên nhận à? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a ngạc nhiên. -- Tôi cần gì phải có giấy biên nhận? Nhưng... -- Cô ta mỉm cười tinh quái. -- Nhưng cụ cứ đưa cho tôi... có lẽ cũng cần.

Cô ta nghĩ thầm: "Lão già ngốc này, mày sẽ khốn khổ. Tự mình đi chui vào tròng".

-- Phải chuẩn bị lên đường, -- ông già nói sau khi đưa giấy biên nhận cho Vôi-xê-khốp-xcai-a, và cô ta cẩn thận cất tờ giấy vào ví. -- Nhanh lên, nhanh lên. Đã đến giờ rồi!

"Người cháu" vội đi xuống nhà dưới, rồi quay trở lại, mang theo áo khoác của khách và mấy chiếc áo mưa dày cộp có cả mũ. Anh đưa cho Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin hai chiếc áo mưa. Mọi người cùng choàng áo mưa bên ngoài áo ấm.

Ông già I-man vừa soi đèn cho khách vừa dẫn họ đi ra bến. Ở cạnh bến có con thuyền đánh cá đang bồng bềnh trên mặt nước.

-- Mong sao chuyến đi này được bình an, -- Xa-vin khẽ nói vào tai Vôi-xê-khốp-xcai-a. -- Đi chậm như rùa.

-- Thôi, im đi -- cô ta càu nhàu -- miễn sao đi được tới nơi...

Vôi-xê-khốp-xcai-a và Xa-vin trèo lên thuyền và ngồi xuống mạn thuyền. Ông già lẩn vào bóng tối một lúc, rồi quay lại cùng với "người cháu", hai người kéo ra một tấm lưới nặng.

-- Để ngụy trang, -- ông già giải thích. -- Để che mắt công an biên phòng. Chúng tôi đi đánh cá...

Tấm lưới được ném xuống đáy thuyền, dưới chân khách. Bác I-man và "người cháu" nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền, bắt đầu nổ máy. Các dây chão được cởi ra, chiếc thuyền lao nhanh ra biển.

Mười lăm, hai mươi phút trôi qua, trên bến lại xuất hiện một người nữa. Người đó dừng lại một lúc, lắng nghe tiếng sóng vỗ vào bờ cát. Khi tiếng động cơ của con thuyền đã chìm trong biển khơi, người đó bật đèn pin lên vài lần soi dọc bờ biển. Để trả lời tín hiệu đó, ở đâu đấy trên mặt biển, liền vang lên tiếng động cơ, ánh đèn chiếu bỗng lóe lên và chiếc xuồng máy của đơn vị biên phòng đang lao nhanh đến bến, nơi có một bóng người đang đứng.

Cách bờ khoảng một trăm mét, chiếc xuồng máy bỗng dừng lại, làm cho mặt nước dâng lên thành những ngọn sóng lớn. Tiếng động cơ tắt hẳn, chiếc xuồng từ từ tiến vào bến.

-- Thế nào, -- từ trên xuồng vang lên giọng nói của Lu-ga-nốp. -- Mọi việc đều trôi chảy chứ?

-- Đâu vào đấy cả rồi, -- Mi-rô-nốp trả lời (anh đã đứng chờ trên bến) và nhanh nhẹn nhảy xuống boong xuồng máy.

-- Này các đồng chí ạ, -- An-đrây nói với người thuyền trưởng, sau khi soi đèn xem đồng hồ. -- Chúng ta có thể đi dạo loanh quanh một lúc trên biển. Còn những bốn mươi bảy phút nữa mới tới giờ quy định. Hãy tắt đèn đi, bây giờ chưa cần thiết.

-- Xin tuân lệnh, thưa đồng chí thiếu tá, -- thuyền trưởng trả lời.

Ánh đèn chiếu vụt tắt, động cơ mở hết tốc lực và chiếc xuồng lao nhanh ra biển.

...Gần một tiếng đồng hồ trôi qua, kể từ lúc bác I-man rời bến. Tiếng động cơ và tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền vang lên đều đều. Ông lão ngậm tẩu thuốc lá ngồi ở cạnh tay lái. Còn "người cháu" thì cứ loanh quanh bên cạnh máy nổ. Vôi-xê-khốp-xcai-a chăm chú nhìn vào bóng tối. Cô ta vừa đến bên mạn thuyền, kéo chiếc mũ áo mưa xuống, trông như đang ngái ngủ. Có gì đáng lo ngại? Mọi việc đều trôi chảy cả. Chỉ còn một vài tiếng đồng hồ nữa là họ đã tới đất nước mà cô ta đang mong đợi. Ở đó... ở đó cô ta sẽ vứt bỏ cái mặt nạ đáng ghét mà cô ta đã phải đeo đẳng trong bao nhiêu năm trời...

Giữa lúc đó, bỗng vang lên tiếng động cơ đều đều nghe rất gần, không rõ là ở phía bên phải hay ở đằng sau thuyền. Tiếng động cơ mỗi lúc một to hơn. Ông già lặng lẽ ngồi yên bên tay lái chăm chú nhìn vào bóng tối, còn "người cháu" thì sợ hãi chạy loanh quanh bên cạnh máy nổ. Vôi-xê-khốp-xcai-a vội đứng thẳng lên và níu lấy tay áo Xa-vin.

-- Anh có nghe thấy không? -- Cô ta nói thầm qua kẽ răng. -- Nghe thấy không? Như thế là thế nào nhỉ?

Xa-vin chưa kịp trả lời thì ở phía trước, cách con thuyền khoảng trăm mét, một ngọn đèn pha lóe sáng. Ánh đèn sáng chói xuyên qua đầu các ngọn sóng, chiếu thẳng vào con thuyền như muốn nuốt chửng cả thuyền lẫn khách. Động cơ của con thuyền bỗng rú lên một vài hồi rồi im bặt. Tiếng động cơ của xuồng máy từ phía xa vang lên mỗi lúc một rõ dần. Ở đâu đó, lại xuất hiện một ngọn đèn pha thứ hai, hắt ánh sáng quét thành những vệt dài từ phía này sang phía khác, cắt ngang luồng ánh sáng của ngọn đèn thứ nhất và soi thẳng vào con thuyền cô độc, đang chồng chềnh trên mặt sóng.

-- Sao lại tắt máy đi? -- Vôi-xê-khốp-xcai-a rít giọng hỏi, cô ta đứng dậy. -- Mở máy ngay đi...! Phải chạy, phải chạy...

-- Chạy đi đâu? -- Ông già buồn rầu nói. -- Đi đâu được? Chẳng chạy đâu được cả. Các ông công an biên phòng...

-- Ô hay, cái lão già này! -- Vôi-xê-khốp-xcai-a sẵng giọng nói. -- Phải mở máy ngay lập tức và chạy thôi! Còn mày nữa, phải nhúc nhắc chân tay lên chứ, đồ chó ghẻ! -- Cô ta giận dữ quay về phía "người cháu". -- Việc của mày đấy hả? Mày sợ hãi đến nỗi phải tắt máy đi à, đồ hèn! Nào, nhanh lên!

