soi chi mong manh
CHƯƠNG 5
Ngay sau khi về tới Crai-xcơ, Lu-ga-nốp đi thẳng từ sân bay
tới gặp Mi-rô-nốp. Khi anh vừa báo cáo xong về tình hình cuộc gặp gỡ với
Cu-dơ-nét-xốp, Mi-rô-nốp liền đề nghị ngay:
-- Chúng ta phải mời cô Ôn-ga Dê-len-cô tới và nói hết với
cô ta xem. Căn cứ theo các giấy nhận xét mà ta có thì cô ta là một người đứng đắn,
nghiêm nghị, đoan trang chứ không phải loại ba hoa. Cô ta đã sống hai năm nay cạnh
buồng vợ chồng Trê-nhi-a-ép, do đó có thể là biết được nhiều về gia đình này.
Lu-ga-nốp đồng ý. Ngày hôm sau, Ôn-ga Dê-len-cô đã có mặt tại
buồng làm việc của họ.
Mi-rô-nốp giải thích nguyên nhân việc mời cô đến. Chả là có
một việc hiểu lầm đã xảy ra và có liên quan đến cô nên mời cô đến để hỏi thêm
cho rõ. Sự hiểu lầm như thế nào, anh sẽ nói sau.
-- Bây giờ, -- Mi-rô-nốp nhấn mạnh, -- trước hết cần phải thống
nhất với nhau là, câu chuyện giữa chúng ta hôm nay phải giữ kín giữa ba người
thôi.
Tuy nhìn anh với vẻ băn khoăn, hồi hộp nhưng Dê-len-cô vẫn
im lặng gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
-- Mấy năm nay chị vẫn sống, -- Mi-rô-nốp tiếp, -- trong
cùng một nhà với gia đình Trê-nhi-a-ép. Chúng tôi cần biết càng kỹ càng tốt về
gia đình này. Chị có thể cho chúng tôi biết tất cả những gì chị biết. Tôi xin
nhắc lại là, điều này rất quan trọng.
Ôn-ga mỗi lúc một băn khoăn và ngạc nhiên hơn.
-- Vợ chồng Trê-nhi-a-ép à? -- Cô hỏi. -- Ca-pi-tôn
Trê-nhi-a-ép? Chả lẽ ông ấy làm điều gì xấu hay sao? Tôi biết gì về ông ta à?
Ông ấy làm gì còn gia đình nữa. Cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na đã bỏ đi rồi, đi hẳn
rồi.
-- Chúng tôi không cần biết nhiều về Ca-pi-tôn
I-la-ri-ô-nô-vích. -- Mi-rô-nốp nói thêm. -- Tôi không hỏi chị về ông ta mà hỏi
về gia đình ông ấy. Nếu chị muốn thì tôi nói thêm. Đúng hơn là chúng tôi muốn
biết rõ về Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Điều này có nguyên nhân của nó. Chị có thể
cho biết là vợ Trê-nhi-a-ép đã kiếm được những loại quần áo ngoại ở đâu trong
khi các cửa hiệu ở Crai-xcơ đều không có bán. Chúng tôi hy vọng là chị biết và
có thể giúp đỡ chúng tôi, vì chị sống cạnh buồng vợ chồng Trê-nhi-a-ép và lại
chơi thân với cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Chúng tôi cũng cần biết mối quan hệ bạn
bè thân thích của vợ chồng Trê-nhi-a-ép. Chị có thể cho biết về những điều đó
được không?
-- Tôi... Dê-len-cô ngập ngừng. -- Tôi rất vui sướng được
giúp đỡ các đồng chí nhưng tôi có thể giúp điều gì được?
Hai tay vo đi vo lại chiếc khăn tay, Dê-len-cô bắt đầu kể.
Cô hồi hộp, vừa như nhớ lại vừa như lựa chọn từng ý từng điểm chi tiết. Theo lời
cô: Ôn-ga Vê-lít-cô không thích may sắm quần áo như bất cứ cô gái đẹp nào khác,
mặc dầu cô ta quả là một cô gái đẹp, rất đẹp là đằng khác.
Nhưng Vê-lít-cô có phải ham mê quá đáng việc ấy không?
Không. Ôn-ga Dê-len-cô không nhận thấy điều đó. Nhưng cô ta có điều gì đó hơi lạ
lùng: cô cứ thẫn thờ. Điều này tôi có nhận thấy. Lúc thì cô ta ngồi bần thần suốt
buổi ở trong phòng mình, lúc thì ngồi hàng giờ ở phòng Dê-len-cô. Cô ta cũng có
nói đùa, cười đấy nhưng thật là gượng gạo và giả tạo. Cô ta có điều gì có vẻ lạ
lùng, khó hiểu nhưng nói chung là một cô gái hiền lành, tốt bụng.
Còn cô ta mua những hàng ngoại và các vật trang sức cổ đắt
tiền ở đâu thì Dê-len-cô không biết rõ. Chưa bao giờ cô hỏi Ôn-ga
Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô về chuyện này và cô cũng không kể cho Dê-len-cô biết
gì cả. Dê-len-cô cũng không để ý đến việc Ôn-ga thích la cà ngoài phố xá và các
hiệu may. Chưa bao giờ Ôn-ga khoe với Dê-len-cô về việc này. Chị ta nói chung,
là một người kín đáo, không hay nói gì về những điều mà mình suy nghĩ
Còn thái độ của Ôn-ga đối với chồng ra sao? Điều này khó nói
lắm. Hình như không đến nỗi tồi nhưng Dê-len-cô cũng thấy họ không có vẻ gì đằm
thắm đặc biệt lắm. Có lẽ Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích đối với vợ tốt hơn, chiều
vợ hơn là cô ta đối với ông ấy. Lúc nào ông cũng có vẻ bình tĩnh, điềm đạm, còn
chị ấy thỉnh thoảng lại gắt toáng lên như người loạn thần kinh vì những chuyện
không đâu, mà chả thấy ngượng vì có bạn là Dê-len-cô ở đấy.
Đang nói về mối quan hệ giữa vợ chồng Trê-nhi-a-ép, Ôn-ga
Dê-len-cô bỗng có vẻ lúng túng, ngừng một lát.
-- Các đồng chí biết không. -- Cô nói tiếp. -- Có lẽ vì
Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na đã có một người chồng khác, rất già...Tôi đã thấy ông
ta.
-- Đã thấy à? -- Mi-rô-nốp hỏi. -- Chị gặp ở đâu? Lúc nào?
Chị hãy nói kỹ điểm này một chút.
-- Bao giờ nhỉ? Vào khoảng mùa đông năm ngoái, đúng là đầu
mùa đông năm ngoái. Trưa hôm đó tôi đi trực về (tôi là y tá bệnh viện khi thì
trực sáng khi thì trực tối) bỗng nghe trong buồng Trê-nhi-a-ép có tiếng ồn ào rồi
tiếng kêu gì đó. Chuyện gì vậy? Tôi tự hỏi. Thời gian này Ca-pi-tôn
Trê-nhi-a-ép rất bận, luôn ở cơ quan. Ngay lúc đó Ôn-ga kêu lên lời gì đó tôi
chỉ nghe loáng thoáng qua cửa mà thôi. Tất nhiên, tôi phải gõ cửa xem sao. Tôi
nghĩ, phải xem xem sao, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì thì phải giúp chị ấy chứ.
Tôi chưa kịp gõ, bỗng cánh cửa buồng bật mở và một người đàn
ông lạ mặt xồng xộc đi ra, ngay trước mặt tôi. Tôi chưa hề gặp người này bao giờ.
Tóc đã điểm bạc, có râu. Tôi giật nảy người, lùi lại. Còn ông ta thì vụt đi qua
mặt tôi, vội vã xuống cầu thang, đi nhanh gần như là chạy ấy. Trông ông ta rất
già...
Tôi đứng sững cạnh cửa sổ ở hành lang, bàng hoàng vì chả hiểu
chuyện gì đã xảy ra. Ngay lúc đó Ôn-ga cũng bước ra, một tay ôm cổ. Trông chị ấy
vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh nhưng mặt thì tái nhợt hẳn đi. Chị ấy mỉm cười nhìn tôi
nhưng rõ ràng là rất gượng gạo vờ làm vui mà thôi.
"Sao, Ôn-ga. -- Chị ấy hỏi. -- Sợ à? Vào đây với tôi
đi, vào đi, không có gì đâu. Không có gì đáng sợ đâu. Ông ấy, chị biết không,
chồng cũ của tôi đấy. Ông ấy không có gì đáng sợ đâu, đáng thương là đằng khác.
Rất yêu tôi nhưng làm sao được!.."
-- Thế về sau cô ta có nói gì với chị về chuyện đó nữa
không? -- Mi-rô-nốp hỏi.
-- Không, chả nói gì, cả về chuyện buổi trưa hôm đó, cả về
người chồng cũ của mình. Chị ấy không thích nhắc đến quá khứ. Tôi đã nói từ đầu
với các đồng chí rằng chị ta rất kín đáo...
-- Thế chị có biết gì về việc Vê-lít-cô bỏ đi, về việc chị ta
bỏ Trê-nhi-a-ép không? -- Lu-ga-nốp hỏi tiếp. -- Chị thử nhớ kỹ xem, càng chi
tiết càng tốt.
-- Chi tiết gì nhỉ? -- Dê-len-cô vừa hỏi vừa suy nghĩ. -- Chả
có gì đặc biệt cả. Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na nói là đi chữa bệnh ở Ki-xlo-vơ-xcơ.
Chị ấy đi một mình như lần đi năm ngoái ấy. Và tôi cũng không nghĩ rằng, chị ấy
không trở lại.
-- Thế theo ý chị thì, -- Mi-rô-nốp hỏi xen vào. --
Trê-nhi-a-ép có biết là cô ta sẽ bỏ đi hẳn không? Chị có nhận thấy gì khác trước
lúc cô ta đi không?
