soi chi mong manh
-- Các anh phải hiểu rằng, -- sau một lúc lâu suy nghĩ, Xcơ-vô-re-xki mới
thủng thẳng nói. -- Tôi sẽ không làm trọng tài trong cuộc tranh luận của các
anh. Tôi xin bỏ phiếu trắng. Dầu sao, khi tôi chưa có ý kiến thì các anh cứ giữ
quan điểm của mình. Tốt nhất là hãy để thực tế cuộc sống phán xét các
CHƯƠNG 15
Theo đúng kế hoạch, dọc đường Mi-rô-nốp ra hiệu xin vượt xe
của tổ Lu-ga-nốp và xe anh phóng vượt lên chạy nhanh về Crai-xcơ trước Lu-ga-nốp
và Trê-nhi-a-ép. Cuộc hỏi cung đầu tiên sẽ tiến hành ở ngay trong phòng trước
đây vẫn tiếp Trê-nhi-a-ép ở Cục điều tra. Mi-rô-nốp không phải chờ lâu. Về được
chừng mười lăm phút, Lu-ga-nốp cũng dẫn Trê-nhi-a-ép vào. Chăm chú nhìn thẳng
vào khuôn mặt Trê-nhi-a-ép, Mi-rô-nốp không nhận thấy một nét lo lắng hay hồi hộp
hoang mang nào của đối tượng hỏi cung. Trê-nhi-a-ép vẫn bình tĩnh, tự tin, lần
này có vẻ chủ động nữa. Mỗi dáng điệu, cử chỉ của ông ta đều biểu hiện thái độ
bực mình và đầy phẫn nộ trước hành động "cưỡng bức" của mấy nhân viên
công an đối với mình. Và cứ bình thản, tự tin lạnh lùng như thế, Trê-nhi-a-ép
bước thẳng tới bàn, kéo chiếc ghế trước mặt Mi-rô-nốp, cau có ngồi xuống mà chả
cần ai mời.
Ông ta quay mặt lại nhìn Lu-ga-nốp hỏi:
-- Có lẽ bây giờ thì đồng chí có thể giải thích cho tôi rõ
hành động của đồng chí được chứ?
Mi-rô-nốp, -- người mà từ lúc vào đến giờ Trê-nhi-a-ép vẫn
làm ra vẻ không thèm để ý đến và coi như không có trong phòng này -- đột nhiên
nghiêm mặt lại, nói với Trê-nhi-a-ép bằng một giọng hết sức lạnh lùng mà ở anh
ít có.
-- Ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích. Tôi xin nhắc lại để ông
biết rằng, từ giờ phút này trở đi: người được phép hỏi là chúng tôi. Và chỉ là
chúng tôi chứ không phải là ông. Nhiệm vụ của ông là trả lời, và chỉ trả lời
thôi.
-- Sao? -- Trê-nhi-a-ép quay phắt lại nhìn Mi-rô-nốp. -- Lại
còn thế nữa cơ ư?
Ném vào Mi-rô-nốp một cái nhìn khinh bỉ, Trê-nhi-a-ép lại
quay lại với Lu-ga-nốp:
-- Đồng chí Lu-ga-nốp ạ, tôi xin nhắc lại rằng: ở đây, tôi
chỉ nói chuyện với đồng chí thôi còn những ý kiến cũng như những câu thẩm vấn của
anh nhân viên giúp việc của đồng chí thì... xin lỗi, tôi không thèm nghe đâu.
Lu-ga-nốp chỉ nhún vai vẻ như nói: ồ, tôi không thể nào chiều
ý ông được. Mi-rô-nốp thì vẫn bình tĩnh nói, giọng nói không hề thay đổi:
-- Yêu cầu ông nhớ hộ cho điều này: vai trò giữa tôi và đồng
chí Lu-ga-nốp đã thay đổi, hiện nay đồng chí ấy sẽ là người giúp việc của tôi.
Còn ông, ông sẽ phải trực tiếp trả lời những câu hỏi của tôi và chúng tôi không
cần biết là ông có thích hay không thích những câu đó.
-- À, ra thế! -- Trê-nhi-a-ép thốt lên, trố mắt vẻ chế diễu
nhìn Mi-rô-nốp. -- Vậy thì, nếu có thể, anh hãy cho tôi biết việc gì đang xảy
ra ở đây. Tôi cứ coi như anh là người có quyền ở đây mặc dầu tôi không cần biết
anh là ai, làm gì!
-- Tiện thể xin tự giới thiệu luôn, tôi là An-đrây
I-va-nô-vích -- nếu như ông cần biết. Còn chuyện gì đang xảy ra ở đây thì tôi
nghĩ rằng ông đã quá hiểu. Nhưng dầu sao thì tôi cũng nói để ông rõ -- đây là
cuộc hỏi cung. Một cuộc hỏi cung bình thường. Tôi chắc ông đã hiểu khá rõ ràng,
thế nào là một cuộc hỏi cung?
-- À ra thế! -- Trê-nhi-a-ép cười. -- Tôi đã nghe rõ. Vậy
thì ông hãy cho biết thêm: trên cơ sở và quyền lực nào, các ông bắt giữ tôi và
bây giờ lại hỏi cung tôi? Tôi xin nhắc lại rằng, các ông phải chịu trách nhiệm
về hành động vi phạm pháp luật!
-- Về cơ sở để mời ông đến đây, -- Mi-rô-nốp nói, -- thì có
nhiều và rất đầy đủ. Tôi nghĩ rằng, ông hiểu rất rõ điều này. Còn chúng tôi dựa
vào quyền lực nào để hỏi cung ông thì ông cũng đã rõ: đó là luật pháp của Chính
quyền xô-viết mà chúng tôi là người đại diện. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ hiểu
nhau hơn. Và, để khỏi mất thì giờ, chúng ta nên đi vào công việc. Tôi yêu cầu
ông hãy kể lại tỷ mỉ hơn trường hợp cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na, người vợ cũ của
ông, bỏ ra đi như thế nào. Yêu cầu kể một cách chính xác, trung thực. Tôi xin
nói trước: bất kỳ sự dối trá nào dù là nhỏ nhất cũng sẽ làm xấu thêm tình hình
của ông.
Trê-nhi-a-ép bực dọc ngồi lắng nghe, ngả mình trên ghế, tự
tiện châm thuốc hút bất cần hỏi ai và uể oải trả lời:
-- Tôi không hiểu rõ ý ông. Tất cả những gì liên quan đến việc
vợ tôi bỏ trốn khỏi Crai-xcơ, tôi nghĩ rằng đó là việc riêng của tôi. Hơn thế nữa,
tôi đã hai lần đến đây và đã kể hết với các ông cũng chính ngay trong phòng
này. Đã hai lần rồi. Vậy bây giờ các ông còn đòi gì nữa?
-- Này, công dân Trê-nhi-a-ép, -- Mi-rô-nốp nghiêm giọng, --
tôi cảnh cáo ông về kiểu ngồi như vậy. Ông hãy ngồi lại cho tề chỉnh. Hãy trả lời
vào thực chất câu hỏi và trước hết là câu: vì lý do gì mà vợ ông -- cô Ôn-ga
Nhi-cô-lai-ép-na, bỏ đi khỏi Crai-xcơ. Đi như thế nào? -- Mi-rô-nốp im lặng một
lát và hỏi tiếp:
-- Họ cô ấy là gì?
Khi nghe Mi-rô-nốp dằn giọng, Trê-nhi-a-ép vội ngồi lại
nhưng khi nghe câu hỏi cuối cùng, ông ta hơi giật mình.
-- Họ cũ của vợ tôi? -- Ông ta hỏi lại. -- Họ cũ của vợ tôi
là Vê-lít-cô. Các ông còn lạ gì mà phải hỏi nữa.
-- Vê-lít-cô à? Cô ta còn họ gì khác không?
-- Tôi không hiểu ý ông. Cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na không còn
họ nào khác và trong trường hợp nếu có thì tôi cũng không được biết.
-- Đúng chứ? Cô ta không còn họ nào khác hay là có nhưng ông
không biết?
Một nét bối rối thoáng qua, nhưng Trê-nhi-a-ép điềm tĩnh lại
ngay:
-- Tất nhiên là tôi không bảo đảm điều này. Vì như ông đã biết,
tôi không chú ý lắm đến quá khứ của Ôn-ga. Tôi chỉ được biết họ cũ của cô ta là
Vê-lít-cô. Còn họ khác thì tôi không biết. Cũng có thể là cô ta giấu tôi điều
đó chăng? Tại sao lại giấu, và giấu để làm gì?
-- Thôi cứ cho là như vậy. Chúng ta sẽ ghi như thế. Va-xi-li
Nhi-cô-lai-ê-vích, -- Mi-rô-nốp quay lại nói với Lu-ga-nốp. -- Đồng chí bắt đầu
ghi biên bản hộ. Còn về ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích, -- Mi-rô-nốp quay nói
với Trê-nhi-a-ép, -- tôi xin nhắc lại câu hỏi: ông có thể bổ sung gì về trường
hợp cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô bỏ đi khỏi Crai-xcơ? Yêu cầu nói thật
đúng.
Trê-nhi-a-ép hơi ngẩng đầu, giọng chậm rãi, uể oải nói một
cách cộc lốc những điều ông ta đã nói hai lần trước. Trong khi nói ông ta cố giữ
thái độ nói để mà nói, vì bắt buộc phải nói chứ sẽ không có gì mới mẻ.
Đại loại là: khi ông ta, Trê-nhi-a-ép, phát hiện ra vợ mình
đã thay lòng đổi dạ thì họ thấy không thể tiếp tục sống với nhau được. Theo sự
thỏa thuận chung, họ quyết định không làm ầm ĩ vấn đề này lên và Ôn-ga
Nhi-cô-lai-ép-na sẽ ra đi với lý do: đi nghỉ. Thế là cô ra đi, đi mãi. Còn
Ôn-ga đi với ai, đến với ai thì Trê-nhi-a-ép không biết và cũng không cần biết.