Trong tay cô ta lấp lánh ánh kim loại của cây súng lục. Mọi việc sau đó xảy ra rất nhanh chóng. Vôi-xê-khốp-xcai-a hết sức kinh ngạc vì bộ mặt của "người cháu" dưới ánh sáng xanh của ngọn đèn chiếu vẫn bình tĩnh, không hề lộ vẻ sợ hãi. "Người cháu" hơi khom lưng và nhảy một bước táo bạo từ chỗ anh đến chỗ Vôi-xê-khốp-xcai-a. Cô ta chĩa thẳng súng vào anh, nhưng vô ích. Phát súng nổ đúng lúc tay cô ta bị hất ngược lên trên và, trong khoảnh khắc, khẩu súng lục đã nằm gọn trong tay Xa-vin.

-- An-na Ca-di-mi-rốp-na, chị điên đấy à? -- Xtê-pan thét lên và gạt tay cô ta ra. -- Ai lại bắn súng trước mặt công an biên phòng bao giờ? Thật là... thật là điên...

-- A...a, -- Vôi-xê-khốp-xcai-a rít lên, -- mày cũng theo đuôi phỏng? Đồ hèn nhát, đồ phản bội!

Với sức mạnh không phải của phụ nữ, cô ta tát vào mặt anh. Cô ta tát một cái, định tát thêm cái nữa, nhưng Xa-vê-li-ép đã kịp nắm chặt lấy tay cô ta. Xtê-pan nhìn cô ta với vẻ mặt khinh bỉ.

-- Xin cảm ơn, cô An-na Ca-di-mi-rốp-na, -- anh dằn giọng nói. -- Cảm ơn cô đã dạy bảo...

Nhưng Vôi-xê-khốp-xcai-a không nghe anh nói: ả cố hết sức giằng ra khỏi bàn tay sắt của Xa-vê-li-ép. Giữa lúc đó thì các xuồng máy của công an biên phòng từ hai phía tiến dần lại chiếc thuyền như hai gọng kìm khép lại.

-- Thuyền nào thế kia? -- Tiếng quát vang lên trong ống loa từ một chiếc xuồng vọng lại. -- Ở đâu đến? Từ cảng nào đến đây? Đi đâu? Tại sao lại vi phạm hải phận đã quy định? Các người làm gì mà lại có tiếng súng nổ?

Không có tiếng trả lời -- mọi người ngồi trên thuyền im lặng.

-- Dừng thuyền lại! -- Mệnh lệnh vang lên. -- Tiến đến bên cạnh xuồng, lấy dây cáp kéo thuyền lại và những người trên thuyền phải lên xuồng máy.

"Thế là hết, -- Vôi-xê-khốp-xcai-a nghĩ. -- Trò chơi đã chấm dứt. -- Không thể thoát được". Nhưng cô ta không muốn bị sa vào tay các tình báo viên. Vôi-xê-khốp-xcai-a ngả đầu ra phía sau, hai hàm răng cắn chặt vào một góc cổ áo măng-tô. Cô ta nghiến chặt răng và nhắm mắt lại. Cô ta biết rằng: chỉ trong phút chốc, An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a sẽ không còn sống nữa. Ống thuốc độc sẽ dập vỡ giữa hai hàm răng, và trong khoảnh khắc chất độc sẽ có công hiệu... Nhưng... sao thế này? Một giây, hai giây rồi ba giây trôi qua, mà trong hai hàm răng vẫn không thấy gì cả. Cô ta vẫn sống, vẫn còn sống...

-- Thế là lại gặp nhau! Chị An-na Ca-di-mi-rốp-na nhỉ? -- Bỗng từ một góc xuồng máy vang lên giọng nói rất quen thuộc. -- Chị đã cố gắng vô ích, "tiểu thư" An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a ạ. Ống thuốc độc không còn trong cổ áo chị nữa rồi. Tôi đã nhìn thấy và vứt nó đi khi chị còn trao đổi tiền nong với chủ nhân của chiếc thuyền này ở nhà, ở Ven-xpin-xơ.

"Lạy đức mẹ Ma-ri-a đồng trinh! Tiếng ai thế nhỉ? Sao người này lại ở đây? -- Pơ-sê-glôn-xcai-a kinh hoảng nghĩ. -- Hắn ta đang nói gì vậy, cái tay thanh tra này? Chẳng lẽ hắn ta biết tất cả rồi sao? Nhưng, lạy Chúa, có phải đúng là viên thanh tra không? Hắn ở đâu ra? Sao vậy?" Pơ-sê-glôn-xcai-a chợt nghĩ ra: "Tình báo, viên thanh tra này là cán bộ tình báo cải trang, cả Xa-vin, cả ông già đánh cá, cả người cháu của ông ta... tất cả đều là tình báo. Ở cái đất nước khó hiểu này, mọi người đều là tình báo cả!"

Nhưng "tiểu thư" Pơ-sê-glôn-xcai-a không có thì giờ để suy nghĩ nhiều: các công an biên phòng, Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đã nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền. Người ta đưa Pơ-sê-glôn-xcai-a và Xa-vin lên hai chiếc xuồng, mỗi người ngồi ở một xuồng. Hai chiếc xuồng mở máy và phóng nhanh về phía bờ biển đất nước Liên-xô.



Tìm kiếm với từ khoá:




CHƯƠNG 28

Xuồng máy chở Pơ-sê-glôn-xcai-a tiến thẳng về phía Ri-ga. Ở bến đã có chiếc xe ô-tô đợi sẵn. Người ta dẫn Pơ-sê-glôn-xcai-a đến Ủy ban an ninh nhà nước Lát-vi-a, và để cô ta nghỉ đêm tại một phòng ở cơ quan, giao cho các nữ nhân viên trong cơ quan trông nom.

Pơ-sê-glôn-xcai-a từ chối không ăn cơm tối, ả im lặng nằm nghỉ trên chiếc đi-văng đã được chuẩn bị sẵn chăn đệm. Ả không thể nào chớp mắt được, và cũng không muốn ngủ. An-na Ca-di-mi-rốp-na suy nghĩ, suy nghĩ mãi... suy nghĩ suốt đêm thâu. Cô ta cay đắng nhận thấy là cô ta vui mừng vì ống thuốc độc không còn nữa, nhưng lúc bấy giờ cô ta không nghĩ như thế. Thực ra, việc gì phải chết? Chết để làm gì? Lúc ngồi trên thuyền cô ta không nghĩ gì cả, mà chỉ thấy tức giận điên cuồng với sự chán chường tuyệt vọng. Lúc ấy cô ta cắn chặt vào cổ áo, cầu cứu ống thuốc độc. Chết, chỉ có chết thôi! Ngoài cái chết ra, cô ta không còn mong gì hơn nữa! Chết à? Nhưng có ai cần đến cái chết của cô ta? Hay chính bản thân cô ta cần nó? Không. Khác với tên ngu ngốc Xê-mê-nốp mà cô ta đã dọa hắn về những "ngón đòn khủng khiếp của cơ quan tình báo", An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a biết rất rõ tất cả những cái đó chỉ là nói dối. Tất nhiên cô ta cũng nghe đồn là những người bị bắt đã bị đánh đập, nhưng bao giờ? Sự việc này đã lâu rồi, từ hồi xa xưa. Bây giờ không còn nữa, vì vậy chẳng có gì làm cho cô ta phải lo lắng. Pơ-sê-glôn-xcai-a biết rõ là sẽ không có ai đụng chạm đến cô ta. Vậy thì việc gì cô ta phải sợ hãi? Sao lại phải chết? Tòa án ư? Nhà tù ư? Trại giam ư? Đúng, nhà tù và trại giam có thể làm cho con người khổ sở, nhưng như vậy còn tốt hơn là chết. Tóm lại, cuộc sống không đến nỗi tồi tệ lắm. Bởi vì, thực ra cô ta, An-nhê-li-a còn trẻ. Cô ta mới hơn ba mươi tuổi, lại xinh đẹp. Ồ, cô ta rất biết đánh giá mình! Vậy thì sao lại phải chết?