-- Tôi chả nhận thấy có gì đặc biệt cả. Và, dĩ nhiên là
Trê-nhi-a-ép cũng không ngờ tới điều đó. Chính ông đã tiễn chị ấy ra ga. Tôi nhớ
rõ là lúc ấy tôi cũng có mặt ở đấy, ông ấy đi làm về lúc gần tối và xe vẫn chờ ở
dưới đường. Ông ấy lên nhà một lúc và cùng Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na đi ra.
Trê-nhi-a-ép xách va-li cho chị ấy. Tôi tiễn họ ra đến xe ôtô. Họ lên xe và lái
đi. Còn tôi cũng đi đến bệnh viện nhận trực ca đêm. Trê-nhi-a-ép có vẻ thẫn thờ.
Ông buồn trong những ngày Ôn-ga vắng nhà. Một tháng, rồi hai tháng trôi qua
nhưng chị ấy vẫn không trở về. Một hôm tôi gặp ông ấy và hỏi là có chuyện gì mà
sao mãi không thấy chị ấy về thì Ca-pi-tôn trả lời: "Chả có chuyện gì cả,
chỉ có điều là cô ấy không muốn về với tôi nữa. Cô ấy bỏ đi rồi. Chúng tôi đã
ly dị..."
Kể xong, Ôn-ga Dê-len-cô nhìn Mi-rô-nốp như muốn hỏi: thế
nào, đủ rồi chứ? Ngay lúc đó Mi-rô-nốp thong thả rút lá thư của Cu-dơ-nét-xốp
ra và đưa cho cô xem. Thấy nét chữ quen thuộc, Dê-len-cô cau mày và môi dưới
mím lại. Khuôn mặt cô lộ vẻ ngạc nhiên.
-- Đây, -- Mi-rô-nốp nói và chỉ vào lá thư. -- Chính là sự
nhầm lẫn mà tôi đã nói với chị ngay từ đầu buổi nói chuyện. Và nó cũng là
nguyên nhân chính buộc chúng tôi phải phiền đến chị, mời chị đến đây. Bức thư
này, đúng như chị thấy, do người bạn chị là anh Vích-to Cu-dơ-nét-xốp viết cho
chị, -- Mi-rô-nốp cười, -- nhưng người viết nó lại đang đợi sự trả lời. Đúng
không nào?
Ôn-ga cau mặt, giận dỗi.
-- Và có lẽ, -- Mi-rô-nốp vẫn thản nhiên giả vờ như không nhận
thấy vẻ giận dỗi của Ôn-ga. -- Chị đã giận, đã cáu với anh vì chuyện lá thư
này, có đúng thế không? Quả là oan cho anh ấy, anh ấy hoàn toàn không có lỗi tý
nào. Rồi chị sẽ hiểu rõ vấn đề này. Chúng tôi lại chú ý đến điều khác: lá thư
này gửi cho chị nhưng lại rơi vào tay Ôn-ga Vê-lít-cô và cô ta đã giấu nó khá
lâu, đã giấu chị. Chị có nói là giữa chị và Ôn-ga Vê-lít-cô có mối quan hệ tốt,
vậy thì chị làm sao giải thích được hành động này của cô ta, làm sao cô ta lại
lấy và giấu bức thư này mà không cho chị biết?
Càng nghe Mi-rô-nốp nói, Dê-len-cô càng ngạc nhiên. Chị
không hiểu gì và hai tay cứ xoắn lấy nhau một cách bất lực.
-- Tôi không thể hiểu nổi. Ôn-ga Vê-lít-cô lấy trộm bức thư
của tôi? Ăn cắp và giấu đi? Không, không thể như vậy được, điều này không thể
có ở chị ấy được. Ở đây có điều gì thật khó hiểu. Các đồng chí tin chắc rằng
không có sự nhầm lẫn chứ?
Mi-rô-nốp lắc đầu, khẳng định:
-- Không đâu, Ôn-ga I-va-nốp-na ạ. Nhầm lẫn thế nào được. Chị
tự nghĩ xem: lá thư đang trong tay chị, đúng chứ? Đây là một chứng cớ. Chị hãy
xem lại ngày viết: nó đã được gửi đến Crai-xcơ từ mấy tháng nay rồi thế mà chị
vẫn chưa nhận được. Đấy cũng là một chứng cớ nữa. Lỗi của Ôn-ga Vê-lít-cô đã rõ
rành rành: cô ta đã lấy trộm và đã giấu lá thư. Thế cũng là một chứng cớ nữa.
Nhầm lẫn ở chỗ nào được?
-- Tức là... -- Dê-len-cô ngập ngừng, -- tức là, Ôn-ga vẫn
giữ lá thư này đến tận hôm nay mới đưa cho các đồng chí? Nhưng sao chị ấy lại
làm như vậy? Và hiện nay chị ấy ở đâu? Chị ấy đã trở về đây rồi chăng? Tôi sẽ hỏi
thẳng chị ta về tất cả những chuyện này. Thật... thật là ghê tởm!
-- Hãy bình tĩnh đã, Ôn-ga I-va-nốp-na ạ, -- An-đrây nhẹ
nhàng nói. -- Mọi điều không phải là đơn giản như vậy đâu. Không phải là Ôn-ga
đưa cho chúng tôi lá thư này, và... theo tôi, điều quan trọng không phải là ai
đưa ra bức thư này. Cô ta, Ôn-ga Vê-lít-cô cũng không trở lại Crai-xcơ. Đấy là
một điều khó hiểu. Bây giờ, chị cứ đọc lá thư này đi đã, đọc kỹ xem. Chúng tôi
sẽ chờ cho chị đọc xong. Đọc đi.
-- Xin lỗi, -- Ôn-ga I-va-nốp-na nói, giọng lúng túng. -- Tốt
hơn hết là về nhà tôi sẽ đọc. Các đồng chí còn nhiều việc ấy mà!
Nhưng Mi-rô-nốp lại nói lúc này anh không thể trao lá thư
này cho cô được: nó còn cần thiết cho họ, do vậy Ôn-ga cần phải đọc nó ở dây dù
muốn hay không cũng thế thôi...
Khi Ôn-ga đọc xong lá thư và miễn cưỡng đưa trả cho họ,
Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp cảm ơn và chia tay cô. Trước lúc tiễn cô ra, Mi-rô-nốp
còn nhắc Dê-len-cô là câu chuyện hôm nay còn phải tuyệt đối giữ kín.
-- Và, nhân tiện, -- Mi-rô-nốp vừa nói vừa đưa cho Ôn-ga
I-va-nốp-na mảnh giấy. -- Đây, số điện thoại của chúng tôi. Có thể lúc nào đó
thấy có gì cần thiết, chị cứ gọi điện ngay cho chúng tôi. Đồng ý chứ?
Dê-len-cô gật đầu và đi ra.
-- Va-xi- li Nhi-cô-lai-ê-vích ạ, chúng mình cần phải gặp cậu
lái xe của Trê-nhi-a-ép để tìm hiểu kỹ xem, -- An-đrây nói với Lu-ga-nốp. -- Cậu
ta đã lái xe đưa Vê-lít-cô ra ga và, có thể cậu ấy còn nhớ được điều gì bổ ích
khả dĩ có thể soi sáng thêm cho câu chuyện rắc rối này chăng?
Lu-ga-nốp đồng ý ngay. Ngay trong lúc nói chuyện với
Dê-len-cô anh đã nghĩ đến ý này. Giờ đây, sau khi đã gặp Cu-dơ-nét-xốp và qua
câu chuyện với Ôn-ga Dê-len-cô, bản thân chuyến đi của vợ Trê-nhi-a-ép đã trở
thành một vấn đề phức tạp, khó hiểu. Mi-rô-nốp nghĩ đúng. Mỗi chi tiết, dù là
nhỏ nhặt giờ đây cũng rất cần thiết, rất quan trọng.
Trước lúc gặp Cru-gli-a-cốp, lái xe cho Trê-nhi-a-ép,
Lu-ga-nốp đã tranh thủ xem qua lý lịch và giấy nhận xét công tác của anh ta, do
đó đã biết rằng, anh ta chả phải là con người hoàn toàn đứng đắn lắm, hay nịnh
"ông chủ" và thích "cải thiện" riêng. Qua bản nhận xét anh
còn hiểu là Trê-nhi-a-ép tuy có biết rõ những khuyết điểm của người lái xe cho
mình nhưng cũng làm ngơ đi.
Suy nghĩ cân nhắc kỹ càng, Lu-ga-nốp quyết định gọi
Cru-gli-a-cốp tới Phòng thanh tra an toàn giao thông với một lý do rất chính đáng.
Chỉ có cách ấy mới xem được phiếu vận chuyển của anh ta trong đó có tờ phiếu vận
chuyển ngày mà Vê-lít-cô đi Ki-xlô-vơ-xcơ. Và từ đó mới có lý do để nói chuyện
với anh lái xe mà không bị ai nghi ngờ.
Lu-ga-nốp đến Phòng thanh tra an toàn giao thông nửa giờ trước
khi Cru-gli-a-cốp phải đến. Anh vào Phòng thanh tra an toàn giao thông và tham
dự vào cuộc nói chuyện với mấy anh lái xe phạm lỗi. Anh làm ra vẻ như chính anh
là một trong những người có trách nhiệm chặn các "tay lái" vô kỷ luật.
Biết là Cru-gli-a-cốp đã đến nhưng Lu-ga-nốp cứ lờ đi để anh
ta ngồi chờ một lúc rồi mới gọi vào phòng:
-- Ngồi xuống đây! -- Bằng một giọng khô khốc, cộc lốc anh
muốn tỏ cho chàng lái xe đang ngơ ngơ ngác ngác chưa hiểu đầu cua tai nheo ra
sao mà mình bị gọi tới đây, biết rằng đây không phải là chuyện đùa. -- Giấy
phép đâu?
Cru-gli-a-cốp với tay qua bàn, đưa bằng và giấy phép lái xe.
