nhathongnguyen

Không có gì xa lạ đối với con người

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2020

soi chi mong manh

soi chi mong manh




CHƯƠNG 17

Buổi hỏi cung tiếp theo được tiến hành ở Cục an ninh nhà nước chứ không phải ở Cục công an như những lần trước. Trê-nhi-a-ép được dẫn vào. Bất giác Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc. Mới có một ngày đêm mà Trê-nhi-a-ép đã thay đổi đến nỗi khó nhận ra: cái dáng điệu tự tin, cái tư thế đường hoàng và bộ mặt lạnh lùng của ông ta đã biến đâu mất; ông ta bước vào phòng với dáng điệu uể oải, mệt mỏi: đầu cúi gằm, mặt hốc hác. Đôi mắt đờ đẫn, mờ đục, râu mọc lờm xờm hai bên má và sợi bạc khá nhiều.

-- Mời ông ngồi, -- Mi-rô-nốp giơ tay chỉ vào chiếc ghế kê sau chiếc bàn con phủ khăn xanh, đặt ở góc phòng.

Trê-nhi-a-ép chả nhìn ai, và cũng chẳng nói chẳng rằng lùi lũi bước đến chiếc ghế do Mi-rô-nốp chỉ, ngồi phịch xuống luôn.

-- Thế nào, ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích? -- Mi-rô-nốp hỏi luôn, không đếm xỉa gì đến vẻ thiểu não của Trê-nhi-a-ép. -- Ông đã suy nghĩ thêm được điều gì chưa? Ông đã quyết định bỏ thái độ ương ngạnh, ngoan cố vô ích để tập trung vào những sự thực rồi chứ?

Trê-nhi-a-ép uể oải, buồn bã nhìn Mi-rô-nốp chả thèm nói gì rồi lại gục đầu xuống, đôi mắt trân trân nhìn xuống sàn nhà.

-- Chà, chà, ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích, -- Mi-rô-nốp vẫn bình tĩnh, kiên nhẫn nói. -- Chúng ta bắt đầu cuộc nói chuyện được chứ?

-- Chuyện gì? -- Trê-nhi-a-ép cau có hỏi lại, -- nói gì? Tất cả những gì tôi biết, tôi đã nói hết rồi. Không còn có gì để nói thêm nữa...

-- Có thật là không còn gì để nói nữa chứ? -- Mi-rô-nốp vẫn gặng hỏi, không cần giấu vẻ mỉa mai trong giọng nói. -- Nếu vậy thì chúng tôi phải giúp ông vậy. Ông có thể nói về chiếc ngăn kéo bí mật giấu các phương tiện làm gián điệp trong phòng ngủ ông được chứ?

-- Ngăn kéo bí mật nào? Phương tiện gián điệp nào? -- Trê-nhi-a-ép tròn mắt hỏi và đột nhiên lại cười mỉa mai, -- xin các ông hiểu cho rằng, tôi không thích nói đùa đâu!

-- Đúng, chúng tôi cũng không có ý định đùa cợt gì cả...

Mi-rô-nốp đứng dậy, mở két sắt và lần lượt đặt lên bàn chiếc máy ảnh, lọ đựng thuốc hóa học, bút chì đặc biệt và tất cả những đồ vật mà họ đã khám phá được hồi chiều qua trong chiếc ngăn kéo bí mật ở phòng Trê-nhi-a-ép.

An-đrây cầm chiếc máy ảnh và nói vẫn với một giọng bình thản rành rọt.

-- Cũng cần nói rõ thêm với ông là, theo các chuyên viên cho biết thì trên máy ảnh này còn có vết tay rất mờ. Đó là vết tay của ông đấy, ông Trê-nhi-a-ép ạ.

Trê-nhi-a-ép cắn môi suy nghĩ và thở dài não nuột.

-- Thôi được, -- ông ta bỗng nói, giọng khản đặc. -- Đủ rồi. Tôi...tôi sẽ nói tất cả. Ông ghi đi!..

-- Chớ vội, ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích ạ, chúng ta còn đủ thời gian, -- Mi-rô-nốp nói cố giấu giọng châm biếm. -- Tất cả mọi điều ông chỉ nói khi ông đã bị vạch mặt một cách cụ thể. Vậy, ông có sẵn sàng nói hết sự thật không?