Mà biết đâu cô ta sẽ tránh khỏi trại giam và nhà tù? Bởi vì dẫu sao cô ta, Pơ-sê-glôn-xcai-a cũng là người quốc tịch nước ngoài. Lẽ nào người ta lại không nhân nhượng đối với cô ta? Nhân nhượng! Nhưng ai là người nhân nhượng? An-na Ca-di-mi-rốp-na mỉm cười chua chát: tất nhiên cô ta là người ngoại quốc, nhưng như vậy có ích lợi gì cho cô ta? Pơ-sê-glôn-xcai-a là người Ba-lan, một người Ba-lan thuần túy, nhưng cô ta làm sao có thể hy vọng vào sự che chở của đất nước Ba-lan ngày nay, đất nước Ba-lan của chính quyền nhân dân, một đất nước đang tiến bước vững chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa? "Tiểu thư" An-nhê-li-a hiểu rõ những người chủ của đất nước Ba-lan ngày nay: đó là những công nhân, nông dân, những phần tử trí thức, những thanh niên và đảng viên cộng sản Ba-lan. Cô ta đã quan sát họ trong những ngày khởi nghĩa ở Vác-sa-va, thậm chí cô ta đã nhập ngũ với họ. Những người đó đã đấu tranh cho quyền lợi chung, đã chiến đấu vì Tổ quốc Ba-lan tự do xã hội chủ nghĩa, vì tương lai của Tổ quốc mình. "Tiểu thư" Pơ-sê-glôn-xcai-a cũng làm ra vẻ có lý tưởng như thế, nhưng thực ra cô ta đã chế nhạo và khinh miệt những con người đó. Cô ta nghĩ rằng, con người chỉ cần sống cho mình, sống sao để có quyền hành, có điều kiện thỏa mãn những ý thích của bản thân. Và chỉ có mục đích như vậy! Nếu như cần phải chiến đấu, phải hy sinh đời sống thì cũng chỉ là để bảo vệ sự thống trị của chế độ mà trong đó nguyên tắc của cuộc sống là kẻ mạnh áp bức người yếu, và tận hưởng mọi quyền lợi trong đời sống, còn những người khác thì chẳng coi ra gì, có thể tùy ý cưỡng bức họ. Đó là nguyên tắc sống của "tiểu thư" An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a. Vì vậy Pơ-sê-glôn-xcai-a đã đấu tranh, đấu tranh hết sức mình để bảo vệ những nguyên tắc ấy, để bảo vệ quyền chà đạp và khinh bỉ những con người thấp kém hơn mình, để giành quyền tận hưởng những hạnh phúc trong cuộc sống mà nền văn minh đã đem lại.

Không, ở đất nước Ba-lan xã hội chủ nghĩa ngày nay, Pơ-sê-glôn-xcai-a không thể làm gì được. Như vậy, rõ ràng là cô ta không thể dựa vào quốc tịch Ba-lan của mình.

Còn nếu như bọn Mỹ... bao nhiêu năm nay cô ta đã làm việc cho chúng, và đã làm việc như thế nào! Nhưng chắc gì chúng đã nghĩ tới cô ta, chắc gì đã lo lắng tới số phận cô ta? Đừng hòng! Cả một lũ ti tiện mà cô ta đã có quan hệ trong những năm gần đây, ngay cả những tên đầu sỏ kếch xù cũng sẽ tìm mọi cách để lẩn tránh và ruồng bỏ cô ta, phó mặc cô ta cho số mệnh. Đó là nguyên tắc sống của chúng.

Thật vậy, chẳng còn biết dựa vào đâu. Nếu như có ai cứu vớt được cô ta, làm cho thân phận cô ta được thanh thoát, thì cũng chỉ có bản thân cô ta, An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a, chứ không phải ai khác. Nếu như cô ta có thể làm cho các cán bộ tình báo tin được là cô ta đã thành thật ăn năn hối lỗi, nếu như cô ta khai cho họ biết tất cả những ai đang bí mật chống lại đất nước của họ (tất nhiên cô ta biết những người đó, tuy không nhiều nhưng cô ta biết!) thì như vậy còn có thể hy vọng vào sự khoan hồng. Chỉ mong sao bị kết án ít năm, điều chủ yếu là còn được sống. Sống! Trong cuộc sống có biết bao nhiêu điều bất ngờ! Tóm lại, mọi sự việc đều có thể xảy ra...

Nhưng có lẽ những cái đó đều là vô ích chăng? Hay tốt hơn là làm ngược lại: phủ nhận tất cả, không thú nhận một điều gì? Phủ nhận tất cả? Không được. Như vậy là ngu ngốc, rất ngu ngốc: ai mà biết được, họ đã biết những gì về cô ta, nhưng phải thấy rằng họ biết về cô ta không phải là ít. Hơn nữa cô ta lại bị bắt quả tang giữa lúc đang vượt biên giới. Lại còn tờ giấy biên nhận nữa, người ta đã lấy rồi. Giấy biên nhận! Ồ, ông già ngu ngốc, nhưng thực ra lại không phải là ngốc, chính cô ta, An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a, mới là kẻ ngu ngốc. Không phải ông già chui vào tròng như cô ta nghĩ, mà là cô ta, chính cô ta đã chui vào tròng. Đó là một bằng chứng không thể chối cãi được...

Đúng,không thể chối cãi được. Phải thành thật, chỉ có thành thật. Thành thật là con bài cần phải chìa ra. Người ta tin, lúc đó mới có thể cứu vãn được...

Cô ta quyết định như vậy. Cô ta sẽ kể hết (nhưng tất nhiên là sẽ không kể những gì không có lợi cho cô ta). Cô ta sẽ bắt đầu kể từ đâu? Có thể là từ lúc tên súc sinh Giêm-xơ. Nhưng tất nhiên cô ta sẽ không kể là cô ta tình nguyện phục vụ bọn Mỹ, sẽ không nói về kế hoạch gia nhập tổ chức bí mật của cộng sản ở Vác-sa-va và sự xâm nhập vào nước Nga đã được cô ta cùng với bọn Mỹ thảo ra từ khi còn ở Luân-đôn. Về việc này An-nhê-li-a sẽ không nói, nói làm gì? Cô ta sẽ kể khác đi: tên Giêm-xơ là một tên ti tiện, một kẻ đa dâm. Mới đầu hắn quyến rũ cô ta, sau đó hắn dọa dẫm sẽ bới móc những chuyện xấu. Hắn đã dùng đến thủ đoạn đe dọa cuộc sống êm đẹp của bố mẹ cô ta.(Làm gì có chuyện ấy! Chẳng lẽ một tên thiếu tá Mỹ nào đó lại có thể đe dọa ông Pơ-sê-glôn-xki sao?) Và vì thế cô ta đành phải khuất phục. Giả thuyết này nghe xuôi đấy, người ta sẽ tin chuyện này, vì họ là những người biết thương người...