Chăm chú xem xong các giấy tờ, Lu-ga-nốp nói có vẻ cáu:
-- Chà, chà, chà! Sao anh không biết xấu hổ nhỉ! Một người
lái xe lâu năm có kinh nghiệm, đã nhiều tuổi như anh mà lại không bỏ được cái
thói láu cá, ma mãnh. Thật là quá quắt!
Cru-gli-a-cốp từ nãy đến giờ vẫn ngồi cúi đầu lo âu, nghe vậy
bỗng ngẩng phắt đầu dậy, vẻ sửng sốt:
-- Xin lỗi đồng chí thanh tra, tôi không hiểu. Có lẽ đồng
chí nhầm tôi với ai rồi. Tôi chả làm điều gì bậy bạ, quá quắt cả. Đồng chí cứ hỏi
bất cứ ai trong đoàn xe chúng tôi xem.
-- Nhầm à? Thế hồi cuối tháng năm vừa rồi ai đã đâm vào chiếc
xe ngựa của nông trường, rồi phóng thẳng. Ai đã làm việc đó trên đường
I-gu-men-xcơ.
Lu-ga-nốp hỏi, giọng ra vẻ cáu giận.
-- Tôi à? -- Cru-gli-a-cốp sửng sốt, há hốc miệng hỏi. --
Tôi à? May mà suốt năm nay tôi chưa hề lái chuyến xe nào trên đường
I-gu-men-xcơ. -- Giọng anh tỏ vẻ cáu giận vô cùng.
-- Không đúng à? Đừng có chối. Số xe anh là 11-23 phải
không?
-- Thế thì sao? Số xe tôi đấy, nhưng tôi không đi đường ấy!
-- Cru-gli-a-cốp cãi lại và vững tin ở mình.
-- Căn cứ theo lời khai của những người bị thiệt hại thì
đúng là xe của anh. Thứ nhất: số xe đúng với xe anh, thứ hai: màu xe cũng xanh
sẫm như xe anh. Tất cả đều khớp với xe anh.
-- Hoàn toàn là vu khống! -- Cru-gli-a-cốp nổi cáu. -- Tôi
chưa bao giờ đi trên đường I-gu-men-xcơ cả. Chỉ có thế thôi. Căn cứ vào số xe,
đó chưa phải là chứng cớ duy nhất đúng. Có thể là số xe trùng nhau nhưng cái
chính là chữ cái ký hiệu trước số xe khác nhau.
-- Ồ, điều đó ai chả biết. Chính vì vậy mà lâu nay chúng tôi
không động đến anh vì những người làm chứng cũng không kịp nhìn rõ. Do đó cần
phải xác minh, điều tra thêm. Tiếc rằng, tất cả chứng cứ đều khẳng định là xe của
anh đấy, Cru-gli-a-cốp ạ. Đừng chối quanh nữa mà thêm rắc rối ra.
Cru-gli-a-cốp không giữ bình tĩnh được nữa. Anh tức điên người.
-- Sao lại có thể như vậy được? Tại sao người ta lại có thể
vu khống tôi một cách vô lý như vậy được? Được rồi, đồng chí thanh tra ạ, đồng
chí hãy bảo phòng điều vận đưa giấy vận hành của tôi trong tháng đó cho đồng
chí xem. Rồi đồng chí sẽ biết là ngày hôm đó tôi ở đâu.
Lu-ga-nốp cười thầm vì anh cũng chỉ chờ có thế. Một giờ sau
các phiếu vận hành đã được đưa đến. Cầm tập giấy trong tay, Cru-gli-a-cốp dở từng
tờ, đọc tên các phố, khu vực, họ tên và địa chỉ những người mà anh ta phải chở
đi và giải thích thêm lý do từng chuyến đi một. Đến ngày hai mươi tám tháng Năm
anh lấy riêng tờ phiếu vận hành ra và nhấn mạnh.
-- Suốt ngày hôm ấy, đồng chí xem đây -- tôi không đi đâu cả.
Mãi tới mười bảy giờ đúng tôi mới lái xe đi chuyến đầu tiên. Vì ngay từ sáng đồng
chí Trê-nhi-a-ép đã dặn tôi là chiều không được đi đâu cả, hãy chờ đồng chí ấy về
vì có thể tôi phải dùng xe bất cứ lúc nào. Té ra là đồng chí ấy lấy xe đưa vợ
ra ga. Tôi đưa đồng chí ấy về nhà. Đến nhà đồng chí ấy lên gác, còn tôi ngồi chờ.
Sau một lát thì Trê-nhi-a-ép và vợ đi xuống. Tôi còn nhớ rõ là đồng chí ấy xách
va-li cho vợ. Tôi lái đưa họ ra ga đi chuyến tàu Crai-xcơ - Mát-xcơ-va.
Trê-nhi-a-ép bảo là không cần phải chờ, do đó tôi lái thẳng xe về ga-ra. Đấy chỉ
có thế, giấy vận hành còn ghi rõ giờ về và số cây số đi đường đây. Vậy thì tôi
đi I-gu-men-xcơ lúc nào!
Nét mặt Cru-gli-a-cốp lộ vẻ đắc thắng hình như muốn hỏi rằng:
"Nào, còn vặn vẹo gì nữa không?"
Lu-ga-nốp làm bộ thất vọng xua tay:
-- Đồng chí Cru-gli-a-cốp ạ, thế tức là không phải khuyết điểm
của đồng chí rồi. Họ nhầm rồi. Lại phải mất công truy tìm thủ phạm đây.
Khoái trá vì đã làm cho tay thanh tra Phòng an toàn giao
thông -- kẻ thù truyền kiếp của các tay lái xe, bị một phen vỡ mộng,
Cru-gli-a-cốp phóng xe về công trường. Lu-ga-nốp sau khi đã " thành thật
xin lỗi" đồng chí lái xe thẳng thắn, cũng vội phóng ngay đến gặp Mi-rô-nốp
ở Cục an ninh nhà nước.
Mặc dầu không khai thác được điều gì mới ở Cru-gli-a-cốp
nhưng anh cũng rất thỏa mãn với màn kịch vừa qua vì những lời trình bày của
Cru-gli-a-cốp đã hoàn toàn xác minh những điều mà họ đã thu thập được về chuyến
đi của Vê-lít-cô qua lời khai của Trê-nhi-a-ép và cô Dê-len-cô. Điều đó có ý
nghĩa nhất định của nó.
Nhưng, Lu-ga-nốp vừa bước chân vào ngưỡng cửa phòng làm việc
của Mi-rô-nốp thì cái vẻ thoải mái vui vẻ của anh tan mất: anh hiểu rằng hình
như có chuyện gì quan trọng đã xảy ra trong lúc anh vắng mặt. Mi-rô-nốp đang im
lặng, suy nghĩ rất căng thẳng. Anh đi đi lại lại từ góc này sang góc khác, miệng
không ngừng rít thuốc lá.
-- A, Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích, anh đã về! -- Mi-rô-nốp
kêu lên. -- Anh biến đi đâu từ trưa đến giờ?
-- Sao lại biến đi đâu? -- Lu-ga-nốp ngạc nhiên hỏi lại. --
Tôi chả biến đi đâu cả mà đi gặp Cru-gli-a-cốp, cậu lái xe của Trê-nhi-a-ép.
Chính anh chỉ thị cho tôi kia mà. Tôi báo cáo kết quả ngay bây giờ, được
không?..
-- Khoan đã Va-xi-li ạ, bây giờ không cần đến Cru-gli-a-cốp
nữa! Anh biết là, hiện chúng ta cần tìm ai chứ? Có phải là Ôn-ga
Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô không? Đúng thế chứ?
-- Tôi không hiểu anh định nói gì đấy, An-đrây ạ. -- Lu-ga-nốp
có vẻ phật lòng và vừa ngạc nhiên nhìn Mi-rô-nốp vừa nói.
-- Thế anh cũng cho rằng tôi hiểu được điều gì trong chuyện
này chăng? -- An-đrây nói và chỉ tay vào một tờ giấy nằm trên bàn. -- Xem đi!
Trên một tờ giấy in có dấu của Sở công an tỉnh Trê-nhi-gốp
đóng ở góc, ghi rõ:" Phúc đáp công văn của các đồng chí, chúng tôi xin báo
như sau: cô Ôn-ga Vê-lít-cô Nhi-cô-lai-ép-na sinh năm 1925, nguyên trú quán ở
làng Xô-phi-ép-ca là một đoàn viên thanh niên cộng sản tích cực. Trong những
năm Chiến tranh giữ nước vĩ đại, cô là liên lạc bí mật của ban tham mưu du kích
địa phương. Năm 1943 bị bọn Ghét-ta-pô bắt và đưa sang Đức. Theo những tin tức ở
trại tập trung cho biết thì năm 1944 cô đã bị thủ tiêu một cách dã man tại trại
giam của bọn Hít-le...Phó giám đốc Sở công an (ký tên).
Trưởng phòng lưu trữ hồ sơ ( ký tên)".
CHƯƠNG 6
Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích Xa-đốp-xki một mình dạo bước dọc
theo bờ sông Vôn-ga.Ông nặng nề bước từng bước một dường như đang phải vác vật
gì nặng trên vai. Đầu cúi gằm tựa như bị tảng đá đè trĩu xuống
Thỉnh thoảng Xa-đốp-xki đứng sững lại và đăm đăm nhìn vào
dòng nước đen thẫm.
Hàng ngày, cứ đến buổi hoàng hôn, ông lại đi dạo một mình
hàng giờ như vậy. Lòng nặng trĩu không biết đi đâu. Về nhà ư? Ngôi nhà vắng lặng.
Không một ai thân thuộc, không bạn bè, không ai chờ đợi. Một mình đơn độc, buồn
chán. Đọc sách chăng? Không đọc nổi nữa. Biết làm gì, ngủ chăng?Nhưng đã bao
đêm ròng ông không ngủ được, giấc ngủ không đến với ông. Cứ mỗi lần đặt mình xuống
giường, định nhắm mắt là hình ảnh Ôn-ga lại chờn vờn hiện lên...