Đấy, câu chuyện chỉ có thế, ngoài ra không có gì thêm nữa.
Trê-nhi-a-ép nói chậm chạp nhưng bình tĩnh, thỉnh thoảng điểm
nụ cười biểu lộ vẻ khinh bỉ của mình đối với người vợ hư đốn.
-- Thế tức là, theo như tôi hiểu, thì ông không biết và cũng
không muốn biết sau khi rời khỏi Crai-xcơ, vợ ông đi đâu và ở đâu?
-- Đúng, tôi không quan tâm tới điều đó.
-- Tốt, ta ghi vào biên bản như vậy. Có kịp ghi không
Va-xi-li? Bây giờ tôi yêu cầu ông giải thích thêm vài chi tiết. Trước hết, ông
vui lòng cho biết là do đâu mà ông biết được có một người đàn ông nào đó đã len
vào cuộc sống của gia đình ông và vợ ông đã thay lòng đổi dạ, theo như lời ông
nói. Yêu cầu nói thật đúng...
-- Ồ cái điều đó, -- Trê-nhi-a-ép vội thốt lên, -- chả lẽ
tôi chưa nói với các ông ư? Nhưng dầu sao, nếu vì do sự tò mò, thì tôi cũng có
thể giải thích rằng chỉ có một kẻ hoàn toàn ngu ngốc thì mới không nhận thấy điều
đó. Ngoài ra tôi còn có tang chứng nữa, những tang chứng trực tiếp.
-- Ông định nói đến bức thư chứ gì? -- Mi-rô-nốp hỏi ngay với
một giọng hết sức tự chủ làm cho Trê-nhi-a-ép sửng sốt.
-- Bức thư à? Vâng, đúng là bức thư. Vâng, chính bức thư đó
đã mở mắt cho tôi.
-- Bức thư này phải không? -- Mi-rô-nốp rút bức thư của
Cu-dơ-nét-xốp gửi Dê-len-cô để trong ngăn kéo ra, đưa cho Trê-nhi-a-ép.
Ông ta gật đầu xác nhận.
-- Nhưng, có một điều chưa rõ là, tại sao lần trước ông
không muốn để nó lại đây cho chúng tôi? -- Mi-rô-nốp hỏi. -- Có thể có những lý
do gì đó chăng? Ông có thể cho biết rõ hơn không?
-- Tôi không muốn để bức thư này lại cho các ông à? Chả lẽ lại
thế ư? -- Trê-nhi-a-ép nhún vai tỏ vẻ không hiểu và cười một cách khoan dung.
-- Ông tin chắc vào điều đó chăng? Điều này, quả là tôi cũng không nhớ rõ nữa.
Trê-nhi-a-ép vẫn giữ một giọng diễu cợt hình như cốt để
khiêu khích những người đại diện Chính quyền và cố làm họ mất bình tĩnh. Nhưng
cả hai người đều vẫn bình tĩnh cứ tiến hành hỏi cung như kế hoạch đã vạch sẵn.
-- Có thật là ông không nhớ rõ chứ? -- Mi-rô-nốp bình tĩnh hỏi,
giọng không hề thay đổi. -- Nếu như chúng tôi giúp ông nhớ lại thì sao?
Lần này thì Trê-nhi-a-ép cười vang khinh miệt ra mặt:
-- Tôi đã nói với các ông rằng, tôi không nhớ, tức là không
nhớ, có thế thôi. Còn bức thư ấy là cái gì? Tôi muốn để lại cho các ông hay
không đó là việc của tôi. Nó chả có nghĩa lý gì cả. Đúng thế!
-- Không, không hẳn như vậy, -- Mi-rô-nốp ngắt lời. -- Việc
đó có ý nghĩa không phải là nhỏ. Ông biết rõ hơn ai hết ý nghĩa của nó. Chúng
tôi cũng vậy. Chỉ riêng việc ông không muốn để lại bức thư này cũng là một chứng
cớ mà ông không thể biện bạch được. Không phải bây giờ chúng tôi mới nói đến điều
đó. Ông có thể cho biết là bức thư đó gửi cho ai không?
-- Gửi cho ai là thế nào? -- Trê-nhi-a-ép vặn lại. -- Các
ông định chơi cái trò gì ở đây đấy? Bức thư đó còn gửi cho ai khác ngoài Ôn-ga.
Tôi đã nói rõ ràng, nó được gửi cho chính vợ tôi.
Nếu nhìn thẳng vào mặt Trê-nhi-a-ép lúc bấy giờ thì ai cũng
cho rằng ông ta đã nổi giận thực sự.
-- Đúng, đúng là gửi cho chính Ôn-ga, -- Mi-rô-nốp vẫn thản
nhiên. -- Nhưng là Ôn-ga Dê-len-cô, láng giềng của ông chứ không phải Ôn-ga
Vê-lít-cô -- vợ ông. Lấy gì làm chứng cớ? Vấn đề chưa rõ là bức thư này đã lọt
vào tay ông như thế nào. Bây giờ đã đến lúc có thể và cần phải nói cho ông rõ
điều này.
-- Dê-len-cô à? -- Trê-nhi-a-ép lấy tay bóp trán, thốt hỏi.
-- Dê-len-cô ư? Thật không thể nào hiểu được. Tại sao lại dính Dê-len-cô vào
đây? Bức thư này chính là gửi cho Ôn-ga vợ tôi...
-- Thôi được, -- Mi-rô-nốp ngắt lời, -- ông vẫn cứ bám lấy
những gì ông đã nói trước kia, phải không? Được thôi. Chúng tôi sẽ ghi như vậy,
nhưng ông nhớ cho rằng, sau này không thể ăn năn được đâu. Lúc đó thì đã muộn rồi.
Đồng ý thế chứ?
-- Ông định dọa gì tôi? -- Trê-nhi-a-ép cau có. -- "hối
hận" với lại "ăn năn", ông bỏ cái kiểu dọa dẫm ấy đi.
-- Tất cả đều tùy thuộc ở ông. Câu trả lời của ông đã được
ghi vào biên bản rồi. Dọa dẫm? Thế nào là dọa dẫm? Tôi chỉ muốn khuyên ông một
điều là, hãy nói sự thật. Thôi, chúng ta tiếp tục. Theo như tôi còn nhớ thì
chính ông đã tiễn cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na... Vê-lít-cô ra ga. Và chính ông đã
tự dẫn cô ấy lên chuyến tàu Crai-xcơ đi Mát-xcơ-va lúc hai mươi mốt giờ năm
mươi lăm phút theo giờ địa phương. Có phải thế không?
-- Đúng thế. Tôi đã nói rõ việc này rồi...
-- Tốt. Chúng ta ghi như vậy. Còn một câu hỏi nữa. Ông dừng
lại ở ga cho đến lúc tàu chuyển bánh hay là đi ngay khi vợ ông vừa lên toa. Điều
này ông phải nói thật đúng.
-- Không. À, tức là... Tôi đứng ngay cạnh toa, dưới cửa sổ
phòng vợ tôi ngồi, cho đến lúc tàu chạy. Thậm chí, tàu chạy một lúc rồi tôi vẫn
chưa quay ra khỏi ga ngay cơ mà.
-- Vậy ông rời nhà ga lúc mấy giờ? Ông có nhớ không?
-- Không nhớ. Tôi không xem đồng hồ.
-- Thế từ ga ông về thẳng nhà hay là còn ghé vào đâu?
-- Còn đi đâu nữa? Về nhà ngay chứ còn đi đâu lúc bấy giờ nữa?
-- Trê-nhi-a-ép nói, vẻ bực tức.
-- Ông về nhà bằng gì? Xe ô-tô chứ?
Các câu hỏi dồn dập liền nhau đòi hỏi người bị hỏi phải trả
lời ngay thật chính xác, đã làm thần kinh của Trê-nhi-a-ép bắt đầu dao động.
Thái độ ông ta thay đổi rõ rệt.
-- Vâng, về bằng xe. -- Trê-nhi-a-ép đáp sau một giây ngập
ngừng. -- Xe của tôi.
-- Xe nào?
-- Còn xe nào nữa? Tôi không hiểu câu hỏi của ông? --
Trê-nhi-a-ép định dùng cách hỏi vặn để tranh thủ thời gian lấy lại tinh thần.
Nhưng Mi-rô-nốp cũng chả kém, anh cố tình không cho ông ta
nghỉ.
-- Bỏ cái kiểu ấy đi, ông Trê-nhi-a-ép ạ. Ông mà lại không
hiểu câu này à? Tôi nhắc lại vậy: từ ga về, ông đi xe nào?
-- Xe nào à? Xe của tôi...
-- Không, ông Ca-pi-tôn ạ, không xong đâu. Ông đã cho xe ông
về ngay khi ông đến ga. Ông đừng vờ vĩnh. Dù sao thì ông cứ phải nói thật. Hay
là ông cứ khăng khăng chối quanh điều này?
-- Tôi cần gì phải chối. Tôi về bằng xe tắc-xi do tôi thuê.
Có gì là khác nhau?
-- Ông nghĩ xem, -- Mi-rô-nốp nhận xét. -- Sao lại không có
gì khác nhau. Khác nhau quá đi nữa là đằng khác. Chả lẽ ông lại vờ không biết
điều đó, nhưng chuyện xe cộ lát nữa ta sẽ nói sau, còn bây giờ chúng ta quay lại
vấn đề ra đi của cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Thế tức là ông khẳng định rằng, ông
chờ cho đến lúc tàu chuyển bánh rồi mới về, phải không? Hay nói một cách khác,
Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na rời khỏi Crai-xcơ ngay trước mắt ông và chính ông đã chứng
kiến rõ ràng là cô ta đã rời khỏi thành phố bằng tàu? Có đúng vậy không?
-- Đúng, hoàn toàn đúng.
-- Và từ bấy đến nay cô ta không trở lại Crai-xcơ nữa.
-- Đúng, không trở về nữa.