Thế rồi sau đó tất nhiên hắn lại đe dọa. Cô ta sẽ kể hết, không dấu diếm gì cả. Sau đó cô ta sẽ khai ra tâm địa của tên Xê-mê-nốp. Tên hèn nhát, ti tiện này đáng bị trừng trị. Cô ta sẽ nói thêm một số việc ở Khác-cốp, ở Crai-xcơ, và ở Mát-xcơ-va. Tất nhiên cô ta cũng sẽ không thương tiếc gì tên Trê-nhi-a-ép, một tên ngạo mạn, hách dịch, định dắt mũi cô ta. Nhưng thực ra, sự việc của tên Trê-nhi-a-ép thì phức tạp hơn. Tên này không thuộc loại bình thường. Xem ra hắn là một nhân vật quan trọng, có nhiều vai vế trong tổ chức tình báo Mỹ. Hắn là một trong những tên đầu sỏ. Nhưng cô ta biết gì về hắn? Cô ta biết ít thôi, rất ít. Nhưng không sao. Cô ta sẽ kể hết những tài liệu hắn đã đánh cắp và gửi đi. Mà cần gì phải dấu, khi chính bản thân tên Trê-nhi-a-ép đang ngồi tù và đã thú nhận hết mọi việc từ lâu? Tin đồn rằng Trê-nhi-a-ép bị công an bắt tất nhiên là không đúng. Loại người như vậy không phải là công an bắt...

À, còn một việc nữa. Cô ta cũng phải bỏ cái tên Vôi-xê-khốp-xcai-a cùng với tất cả những gì có liên quan tới cái tên này. Dù muốn hay không muốn, cô ta cũng phải nói đúng sự thật hoặc gần đúng sự thật về thành phần xuất thân của mình, vì thế nào họ cũng biết. Chẳng thế mà cái anh Mi-rô-nốp ấy (không biết có đúng là Mi-rô-nốp trong thực tế không? Nhưng bây giờ điều đó không quan trọng!) khi ở ngoài biển đã gọi cô ta là "tiểu thư". Nhưng tại sao người ta lại biết được quá khứ của cô ta, tại sao? Ai tố giác? À mà việc gì phải đoán trước? Mọi việc sắp tới sẽ rõ ràng...

Gần sáng An-nhê-li-a Pơ-sê-glôn-xcai-a đã suy nghĩ xong kế hoạch hành động, cô ta tính toán đủ mọi chi tiết. Khi Mi-rô-nốp đến (ngày hôm đó Lu-ga-nốp trở về Crai-xcơ, Xa-vê-li-ép thì nhận được lệnh đi Mát-xcơ-va, nhưng đi chuyến máy bay khác: không cần thiết để anh gặp mặt Pơ-sê-glôn-xcai-a). An-na Ca-di-mi-rốp-na đón anh với vẻ mặt đau khổ, nhưng vẫn mỉm cười làm duyên. An-đrây rất ngạc nhiên khi nhìn thấy cô ta: mặc dầu da mặt Pơ-sê-glôn-xcai-a hơi xanh xao, mặc dầu sau một đêm mất ngủ, mắt quầng thâm, nhưng trông cô ta không có vẻ gì là tiều tụy như anh nghĩ. An-na Ca-di-mi-rốp-na đã kịp rửa mặt chải đầu, mặc gọn ghẽ. Trông cô ta như vậy không thể nghĩ được là cô ta đã trải qua một đêm khủng khiếp như đêm qua...

-- Anh An-đrây I-va-nô-vích, anh thân mến, -- cô ta nói, vẻ mệt mỏi, -- à, xin lỗi, có thể gọi anh như vậy được không?..

-- Cô cứ gọi tôi là An-đrây I-va-nô-vích, -- Mi-rô-nốp lạnh nhạt trả lời. -- Nhưng còn "anh thân mến" thì xin miễn cho. Vậy cô muốn gì?

-- Tôi... tôi muốn cảm ơn anh, -- Pơ-sê-glôn-xcai-a rụt rè nói. -- Xin cảm ơn, cảm ơn anh rất nhiều: anh đã cứu sống tôi. Đúng, đúng, anh đã cứu tôi khi còn ở trên thuyền... Ồ, còn tôi, tôi đã hành động như một kẻ ngu ngốc... Rất mong anh thứ lỗi cho...

-- Chẳng có gì phải cảm ơn tôi, -- Mi-rô-nốp bình thản nói. -- Tôi chỉ thi hành nhiệm vụ của mình. Nhưng bây giờ chúng ta hãy tạm hoãn nói chuyện. Đã đến giờ phải lên đường rồi.

Sau đó mấy tiếng đồng hồ, họ đã tới sân bay Mát-xcơ-va, từ sân bay An-đrây đưa cô bạn đường về Ủy ban an ninh nhà nước một cách an toàn. An-đrây đã báo cáo với tướng Va-xi-li-ép về kết quả đợt công tác này. Nhưng bây giờ, ngay sau khi đến Mát-xcơ-va anh lại vội vã đến gặp ông, vì nghĩ rằng ông đang muốn biết cụ thể hơn. Hơn nữa cũng cần phải báo cáo về việc đưa Pơ-sê-glôn-xcai-a đến Mát-xcơ-va.

An-đrây đã đoán đúng: thiếu tướng đang đợi anh và đã hỏi anh nửa tiếng đồng hồ về mọi việc, nào là công tác tiến hành ra sao, nào là Pơ-sê-glôn-xcai-a có thái độ như thế nào, bây giờ cô ta ra sao.

-- Thôi được, -- ông kết thúc cuộc trò chuyện. -- Trước tiên chúng ta sẽ tiến hành hỏi cung tên Xê-mê-nốp. Đồng chí cho tiến hành kế hoạch xét nghiệm đi,về kế hoạch này thì người ta đã báo cáo với tôi. Xa-vê-li-ép đã ở đây rồi phải không?

-- Cậu ấy sẽ phải có mặt ngay bây giờ. Cậu ấy đi chuyến máy bay sau.

-- Thế thì rất tốt. À, suýt nữa thì quên: đồng chí hãy hỏi cung Pơ-sê-glôn-xcai-a giai đoạn đầu, nhưng không cần hỏi nhiều. Theo tôi việc này không nên giao cho người khác.

Thiếu tướng báo cho Mi-rô-nốp biết về cái xắc du lịch mà Xcơ-vô-re-xki đã phát hiện ra có lần vải lót bị tháo chỉ.

-- Trê-nhi-a-ép hiện giờ ở đây, ở Mát-xcơ-va, -- thiếu tướng nói. -- Hắn vừa được đưa đến đây sáng nay. Hắn đang ở trong Viện thần kinh. Đồng chí liên hệ với ban lãnh đạo của Viện và đề nghị họ tiến hành gấp cuộc xét nghiệm.

Sau khi trao đổi với ban lãnh đạo Viện thần kinh, Mi-rô-nốp gọi Pơ-sê-glôn-xcai-a đến hỏi cung. Anh phải ngạc nhiên vì thấy cô ta không có ý phủ nhận hoặc dấu diếm điều gì. Cô ta trả lời các câu hỏi của anh rất nhanh và trôi chảy, hầu như không cần suy nghĩ và có lẽ là thành thật. Dẫu sao anh cũng có cảm giác như vậy. Mi-rô-nốp vừa mới nói đến cái xắc du lịch, Pơ-sê-glôn-xcai-a đã tự kể ra hết, không cần phải hỏi thêm câu nào. Cô ta bắt đầu kể từ bản thông báo rồi bao diêm để trong ống máng nước, cho đến những tấm phim mỏng có ghi bản mật mã gián điệp (nội dung cụ thể thế nào thì cô ta không rõ), những tấm phim này cô ta đã lấy trong lần vải lót xắc du lịch và trao cho Xê-mê-nốp gửi đi Mát-xcơ-va.