Cho đến tận bây giờ, Xa-đốp-xki vẫn còn nhớ rõ bộ mặt kinh
hoàng, đầy thất vọng và đáng thương hại của Ôn-ga lúc cô đứng dán sát vào bức
tường hành lang. Cô vừa mới thoát khỏi trại tập trung về: người gầy còm, lạnh
nhạt đối với chung quanh, khuôn mặt như còn ghi lại tất cả những gì đau khổ
trong các trại tập trung của bọn Hít-le ở nước Nga bị chúng chiếm đóng cũng như
ở trên đất Đức, và trong các trại tập kết chờ trao trả ở các nước phương Tây.
Quần áo rách rưới, người xanh xao, đói gầy... Chưa chắc Xa-đốp-xki đã nhận ra
cô nếu như cô không lên tiếng gọi trước. Đúng vậy, làm sao mà có thể tìm thấy
được trong con người gầy còm, hốc hác, phờ phạc kia cái hình ảnh vui tươi, đẫy
đà của cô Ôn-ga trước kia.
Ông đã quen Ôn-ga tại gia đình giáo sư Na-vơ-rô-xki, thầy học
cũ của mình, đã tản cư từ Vô-rô-ne-giơ đến Cui-bư-sép ngay từ hồi đầu chiến
tranh. Tình cờ gặp Xa-đốp-xki ở ngoài phố, giáo sư kéo luôn ông về nhà chơi.
Ôn-ga là cháu bà giáo, đã ở với gia đình này từ thời thơ ấu.
Hình như bố mẹ cô đã chết từ khi cô còn bé. Bố mẹ cô làm nghề gì, họ đã sống ở
đâu, Xa-đốp-xki cũng không biết và không để ý đến.
Nhưng từ ngày đó, ông thường hay đến chơi nhà Na-vơ-rô-xki
và không phải chỉ để được nói chuyện với người thầy học cũ kính mến. Ông cũng
thường hay nói chuyện với Ôn-ga, lúc đó đã tốt nghiệp trung học. Những buổi tối
như vậy không phải là vô ích, buồn tẻ. Ôn-ga tỏ ra là người tiếp chuyện sôi nổi
và có duyên. Cô cũng chả cần phải tích lũy lâu gì nữa mà không biết được ưu thế
của mình là sức quyến rũ của tuổi thiếu nữ. Giáo sư thấy đôi bạn ngồi nói chuyện
với nhau trong ánh hoàng hôn, ông thường đùa: "Này, Rô-mê-ô ạ (ông thích gọi
đùa Xa-đốp-xki như vậy), cậu bị Ôn-ga của chúng tôi làm choáng váng rồi đấy!"
Xa-đốp-xki cười, thanh minh: "Ồ, xin giáo sư tha lỗi cho
tôi! Tôi coi Ôn-ga như con gái tôi thôi. Giáo sư biết đấy tôi đã bốn mươi xuân
xanh rồi còn gì!"
Xa-đốp-xki cười chỉ để mà cười thôi, chứ thực ra tự mình ông
cũng thấy rằng càng ngày càng mê cô gái đó. Khi đã biết quan hệ của ông với
Ôn-ga không phải là chuyện đùa nên ông cố trấn tĩnh, tự mắng mình và cố gắng tự
hạn chế tình cảm bồng bột của mình lại. Ông tự nhủ không còn cách nào tốt hơn
là đừng gặp Ôn-ga nữa, hãy thưa đến thăm nhà Na-vơ-rô-xki đi. Mùa thu năm 1942
ông nghe tin Ôn-ga được cử đi học một lớp chuyên môn nào đó và sau đấy đi ra mặt
trận. Một hôm Na-vơ-rô-xki đã cho ông biết với một giọng hết sức bí mật là
"con bé đã đi du kích" và được phái sâu vào vùng hậu phương quân Đức.
Thế là chấm dứt được cái điều, mà trong thực tế chưa kịp bắt đầu. Thời kỳ đầu
Xa-đốp-xki có nhận được của Ôn-ga mấy bức thư và ông cũng đã viết thư cho cô.
Nhưng, chả bao lâu sự liên lạc giữa hai người cũng chấm dứt. Ôn-ga không gửi
thư về nữa... Khoảng một năm sau Xa-đốp-xki được tin của gia đình Na-vơ-rô-xki
cho biết là Ôn-ga đã hy sinh --- hay đúng hơn là đã mất tích.
Cuối chiến tranh, vợ chồng Na-vơ-rô-xki từ Cui-bư-sép trở về
thành phố Vô-rô-ne-giơ quê hương. Cách một năm sau, qua báo chí, Xa-đốp-xki đã
đọc bản cáo phó về người thầy học cũ của mình. Ông xếp tất cả công việc lại,
đáp máy bay ngay đến Vô-rô-ne-giơ nhưng không kịp dự lễ an táng.
Và một năm nữa trôi qua, chiến tranh kết thúc đã lâu. Bỗng
nhiên Xa-đốp-xki tình cờ gặp Ôn-ga ở ngay hành lang bệnh viện nơi ông làm việc...
Cô đã thay đổi đến nỗi khó nhận ra được nhưng dầu sao cuối cùng ông cũng nhận
ra cô ta. Đó chính là Ôn-ga -- người con gái mà Xa-đốp-xki không bao giờ và
không thể nào quên được.
Xa-đốp-xki hết sức sửng sốt trước cuộc gặp gỡ này. Ông lặng
người đi vì hạnh phúc đột ngột. Có thể, nếu không cố kìm mình lại, ông đã ôm chầm
ngay lấy cô. Nhưng còn Ôn-ga thì sao? Ôn-ga vẫn thản nhiên, thờ ơ đối với tất cả...
Xa-đốp-xki có thể là một người không từng trải lắm. Nhưng ở
đây, ông cũng tỏ ra là kiên trì nhanh trí. Ông hiểu biết nhiều và được sự kính
trọng của bạn bè, nên sau một thời gian ông cũng đã xin được đầy đủ giấy tờ để
Ôn-ga vào làm việc ở bệnh viện. Giờ thì ngày ngày họ được gần nhau, gặp nhau
luôn. Dần dần, Ôn-ga có vẻ vui hơn và trẻ ra. Thời gian trôi qua và Xa-đốp-xki
cảm thấy rõ ràng là ông không thể chế ngự được tình cảm của mình đối với Ôn-ga.
Ông khẳng định: không thể sống thiếu cô ấy được.
Lần lữa ngày này qua ngày khác mà ông vẫn không nói được với
Ôn-ga ý định riêng tư của mình. Một hôm, có chàng bác sĩ trẻ mời ông cùng Ôn-ga
đi dự đám cưới. Dự lễ cưới xong Xa-đốp-xki và Ôn-ga cùng nhau trở về. Ông ngập
ngừng mãi trên quãng đường về, và rồi ông mạnh dạn nói lên điều vẫn ấp ủ từ lâu
ấy... Ông nói hết những điều thầm kín của lòng mình: ông yêu Ôn-ga từ lâu, tình
yêu đối với Ôn-ga ngày càng mãnh liệt và nếu Ôn-ga đồng ý thì...
Ông bỗng thấy trong mắt Ôn-ga ánh lên vẻ sợ hãi. Không,
không phải là sợ hãi mà là kinh hoàng. Ông kinh ngạc:
-- Ôn-ga... Ôn-ga, tha lỗi cho anh. Anh không muốn làm em giận
dỗi. Nếu như anh biết rằng em sẽ giận thì anh đã không nói ra...
-- Ồ, Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích, anh nói gì vậy? -- Ôn-ga nức
nở, -- Em phản đối ư? Anh điên rồi đấy! Anh có biết không, nếu như em có ý nghĩ
xây dựng gia đình thì có lẽ em sẽ không dám ước mơ một người chồng nào tốt hơn
anh được. Em hiểu anh, em biết ơn anh lắm. Nhưng, anh hiểu cho, em không thể,
không thể...
Ôn-ga nấc lên đau xót.
Câu chuyện tối hôm đó đã kết thúc như vậy. Xa-đốp-xki không
thể hiểu nổi là tại sao lại như vậy. Ông biết rõ, Ôn-ga chỉ còn một mình, không
người thân thích, không nơi nương tựa. Ông cảm thấy Ôn-ga không tỏ ra lạnh nhạt
với ông (Ôn-ga cũng đã khẳng định như vậy). Vậy thì tại sao Ôn-ga lại không phải
là vợ ông được? Sự cự tuyệt của Ôn-ga có điều gì đó khó hiểu, thái độ phản ứng
rất lạ lùng nhưng Xa-đốp-xki không muốn hỏi kỹ vì ông cho rằng, ông không nên
và không có quyền làm như vậy.
...Thời gian trôi đi, quan hệ của họ dần dần càng gần gũi và
ấm cúng hơn: có thể nói, họ không thể chịu được nếu như hàng ngày không được gặp
nhau một lần và, bỗng một hôm, câu chuyện ngày hôm trước được nhắc lại, nhưng lần
này chính Ôn-ga đã chủ động gợi lên... Ít lâu sau, họ làm lễ cưới...
Ôn-ga thật là một người vợ dịu hiền, chăm chỉ, là người bạn
gái gần gũi, người bạn đường đầy tin tưởng của Xa-đốp-xki. Còn cô có thật yêu
Xa-đốp-xki không? Điều này khó nói. Có lẽ chỉ có Ôn-ga mới có thể trả lời một
cách xác thực, cặn kẽ câu hỏi này. Họ sống với nhau thắm thiết và chen lẫn sự
kính trọng nhau... Dù sao chăng nữa, họ cũng sống hòa thuận, tâm đầu ý hợp.
Nhưng cũng có đôi lúc hình như có điều gì đó chen lấn vào tâm hồn Ôn-ga: cô buồn
hẳn đi, ngồi lầm lì ít nói. Nhưng những điều đó chỉ thoáng qua một vài ngày rồi,
sau đấy, dường như có một bàn tay vô hình nào đó đã lái tình cảm của cô vào cuộc
sống bình thường như cũ. Có lẽ sẽ không có gì bất hạnh xảy ra nếu như không có
chuyện đi nghỉ ở Xô-tri...