-- Ông có bảo đảm chắc chắn như vậy không?
-- Đúng, tôi bảo đảm.
-- Thế... thì được... lắm. -- Mi-rô-nốp kéo dài giọng, --
nhưng... nếu như tôi không tin lời ông và nói với ông rằng, vợ ông -- cô Ôn-ga,
hiện đang ở tại Crai-xcơ thì sao? Và ông biết rõ hơn ai hết về điều này, ông
nghĩ sao? Ông sẽ nói sao?
-- Không sao cả. Tôi tự cho tôi quyền suy xét là, trong cuộc
nói chuyện của chúng ta hôm nay tôi sẽ không cần nghe và trả lời những câu bông
đùa vô nghĩa lý.
-- Nhưng tôi thì lại không hề nói đùa, -- Mi-rô-nốp nghiêm
nghị ngắt lời, -- cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô, vợ ông, đúng là không đi
khỏi Crai-xcơ. Hơn thế nữa, đúng ngày hai mươi tám tháng Năm, trong khi ông,
như biên bản đã ghi đúng theo lời khai của ông, tiễn vợ ra ga và chờ tàu chạy,
thì trái lại vợ ông không hề đi đâu cả. Cô ta không hề được đi trên chuyến tàu
Crai-xcơ - Mát-xcơ-va khởi hành lúc hai mươi mốt giờ năm mươi lăm phút cũng như
bất cứ chuyến tàu nào khác. Nói thẳng ra là cô ấy không kịp đi khỏi Crai-xcơ,
và điều này thì ông biết rõ hơn ai hết. Chả lẽ chưa đến lúc vất cái trò hề này
đi và nói thật vấn đề ra chăng?
Mặt Trê-nhi-a-ép vẫn tỉnh khô. Không một nét biến chuyển nào
hiện trên khuôn mặt lạnh lùng đó cả. Ông ta ngồi im, và tỏ ra rất tự tin. Ông
ta không trả lời ngay câu hỏi của Mi-rô-nốp mà chỉ hơi nhún vai và rút điếu thuốc
khác, châm hút.
-- Thế nào ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích? -- Mi-rô-nốp gặng
hỏi. -- Ông định không trả lời tôi chăng?
-- Không, sao lại không? Tôi luôn sẵn sàng và đã từng trả lời
những câu hỏi đúng đắn, nhưng với những câu có tính chất khôi hài hoặc vô nghĩa
thì tôi không có ý định trả lời.
-- Thế ông cho như vậy là khôi hài chăng? -- Mi-rô-nốp kêu
lên và kéo ngăn bàn, cầm mấy tấm ảnh chụp lại khuôn mặt phục hiện của
Cô-nhi-lê-va, rồi xòe ra trước mặt Trê-nhi-a-ép.
Đòn bất ngờ này đã làm thay đổi hoàn toàn thái độ
Trê-nhi-a-ép. Vừa mới trông mấy tấm ảnh, ông ta suýt nhổm dậy nhưng lại kìm được
ngay, và nặng nề ngồi xuống.
-- Cái... cái gì... thế này? A -- ai...ai...đây? --
Trê-nhi-a-ép rên rỉ, tay giơ lên như muốn bưng lấy mặt, để khỏi phải nhìn vào
khuôn mặt đáng sợ trong bức ảnh.
-- Ông không nhận ra chăng? -- Mi-rô-nốp hỏi rất mỉa mai, --
ông không muốn biết? Thế mà đây lại chính là ảnh cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na, vợ
ông đấy. Bức ảnh này là... nhưng dầu sao thì chắc cũng không giống lắm phải
không? Vì quả là được chụp lại từ sau cái ngày mà ông bảo là ngày "tan vỡ"
của gia đình ông. Nó được chụp lại ngay ở đây, ở Crai-xcơ.
-- Xin phép, -- ngập ngừng, Trê-nhi-a-ép hỏi, -- xin phép
cho tôi xem kỹ hơn, được không?
-- Sẵn sàng thôi. -- Mi-rô-nốp gật đầu và đưa mấy tấm ảnh
cho Trê-nhi-a-ép. -- Đây, ông cứ xem đi.
Dè dặt, thận trọng như sợ bị bỏng tay, Trê-nhi-a-ép cầm lấy ảnh.
Hai tay ông ta run run, mặt đanh xám lại.
Hai ba phút trôi qua. Trê-nhi-a-ép vẫn cứ im lặng xem ảnh.
Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp cũng ngồi im quan sát những diễn biến trên nét mặt ông
ta. Cuối cùng, Trê-nhi-a-ép thở một hơi dài não nuột, trao ảnh cho Mi-rô-nốp và
ngả người dựa lưng vào thành ghế.
-- Trời! -- Trê-nhi-a-ép nói, giọng khàn khàn. -- Đúng là cô
ấy -- Ôn-ga -- vợ tôi rồi. Nhưng sao lại thay đổi ghê quá: tôi không làm sao hiểu
nổi...
-- Ông không hiểu à? Ông nói dối! Ông thừa biết rằng vợ ông
-- cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô như ông vừa gọi đấy, đã bị giết. Bị giết
ở đây, ở Crai-xcơ, ngày hai mươi tám tháng Năm vào lúc gần mười giờ tối tức là
đúng lúc theo lời ông khai, ông Trê-nhi-a-ép ạ, ông CÙNG ĐI VỚI CÔ TA, --
Mi-rô-nốp nhấn mạnh mấy chữ trên đây, -- ra ga và đưa cô ấy lên chuyến tàu
Mát-xcơ-va. Ảnh chụp từ bức chân dung vẽ lại mặt người chết...
Từ khi nghe mấy tiếng "bị giết" Trê-nhi-a-ép như sững
người lại, ông ta có vẻ rất chú ý nghe Mi-rô-nốp nói. Ông ngồi ngay đơ, mặt
ngây dại, mắt long lanh như muốn khóc. Mi-rô-nốp chưa kịp nói hết câu thì
Trê-nhi-a-ép đã gục đầu xuống bàn, hai tay ôm chặt lấy đầu và khóc nấc lên.
-- Bị giết... ôi, Ôn-ga, Ôn-ga... Tại sao?.. Vì sao? -- Tiếng
nói ngắt quãng của ông ta như bị những tiếng nấc đau khổ chặn lại
Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp liếc nhìn nhau. An-đrây đứng dậy, rót
đầy một cốc nước lạnh và đưa cho Trê-nhi-a-ép.
-- Uống đi, Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích; hãy chấm dứt cái kiểu
kêu gào ấy đi. Chúng ta không phải trẻ con nữa.
Nhưng Trê-nhi-a-ép đã gạt phắt cốc nước sang một bên đến nỗi
nước bắn tung tóe ra bàn và cứ tiếp tục khóc nức lên đầy vẻ đau đớn, hai tay ôm
chặt lấy mặt.
-- Bỏ cái trò ấy đi, Trê-nhi-a-ép, -- Lu-ga-nốp bỗng xẵng giọng
vẻ rất tức giận. -- Chả ăn thua gì đâu. Dầu sao thì ông cũng không lẩn tránh được
những câu hỏi đâu. Ông hãy nói rõ ngay vào sự việc buổi tối hôm hai mươi tám
tháng Năm?
-- Tôi...ở nhà ga... Tôi đã...tiễn Ôn-ga. Cô...ấy đã đi...
-- Công dân Trê-nhi-a-ép, -- Mi-rô-nốp nghiêm giọng. -- Hãy
ngồi dậy. Cái trò trẻ con của ông đã phá sản rồi. Ông đã thề thốt khẳng định ra
vẻ như là ông đã ở tại sân ga cho đến lúc tàu chạy và chính mắt ông đã trông thấy
rõ ràng cô Ôn-ga đã ngồi trên tàu lúc nó chuyển bánh. Làm sao ông có thể thấy
được điều đó, vì thực tế cô Ôn-ga không đi đâu cả và chỉ ngay sau đó một lúc cô
ấy đã bị giết chết? Thật là dối trá, dối trá hoàn toàn! Chúng tôi đòi ông phải
bỏ thái độ ngoan cố này đi và khai rõ toàn bộ sự thật về vụ ám hại cô Ôn-ga
Nhi-cô-lai-ép-na... Vê-lít-cô. Ông không thể trốn tránh tội lỗi được. Ông đã bị
vạch mặt.
-- Tôi ư?..Vạch mặt tôi?.. Các ông không mất trí đấy chứ? --
Trê-nhi-a-ép thốt lên, nước mắt ràn rụa. -- Các ông sao lại có thể vu cho tôi tội
giết người? Vu cho tôi là...
-- Tôi nói để ông biết rằng, -- Mi-rô-nốp vẫn điềm tĩnh nói,
-- ông nên biết điều và tỏ ra minh mẫn một chút. Trước các chứng cớ hiển nhiên,
ông nên tỏ ra tự giác, thành khẩn. Hãy nói ra tất cả những gì ông đã làm. Nhưng
nếu như ông cứ khăng khăng đi theo con đường cũ, vẫn tiếp tục ngoan cố thì
chúng tôi buộc lòng phải tiếp tục vạch rõ tội lỗi cho ông thấy.
Mi-rô-nốp bấm nút chuông điện. Cửa phòng sịch mở, một thiếu
úy công an hiện ra trong khung cửa. Lu-ga-nốp gật đầu, người thiếu úy liền quay
ra và một thoáng sau lại trở vào tay xách chiếc va-li của Cô-nhi-lê-va mà mấy
hôm trước đây Trê-nhi-a-ép đã đem đi gửi ở phòng gửi hành lý nhà ga. Đặt chiếc
va-li lên ghế, người công an quay ra ngay.
Lu-ga-nốp từ từ đứng dậy bước lại mở chiếc va-li.
Trê-nhi-a-ép nhìn chằm chằm theo Lu-ga-nốp. Ông ta đã ngừng khóc, nét mặt đã thay
đổi.