Gửi cho ai? Cô ta cũng không biết. Cô ta chỉ biết tên người nhận là Ma-ca-rốp, và cần phải gửi các bức điện quy ước theo địa chỉ của người này. Pơ-sê-glôn-xcai-a cũng không biết người đến nhận tin do Ma-ca-rốp chuyển, người đó phải có mặt ở đại lộ Tơ-ve-rơ-xcôi và nhận bao diêm của Xê-mê-nốp, tên thật của hắn là gì, hắn sống và làm việc ở đâu.

Càng hỏi cung, Mi-rô-nốp càng thấy rõ là Pơ-sê-glôn-xcai-a tỏ ra thành thật, vì ngay từ câu hỏi đầu tiên cô ta đã trả lời đúng sự thật.

Sau khi hỏi cung cô ta, Mi-rô-nốp gọi Xê-mê-nốp đến và bắt đầu tiến hành một cuộc thẩm vấn đã được chuẩn bị trước.

An-đrây bắt đầu cuộc hỏi cung bằng một giọng gay gắt:

-- Chúng tôi trở lại câu hỏi về việc bọn Đức tuyển ông vào làm việc. Ông phải nói đúng sự thật...

-- Thưa thủ trưởng, -- Xê-mê-nốp nói khẩn khoản, -- nhưng tôi đã nói hết rồi, đã nói hết, tôi xin thề trước Chúa. Tôi chẳng còn gì để nói thêm nữa.

-- Không đúng! Ông chưa nói hết. Về hoàn cảnh tuyển lựa ông làm việc, ông chưa nói đúng.

-- Tôi nói đúng, xin thề với ông là tôi nói đúng, -- Xê-mê-nốp khóc. -- Tôi không thể nói gì hơn nữa. Xin ông tin tôi.

An-đrây hỏi thêm mấy câu nữa, vẫn chỉ một vấn đề về hoàn cảnh bọn Đức đã tuyển Xê-mê-nốp vào làm việc cho chúng, nhưng hắn cứ một mực không khai. Nắm chắc rằng Xê-mê-nốp đang tập trung suy nghĩ về vấn đề bọn Đức tuyển lựa hắn và đang tìm mọi cớ để chứng minh cho những lời khai của hắn là đúng, Mi-rô-nốp ngầm ra hiệu cho người giúp việc của anh. Người giúp việc đứng dậy và im lặng đi ra ngoài. Xê-mê-nốp bị hỏi dồn dập nên hắn không kịp chú ý đến người giúp việc.

Mấy phút trôi qua, cánh cửa vào phòng ở phía sau lưng Xê-mê-nốp khẽ mở và Xa-vê-li-ép lặng lẽ bước vào. Không nói nửa lời, Xa-vê-li-ép bước đến cạnh Mi-rô-nốp. Mới đầu Xê-mê-nốp nhìn anh với vẻ lơ đễnh, sau đó hắn nhìn lại một lần nữa và bỗng lặng người đi. Nét mặt hắn thay đổi hẳn. Mặt bỗng chốc tái xanh, miệng há hốc. Một phút sau, Xê-mê-nốp nhổm người đứng dậy, hai tay giơ ra phía trước và bắt đầu đi giật lùi cho đến khi lưng hắn đụng vào tường. Thấy rằng không thể lùi được nữa, hắn co người lại và giương đôi mắt đờ đẫn nhìn Xa-vê-li-ép đang đứng yên không động đậy. Hắn run rẩy như bị sốt rét.

-- Sao,-- Mi-rô-nốp phá tan bầu không khí im lặng nặng nề. -- Ông biết người này chứ, ông Xê-mê-nốp?

-- Ai đ..ây? -- Xê-mê-nốp hỏi, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. -- Ai đ..ây? Ở đâu ra thế?

-- Thôi đủ rồi! Chẳng nhẽ ông không biết ư?

-- Khô..ông thể thế..ế được! -- Xê-mê-nốp kêu lên. -- Anh ta đã chết, đã chê..ết rồi kia mà!

-- À ra thế, -- Mi-rô-nốp nói, -- thế nghĩa là ông đã cầm dao găm tay trái phải không? Có thể ghi vào biên bản chứ?

Xê-mê-nốp rời khỏi tường, bước một bước lên phía trước, hắn run rẩy ngồi phịch xuống ghế và thều thào nói ngắt quãng:

-- Tôi sẽ nói hết, nói hết, nhưng để anh ấy đi ra, đi ra khỏi phòng. Tôi khô...ông thể...

-- Sao vậy? -- Mi-rô-nốp ngắt lời. -- Ông hãy kể hết những việc đã xảy ra ngay trước mặt anh ấy... Kể hết, ông hiểu chưa? Không những chỉ một tội ác này mà ông phải kể hết tất cả.

Xê-mê-nốp im lặng gật đầu, hắn run rẩy cầm lấy cốc nước để trên bàn và uống liền mấy hơi cạn cốc.

Hắn thở phì phò rồi bắt đầu nói. Những lời khai của hắn bây giờ không giống những lời hắn khai trước đây: rõ ràng là lần này hắn đã nói thật, hắn đã khai hết.

Xê-mê-nốp bắt đầu khai từ việc hắn định giết Xa-vê-li-ép theo lệnh của Trê-nhi-a-ép. Theo lời khai của Xê-mê-nốp thì cách đây một tháng tên Trê-nhi-a-ép gọi hắn đến và báo cho biết rằng gần đây có một người nào đó cứ luẩn quẩn đi theo gót hắn, quấy rầy hắn. Người này cần phải "khử" đi. Trê-nhi-a-ép đã vạch ra kế hoạch thủ tiêu người đó. Buổi chiều hôm ấy, đúng giờ hẹn, Trê-nhi-a-ép đi ra ngoại thành. Vì đã được chỉ dẫn trước nên Xê-mê-nốp biết rõ con đường đi của hắn, Xê-mê-nốp liền đi theo sau. Hắn vừa đi theo Trê-nhi-a-ép vừa để ý xem cái người quấy rầy Trê-nhi-a-ép và cần phải "khử" đứng ở đâu.

Hắn dễ dàng phát hiện ra Xa-vê-li-ép và sau khi đã nhìn thấy anh, hắn không rời mắt ra một phút.

Xê-mê-nốp đã tiến lại gần Xa-vê-li-ép. Đến chỗ rẽ, Trê-nhi-a-ép và sau hắn là Xa-vê-li-ép đi về phía bãi hoang, còn Xê-mê-nốp thì nấp vào một chỗ.