Vào mùa thu cách đây gần hai năm họ cùng nhau đi nghỉ ở
Xô-tri. Đây là lần đầu tiên Ôn-ga đi nghỉ ở miền Nam. Những ngày đầu trên chặng
đường dài, Ôn-ga sôi nổi, vui vẻ hẳn lên và Xa-đốp-xki cảm thấy cô chưa bao giờ
lại đáng yêu đến thế. Mọi vật, mọi cảnh ở đây đều làm cho cô hồi hộp, vui sướng.
Vào một buổi chiều họ cùng nhau sánh vai đi dạo trong vườn bách thảo ở Xô-tri.
Xa-đốp-xki say sưa ngắm nhìn những cây lạ còn Ôn-ga thì vui vẻ ngắm cảnh vật
chung quanh. Ở đây cái gì đối với cô cũng đều mới lạ. Bỗng nhiên cô rùng mình nắm
chặt cánh tay Xa-đốp-xki thì thào với ông bằng một giọng hốt hoảng: "Về
nhà đi, nhanh lên. Về ngay đi anh ơi...Nhanh lên!.."
Vì sao vậy? Chuyện gì thế? Ôn-ga không hề giải thích một lời
nào. Trên đường về nhà cô bước đi vội vã, im bặt, không trả lời một chuỗi những
câu hỏi đầy kinh ngạc của Xa-đốp-xki. Mãi đến quá nửa đêm, đúng hơn là lúc gần
sáng Ôn-ga mới nói. Nhưng nói gì? Nói thế nào? Chả có gì rõ ràng cả... Thấy
Xa-đốp-xki trằn trọc không ngủ,mắt mở trân trân, Ôn-ga mới nói với một giọng gần
như nức nở:
-- Ta về thôi, -- cô khẩn khoản. -- Em van anh. Em muốn đi
khỏi đây ngay sớm mai anh ạ...Đi ngay...
Dù cho Xa-đốp-xki cố an ủi cô bao nhiêu đi nữa thì cũng vô
ích. Cô ta cũng chỉ nằng nặc một điều: "Đi khỏi đây, càng nhanh càng tốt"
mà không hề nói rõ nguyên cớ làm sao, không hề giải thích thêm một lời nào
khác.
Một đêm trôi qua, không ai ngủ. Mặc dầu đã suy nghĩ nát óc
nhưng Xa-đốp-xki vẫn không sao hiểu nổi: đây là lần đầu tiên ông thấy Ôn-ga ở
trong một tình trạng như vậy. Làm sao bây giờ?
Sáng hôm sau, thoái thác là đau đầu, Ôn-ga không bước ra khỏi
phòng. Ông đành đi dạo một mình và cố suy nghĩ tìm hiểu những điều đã xảy ra.
Nhưng vẫn không làm sao hiểu được: điều gì đã xảy ra với Ôn-ga?
Trở về phòng mình Xa-đốp-xki từ tốn hỏi thêm Ôn-ga vài điều
nhưng cô vẫn im lặng như cũ. Cô cũng không nằng nặc đòi phải rời khỏi Xô-tri nữa.
Tối hôm đó cô lại còn muốn đi dạo một lúc nhưng vừa ra đến cửa khu nhà nghỉ,
khi họ gặp hai người đàn ông lạ mặt nào đó, Ôn-ga bỗng ùa chạy và trốn về phòng
mình. Xa-đốp-xki sau một lúc sửng sốt quay về thì chỉ thấy mặt cô đầy nước mắt.
Sáng hôm sau, Xa-đốp-xki không hỏi gì hơn, liền ra nhà ga lấy
hai vé về Cui-bư-sép. Khi ở nhà ga về ông không thấy Ôn-ga đâu; chờ mãi đến tận
tối mới thấy cô trở về. Nghe nói là vé đã mua,cô mỉm cười buồn bã và không nói
gì, nằm xoài ra trên giường. Còn việc đi đâu suốt ngày, cô không nói gì cả.
Ngày hôm sau trôi qua một cách yên tĩnh. Ôn-ga đã có vẻ hơi
vui, khi ăn đã nói chuyện với mấy người ngồi cùng bàn; và giải thích cho họ biết
là vợ chồng cô phải về sớm là vì Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích Xa-đốp-xki có công
tác đột xuất.
Nhưng đoạn cuối của câu chuyện khó hiểu đó đã kết thúc ở nhà
ga. Xa-đốp-xki ngồi ở trong buồng của toa tàu, còn Ôn-ga vẫn đứng ở cửa sổ nhìn
xuống đám người tấp nập trên sân ga. Bỗng hình như trông thấy một người nào đó,
cô rời khỏi cửa sổ, đột ngột quay vào đứng ở cửa phòng ngủ. Cô nhỏ nhẹ, nghẹn
ngào nói: "Tha lỗi cho em. Xin lỗi và vĩnh biệt anh. Em không thể đi với
anh được. Em không thể ở với anh được..."
Nấc lên một tiếng như nén vào lồng ngực nỗi đau xót, Ôn-ga
lao mình chạy ra khỏi cửa toa. Tàu chạy nhanh dần...
Xa-đốp-xki sững sờ, lặng đi một lúc và khi đã bình tâm lại,
ông vẫn không hiểu tất cả những gì đã xảy ra.
Ông xuống ngay ga tiếp đầu tiên và trở lại Xô-tri. Ông đi khắp
những nơi họ đã ở và có mặt! Ông lùng khắp nhà nghỉ, các hiệu ăn và quán cà-phê
đông người, vào trình cả cơ quan công an và tìm ở nhà xác -- nhưng đều vô ích
-- Ôn-ga không để lại dấu vết gì cả.
Ngày hôm sau, khi Xa-đốp-xki gặp người bác sỹ trẻ vui tính,
bạn cùng nghỉ phòng bên cạnh thì mới rõ được mọi việc.
Gặp Xa-đốp-xki, anh này suýt kêu lên vì kinh ngạc: mới có
hai ba ngày mà Xa-đốp-xki thay đổi đến nỗi khó mà nhận ra được; nỗi bất hạnh
giày vò ông, ông già sọm đi, gò má nhô cao, nếp nhăn hằn trên trán, má hóp lại.
-- Tôi hiểu rồi, -- anh bạn nói nhanh, nắm chặt tay Xa-đốp-xki.
-- Tôi hiểu hết rồi. Nhưng anh là người đàn ông kiên nghị. Cô ấy không xứng
đáng với anh...
-- Xin lỗi, anh định nói gì vậy? -- Xa-đốp-xki ngước mắt, hỏi.
-- Anh biết gì?
Anh bạn trẻ im lặng một lát.
-- Anh thấy đấy, -- anh ta nói, vẻ thận trọng. -- Tôi biết hết
rồi. Hôm qua tôi ra sân bay Át-le-rơ tiễn một người bạn...
-- Thế việc đó có liên quan gì đến tôi? -- Xa-đốp-xki đột ngột
ngắt lời anh ta với một giọng khác thường. -- Tôi cần gì chuyện đó?
-- Khoan đã. Chuyện là thế này. Chính ở sân bay này tôi đã gặp...
gặp Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na của anh. Và không phải một mình đâu. Chị ấy cùng đi
với một sĩ quan, hình như là trung tá thì phải. Họ cùng lên máy bay với nhau...
Đúng thế mà...
Thế là rõ. Mọi việc thế là đã kết thúc. Kết thúc tất cả những
điều lạ lùng, nhưng thật khó hiểu và đầy bí ẩn. Những giọt nước mắt, những cơn
loạn thần kinh, việc chạy trốn của Ôn-ga là như vậy đấy. Tiếp tục tìm kiếm cũng
chả ích lợi gì, chả có nghĩa gì nữa, nên hôm sau Xa-đốp-xki lên đường về
Cui-bư-sép. Ông lủi thủi một mình...
Nhưng Xa-đốp-xki không thể quên được Ôn-ga, không thể xóa
nhòa hình ảnh cô khỏi ký ức mình. Có thể, theo ông nghĩ, điều đó chả có gì là lạ
vì có lẽ ta còn mê cô ấy chăng? Ôn-ga còn rất trẻ, có thể cô ấy sẽ nghĩ lại, sẽ
hối hận và có lẽ sau khi suy nghĩ cô sẽ trở về với ông. Nhưng, cũng có thể là
cô ta chưa dám mạnh dạn tự mình quay về chăng?Không, không nên thất vọng, cần
phải đi tìm cô ấy, giúp đỡ cô ta. Còn ta, ta sẽ tha thứ cho cô ấy mọi lỗi lầm,
sẽ quên hết miễn là cô ta trở lại, chỉ cần một điều ấy thôi...
Nhưng tìm Ôn-ga bằng cách nào? Tìm ở đâu? Còn người kia --
cái người mà vì hắn cô ta đã bỏ mình? Hắn ta ở đâu? Họ ở đâu? Ai có thể giúp ta
tìm họ được? Ai? Bỗng ông nhớ đến một người: bà Na-vơ-rô-xcai-a. Dĩ nhiên là chỉ
có bà Na-vơ-rô-xcai-a! Có thể là, bà giáo quả phụ ấy đã biết cô cháu gái yêu của
bà ở đâu, cũng đã biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Ngay trong những năm sống với
Xa-đốp-xki, thỉnh thoảng Ôn-ga cũng đến thăm bà cô hoặc viết thư cho bà.
Ngày hôm sau, Xa-đốp-xki đến Vô-rô-ne-giơ. Trông thấy ông,
bà quả phụ khóc òa lên. Đúng, Ôn-ga có đến đây, bà có nhận được thư cô ta.
Ôn-ga hiện đang sống ở Crai-xcơ cùng với một sĩ quan nào đó... Họ ông ta là Trê-nhi-a-ép...
Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích Trê-nhi-a-ép...