-- Thôi được rồi, -- ông ta thở dài nặng nề nói khi thấy chiếc
va-li đã mở nắp. -- Tôi sẽ nói tất cả, nhưng nếu có thể, cho tôi xin cốc nước.
Các ông cũng biết đấy, -- ông ta cười, đau khổ man dại, -- điều này không phải
đơn giản và dễ dàng gì...
Sau khi đã uống liền mấy ngụm nước, Trê-nhi-a-ép quệt tay
lau miệng, lau trán và chậm rãi nói. Giọng ông ta trầm trầm, đục, ngắt quãng.
-- Vâng, các ông đúng: chính tôi đã giết Ôn-ga, chính tôi đã
giết bằng đôi tay này đây. -- Vừa nói, Trê-nhi-a-ép vừa giơ hai tay và chằm chặp
nhìn vào các ngón tay đang xòe ra, run run. -- Nếu các ông biết được rằng mấy
tháng nay tôi đã sống trong tâm trạng bàng hoàng như thế nào từ sau cái ngày
kinh khủng đó... Tôi đã sống những ngày đêm u ám, trong nỗi lo sợ thường xuyên
ám ảnh. Ngày cũng như đêm, lúc nào tôi cũng như trông thấy rõ ràng Ôn-ga hiện
ra trước mắt tôi. Cả hình ảnh khi Ôn-ga đang sống và cả hình ảnh khi đã chết.
-- Trê-nhi-a-ép bóp mạnh thái dương và rên rỉ trong họng.
-- Ông uống nước nữa chứ? -- Chẳng cần giấu vẻ châm biếm,
Lu-ga-nốp hỏi.
-- Không, xin cảm ơn. Có lẽ các ông cho rằng tôi sợ trách
nhiệm và nghĩ rằng nỗi sợ hãi bị trừng phạt sẽ ám ảnh tôi chăng? Không! Tôi
không sợ gì hết. Tôi cho tôi có quyền xét xử cô Ôn-ga và tự tôi đã phán quyết
và thi hành bản án. Tôi đã làm như vậy đấy. Nhưng sau khi tất cả những gì đã xảy
ra thì nỗi sợ hãi lại xâm chiếm, ám ảnh tôi, làm cho tôi không thể chịu được,
không thể sống nổi...
-- Vậy thì tại sao, trong trường hợp dằn vặt như vậy mà ông
lại không đến đây gặp chúng tôi, không chịu thú nhận tất cả? Tại sao ông lại
còn ương bướng và ngoan cố đến phút cuối? Và, tại sao ông vẫn bình thản phân
tán hết đồ dùng của vợ ông và định thủ tiêu luôn cả chiếc va-li của cô ấy? Vậy
thì làm gì có chuyện "lo sợ" và "dằn vặt" ở đây. Không, rõ
ràng là mỗi việc làm, mỗi bước đi của ông đều có tính toán tất cả. Không đâu,
ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích ạ, lời nói và việc làm của ông không khớp nhau
đâu. Không làm sao khớp nhau được.
-- Tôi hiểu, tôi biết là các ông không tin tôi ngay được vì
tôi đã tỏ ra rất ngu xuẩn. Nhưng tôi thì cho rằng tất cả những việc này đều là
chuyện riêng, là niềm đau khổ riêng của tôi và chỉ có tôi là phải âm thầm chịu
đựng, không cần phải chia sẻ cho ai cả. Tôi thề rằng tôi đã nói hết sự thật.
-- Những điều đó không có gì đúng với sự thật cả, -- Mi-rô-nốp
khẳng định. -- Chả lẽ ông không biết rằng giết người là một tội ác và sẽ bị
pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Dù việc giết người đó là theo lý luận của ông
đi nữa. Cho đến tận bây giờ ông vẫn không nói rõ nguyên nhân nào đã khiến ông
hành động như vậy.
-- Ôi! lạy Chúa, còn phải nói gì nữa. Điều đó đã quá rõ ràng
rồi! Ôn-ga đã phụ bạc tôi, đã lừa dối tôi. Cô ta đã khinh thường tôi, đã chà đạp
lên lòng tự trọng của tôi, đã bỏ tôi để theo người khác. Các ông khó mà hình
dung được thế nào là sự ghen tuông -- sự ghen tuông mãnh liệt và phũ phàng.
-- Thế có nghĩa là, ông giết vợ vì ghen tuông, theo như
chúng tôi hiểu lời ông như vậy?
-- Đúng, chính là vì ghen.
-- Còn nguyên nhân của sự ghen tuông đó là bức thư, có phải
không? -- Mi-rô-nốp hỏi dồn, nhưng đầy vẻ chế diễu.
-- Bức thư nào ở đây? Nhưng dù sao nó cũng đóng một vai trò
nhất định.
-- Không xong rồi, Trê-nhi-a-ép ạ. Chúng tôi và ông đã thống
nhất là bức thư đó không phải gửi cho vợ ông cơ mà. Vậy thì nó còn đóng vai trò
gì ở đây được?
-- Nhưng tôi... tôi không biết, không... không biết điều đó.
Tôi thề với ông như vậy. Tôi tìm thấy bức thư trong cuốn sách Ôn-ga đang đọc và
cô ta cũng nhận rằng đó chính là bức thư của cô ta. Người ta gửi cho cô ta. Chả
lẽ tôi lại nghi ngờ nữa hay sao. Mà vấn đề không phải chỉ ở trong bức thư. Nếu
như các ông biết rằng, gần một năm nay Ôn-ga đã ăn nói, đã đối xử với tôi như
thế nào! Không, tôi không đủ sức để chịu đựng, để quên đi những nỗi nặng nề đau
khổ, những hành vi cử chỉ, những dày vò của cô ta đối với tôi hàng ngày và thậm
chí hàng giờ, hàng phút. Dầu sao tôi đã rất mực yêu, rất quý cô ta... Làm sao
các ông có thể hiểu được điều đó? Vậy thì làm thế nào tôi có thể yên tâm được với
ý nghĩ dày vò tôi là: cô ta đã lừa dối tôi, đã yêu một kẻ khác. Tôi tự lên án
tôi, lên án bản thân tôi. Phải giết, phải thủ tiêu, phải trả thù; từ bấy lâu
tôi không còn nghĩ đến điều gì khác nữa. Quả là lúc đầu mới thoáng nghĩ đến điều
đó tôi đã thấy rùng mình nhưng rồi thời gian, ngày một ngày hai, giờ khắc nghiền
ngẫm lại cái ý nghĩ đó càng ngày càng hình thành rõ rệt, càng ngày càng chín muồi,
càng vững chắc trong tôi... và, thế là hậu quả đã dẫn đến...
Trê-nhi-a-ép im bặt. Ông ta gục đầu xuống, thở dài não nuột.
-- Vậy ông đã thực hiện quyết định man rợ ấy như thế nào? --
Lu-ga-nốp hỏi tiếp. -- Ông phải nói cho thật. -- Điều này rất cần thiết cho việc
điều tra. Nói thật chính xác.
-- Tôi thực hiện thế nào ư? Ôi, tôi đã phác ra bao kế hoạch
hành động. Nhưng tôi vẫn cứ thuyết phục Ôn-ga. Cho mãi đến khi cô ta nói rõ ý định
của mình ra là muốn bỏ đi thì tôi đã quyết định rất nhanh. Tôi thỏa thuận với
cô ta là, để tránh những lời đồn đại không hay, chúng tôi giả vờ làm như cô ta
chỉ đi nghỉ thôi. Đi chữa bệnh. Tôi sẽ lo việc lấy giấy tờ và mua vé. Tôi làm
việc đó không khó lắm. Nhưng sau khi đã đưa giấy tờ cho Ôn-ga, tôi đã giữ vé lại
và tôi đã lấy vé ngày hai mươi chín chứ không phải là hai mươi tám như dự định.
Tôi không nói cho cô ta biết điều này. Những việc tiếp theo thì đơn giản thôi.
Chiều tối hai mươi tám chúng tôi ra ga và tất cả những ai quen biết như cô láng
giềng Dê-len-cô, bà giúp việc và anh lái xe cùng một số bạn ở cơ quan tôi đều đến
tiễn. Mọi người đều tin rằng, Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na đã ra đi thực sự. Nhưng
mãi đến lúc lên tàu cô ta mới phát hiện ra sự "nhầm lẫn" vé đi không
đúng ngày. Ôn-ga buộc phải trở lại căn phòng vắng vẻ, vì cô láng giềng
Dê-len-cô đã đi trực ca đêm: tôi đã dò biết điều này trước. Tôi còn một hy vọng
cuối cùng. Tôi khuyên Ôn-ga hãy nghĩ lại, hãy bỏ cái anh chàng nào đó đi, hãy sống
yên lành với tôi. Tôi khuyên nhủ. Tôi van lơn và đe dọa. Nhưng tất cả đều vô
ích. Cô ta tỏ ý không thèm nghe tôi nói. Thế là tôi...tôi đã nổi khùng lên và
đánh luôn cô ta ngã xuống... -- Trê-nhi-a-ép nấc lên và im lặng, hai tay bưng mặt.
-- Có nên nói tiếp nữa không? -- Ông ta thều thào hỏi.
-- Có ai biết tội lỗi này của ông không? -- Lu-ga-nốp hỏi.
-- Không, làm sao mà biết được?
-- Ông đánh bằng tay phải hay tay trái? -- Mi-rô-nốp bỗng hỏi.
-- Tôi ấy à? Tất nhiên là tay phải. Tôi không phải là người
thuận tay trái.
-- Thế có ai trong số người quen, bạn bè của ông thuận tay
trái hay không? -- Mi-rô-nốp hỏi tiếp.
Trê-nhi-a-ép ngạc nhiên chằm chằm nhìn Mi-rô-nốp.
-- Không, hình như không. Tôi không biết. Tôi cũng chưa bao
giờ nghĩ đến điều này, nhưng việc này có ý nghĩa gì?
-- Có thể cũng có ý nghĩa gì đó. Nhưng chả sao, không có ai
thì thôi. Chúng ta quay lại vấn đề chính. Ông còn có thể nói thêm điều gì nữa
không?