Khi Trê-nhi-a-ép và theo sau hắn là Xa-vê-li-ép từ phía bãi hoang quay trở về, thì Xê-mê-nốp từ chỗ nấp tiến ra, tay cầm sẵn hòn đá và nện một cú vào gáy Xa-vê-li-ép. Sau đó hắn đâm một nhát dao găm vào giữa hai bả vai và ném cái xác đã tắt thở vào rãnh nước. Đó, tất cả sự việc là như vậy. À, còn ví tiền... Để làm ra vẻ đây là một vụ giết người cướp của, hắn đã móc túi nạn nhân của mình, cởi chiếc áo mặc ngoài của anh và lấy cái ví, sau đó hắn ném xuống chỗ rẽ gần đấy.

-- Kể hết chưa? -- Mi-rô-nốp hỏi.

-- Hết rồi, -- Xê-mê-nốp khẳng định, -- xin thủ trưởng hãy tin tôi, tôi đã khai hết như là xưng tội rồi.

-- Ông nói là ông giết Xa-vê-li-ép theo lệnh của Trê-nhi-a-ép. Vậy Trê-nhi-a-ép là người như thế nào? Ông biết những gì về hắn?

-- Trê-nhi-a-ép ấy à? -- Xê-mê-nốp nói. -- Trê-nhi-a-ép chính là người có biệt hiệu "Vua". Một con người đáng sợ...

Theo lời của Xê-mê-nốp thì Trê-nhi-a-ép là một tay trùm cỡ lớn. Hắn bắt liên lạc với Xê-mê-nốp đã hai năm nay. Và từ đó, Xê-mê-nốp phải thực hiện các mệnh lệnh của hắn: đem đi Mát-xcơ-va những thứ hắn giao cho và đem về cho hắn những thứ khác, như Xê-mê-nốp đã khai trước đây. Tất nhiên là Xê-mê-nốp đã được hắn thưởng tiền. Đôi khi được thưởng rất hậu, nhất là khi làm được những việc lớn, đại loại như sự việc hắn vừa kể đây.

Những việc như vậy có nhiều không? Phải rồi, có một lần, chỉ có một lần thôi. Đó là vào hồi tháng Năm năm nay. Trê-nhi-a-ép bảo hắn đến nhà riêng của y vào buổi tối, và đưa cho hắn địa chỉ. Trước đó và cả sau này nữa Xê-mê-nốp không đến nhà y bao giờ. Thế là Xê-mê-nốp đến. Trê-nhi-a-ép ngồi ở nhà, ngay trên nền nhà có xác một người đàn bà mới bị giết. Trê-nhi-a-ép không hề biểu lộ vẻ xúc động, mặt hắn đanh lại như đá.

Thế rồi hắn cùng với Trê-nhi-a-ép ôm cái xác lên, lấy vải thô bọc lại và đem đi ném ở bãi rừng hoang. Ngoài việc này ra,hắn không phải làm thêm việc nào như vậy nữa. Nói chung, hắn không biết gì thêm về Trê-nhi-a-ép cả.

-- Thế còn "Hoàng hậu", ông biết đã lâu chưa? -- Mi-rô-nốp hỏi thêm. -- Và tên thật là gì?

-- "Hoàng hậu" à? Không, tôi không biết tên thật cô ta. Cô ta là ai tôi cũng không biết. Cô ta sành sỏi và thận trọng...

Theo lời khai của Xê-mê-nốp, "Hoàng hậu" mới xuất hiện ở chỗ hắn cách đây gần nửa năm, cô ta nói mật hiệu cho hắn, rồi từ đó hắn hoàn thành những việc cô ta giao. Tên Xê-mê-nốp tất nhiên phải báo cáo với Trê-nhi-a-ép về sự xuất hiện của "Hoàng hậu". Nhưng ngay đến tên của Trê-nhi-a-ép, hắn cũng không biết ngay. Mới đầu hắn chỉ biết đó là "Vua" và chỉ biết thế thôi. Trê-nhi-a-ép nói: nếu cô ta nói đúng mật hiệu, thì hãy làm theo cô ta, nhưng mọi việc phải báo cáo với tôi.

Nhưng Xê-mê-nốp cảm thấy rằng Trê-nhi-a-ép đã chờ đợi cái cô "Hoàng hậu" này, nên sự xuất hiện của cô ta không làm cho y ngạc nhiên chút nào. À, lại còn một việc nữa. Từ khi "Hoàng hậu" xuất hiện, Trê-nhi-a-ép không gửi các đồ vật đi Mát-xcơ-va nữa, và Xê-mê-nốp cũng không chuyển các tài liệu từ Mát-xcơ-va đến cho hắn nữa. Tất cả đều do "Hoàng hậu" đảm nhiệm.

-- Ông hãy nói cho biết, ông có phải là người liên lạc giữa "Hoàng hậu" và Trê-nhi-a-ép không? -- Mi-rô-nốp hỏi.

-- Không, tôi không làm những việc liên lạc như vậy. Theo tôi có lẽ hai người không biết nhau. Đấy, như tôi đã nói, Trê-nhi-a-ép biết rằng cô này đã đến, nhưng cô ta thì không hề nói đến y nửa lời.

Sau khi khai xong về Trê-nhi-a-ép, Xê-mê-nốp bắt đầu chuyển sang việc bọn Đức tuyển lựa hắn vào làm việc, và sau đó là bọn Mỹ. Hắn vội vàng kể đến nỗi bị sặc nước bọt. Nhưng cuộc hỏi cung phải tạm dừng lại vì đã mất khá nhiều thời gian.

Sau khi hỏi thăm về việc tên B. do chính thiếu tướng hỏi cung hắn, An-đrây được biết rằng tên B. bây giờ không còn là nhà du lịch nước ngoài vênh váo và ngạo mạn như trước nữa: hắn cũng "rụng rời" không kém Xê-mê-nốp, và đã khai ra hết mọi việc. Tên Ma-ca-rốp và một tên gián điệp nữa, bị tên B. khai ra, đã bị bắt. Xem ra hắn cũng không còn ai để khai nữa: bọn gián điệp Mỹ ở đất nước Liên-xô không nhiều lắm.

Mỗi tên gián điệp bị bắt đều cố gắng khai thật nhiều, tên này đạp lên tên kia, mong sao với sự thú nhận "chân thành"chúng sẽ được giảm nhẹ tội lỗi.

"Bọn chúng mà lại thú nhận "chân thành" với mình, -- Mi-rô-nốp cười thầm. -- Tất cả bọn chúng đều chịu thú nhận khi bị bắt quả tang, khi bị vạch trần và không có lối thoát! Để rồi xem "tiểu thư" Pơ-sê-glôn-xcai-a sẽ có thái độ như thế nào".

Nhưng thái độ của Pơ-sê-glôn-xcai-a hơi khác với thái độ của bọn đồng lõa của cô ta. Sáng hôm sau Mi-rô-nốp gọi cô ta đến, sau khi anh đã báo cáo với thiếu tướng về kết quả hỏi cung Xê-mê-nốp, "tiểu thư" Pơ-sê-glôn-xcai-a liền khai ngay, không chối cãi điều gì. Cô ta kể rằng thời gian ở Luân-đôn khi cô ta còn rất trẻ, đã bị rơi vào tay thằng chó đẻ Giêm-xơ. Tên này mới đầu quyến rũ cô ta sau đó hắn đe dọa và lôi kéo cô ta làm gián điệp. Để tránh những sự theo dõi bỉ ổi của tên Giêm-xơ, An-nhê-li-a đã gia nhập tổ chức quốc gia của Ba-lan (cô ta nói là tổ chức quốc gia, chứ không phải tổ chức theo chủ nghĩa dân tộc) và nhờ đó, chẳng bao lâu cô ta đã trở về Vác-sa-va và có mặt trong một đội quân du kích đang chuẩn bị chiến đấu để giải phóng đất nước Ba-lan. Tất nhiên là trước khi rời khỏi Luân-đôn, cô ta đã phải thay đổi tên và lý lịch: từ đấy cô ta trở thành Vôi-xê-khốp-xcai-a, con gái của một nhà giáo ở Xăm-bô.