Và Xa-đốp-xki đã đến Crai-xcơ... Đã hơn hai năm nhưng ông
không thể nào quên được cuộc gặp gỡ này. Có một cái gì buồn bã, khó hiểu, bí ẩn
và tàn ác trong cách cư xử của Ôn-ga ở cuộc gặp gỡ này.
Ngày hôm ấy, sau khi đến Crai-xcơ, Xa-đốp-xki tìm được khu
nhà Ôn-ga ở. Ông đứng đợi dưới đường xem cô có đi ra phố không, ông nhìn thấy
khuôn mặt quen thuộc của cô từ xa rồi hầu như quên hết mọi điều ông lao đến đón
gặp cô. Thấy ông, Ôn-ga đứng sững lại, mặt xanh nhợt, cầm lấy tay và kéo vào
nhà. Cô ta đứng ở cầu thang và nắm chặt tay Xa-đốp-xki khóc nức nở...
Xa-đốp-xki trở lại bình tĩnh. Ông khẽ gỡ tay ra, và dìu
Ôn-ga lên cầu thang, đưa cô về phòng. Nhưng vừa bước vào tới phòng mình, Ôn-ga
bỗng như biến thành người khác. Mặt cô đanh lại không ra kinh hãi mà cũng không
ra giận dữ, đanh đá (Xa-đốp-xki không kịp phân biệt được). Ôn-ga đòi ông phải
đi ngay, ra ngay và đi hẳn. Cô ta không chịu nghe bất cứ lời nói nào của Xa-đốp-xki
và chỉ khăng khăng xua tay lia lịa: "Anh đi đi, đi đi. Chúng ta không thể
sống cùng với nhau được đâu. Không, không thể được đâu..."
Xa-đốp-xki định nói điều gì đó nhưng đều vô ích. Ôn-ga giận
dữ đi đi lại lại trong phòng, vẫn chỉ nói có một điều: "Đi đi, anh đi
đi..."
Còn điều gì xảy ra sau đấy Xa-đốp-xki không nhớ rõ nữa. Hình
như có một đám sương mù phủ quanh đầu óc ông. Có lẽ ông đã kêu lên và cũng có
thể là Ôn-ga đã hét lên chăng?Ông nhớ láng máng là hình như có những tiếng gõ cửa
đã kéo ông ra khỏi tình trạng mông lung đó. Ông bừng tỉnh, nhận ra mình đang đứng
trong một căn phòng xa lạ và hiểu rằng giữa ông với Ôn-ga thế là hết. Tất cả đều
đã kết thúc ở đấy... Ông mở toang cửa và lao ra khỏi căn phòng, ra khỏi khu nhà
và đi khỏi thành phố ngay...Thế là hết. Mọi việc đã kết thúc từ đấy... và vĩnh
viễn kết thúc.
Thời gian cứ trôi, nhưng ý nghĩ về Ôn-ga, những ký ức về
Ôn-ga vẫn cứ bám riết Xa-đốp-xki, day dứt. Tại sao cô ta lại bỏ đi? Sao cô ta lại
lạ lùng, khác lạ như vậy khi họ gặp nhau ở Crai-xcơ. Tại sao, tại sao, tại sao?
Và, giờ đây, trong khi dạo bước trên bờ sông vắng này, Xa-đốp-xki cũng vẫn chỉ
nghĩ đến tất cả những điều đó. Nhưng ông cũng không biết là, hiện nay cũng trên
mảnh đất này còn có một người mà ngay trong giờ phút ông đang dạo chơi ở đây,
cũng đang nghĩ đến Ôn-ga, nghĩ đến nguyên nhân cô bỏ Xa-đốp-xki mà đi, nghĩ đến
những mối quan hệ của cô ta với ông. Chính người đó cũng đang nghĩ đến người phụ
nữ mang cái tên Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô.
Người đó là thiếu tá Ủy ban an ninh nhà nước An-đrây Mi-rô-nốp.
An-đrây tới Cui-bư-sép đã mấy hôm nay, anh đang thu thập các
tài liệu về Xa-đốp-xki và Ôn-ga Vê-lít-cô. Mi-rô-nốp suy nghĩ về những điều cần
nói với Xa-đốp-xki. Nói như thế nào đây? Nếu cần nói chuyện với Xa-đốp-xki thì
cứ việc mời đến và hãy nói với nhau đi. Nhưng Mi-rô-nốp hiểu rất rõ rằng, trong
trường hợp này cái quyết định đơn giản đó không thể thực hiện được: có khá nhiều
điều mập mờ chung quanh Vê-lít-cô. Và cả trong mối quan hệ của cô với Xa-đốp-xki
cũng còn nhiều nét chưa rõ ràng. Mặc dầu đã có những điều cung cấp của cô hàng
xóm Dê-len-cô... Từ khi anh được biết cô gái mang tên là Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na
Vê-lít-cô kia lại không phải là Vê-lít-cô thực, rằng đó chỉ là một người chưa
rõ lai lịch đã mạo nhận tên, họ của người nữ anh hùng du kích đã hy sinh. Hơn
lúc nào hết mảnh giấy bí mật kia tự nó đã mang một ý nghĩa hết sức nghiêm túc.
Hàng chục câu hỏi mới được đặt ra: cô gái, người vợ cũ của Trê-nhi-a-ép mang
tên là Vê-lít-cô kia là ai? Tại sao cô ta lại hành động như vậy? Để làm gì? Làm
sao mà cô ta lại lấy được những giấy tờ của người nữ thanh niên cộng sản đã hy
sinh ấy? Và, cuối cùng là, hiện nay cô ta ở đâu? Sao cô ta lại bỏ trốn khỏi
Crai-xcơ, đã nói dối tất cả mọi người kể cả chồng mình là Trê-nhi-a-ép?
Cũng không thể loại trừ khả năng Xa-đốp-xki có thể giải đáp
được một số lớn những câu hỏi nêu ra. Nhưng có nên nói thật cho ông ta biết hết
không? Ông ta sẽ đứng về phía nào? Đây là tất cả những điều mà An-đrây cần suy
nghĩ kỹ, tự giải đáp lấy trước khi quyết định: nên nói sự thật với Xa-đốp-xki
hay là không?
Ngày đầu đến Cui-bư-sép, An-đrây đã biết là Xa-đốp-xki đã từng
sống với bà cô họ của Ôn-ga gần mười năm trời, từ khi chiến tranh mới kết thúc.
Tất cả những người mà Mi-rô-nốp gặp gỡ để hỏi về Xa-đốp-xki cũng đều có nhận
xét tốt về người bác sĩ này. Xa-đốp-xki sống và làm việc ở Cui-bư-sép đã gần
hai mươi năm nay. Ở thành phố này mọi người đều biết ông là một bác sĩ tốt,có
trách nhiệm và có lương tâm. Tất cả mọi người, khi Mi-rô-nốp mời đến gặp với những
lý do khác nhau để tìm hiểu về Xa-đốp-xki cũng đều có một nhận xét chung là khoảng
một, hai năm gần đây, tức là sau lúc vợ bỏ đi, Xa-đốp-xki đâm ra lầm lì, buồn
bã và không thích giao du với ai cả. Nhưng với tư cách là bác sĩ thì ông vẫn giữ
được những đức tính như trước, nghĩa là vẫn dịu dàng, có trách nhiệm và tài
năng
Chả ai chê trách hoặc phàn nàn về Xa-đốp-xki, ai cũng tỏ ý
thương và thông cảm với hoàn cảnh của ông.
Đúng, có lẽ nên nói thẳng, nói thật với Xa-đốp-xki. Tất cả
những phân tích, suy luận đều nói lên là nên như thế, nếu như không có chữ
"nhưng". Vấn đề là ở chỗ, trong khi tìm hiểu, phân tích những tài liệu
về Xa-đốp-xki, Mi-rô-nốp phát hiện thấy rằng mùa xuân năm ấy -- đúng hơn là
ngày hai mươi sáu tháng Năm, tức là đúng hai ngày trước khi Ôn-ga Vê-lít-cô rời
khỏi Crai-xcơ, bỗng nhiên chả hiểu vì sao Xa-đốp-xki bỏ đi đâu liền mười ngày.
Hôm đó, ông ta tự nhiên xin nghỉ phép tự túc và bỏ đi không nói cho ai biết. Và
cũng không một ai biết là ông ở đâu.
Đây chính là chỗ phải hỏi ông ta xem! Có thể phỏng đoán rằng,
giữa chuyến đi nghỉ vội vàng và khó hiểu của Xa-đốp-xki ra khỏi Cui-bư-sép và
việc Vê-lít-cô giả mạo kia biến khỏi Crai-xcơ có mối liên quan nào đó. Mối liên
quan gì thì còn là điều cần tìm hiểu phân tích thêm nhưng... rõ ràng là có thể
có...
"Không, -- Mi-rô-nốp lại thầm nói với mình, -- có lẽ
chưa cần tìm hiểu vội việc Xa-đốp-xki trong những ngày từ hai mươi sáu đến ba
mươi tháng Năm ở đâu. Khoan hãy nghĩ đến chuyện đó!"
Thật dễ dàng khi nói "chưa cần tìm hiểu vội",
nhưng cần phải giải thích điều đó như thế nào, nếu như không ai biết một tí gì
cả?
Rất khó nói là An-đrây sẽ giải quyết vấn đề đặt ra cho anh
như thế nào, nếu như không có một trường hợp may mắn ngẫu nhiên. Tuy nhiên, thiếu
tướng Va-xi-li-ép vẫn thường thích nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng: trong công tác
tình báo trường hợp ngẫu nhiên ít đến với những người lười suy nghĩ và thụ động,
mà nó chỉ đến với những người thông minh và kiên trì.
Nói chuyện với nhiều người khác nhau, thu thập mọi chi tiết
nhỏ nhặt nhất về người phụ nữ mang tên là Ôn-ga Vê-lít-cô và về người chồng cũ
của cô ta, Mi-rô-nốp chú ý đến bà hộ lý đã làm việc nhiều năm ở ngay bệnh viện
cùng Xa-đốp-xki.