-- Tôi đã nói hết rồi. Hãy xử án tôi. Hãy bắn tôi đi. Chết
là hết.
Mi-rô-nốp cười vang, thong thả rút thuốc lá ra châm hút. Anh
thoải mái nhả khói và chậm rãi nói:
-- Tôi nhìn kỹ, ông Trê-nhi-a-ép ạ, và tự hình dung về ông.
Ông là ai vậy? Một người Xô-viết, một sĩ quan, vào đảng đã lâu nhưng lại tỏ ra
như thế nào: "tôi tự lên án", "tôi tự thi hành bản án",
"việc riêng của tôi", "tôi", "của tôi" và
"hãy tin tôi". Ai cho ông quyền xử án một con người? Ông dựa trên cơ
sở nào? Đây là tôi chưa nói đến pháp luật xô-viết mà ông đã chà đạp lên mà chỉ
nói đến những nguyên tắc xã hội cơ bản mà mọi người đều biết, đến những tiêu
chuẩn của con người trong xã hội. Ông cũng đã chà đạp lên tất cả những điều đó.
Đầu tiên thì ông đã tự tay giết vợ mình mà không coi mình là tội phạm. Bây giờ
thì ông lại tự quyết định một cách dễ dàng cái biện pháp trừng phạt đối với số
phận của ông. Thật là kinh khủng đối với một con người như ông. Kinh khủng
và... không thể nào hiểu nổi. Những lời tuyên bố của ông không có giá trị bằng
một xu. "Tôi đã nói hết!", "tôi đã nhận hết!", "hãy xử
án tôi!", "hãy bắn tôi đi!". Thế nào là hết? Tôi nói thật, ông
chưa nói hết những điều cần nói từ đầu.
Trê-nhi-a-ép định nói nhưng Mi-rô-nốp đã giơ tay kiên quyết
ngăn lại. Anh dằn giọng:
-- Đúng thế. Ông chưa đi vào đầu đề đâu. Cuộc điều tra mới
chỉ bắt đầu thôi. Ông đã nói được điều gì? Ông đã nhận điều gì? Chả lẽ chỉ nhận
là đã giết Ôn-ga Vê-lít-cô là đủ chăng?
-- Thế những điều tôi nói với các ông như vậy còn ít lắm hay
sao? -- Trê-nhi-a-ép cau có hỏi lại, -- còn ít lắm hay sao? Tôi...tôi quả là...
các ông.
Trê-nhi-a-ép ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu rên rỉ.
-- Trời ơi! Các ông có biết cho rằng, -- ông ta rên qua đôi
môi nghiến chặt, -- tôi đã phải trả giá như thế nào cho sự thú nhận này không?
Tôi hoàn toàn thành khẩn thú nhận... Các ông có thể hiểu nổi điều đó không? Có
hiểu nổi không?
-- Có, tôi hiểu chứ, -- Mi-rô-nốp cười. -- Sao lại không hiểu
được. Cả một tấn hài kịch. Ông đã thú nhận, đã thành khẩn ra sao? Ông đã tự
giác, đã thành khẩn nhận điều gì nào? Ông chả nhận gì cả, ông chả tự thú điều
gì cả.Ông đã thông báo về hoàn cảnh giết cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na... Vê-lít-cô
chăng? Nếu vậy thì không cần "sự thú nhận" của ông, chúng tôi cũng biết
được, và ông nói lên điều đó khi mọi người đã biết rõ về nó. Cái giá của
"sự thú nhận" này là gì? Ông làm ra vẻ đau xót, nhưng ông chỉ nói lên
những điều mà ông đã bị vạch mặt. Ông không nói gì hơn ngoài những điều mà
chúng tôi đã biết... Không, ông Trê-nhi-a-ép ạ, câu chuyện của chúng ta còn lâu
mới kết thúc. Nó mới chỉ bắt đầu thôi.
-- Thế, thế các ông còn đòi hỏi gì ở tôi nữa? Tôi còn phải
thú nhận gì nữa? Chả lẽ những điều tôi nói như vậy còn ít ỏi hay sao? Chả lẽ
tôi đã tự nhận là chính tay tôi đã giết vợ -- cô Ôn-ga, người quý mến nhất đời
tôi -- còn chưa đủ để các ông tin hay sao? Chả lẽ như vậy còn nhẹ hay sao? --
Giọng nói Trê-nhi-a-ép ra vẻ căm uất và cuối cùng ông ta làm như gào lên.
-- Ông Trê-nhi-a-ép, không cần, thế đủ rồi, -- Mi-rô-nốp nói
với vẻ khinh bỉ và kinh tởm. -- Ông chả cần phải đóng kịch làm gì. Dù ông có
gào to hơn nữa thì ở đây cũng chả ai tin ông. Ông hiểu rõ hơn ai hết là, cần phải
nói gì. Ông hiểu rất rõ! Từ đầu cuộc nói chuyện tới giờ, ông chưa hề nói tới một
lời nào về việc vợ ông đã làm gì trong trại tập trung phát-xít, trong các trại
trao trả của quân Mỹ. Tại sao cô ta lại đổi họ là Vê-lít-cô? Đổi như vậy để làm
gì? Chả lẽ chúng tôi lại có thể tin được rằng, ông không biết gì những điều đó
hay sao?
-- Ôn-ga bị bắt làm tù binh và đã ở trong các trại trao trả
của quân đội Mỹ ư? Họ cô ta không phải là Vê-lít-cô ư? Không, không phải như vậy,
không thể như vậy được. Các ông suy diễn như vậy thôi... Các ông cần gì mà phải
nhạo báng tôi như vậy?
-- Này, ông phải biết rằng, sự kiên nhẫn cũng chỉ có hạn
thôi. -- Mi-rô-nốp, lần đầu tiên từ lúc hỏi cung đến giờ mới sẵng giọng, nói. --
Tôi kiên quyết đòi ông phải nói hết sự thật. Chúng tôi chờ sự thành khẩn của
ông đấy, ông Trê-nhi-a-ép ạ! Hay là ông thích để chúng tôi phải tiếp tục vạch mặt
ông?
-- Tôi không còn gì để mà nói nữa, -- Trê-nhi-a-ép khăng
khăng chối từ. -- Tôi khẳng định với các ông rằng, tôi đã nói hết những điều
tôi biết rồi.
-- Được, -- Mi-rô-nốp trầm ngâm, giọng đã dịu lại. -- Ông
Trê-nhi-a-ép ạ, ông cần phải suy nghĩ thêm cho nghiêm chỉnh. Nhưng trước hết,
ông phải biết tự xử sự ra sao đã. Đồng chí Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích, --
Mi-rô-nốp quay lại nói với Lu-ga-nốp, -- công dân Trê-nhi-a-ép đòi phải có lệnh
bắt thì ông ta mới nghe. Vậy đồng chí đưa lệnh cho ông ấy đọc.
Lu-ga-nốp lặng lẽ đưa tờ lệnh ra.
-- Như vậy để làm gì? -- Trê-nhi-a-ép nói, giọng vẫn bình thản
như không. -- Tôi có phản đối gì đâu...
-- Nhưng dầu sao thì ông cũng cứ đọc đi đã, -- Lu-ga-nốp
nói. -- Cho nó đúng thủ tục.
Trê-nhi-a-ép miễn cưỡng cầm tờ lệnh trong tay Lu-ga-nốp, lướt
mắt đọc nhanh những dòng chữ, nhưng bỗng rùng mình rồi đọc lại từng chữ, từng
câu.
-- À ra...a thế.. ế, -- ông ta kéo dài giọng và bặm môi lại.
-- Thế.. ế đấy. Té ra không phải là công an mà là cơ quan an ninh nhà nước bắt
tôi. Thế mà trước đây tôi không hề nghĩ tới điều này.
Tìm kiếm với từ khoá:
CHƯƠNG 16
Ngay sau khi kẻ bị bắt vừa được dẫn đi, An-đrây liền mang
theo tập biên bản hỏi cung đến gặp đại tá Xcơ-vô-re-xki.
-- Thế nào, -- đại tá hỏi -- Trê-nhi-a-ép thế nào? Khai hết
chứ?
-- Vâng, có khai nhưng chưa đạt lắm. Phải hơn một giờ đấu khẩu
với nhau. Mãi đến khi bị chúng tôi dồn vào chân tường và biết rằng không thể chạy
đi đâu được, ông ta mới nói.
-- Đâu, tôi xem xem Trê-nhi-a-ép khai gì nào? --
Xcơ-vô-re-xki hỏi và đưa mắt đọc lướt các tờ biên bản.
-- Ông ta mới nhận có một việc là đã giết vợ mình thôi.
-- Thế còn bản thông báo, vấn đề bao diêm, chìa khóa và ống
máng nước. Tôi hy vọng là các anh chưa đả động đến chứ?
-- Ồ, đồng chí Ki-rin Pê-tơ-rô-vích chả lẽ chúng tôi lại ngốc
đến thế? Chưa đến lúc phải lật tất cả con bài ra trước mặt ông ta, vả lại trong
tay chúng ta cũng không nhiều chứng cớ lắm.
-- Đúng vậy, -- Xcơ-vô-re-xki thở dài, -- chúng ta còn quá
ít bằng chứng cần thiết. Không nên vội vàng. Tuy thế cũng phải xác định cho được
mối quan hệ giữa Trê-nhi-a-ép và Vôi-xê-khốp-xcai-a, nhưng phải rất thận trọng.
Anh hãy suy nghĩ xem nên làm thế nào cho tốt. Không nên dềnh dàng vấn đề này.
-- Xin tuân lệnh, đồng chí Ki-rin Pê-tơ-rô-vích ạ. Chúng tôi
sẽ cố suy nghĩ xem nhưng có lẽ chả dễ dàng lắm đâu...Cho đến nay chúng ta cũng
không có bằng chứng gì về mối liên hệ trực tiếp giữa Trê-nhi-a-ép và Vôi-xê-khốp-xcai-a
-- Nhưng, điều đúng thì bao giờ cũng đúng. Còn việc khám nhà
Trê-nhi-a-ép thì sao? Các anh định bao giờ thì đi, bây giờ hay là sáng mai?