Tất nhiên cô ta cũng phải nói thêm rằng cô ta gia nhập tổ chức quốc gia của Ba-lan không những là do sự căm ghét đối với tên Giêm-xơ, mà còn do lòng yêu nước nồng nàn, lòng mong muốn tham gia vào cuộc đấu tranh chung chống bọn phát-xít Hít-le.

-- Ở Vác-sa-va mọi người dân đều đoàn kết chặt chẽ với nhau, -- Pơ-sê-glôn-xcai-a nói, -- chúng tôi những người chiến sĩ bình thường, không có gì ngăn cách với những người hoạt động theo mệnh lệnh của Luân-đôn và những người cộng sản. Chúng tôi cùng đấu tranh chống lại bọn phát-xít, cùng nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa này đã trở thành tấm thảm kịch của Vác-sa-va và của Ba-lan, không phải lỗi tại chúng tôi...

Nghe Pơ-sê-glôn-xcai-a lý luận, Mi-rô-nốp cười thầm: "Thôi xin cô. Thế ra bọn phản động theo chủ nghĩa quốc gia ở Ba-lan lại gần như ngang hàng với những người chiến sĩ chân chính đã đấu tranh để giải phóng đất nước Ba-lan hay sao!"

An-đrây thấy rõ là Pơ-sê-glôn-xcai-a cố làm ra vẻ thành thực, nhưng thật ra cô ta vẫn còn che giấu một số vấn đề. Nhưng vấn đề ở đây không phải chỉ tin vào những lý lẽ của cô ta: chỉ cần nhớ lại bản thông báo của các đồng chí Ba-lan về thành phần xuất thân của cô ta cũng đủ để đi đến kết luận như vậy. Nhưng khi mới bắt đầu hỏi cung, Mi-rô-nốp không muốn tỏ ra là anh đã biết về cô ta nhiều hơn cô ta tưởng, và anh cứ để cho cô ta nói hết. Còn cô ta thì hài lòng vì thấy ông dự thẩm không ngắt lời, không đặt các câu hỏi cắt ngang lời khai của cô ta, nên cô ta đã mừng thầm rằng kế hoạch đề ra đã được thực hiện tốt đẹp và thế là cô ta cứ kể thao thao bất tuyệt... Pơ-sê-glôn-xcai-a nói rằng cô ta đã cùng với một số thanh niên cộng sản Vác-sa-va đã trốn ra khỏi thành phố bị bọn phát-xít Hít-le vây hãm và gia nhập các đơn vị quân đội, cô ta đã bị thương và được điều trị tại quân y viện của quân đội Liên-xô.

Tôi đã hoàn toàn quên tên Giêm-xơ và bọn Mỹ, -- Pơ-sê-glôn-xcai-a nói. -- Tôi cảm thấy là tôi đã tìm thấy một cuộc sống mới, một Tổ quốc mới. Nhưng rồi Va-xi-u-cốp lại làm tan nát tuổi trẻ của tôi, hắn là một kẻ ti tiện, lừa bịp...

Pơ-sê-glôn-xcai-a rất đau đớn về câu chuyện khổ tâm này, giữa lúc đó thì tổ chức gián điệp Mỹ lại xuất hiện và đe dọa cô ta. Và thế là sự việc đã bắt đầu thì cứ thế tiếp tục, ngày càng đi xa hơn, không thể dừng lại được...

-- Thôi được, -- Mi-rô-nốp ngắt lời cô ta. -- Tất cả những điều này chúng tôi sẽ xác minh sau, chúng tôi có thời gian để làm việc này. Còn bây giờ thì cô hãy kể cho biết về tên Trê-nhi-a-ép. À, mà biệt hiệu của hắn là gì nhỉ?

-- Biệt hiệu của Trê-nhi-a-ép ấy à? Biệt hiệu của hắn là "Vua".

-- "Vua" à? Rất tốt. Chúng tôi sẽ ghi vào biên bản như thế. Vậy cô có thể cho biết những gì về tên có biệt hiệu "Vua" này? Hắn là ai? Ở đâu tới và làm gì? Xin nhớ cho rằng chúng tôi cũng biết khá nhiều về hắn, vì thế tôi khuyên... cô...

-- Khuyên tôi nên nói thật chứ gì? -- Pơ-sê-glôn-xcai-a mỉm cười chua chát. --Anh An-đrây I-va-nô-vích, thế ra anh cho rằng tôi cần những lời khuyên như vậy hay sao? Anh cho rằng tôi trốn tránh sự thật hay sao?

-- Không, tại sao lại thế, -- Mi-rô-nốp phản đối. -- Nhưng lần này tôi thấy cần nhắc cô nói thật và phải nói thật, đó là nhiệm vụ của cô. Vậy cô có thể cho biết những gì về Trê-nhi-a-ép?

-- Tôi rất lấy làm tiếc rằng tôi không biết gì hơn, ngoài những điều mà cả thành phố Crai-xcơ đã biết về hắn: một nhà xây dựng cỡ lớn, một thủ trưởng, một trong những người lãnh đạo công trường xây dựng đặc biệt. Tôi xin nói thật là tôi đã rất sửng sốt khi hắn xuất hiện trước mặt tôi với cương vị là người đại diện cho tổ chức gián điệp Mỹ và tự xưng biệt hiệu là "Vua". Trước đó tôi cũng đã được báo cho biết rằng, "Vua" sẽ xuất hiện, nhưng hắn là ai thì tôi không biết.

-- Việc này xảy ra đã lâu chưa? -- Mi-rô-nốp vội hỏi.

-- Cách đây gần nửa năm, vào tháng Tư. Nói chính xác hơn là vào khoảng hai mươi mấy tháng Tư năm nay.

"À ra thế, -- Mi-rô-nốp nghĩ, -- thế nghĩa là lúc đó vấn đề thủ tiêu Cô-nhi-lê-va đã được quyết định, người ta đã cử kẻ thay thế này cho Trê-nhi-a-ép". Anh nghĩ vậy và không nói gì, chỉ nói ngắn gọn:

-- Nói tiếp đi.

-- Tôi thử cố nhớ xem, mặc dầu việc này không phải dễ, -- Pơ-sê-glôn-xcai-a nói, vẻ đăm chiêu. -- Tôi chỉ gặp Trê-nhi-a-ép một số lần, tất cả chỉ độ hai, ba lần chứ không hơn. Và chỉ gặp trong thời gian mới bắt liên lạc. Sau đó chúng tôi đề ra kế hoạch chuyển tài liệu, những tài liệu này tôi có nhiệm vụ phải chuyển đi Mát-xcơ-va. Sau đó chúng tôi vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch, nhưng chúng tôi không gặp nhau nữa. Trê-nhi-a-ép là người như thế nào, ở đâu tới thì tôi không được biết, nhưng tôi nghĩ rằng Trê-nhi-a-ép không phải là tên thật của hắn.