-- Thế đấy, -- bà hộ lý nói. -- Thế ra là anh lại quan tâm đến
bệnh viện chúng tôi ư? Tốt thôi, chả là bệnh viện chúng tôi đúng là một bệnh viện
tốt, có nhiều điều đáng tự hào và, chính là vì có những thầy thuốc giỏi. Tất
nhiên, mỗi người một tính một nết khác nhau, nhưng chung quy, họ đều là những
người tốt. Nhưng phải nói rằng người mà đặc biệt tốt, đối xử tốt, quan tâm và
thương yêu bệnh nhân hơn cả thì phải kể đến Va-lê-ri-an Xéc-gây-ê-vích tức là
ông Xa-đốp-xki ấy. Ngoài ra còn Va-xi-li Mi-tơ-rô-pha-nô-vích Prô-xcu-rin nữa.
Hai người chơi với nhau rất thân, nhưng tiếc là Prô-xcu-rin vừa đổi đi nơi
khác. Hiện anh ấy làm việc ở Xta-vrô-pôn. Anh có biết không? Nó ở cách đây khoảng
một trăm véc-ta* ngược dòng Vôn-ga ấy. Đó là một thành phố nhỏ mới, gọi là
Xta-vrô-pôn trên sông Vôn-ga. Cứ lần nào đến thăm Va-xi-li Prô-xcu-rin về, Xa-đốp-xki
cũng đến gặp tôi trước tiên để chuyển lời hỏi thăm của anh ấy. Cả hai người đều
rất kính trọng và quý mến tôi.
Sao? Anh muốn biết lần gần đây nhất ông Xa-đốp-xki gặp
Prô-xcu-rin là lúc nào à? Được thôi, có lẽ độ nửa năm rồi chứ chả mới gì đâu.
Tôi không nhớ rõ ngày tháng. Có lẽ là vào mùa xuân...
"Mùa xuân, -- Mi-rô-nốp thầm nghĩ, -- lại vào mùa xuân?
Nhưng, nếu như không phải thì sao?.."
Sáng hôm sau Mi-rô-nốp đến Sở công an tỉnh mượn chiếc xuồng
máy tốc độ nhanh và phóng ngược dòng Vôn-ga. Hơn ba giờ du lịch trên sông, anh
đã đến Xta-vrô-pôn.
An-đrây tìm gặp Prô-xcu-rin -- bác sĩ trưởng bệnh viện địa
phương ngay sau khi đến và trong câu chuyện xã giao thông thường, anh chen vào
những câu hỏi là Va-xi-li có thích ở nơi mới này không, có thích trở lại
Cui-bư-sép và anh còn có liên hệ gì với bệnh viện, với bạn bè, đồng chí cũ
không?
-- Nói thế nào với anh được nhỉ? Trở lại Cui-bư-sép à? --
Prô-xcu-rin nói, vẻ mơ màng. -- Tôi tự nguyện xin về bệnh viện mới này đấy chứ;
dĩ nhiên là điều kiện ở đây không được như ở chỗ cũ nhưng công việc thì hứng
thú hơn vì mình chủ động độc lập giải quyết. Việc nhiều, bận rộn... --
Prô-xcu-rin cười. -- Việc bận đến nỗi chả còn lúc nào mà nghĩ đến quá khứ và thậm
chí có lúc muốn ngồi nghỉ một lát cũng không được. Không có thì giờ nữa. Còn bạn
bè, đồng chí cũ thì tôi chả quên ai và cũng chả có ai quên tôi cả. Không, không
quên nhau được. Thỉnh thoảng vẫn có người đến chơi đây. Chả là chỗ chúng tôi ở
đây là một nơi tuyệt diệu. Đây là một vùng đẹp không bức tranh nào sánh nổi. Đặc
biệt là mùa hè, ừ,mà cả mùa xuân nữa... ở đây, anh có thể đi săn, đi câu...
-- Chà,lại chuyện câu cá. -- Mi-rô-nốp gật đầu vẻ am hiểu.
-- Thế mùa xuân vừa rồi ai đến đây được? Năm nay rét muộn, sang xuân rồi vẫn
còn băng giá.
-- Vâng, năm nay mùa xuân không thuận lợi lắm, nhưng dân mê
cá vẫn cứ đến chứ. Nhất là anh bạn tôi thì không thể không đến được. Xa-đốp-xki
ấy mà. Có thể là anh có nghe nói về anh ta. Chúng tôi làm việc với nhau nhiều
năm ở Cui-bư-sép. Tôi biên thư và thế là anh ấy đã đến đây. Anh ấy là con người
có tâm hồn lớn lao, chân thực và cao thượng. Tôi nói thực với đồng chí đấy.
Nhưng tiếc rằng, cuộc sống không chiều anh ấy.
-- Sao, -- An-đrây làm bộ vô tình hỏi, -- chuyện gì vậy?
Chuyện bất hạnh à?
-- Bất hạnh à? Cũng có thể tạm gọi như thế. Chuyện vợ anh ấy...
Cô ta bỏ đi, bỏ Xa-đốp-xki. Thật là đáng buồn cho anh ấy. Thôi, tôi chả thích
nói đến chuyện đó... -- Prô-xcu-rin khoát tay vẻ bực bội.
Cảm thấy Prô-xcu-rin không thích nói đến chuyện riêng của bạn
nên Mi-rô-nốp tảng lờ và quay sang chuyện câu cá.
-- Theo như anh nói thì, Xa-đốp-xki chỉ đến đây để câu cá
thôi à? Chả lẽ đi câu vào đầu mùa xuân đúng vào mùa nước to. Bấy giờ có phải là
mùa câu đâu.
-- Đúng vậy! -- Prô-xcu-rin nói, kéo dài giọng. -- Mùa nước
lũ nhưng có phải là anh ấy đến vào đầu mùa xuân đâu mà muộn hơn -- vào tháng
Năm. Thậm chí tôi có thể nói chính xác là ngày hai mươi sáu tháng Năm. Đúng vào
ngày sinh của tôi, đồng chí hiểu chứ? Anh ấy hẹn và đến rất đúng. Chiều tối
chúng tôi ngồi với nhau đến khuya và sáng hôm sau anh ấy lại đi... Chỉ có thế
thôi!..
Mi-rô-nốp thoáng nghĩ: thế tức là Xa-đốp-xki đã rời khỏi
Xta-vrô-pôn vào ngày hai mươi bảy tháng Năm, nhưng để đi đâu? Đúng ngày mà
Vê-lít-cô rời Crai-xcơ thì anh ta ở đâu? Có thể Prô-xcu-rin biết vấn đề này
chăng?
-- Sao lại thế, -- Mi-rô-nốp nói, giọng thờ ơ, -- chả lẽ bạn
anh cố tình nghỉ phép để đến vùng giàu đẹp này và chỉ ở có một đêm, rồi lại về
Cui-bư-sép ngay, thậm chí chả đi câu buổi nào sao? Có mà điên!..
-- Tôi chưa kịp nói hết, -- Prô-xcu-rin nói, -- có thể anh
ta đã đi câu đấy chứ. Va-lê-ri-an có về Cui-bư-sép ngay đâu mà anh ấy đến thăm
cụ Da-kha-rích...
-- Da-kha-rích à? -- An-đrây hỏi, vẻ không hiểu.
Prô-xcu-rin cười với vẻ khoan dung:
-- Nghe anh hỏi, tôi biết ngay anh không phải người vùng
này. Không những Xta-vrô-pôn, nhưng có thể nói là toàn tỉnh Cui-bư-sép đều biết
ông ấy. Một cụ già nổi tiếng! Ngoài bảy mươi tuổi rồi nhưng rất thích chơi với
những tay đi săn trẻ. Cụ làm nghề gác rừng ở ngay đấy. Là một nhà săn bắn và
câu cá rất lão luyện. Có thể nói là đến mùa săn và mùa câu các tay câu Cui-bư-sép
kéo đến với cụ. Cụ và Xa-đốp-xki chơi với nhau rất thân...
-- Va-xi-li Mi-tơ-rô-pha-nô-vích à! -- Mi-rô-nốp sôi nổi hẳn
lên. -- Đồng chí giới thiệu tôi với cụ Da-kha-rích và chỉ đường hộ được không.
Đã đến đây mà không đến đó để săn bắn và câu cá thì thật là uổng. Tôi cũng rất
thích câu cá!
Chả phải An-đrây là người say mê gì thú câu cá, mặc dầu thỉnh
thoảng anh cũng có nghỉ phép đi câu giải trí nhưng lần này thì anh cần cớ đó để
gặp cụ Da-kha-rích, để xác minh lần cuối cùng trong những ngày hai bảy, hai
tám, hai chín tháng Năm, Xa-đốp-xki ở đâu và trong những ngày đó ông ta có gặp
cô gái mang tên Vê-lít-cô hay không? Chỉ có việc đó mà anh cần phải bỏ ra thêm
một, hai ngày và nếu cần thì cả tuần lễ nữa cũng được.
Tuy nhiên cần gì đến cả tuần lễ. Hãy đến với cụ Da-kha-rích
một hôm và ngủ một đêm trong căn nhà gác rừng của cụ là An-đrây đã xác minh được
tất cả những điều cần thiết. Theo lời cụ Da-kha-rích mà Mi-rô-nốp đã khéo léo
và dễ dàng gợi lên trong khi tán chuyện về bác sĩ Xa-đốp-xki, An-đrây biết rõ
là, Xa-đốp-xki đã đi thẳng từ nhà Prô-xcu-rin đến với cụ già gác rừng này sáng
hôm sau ngày sinh nhật của Prô-xcu-rin và ở đây với cụ trọn một tuần chả đi đâu
cả. Suốt thời gian đó, hai người cùng ở và đi săn với nhau, ngoài ra không còn
ai đến nữa. Như vậy rõ ràng là, trong những ngày đó Xa-đốp-xki không hề gặp người
vợ cũ của mình và dĩ nhiên là cũng không biết cô ta đã bỏ đi khỏi Crai-xcơ.