-- Nếu như đồng chí không phản đối thì chúng tôi nghĩ rằng
có thể đi ngay bây giờ. Lu-ga-nốp đang chờ tôi. Thời gian còn ít lắm. Vậy thì
việc gì phải để đến mai.
-- Tôi không phản đối. Việc gì làm được hôm nay thì nên làm
ngay. Các anh hãy hành động đi.
Sau khi đã thảo luận qua kế hoạch hành động và chọn hai nhân
viên giúp việc, Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp lên xe đến nhà Trê-nhi-a-ép. Họ mời viên
quản lý nhà cửa -- một người béo phị, đứng tuổi mà từ khi gặp đến giờ tay cứ
luôn luôn ôm lấy má và mồm thì không ngớt rên rỉ, kêu đau răng. Người thứ hai họ
mời làm chứng là Ôn-ga Dê-len-cô.
Sau khi giải thích kỹ cho hai người hiểu rõ thế nào là người
làm chứng, Mi-rô-nốp yêu cầu họ là tuyệt nhiên không được nói cho ai biết có cuộc
khám xét phòng của Trê-nhi-a-ép.
-- Việc phao tin đồn đại sẽ làm hỏng cuộc điều tra, --
Mi-rô-nốp nói.
-- Tôi hiểu chứ, -- ông quản lý nói rất trịnh trọng đến nỗi
hầu như quên cả chiếc răng đau. -- Tôi hiểu hết. Mọi quy tắc sẽ được thực hiện
nghiêm chỉnh. Tôi không phải trẻ con đâu! -- Ông ta vừa nói, vừa lau kính, giơ
ngón tay trỏ lên.
Dê-len-cô chỉ lặng lẽ gật đầu, không nói gì cả.
Qua những lần nói chuyện với Lép-cô-vích và Dê-len-cô,
Mi-rô-nốp đã hình dung được cách sắp đặt đồ đạc trong phòng Trê-nhi-a-ép. Dọc
theo đường hành lang rộng có mấy cửa lớn. Cửa bên trái thông đến một hành lang
hẹp hơn rồi dẫn vào bếp. Cửa đối diện là phòng Dê-len-cô.
Ở hai cửa bên trái kia là phòng ăn và phòng ngủ của vợ chồng
Trê-nhi-a-ép. Hai phòng này, đặc biệt là phòng ăn thì rộng hơn so với phòng ở của
Dê-len-cô. Hai phòng thông với nhau bằng một cửa riêng. Cả hai phòng đều bày biện
các đồ gỗ rất đẹp và tốt, mặt sàn đều trải thảm.
Khám xét bắt đầu từ phòng ăn. Hai người làm chứng -- ông quản
lý nhà và Dê-len-cô -- ngồi im trên ghế. Hai người không dấu nổi vẻ tò mò nhìn
từng hành động thành thạo và tự tin của các nhân viên điều tra. Thư ký tổ điều
tra -- một cán bộ cơ quan công an -- bắt đầu ghi biên bản khám xét, vẽ sơ đồ và
từng thứ đồ đạc trong nhà.
Trong khi đó Mi-rô-nốp đang chăm chú xem xét kỹ từng thứ đồ
đạc trong phòng như: mặt trong của bàn, ghế, đi-văng cho đến tủ buýp-phê.
Lu-ga-nốp cũng đang ngồi xổm trước cửa bếp lò, bới ra từng nắm tro và đặt vào tờ
báo trải rộng trên sàn gác. Anh làm việc đó một cách tỷ mỉ, thong thả, và chăm
chú xem đi xem lại từng nắm tro mới được lấy ra. Tro mỗi lúc một nhiều. Bỗng có
một tiếng động nhỏ. Nét mặt Lu-ga-nốp lúc đó giống như người đi săn khi phát hiện
ra dấu vết nào đó của con mồi, anh kiên nhẫn, thận trọng lần theo vết nó. Anh
chăm chú và nhẹ nhàng bới từng mẩu than lẫn trong tro. Cuối cùng anh cầm lấy một
mẩu gì cứng lẫn trong đó. Lu-ga-nốp đặt nó lên lòng bàn tay và anh vui mừng thấy
đây chính là chiếc cúc nhựa đã bị đốt cháy dở. Nó bị cháy sần sùi.
-- Thế chứ, -- Lu-ga-nốp nói, miệng cười hồ hởi. -- Chính
mày là thứ mà ta để tâm từ đầu đến giờ. Giờ thì đã rõ là tại sao Trê-nhi-a-ép lại
đốt lò vào những ngày tháng Năm. Chị Ôn-ga I-va-nốp-na, chị còn nhớ là chị đã
nói với chúng tôi điều này chứ? Có thể là chị cũng biết được vật này?
Lu-ga-nốp đưa chiếc cúc nhựa cháy dở cho Ôn-ga xem.
Dê-len-cô sững sờ hết nhìn chiếc cúc lại nhìn Lu-ga-nốp.
-- Đây là... -- Cô ngập ngừng nói. -- Đây là... ồ, đây chính
là một trong những chiếc cúc trên áo khoác của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Hôm đi
nghỉ chị... ấy... chị ấy... đã mặc chiếc áo đó.
-- Chắc chắn là chị không nhớ lầm đấy chứ? -- Mi-rô-nốp hỏi,
và rời khỏi chiếc ghế mềm mà anh đang khám xét.
-- Không, -- Dê-len-cô nói, vẻ kiên quyết. -- Không, tôi
không lầm đâu. Chính những chiếc cúc này đã đính ở áo khoác chị Ôn-ga mà...
nhưng tại sao nó lại nằm ở đây, ở trong lò này?
-- Không sao đâu chị Ôn-ga I-va-nốp-na ạ, chị đừng lo. --
Mi-rô-nốp an ủi. -- Mọi việc sẽ được dần dần sáng tỏ. Nhưng chị có còn nhớ là
cái áo ấy có bao nhiêu chiếc cúc không? Hai, ba hay bốn chiếc?
-- Tôi không nhớ đâu, -- Dê-len-cô băn khoăn trả lời. -- Quả
thật là tôi cũng không chú ý lắm.
-- Nhưng dầu sao, thì cũng không phải chỉ có một chiếc chứ?
-- Vâng, tất nhiên là không phải chỉ có một chiếc. Mấy chiếc
ở mặt ngoài còn một chiếc đính ở mặt lót bên trong. Khi tôi xem chiếc áo khoác,
tôi còn hỏi chị ấy là đính làm gì chiếc cúc này thì chị ấy nói: "Để phòng
lúc có chiếc nào đó bị đứt thì sẽ có cái thay. Loại cúc này hiếm nên không phải
lúc nào cũng dễ kiếm..."
-- Thế là rõ rồi, -- Lu-ga-nốp nói và lại đổ tro vào bếp lò
sưởi. (Dĩ nhiên là anh chả cần tìm gì thêm ở trong đống tro ấy nữa). Đây có lẽ
là một cái bị đứt ra...Những cái khác có lẽ đã bị cắt khỏi áo...
-- Sao? Cắt ra à? Ai cắt? -- Dê-len-cô hồi hộp hỏi.
-- Chưa đến lúc kết luận được, -- Mi-rô-nốp nhắc lại. --
Ôn-ga I-va-nốp-na ạ, cứ bình tĩnh. Sẽ có lúc chị được biết hết.
Sau khi đã xem xét kỹ các đồ dùng, bàn ghế trong phòng ăn,
Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp liền đẩy chúng vào sát tường và cuộn tấm thảm lên để
xem. Nhưng cuộn chưa được nửa tấm, họ đã nhận thấy có một vết thẫm in trên mặt
sàn nhà.
-- Đồng chí thiếu úy, -- Lu-ga-nốp gọi chuyên viên xét nghiệm,
-- lại đây. Anh có việc làm ăn rồi đây. Xem xem vật gì đây. Chị Ôn-ga I-va-nốp-na,
-- anh quay lại hỏi Dê-len-cô, -- chị có biết Trê-nhi-a-ép mua tấm thảm này từ
lúc nào không? Mua đã lâu chưa?
-- Nhớ chứ -- Dê-len-cô sốt sắng trả lời ngay. -- Ông ấy mua
chưa lâu lắm đâu. Khoảng ba bốn tháng trước đây thôi. Có lẽ bốn tháng thì đúng
hơn.
-- Chị cố nhớ và xác định kỹ xem, -- Mi-rô-nốp nói, -- tấm
thảm này có trước hay sau khi cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na đi?
-- Ồ, sao các anh lại hỏi kỹ thế, tất nhiên là có sau. Khi
chị ấy đi được vài ba hôm thì ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích mới mang tấm thảm
này về. Điều này, tôi còn nhớ rõ lắm. Chính ông ấy chỉ cho tôi xem và còn nói
rõ là mua ở cửa hàng đồ cũ.
-- Thế thì rõ rồi, -- Lu-ga-nốp trầm ngâm. -- Một thủ đoạn!
-- Thế cậu nghĩ rằng... -- Mi-rô-nốp thận trọng nói. -- Cậu
đoán rằng tấm thảm này có vấn đề...
-- Việc gì phải nghĩ, phải đoán nữa? -- Lu-ga-nốp lẩm bẩm.
-- Chúng mình có phải mù đâu mà không thấy. Mình có thể đoán trước được kết quả
phân tích... -- Anh vừa nói vừa hất đầu về phía sĩ quan xét nghiệm.
-- Đúng đấy, -- Mi-rô-nốp gật đầu tán thành. -- Bức tranh
này càng rõ nét hơn. Tấm thảm xuất hiện không bình thường lắm. Cậu phân tích đúng...