-- Tại sao cô lại đặt giả thuyết như vậy? Dựa trên cơ sở nào?

-- Như thế này, -- Pơ-sê-glôn-xcai-a mạnh dạn nói. -- Biết thật chính xác thì tôi không biết, nhưng có nhiều cơ sở để nói rằng Trê-nhi-a-ép không phải là tên thật của "Vua". "Vua" là một nhân vật cỡ lớn, hắn là một trong những tên đầu sỏ. Tôi biết điều đó ngay từ khi mới gặp lần đầu, tôi biết qua tác phong, giọng nói mà hắn đã giao thiệp với tôi. Những người như hắn không bao giờ hoạt động với tên thật của mình. Anh thấy đấy, những kết luận của tôi là kết quả của sự phân tích, suy nghĩ. Còn bằng chứng, thì tiếc rằng tôi không có bằng chứng.

Trong trường hợp này Pơ-sê-glôn-xcai-a đã không dối lòng: cô ta thật sự bực mình vì đã không thể khai nhiều về Trê-nhi-a-ép, nhưng quả thật cũng không biết gì hơn. Cô ta không muốn kể rằng ngay lần gặp đầu tiên, Trê-nhi-a-ép đã định dắt mũi cô ta, nắm cô ta trong tay, nhưng không được. Đừng hòng! Cô ta cũng biết đặt hắn ngồi đúng chỗ và răn bảo hắn là hai người sẽ làm việc theo nguyên tắc "bình đẳng". Và kết quả là như vậy. Nhưng biết về Trê-nhi-a-ép thì cô ta hầu như không biết gì, và có lẽ hắn cũng không biết gì về cô ta. Nhưng thôi, như thế lại tốt hơn!..

Cuộc hỏi cung bị gián đoạn vì một hồi chuông điện thoại vang lên. Người thư ký của tướng Va-xi-li-ép gọi điện thoại. Anh ta mời Mi-rô-nốp đến máy cầm ống nghe: đại tá Xcơ-vô-re-xki từ Crai-xcơ gọi điện tới.

-- Anh sao thế? -- Mi-rô-nốp nghe thấy tiếng Ki-rin Pê-tơ-rô-vích khi anh vừa cầm lấy ống nghe. -- Anh đã về đến Mát-xcơ-va và không nhớ gì đến bọn tôi cả? Cảm ơn Lu-ga-nốp và Xa-vin. Các cậu ấy sau khi trở về đã báo cho tôi biết là các đồng chí đã tóm được con rắn độc ấy. Nếu không thì tôi đã chẳng được biết rõ việc này. Chẳng nhẽ không có gì để báo với tôi hay sao?

-- Đồng chí Ki-rin Pê-tơ-rô-vích ạ, tôi xin lỗi... -- Mi-rô-nốp vừa nói vừa thở vì anh bước vội tới máy (phòng làm việc của anh ở xa phòng tiếp khách của thiếu tướng, ở phía đầu nhà bên này) -- Nhưng quả thật tôi đã định gọi điện cho đồng chí ngay từ sáng sớm, nhưng buổi sáng không gọi điện được, sau đó lại bận túi bụi...

-- Thôi được, thôi được, không cần phải thanh minh. Hãy báo cho tôi biết ở chỗ các anh có gì mới?

Mi-rô-nốp thuật lại cuộc hỏi cung Xê-mê-nốp vừa rồi, về dàn cảnh có Xa-vê-li-ép xuất hiện, về thái độ của tên B. và những lời khai của Pơ-sê-glôn-xcai-a.

Sau khi chăm chú nghe An-đrây kể, Xcơ-vô-re-xki nói:

-- Cảm ơn những thông báo về tình hình. Nhưng tôi gọi điện cho anh không phải vì tò mò muốn biết những việc này. Vấn đề là Cô-nhi-lép, Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích Cô-nhi-lép, ông anh của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na đã trở về sau khi đi thăm dò địa chất.

-- À, à, ông ấy đã về rồi, -- Mi-rô-nốp nói kéo dài giọng. Trong những ngày sôi nổi vừa qua, anh đã quên bẵng ông anh của Cô-nhi-lê-va. Nhưng hiện nay đã cần thiết đến ông ấy chưa? -- Tôi rõ rồi. Sao, các đồng chí ở An-ma A-ta đã gọi điện báo cho biết là họ mới phát hiện ra như vậy à?

-- Họ có phát hiện gì đâu! Mà cũng chẳng kịp phát hiện. Ông ấy thân chinh đến gặp họ, ông ấy đang ngồi ở Cục an ninh nhà nước ở đấy.

-- Đang ngồi ở đấy à? -- An-đrây ngạc nhiên. -- Để làm gì cơ?

-- Chẳng để làm gì cả, cần phải tìm hiểu, -- Xcơ-vô-re-xki bực mình nói. -- Sao anh hỏi dở thế? Ông ấy tự đến Cục an ninh nhà nước và chưa về. Nghe nói ông ấy có việc rất quan trọng.

-- Việc gì vậy?

-- Việc này hiện giờ chưa ai rõ cả. Cô-nhi-lép vừa đến Cục an ninh đã nói rằng sự việc này có liên quan đến em gái ông ta hiện đang ở Crai-xcơ. Các đồng chí ở An-ma A-ta nhớ tới lời dặn của Lu-ga-nốp, nên họ không hỏi gì Cô-nhi-lép cả, mà họ đã liên lạc ngay với chúng tôi. Tôi đã báo cáo cho đồng chí Xê-men Pha-đê-ê-vích biết việc này và đồng thời báo để anh biết.

-- Tốt quá! -- Mi-rô-nốp nói. -- Ông Cô-nhi-lép này lại đề ra một nhiệm vụ nữa. Cần phải làm một số việc. Đồng chí đã giao cho ai ở đấy nói chuyện với ông ta chưa?

-- Để làm gì? -- Xcơ-vô-re-xki phản đối. -- Nhỡ ra Ghê-oóc-ghi Nhi-cô-lai-ê-vích quả là có việc quan trọng, mà các đồng chí ở An-ma A-ta lại không nắm được vấn đề, không biết đầu đuôi ra sao cả. Không, cần phải cử tới đó một người có trách nhiệm điều tra. Cậu Lu-ga-nốp cần phải đi...Nhưng cậu ấy đã đi rồi. Sau khi nói chuyện với Cô-nhi-lép, Lu-ga-nốp sẽ báo cho anh biết. Anh chú ý nghe. Thôi, tôi chỉ cần báo cho anh như vậy.


Tìm kiếm với từ khoá:

Soi Chi Mong Manh




chuong 29          

1001 truyện trinh thám tuyệt hay
     
                                Gồm        “Chiếc Nhẫn Tình Cờ-Những Người Thích Đùa-Pháo Đài Số- Sherlock homes-Điệp Vụ Bí Ẩn-Chinh Đông Chinh Tây-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân-Xâu Chuỗi Ngọc Trai-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-Chuến Tàu 16 Giờ 50-Trại Giam Địa Ngục-Nnghinf Lẻ Một Đêm-Rừng Thẳm Tuyết Dày-Nam Tước Phôn gôn Rinh-xâu chuôi ngoc trai cái kính  chiếc khuy đong soi chi mong manh
 VV…”  https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm



nhathongnguyen.blogspot 9.8 su10 nhathongnguyen.blogspot 90286 student

Receive All Updates Via Twitter