Điều do dự cuối cùng của Mi-rô-nốp đã được giải quyết. Anh
trở về Cui-bư-sép với quyết định: cần phải tiến hành ngay việc đó. Chiều hôm trở
về tới thành phố. An-đrây cho mời Xa-đốp-xki tới.
Cuộc nói chuyện với Xa-đốp-xki đã không đánh lừa những điều
Mi-rô-nốp mong đợi. Xa-đốp-xki đã kể về Ôn-ga, về mối quan hệ của họ một cách đầy
đủ và bình tĩnh, nhưng, không phải chỉ có thế, trong khi nói về tình cảm của
mình với Ôn-ga, giọng Xa-đốp-xki đôi lúc như nghẹn lại, chua xót, căm uất nhưng
sau đó ông trấn tĩnh được ngay và lại cố bình tĩnh kể tiếp câu chuyện. Giọng
nói của ông chứng tỏ rằng, những ký ức đó vẫn đang cháy bỏng trong lòng ông.
Toàn bộ câu chuyện của Xa-đốp-xki ngay từ đầu đã lôi cuốn An-đrây, lôi cuốn
hoàn toàn sự chú ý của anh.
Thỉnh thoảng Mi-rô-nốp đề ra những câu hỏi với vẻ mặt hết sức
tự nhiên để cố giấu vẻ hồi hộp thực sự của mình.
Xa-đốp-xki bắt đầu kể từ chỗ quen biết Ôn-ga trong gia đình
giáo sư Na-vơ-rô-xki trong những năm đầu chiến tranh. Đám mây bao phủ quanh cô
gái giả danh là Vê-lít-cô dần dần tan đi. An-đrây im lặng lắng nghe, không thúc
giục Xa-đốp-xki, mặc dầu anh rất nóng lòng muốn biết tại sao cô cháu và là con
gái nuôi của giáo sư Na-vơ-rô-xki lại mang họ Vê-lít-cô. Vì từ khi bắt đầu đến
giờ, Xa-đốp-xki chưa một lần nào nhắc đến họ của cô cả.
Khi Xa-đốp-xki sang đến đoạn nói về sự xuất hiện của Ôn-ga ở
Cui-bư-sép sau khi ở trại tập trung về thì An-đrây rõ ràng thấy mình hồi hộp
hơn nữa. Thế tức là, cô ta đã bị bắt làm tù binh? Lúc đầu ở với bọn Đức và sau
đó ở với bọn Mỹ ( vì mãi hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt cô mới được trao
trả từ một trại tập kết tù binh nào đó ở phương Tây về). Đây là một điều mới mẻ
và là điều hết sức quan trọng. "Thế đấy -- An-đrây thoáng nghĩ, -- vì thế
nên họ cô ta mới là Vê-lít-cô, nếu như không phải là một sự nhầm lẫn".
-- Xin lỗi, -- cuối cùng rồi không thể chờ được, nên An-đrây
đành phải nêu một cách khéo léo câu hỏi mà anh vẫn suy nghĩ từ lâu. -- Thế tại
sao sau khi lấy chồng rồi Ôn-ga lại không đổi sang họ của anh?
-- Tại sao à? -- Xa-đốp-xki hỏi lại. -- Tôi xin thề rằng, quả
là tôi cũng không hề để ý đến chuyện vợ tôi lấy họ gì nữa. Nhưng Ôn-ga cũng có
lý do riêng để không đổi họ của cô ấy sang họ tôi.
-- Lý do gì?
-- Đối với cô ấy, họ Vê-lít-cô là một kỷ niệm thiêng liêng,
do đó cô rất không muốn đổi họ.
-- Vê-lít-cô à? -- Mi-rô-nốp hỏi thêm. -- Thế họ này là từ
thời con gái à?
-- Không, anh chả hiểu gì cả. -- Xa-đốp-xki trả lời với giọng
thoải mái và bình tĩnh như từ đầu. -- Họ của Ôn-ga là Nhi-cô-lê-va. Họ
Vê-lít-cô là có từ thời kỳ ở mặt trận. Cô ấy là hiệu thính viên của đội du
kích. Chắc anh cũng biết đấy, đó là điều bí mật. Cô ấy nói là chả cần thiết phải
thay đổi họ vì đó là kỷ niệm của những năm chiến đấu.
Phần cuối câu chuyện cũng chả có gì mới mẻ hơn: hầu hết những
điều Xa-đốp-xki nói là những đoạn về cuộc đi nghỉ ở Xô-tri, việc Ôn-ga bỏ ông
và đến Crai-xcơ để tìm cô ta. Những chi tiết đó Mi-rô-nốp đã biết. Xa-đốp-xki
không biết gì về số phận Ôn-ga sau lần gặp gỡ cuối cùng của họ. Nhưng có một số
mâu thuẫn trong câu chuyện đã làm Mi-rô-nốp chú ý. Thí dụ như, Trê-nhi-a-ép thì
nói về "thiên tình sử" của ông ta với Ôn-ga ở Xô-tri kéo dài tới gần
hai tuần lễ, nhưng theo lời Xa-đốp-xki thì Ôn-ga đã bỏ đi với Trê-nhi-a-ép ngay
ngày hôm sau, khi quen biết ông ta. Còn câu chuyện bên bờ biển dưới đêm trăng,
cái tát tai thì sao? Xa-đốp-xki không nói tý gì về chi tiết này cả. Có nhiều
chi tiết khác nhau khá quan trọng giữa Xa-đốp-xki và Trê-nhi-a-ép. Vậy thì ai
trong họ đã giấu sự thật? Xa-đốp-xki chăng? Để làm gì? Hay là Trê-nhi-a-ép?
Nhưng ông ta cần gì điều đó? Nhưng,vấn đề đó không phải là điều quan trọng
chính hiện nay, mặc dầu vẫn còn thì giờ để phân tích.
Tối hôm ấy, sau khi nghe xong báo cáo bằng điện thoại, thiếu
tướng Va-xi-li-ép hỏi:
-- Thế tức là, theo như Xa-đốp-xki nói thì vợ cũ của ông ta
có ở trong các trại trao trả tù binh ở gần N. à? Vấn đề rất hấp dẫn đấy...--
Ông im lặng một lát. -- Này An-đrây, nhân tiện tôi muốn biết là chính cái
"họ Cô-nhi-lê-va" kia anh có ý kiến gì không? Cả Rư-gi-cốp nữa? Nếu
như tôi không nhầm thì cũng được trao trả từ N. về. Anh có ý kiến gì về sự
trùng lặp đó không?
-- Ồ, thưa thiếu tướng, sao lại không nghĩ đến điều ấy được.
Không nên loại trừ rằng, để làm sáng tỏ những dấu vết đã mất về cô gái
Cô-nhi-lê-va, theo tôi, có lẽ cần phải đến ngay đấy -- đến ngay N. Nếu có thể,
xin phép cho tôi tự đến đấy được không?
-- Tùy anh, -- thiếu tướng đồng ý. -- Anh cứ đi đi. Nhưng
trước tiên nên về Crai-xcơ để kiểm tra xem công việc ra sao đã rồi hãy đi N.
Chúng tôi sẽ phải tổ chức kiểm tra thật tỷ mỉ số phận của cô Cô-nhi-lê-va -- nếu
quả đó là họ thật của cô ta. Kết quả ra sao tôi sẽ báo anh biết. Đúng là, mấy
lâu nay chúng ta cũng quan tâm đến bà Cô-nhi-lê-va -- Na-vơ-rô-xcai-a ấy. Như vậy
là đã có cơ sở rồi. Biết đâu Cô-nhi-lê-va của anh lại đang sống ở đấy? Anh thấy
thế nào? Ta có nên cử Lu-ga-nốp đến Vô-rô-ne-giơ không? Hả? Đồng ý chứ? Tốt!
Soi Chi Mong Manh
1001 truyện trinh thám tuyệt hay
Gồm “Chiếc Nhẫn Tình Cờ-Những Người Thích Đùa-Pháo Đài Số- Sherlock homes-Điệp Vụ Bí Ẩn-Chinh Đông Chinh Tây-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân-Xâu Chuỗi Ngọc Trai-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-Chuến Tàu 16 Giờ 50-Trại Giam Địa Ngục-Nnghinf Lẻ Một Đêm-Rừng Thẳm Tuyết Dày-Nam Tước Phôn gôn Rinh-xâu chuôi ngoc trai cái kính chiếc khuy đong soi chi mong manh
VV…” https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
VV…” https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
TRUYEN TRINH THÁM
“Chiếc Nhẫn Tình Cờ
Pháo Đài Số
nhưng điêp vu bi ân
nhưng ngươi yhichs đùa
chinh tây
an mang đêm cuoi năm
-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân
-Xâu Chuỗi Ngọc Trai
-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết
-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-
Chuến Tàu 16 Giờ 50
-Trại Giam Địa Ngục1
-Nnghinf Lẻ Một Đêm
nghin le mot đêm 1-10
-Rừng Thẳm Tuyết Dày
-Nam Tước Phôn gôn Rinh
xâu chuôi ngoc trai
Chuyến tàu 16 giờ 50
chiếc khuy đong
cái kính
Soi chi mong manh
VV…”
https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
Pháo Đài Số
nhưng điêp vu bi ân
nhưng ngươi yhichs đùa
chinh tây
an mang đêm cuoi năm
-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân
-Xâu Chuỗi Ngọc Trai
-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết
-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-
Chuến Tàu 16 Giờ 50
-Trại Giam Địa Ngục1
-Nnghinf Lẻ Một Đêm
nghin le mot đêm 1-10
-Rừng Thẳm Tuyết Dày
-Nam Tước Phôn gôn Rinh
xâu chuôi ngoc trai
Chuyến tàu 16 giờ 50
chiếc khuy đong
cái kính
Soi chi mong manh
VV…”
https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]