Sự việc trùng hợp: cái này, -- Mi-rô-nốp hất đầu chỉ vào tấm thảm, vết sẫm trên
sàn nhà và chiếc cúc áo, -- tất cả đều rõ ràng rồi. Chả có gì mới cả. Ta cần những
điều mới nữa cơ.
-- Thế thì sao? -- Lu-ga-nốp dang tay nói. -- An-đrây
I-va-nô-vích, cậu còn hoạnh họe gì nữa. Đây chả phải là tang chứng, những tang
chứng trực tiếp là gì? Cậu còn muốn gì hơn nữa?
-- Đúng, chả lẽ mình không hiểu rằng đây là những tang chứng
quan trọng chăng? Mình biết rõ giá trị của những tang chứng này. Nhưng mình còn
muốn gì thêm nữa... Tất nhiên là mình không cầu toàn nhưng mình vẫn hy vọng là
còn có thể tìm thêm cái gì nữa. Và, cái ấy sẽ giúp thêm tang chứng vào quá
trình cuộc điều tra của chúng ta được tốt hơn...
-- Được thôi, -- Lu-ga-nốp gật đầu. -- Rồi xem còn tìm được
gì nữa... Dù sao thì vẫn cứ phải tiếp tục...
Họ khám xét phòng ăn thêm một lúc nữa nhưng chẳng thấy gì
hơn. Tổ công tác cùng những người làm chứng chuyển sang phòng ngủ. Lu-ga-nốp bắt
đầu xem xét từ tủ treo áo kê sát vào mặt tường đối diện với cửa sổ. Mi-rô-nốp
thì chú ý tới hai chiếc giường ngủ sang trọng kê cách nhau độ hơn hai thước và
hai bàn ngủ cũng bằng gỗ tốt như loại gỗ đóng giường.
Lu-ga-nốp xem rất kỹ các lớp gỗ của tủ treo áo. Giá áo hầu
như trống đến một nửa. Trong giá chỉ vẻn vẹn có mấy bộ quần áo ngủ, áo vét và
quân phục của đàn ông. Quần áo phụ nữ mà rõ ràng là trước đây chiếm khá nhiều
chỗ trong giá treo này, bây giờ không có lấy một bộ. Phần lớn các ngăn tủ đều rỗng
tuếch: chỉ còn vài chiếc áo sơ mi và quần đùi.
Tủ áo cũng không thấy có gì đặc biệt, Lu-ga-nốp quyết định
xem phía trên nóc tủ.
Bắc chiếc ghế, anh trèo lên xem phần nóc tủ và thận trọng gõ
gõ mặt sau và hai bên thành tủ. Vẫn không có gì đáng ngờ cả. Trong lúc đó,
Mi-rô-nốp đang mày mò xem xét chiếc bàn ngủ. Đầu tiên anh xem chiếc bàn ngủ đặt
ở đầu giường mà nhìn qua người ta có thể biết ngay là giường của Trê-nhi-a-ép.
Trên đáy bàn là một đôi dép đi trong phòng ngủ, vài đôi tất và một vỏ bao thuốc
lá. Trong ngăn kéo trên thì lộn xộn mấy thứ: khăn tay, bao kính, vài chiếc lọ
và hộp thuốc phòng bệnh.
Đặt tất cả những thứ đó lên giường, Mi-rô-nốp xem kỹ đáy, mặt
trên và thành bàn ngủ. Nhưng cũng như Lu-ga-nốp, anh chả tìm được gì hết.
Xem xong, anh lại đặt các vật dụng vào như cũ. Mi-rô-nốp đến
chiếc bàn ngủ đặt cạnh giường Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Bàn này trống rỗng. Nhưng
Mi-rô-nốp vẫn chăm chú xem rất kỹ. Anh tưởng rằng cũng như cái trước, và anh sẽ
chả tìm thấy gì. Nhưng, khi vừa kéo chiếc ngăn kéo ra, Mi-rô-nốp chợt chú ý:
hình như lòng ngăn kéo này ngắn hơn là chiếc ngăn kéo bàn ngủ Trê-nhi-a-ép.
Mi-rô-nốp bèn lấy cả hai chiếc đặt song song bên nhau để đo thử. Anh kêu lên
vui mừng, anh đã không nhầm: lòng ngăn kéo bàn Ôn-ga ngắn hơn là lòng ngăn kéo
bàn của Trê-nhi-a-ép. Thật là một điều đáng ngờ vì cả hai chiếc bàn ngủ này đều
cùng một kiểu như nhau.
Để kiểm tra lại mối hoài nghi, Mi-rô-nốp liền lấy chiếc ngăn
kéo bàn Trê-nhi-a-ép đút vào ô kéo bàn Cô-nhi-lê-va: chiếc ngăn kéo này không
vào hết. Nó thừa đến hai phân rưỡi, Mi-rô-nốp lại đo chiều dài ngăn kéo với chiều
dài của bàn thì thấy hai mép khớp nhau. Đáng lẽ thì ngăn kéo phải đóng vào hết
nhưng nó vẫn không vừa...
-- Thế đấy, -- Mi-rô-nốp suy nghĩ, vẻ hài lòng, -- vấn đề là
ở chỗ này đây.
Thấy Mi-rô-nốp cứ loay hoay với những chiếc ngăn kéo,
Lu-ga-nốp ngừng tay nhìn Mi-rô-nốp như muốn hỏi.
-- Có lẽ, có chuyện bí hiểm ở đây, -- Mi-rô-nốp nói, vẻ bí mật.
-- Ta sẽ kiểm tra ngay xem.
An-đrây đề nghị Dê-len-cô tìm hộ búa và chìa vít. Mi-rô-nốp
và Lu-ga-nốp liền bắt tay vào việc. Nhẹ nhàng và thận trọng, họ vặn đinh mở nắp
bàn ngủ.
Chẳng ngờ mặt trên vừa cạy đã bật ra ngay, nhưng cũng không
có gì đặc biệt cả.
Họ chuyển sang xem xét chiếc bàn Trê-nhi-a-ép. Tấm gỗ trên
ghép khá chặt nên họ mất một lúc loay hoay mới mở được. Khi mặt trên vừa bật
ra, cả Mi-rô-nốp lẫn Lu-ga-nốp đều nhìn thấy ngay là tấm gỗ mặt sau của bàn này
mỏng hơn nhiều so với mặt sau bàn Cô-nhi-lê-va. Mi-rô-nốp liền đo. Không còn
nghi ngờ gì nữa: mặt sau của bàn Cô-nhi-lê-va dày hơn đến hai phân so với bàn
Trê-nhi-a-ép.
Họ liền lật cả hai bàn lên và đo phần dưới của tấm gỗ mặt
sau thì thấy chiều dày của hai phần này bằng nhau.
Nhiệm vụ bây giờ đã rõ hơn rồi: Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đều tập
trung nghiên cứu tỷ mỉ mặt sau chiếc bàn ngủ của Cô-nhi-lê-va. Mấy phút sau
An-đrây phát hiện thấy một miếng gỗ mỏng được ghép khớp rất khéo, nó vừa vặn
khung mặt sau ngăn kéo. Trông nó giống như chiếc hộp bút học sinh được gắn rất
kín đáo vào phần trên sát vừa khung ngăn kéo! Một miếng gỗ ghép làm nắp, tạo ra
một chiếc hộp bí mật.
-- Hộp bí mật. Chính là một ngăn bí mật, -- Mi-rô-nốp vui mừng
reo lên.
-- Đúng, đúng, -- Lu-ga-nốp cũng thốt lên. -- Một ngăn bí mật
rất tinh vi.
-- Ông quản lý và cô Dê-len-cô, -- Mi-rô-nốp gọi hai người.
-- Mời lại gần đây, lại đây. Sự chứng kiến của hai đồng chí lúc này rất cần thiết
và quan trọng.
Cả hai người làm chứng hầu như nín thở chăm chăm nhìn chiếc
ngăn bí mật.
-- Ồ, cái hộp kỳ lạ, -- ông quản lý đứng sững một lúc và
quên cả chiếc răng đau, nói liền một mạch. -- Họ dấu vàng ở đây chắc? Có lẽ cả
kim cương hay đá quý nữa.
-- Vàng gì? Ở đây có lẽ còn có cái gì đó hấp dẫn hơn cả vàng
nữa. Chúng ta sẽ mở xem, -- Mi-rô-nốp nói và bằng một động tác thành thạo, anh
nậy miếng gỗ nắp ra và rút trong hộp đó một vật gì nho nhỏ giống như chiếc bật
lửa màu đen. -- Đây, chính đây là một kiểu máy ảnh, hết sức tinh xảo, loại hiện
đại nhất hiện nay. Loại này mặc dầu cỡ phim rất nhỏ nhưng vẫn có thể phóng ra
những bức ảnh lớn được. Nó có thể tự động chụp trong những phòng ánh sáng yếu.
Anh lại lấy ra một lọ thủy tinh nhỏ có nắp vặn bằng nhựa.
-- Thế chứ, -- Mi-rô-nốp tiếp tục giải thích, -- đây là một
thứ mực hóa học dùng để đọc các thư mật. Đồng chí chuyên viên xét nghiệm xẽ
phân tích. A! Đây nữa, chiếc bút chì hóa học. Loại bút này viết chữ nhưng nếu
không có thuốc hóa học hoặc những kính đặc biệt thì không đọc được. Còn cái này
là gì? Bút máy chăng? Phải cẩn thận với nó đấy. -- Nó có thể bắn được đấy.
Cuối cùng Mi-rô-nốp lôi ra một quyển sổ nhỏ ghi chi chít các
con số và mật mã. Hết vật này đến vật khác được bày ra trước mắt mọi người, thật
là đầy đủ một "kho" nhỏ các phương tiện gián điệp.
Cuộc khám xét kết thúc, những người làm chứng đường hoàng ký
vào biên bản khám xét đã ghi đầy đủ các tang vật tìm được. Mọi việc xong xuôi,
Mi-rô-nốp, Lu-ga-nốp thay mặt tổ điều tra cảm ơn và xin lỗi người quản lý nhà
và Dê-len-cô. Trước khi về cơ quan, họ khóa và niêm phong cẩn thận các cửa
phòng Trê-nhi-a-ép.
Đã quá nửa đêm rồi, nhưng Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp vẫn chưa ai
định về nhà. Họ chưa thể chia tay nhau được vì lòng họ đang xúc động trước kết
quả cuộc điều tra và cả hai đều muốn trao đổi những suy nghĩ, những nhận định của
mình với nhau.
-- Một chuyện hứng thú thật, -- Lu-ga-nốp vừa nói vừa đi đi
lại lại trong phòng, trong khi Mi-rô-nốp nằm ngửa trên ghế, miệng thở từng làn
khói đặc lên trần nhà. -- Thật là hết sức lạ lùng và thú vị. Điều gì cần nói ở
đây? Chả lẽ Trê-nhi-a-ép lại không biết tý gì về ngăn kéo bí mật ấy chăng? Có
thể như thế lắm. Nếu như biết thì tại sao lại không phá hủy nó trước khi ông ta
định bỏ đi xa. Còn Cô-nhi-lê-va thì sao? Chà chà, cô Ôn-ga Vê-lít-cô! Đúng là một
người đàn bà khó hiểu! Cô là ai vậy, Vê-lít-cô?
-- Đúng đấy, -- Mi-rô-nốp trầm ngâm nói, -- vụ án càng ngày
càng phức tạp. Nhưng tôi thấy rằng, cậu hơi vội vàng đấy, Va-xi-li
Nhi-cô-lai-ê-vích ạ. Hơi vội thật đấy. Tôi cho rằng, Trê-nhi-a-ép không phải là
vô tình khi để lại cái ngăn kéo bí mật đó.
-- Thế nào là không phải vô tình? Thế tức là theo như lời cậu
nói, thì Trê-nhi-a-ép có biết cái ngăn kéo bí mật đó, và cố ý để nó lại chứ
không phá đi. Đúng thế không?
Mi-rô-nốp trầm ngâm một lát rồi nói:
-- Mình không phỏng đoán gì cả mà chỉ là suy luận vậy. Trong
công tác chúng ta điều quan trọng là phải có sự kiện và chứng cớ. Chứng cớ, chứng
cớ và lại chứng cớ. Mà dù có suy luận hay phỏng đoán gì đi nữa thì cũng phải có
chứng cớ. Vậy chúng ta đã có chưa? Đã có rồi. Nhưng vẫn còn quá ít và quá sớm để
rút ra những kết luận cần thiết và chính xác... Nói thật ra, nếu không có những
sự việc xảy ra ở ống máng, việc ám hại Xa-vê-li-ép thì, có thể tôi cũng đồng ý
với quan điểm của cậu cho rằng cái ngăn kéo bí mật kia có thể là do bàn tay
Cô-nhi-lê-va tạo nên, còn Trê-nhi-a-ép thì hoàn toàn không biết gì. Nhưng bây
giờ thì quan điểm đó đã phá sản rồi. Mình không thể kết luận ngay được. Tất
nhiên là không thể không tính đến chuyện ống máng, chuyện ám hại Xa-vê-li-ép và
cuối cùng là mụ Vôi-xê-khốp-xcai-a. Nhưng dầu sao thì cũng còn nhiều điều mờ
ám, khó hiểu quanh Trê-nhi-a-ép. Nhiều điều mờ ám nhưng đáng tiếc là chứng cớ
thì lại còn ít, quá ít để có thể kết luận vấn đề được.
-- An-đrây I-va-nô-vích ạ, cậu làm tôi ngạc nhiên quá đấy.
Theo ý cậu thì chúng ta còn ít chứng cớ à? Thế việc Cô-nhi-lê-va là tù binh
phát-xít Đức, việc cô ta đã từng sống trong các trại trao trả của quân đội Mỹ
thì sao? Đối với cậu, đấy chưa phải là chứng cớ chăng? Còn ngăn kéo bí mật, cái
hộp con đó, quả thật là như ma xui quỷ khiến, không phải chúng mình tìm thấy ở
đâu khác mà lại chính ở chiếc bàn ngủ ngay bên giường của Ôn-ga Cô-nhi-lê-va.
Còn việc tại sao cô ta lại đổi họ Cô-nhi-lê-va thành Vê-lít-cô? Đây tôi chưa
nói đến những bằng chứng mà chúng ta đã có về quá khứ của cô ta... Không, không
phải bị phá sản đâu, các chứng cớ hiển nhiên đó không thể bác bỏ được! Hiển
nhiên quá rồi.
-- Ồ, Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích ạ, tôi vẫn muốn nói với cậu
rằng, cậu hơi vội đấy. Nếu thế thì tôi lại có những chứng cớ khác. Thế việc
Cô-nhi-lê-va tự nguyện ra mặt trận thì sao? Có phải là chứng cớ không? Còn lời
nhận xét của Xa-đốp-xki về tư cách cô ta thì sao? Cậu quên điều đó hay sao? Những
điều đó còn quá ít chăng? Mình sợ rằng cậu lại tin vào những lời khai của
Trê-nhi-a-ép rồi đấy.
-- Sao lại tin vào Trê-nhi-a-ép? Cậu nói gì lạ vậy? --
Lu-ga-nốp vội cãi lại. -- Tại sao lại dính Trê-nhi-a-ép vào đây?
-- Thế cậu vẫn không đoán được vì sao à? Cậu cứ thử nhớ lại
một chút xem, trong buổi hỏi cung sáng nay Trê-nhi-a-ép có đả động gì tới cái
ngăn kéo bí mật không? Theo giả thuyết của cậu thì có lẽ chúng ta nên đồng ý với
lời khai của ông ta chăng? Có phải thế không?
Lu-ga-nốp phản đối:
-- Không, không hoàn toàn như vậy. Điều tra thì cứ phải điều
tra. Tất nhiên không thể tin hết ngay những lời khai của Trê-nhi-a-ép. Nhưng
cũng phải xét đến những tang vật như máy ảnh và các thứ khác tìm thấy trong
ngăn kéo bí mật của Cô-nhi-lê-va.
-- Đúng, đó lại là chuyện khác, -- Mi-rô-nốp nói, -- nhưng
tôi thấy vẫn chưa nên kết luận vội. Không thể nào khác được.
-- Thì tôi cũng đã vội kết luận gì đâu, -- Lu-ga-nốp phân trần,
-- nhưng việc gì đã rõ rồi thì cứ phải dứt khoát chứ. Tôi cho rằng: cái bàn ngủ
kia là của Cô-nhi-lê-va. Ta không nên nghi hoặc gì điều đó nữa...
Đây là lần đầu tiên nhận định của hai người không thống nhất
được với nhau. Sáng hôm sau cuộc tranh luận lại diễn ra sôi nổi hơn nhưng không
phải trong phòng của họ mà là ở phòng đại tá Xcơ-vô-re-xki. Đại tá vẫn cứ im lặng,
chăm chú lắng nghe lý luận của hai người. Về mặt nhận thức, trong thâm tâm, ông
có vẻ nghiêng về phía Lu-ga-nốp. Cái khó chính lại là chỗ ngăn kéo bí mật.
Trong thực tế, nếu như Trê-nhi-a-ép biết có cái ngăn kéo đó thì tại sao ông ta
vẫn để lại mà không phá nó đi để phi tang? Nhưng đại tá cũng không thể bác bỏ
được những lý lẽ của Mi-rô-nốp. Hơn nữa, đã hiểu An-đrây từ nhiều năm nay nên đại
tá vẫn phải tin vào "tài đánh hơi" tình báo nhà nghề của anh.
các anh. Bây giờ cứ giải quyết thế này đã. Hãy bám chặt lấy
Trê-nhi-a-ép, tiến hành hỏi cung liên tục ông ta. Ai đúng, sẽ phân giải sau. Việc
này cần phải có thời gian nhưng nhất định sẽ phải phân giải.
Tìm kiếm với từ khoá:
Soi Chi Mong Manh
1001 truyện trinh thám tuyệt hay
Gồm “Chiếc Nhẫn Tình Cờ-Những Người Thích Đùa-Pháo Đài Số- Sherlock homes-Điệp Vụ Bí Ẩn-Chinh Đông Chinh Tây-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân-Xâu Chuỗi Ngọc Trai-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-Chuến Tàu 16 Giờ 50-Trại Giam Địa Ngục-Nnghinf Lẻ Một Đêm-Rừng Thẳm Tuyết Dày-Nam Tước Phôn gôn Rinh-xâu chuôi ngoc trai cái kính chiếc khuy đong soi chi mong manh
VV…” https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
VV…” https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
TRUYEN TRINH THÁM
“Chiếc Nhẫn Tình Cờ
Pháo Đài Số
nhưng điêp vu bi ân
nhưng ngươi yhichs đùa
chinh tây
an mang đêm cuoi năm
-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân
-Xâu Chuỗi Ngọc Trai
-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết
-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-
Chuến Tàu 16 Giờ 50
-Trại Giam Địa Ngục1
-Nnghinf Lẻ Một Đêm
nghin le mot đêm 1-10
-Rừng Thẳm Tuyết Dày
-Nam Tước Phôn gôn Rinh
xâu chuôi ngoc trai
Chuyến tàu 16 giờ 50
chiếc khuy đong
cái kính
Soi chi mong manh
VV…”
https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
Pháo Đài Số
nhưng điêp vu bi ân
nhưng ngươi yhichs đùa
chinh tây
an mang đêm cuoi năm
-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân
-Xâu Chuỗi Ngọc Trai
-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết
-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-
Chuến Tàu 16 Giờ 50
-Trại Giam Địa Ngục1
-Nnghinf Lẻ Một Đêm
nghin le mot đêm 1-10
-Rừng Thẳm Tuyết Dày
-Nam Tước Phôn gôn Rinh
xâu chuôi ngoc trai
Chuyến tàu 16 giờ 50
chiếc khuy đong
cái kính
Soi chi mong manh
VV…”
https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]