-- Nhưng... -- Trê-nhi-a-ép định nói gì nhưng giọng như bị tắc lại. -- Tôi không muốn nói điều đó vì nó chạm đến cô Ôn-ga. Cô ta không còn nữa. Dầu sao thì cô ta cũng đã chết rồi. Tôi không muốn nói vì dầu sao tôi cũng vẫn muốn giữ lại trong lòng mình một chút kỷ niệm trong sáng về cô ấy... -- Trê-nhi-a-ép im lặng một lát rồi bỗng vung tay, nói. -- Thật là kinh khủng. Tất cả đều là vô ích. Cái kim để trong túi lâu ngày cũng phải lòi ra...

-- Ông hãy kể đi! -- Mi-rô-nốp giục.

-- Tôi sẽ kể. Tôi có cần giấu giếm gì đâu? -- Trê-nhi-a-ép nói trong tiếng nấc. -- Tôi thấy rằng các ông đã biết hết... Vâng, hôm qua các ông đã tỏ ý nghi ngờ ở nguyên nhân đã khiến tôi giết cô Ôn-ga. Hôm qua tôi đã nói, nguyên nhân là sự ghen tuông. Nhưng đó không phải là điều chính. Không phải là do ghen ghét đâu! Ôn-ga... Ôn-ga là...ôi, thật là đau xót... có ai ngờ được rằng người vợ mà tôi rất mực yêu thương đó lại là... là một con gián điệp!.. Làm sao mà tôi biết được điều đó? Tôi xin kể từ đầu...

-- Tôi, -- Trê-nhi-a-ép bắt đầu kể, -- tôi đã nói thật rằng tôi không hề biết đến quá khứ của cô Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Tôi chưa bao giờ để ý tìm hiểu đến quá khứ của cô ta. Sao lại như vậy? Thậm chí tôi cũng không biết cả họ thật của cô ta nữa. Điểm này thì các ông hãy tin ở tôi. Không phải là tôi đã phát hiện ra cô ta ngay đâu. Năm đầu của cuộc sống vợ chồng chúng tôi thật là trong sáng, đầm ấm. Tôi cảm thấy mình thật là hạnh phúc. Vâng, quả thật, rất hạnh phúc. Tôi rất mãn nguyện với hạnh phúc của mình đến nỗi không để ý gì đến những điều kỳ lạ trong lối sống dần dần thay đổi của Ôn-ga. Nói đúng hơn thì tôi có nhận thấy cô ta có những cử chỉ hơi khang khác nhưng tôi cứ cho rằng đó là do tình yêu, sự chăm sóc của cô ta với tôi...

-- Ông nói kỹ hơn về những điều kỳ lạ của cô Ôn-ga được không? -- Mi-rô-nốp ngắt lời, hỏi. -- Nói cụ thể hơn nữa được không?

-- Cụ thể hơn à? -- Trê-nhi-a-ép hỏi lại. -- Được, tôi sẽ nói một sự việc cụ thể nhất. Các ông cứ kiên tâm một chút. Sự việc dần dần sẽ rõ. Như các ông đã biết, tôi là một kỹ sư quân sự, một người xây dựng. Thật ra thì đã chuyển sang ngạch sĩ quan dự bị từ mấy năm nay rồi nhưng tôi vẫn được tiếp tục làm việc ở những công trường quốc phòng và tất nhiên là không kém phần quan trọng. Các ông cũng đã có thể biết được, đó là công trình xây dựng các căn cứ tên lửa, hoặc những công trình thuộc loại như vậy. Tôi nghĩ rằng, ngay ở đây, tôi cũng sẽ không được nói tất cả những điều chi tiết quá.

Mi-rô-nốp gật đầu vẻ đồng tình. Trê-nhi-a-ép tiếp tục:

-- Tôi rất yêu công việc của tôi và hiểu rõ giá trị của nó. Ở các công trình mà tôi đã làm việc, tôi đều được tín nhiệm và được cử giữ những chức vụ chính. Trước đây, khi chưa gặp Ôn-ga và cưới cô ta, tôi thường làm việc từ mười sáu đến mười tám giờ một ngày. Các ông nghĩ xem, lúc đó tôi còn biết làm gì nữa ngoài công việc ra. Rượu không nghiện, cờ bạc không biết chơi. Lao đầu vào công tác -- đó cũng là nguồn vui, là hạnh phúc của tôi. Có lẽ cuộc sống sẽ cứ trôi qua như vậy nếu như tôi không được gặp Ôn-ga. Sự gặp gỡ và chung sống với cô đã làm thay đổi tất cả. Có thể nói, lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ đến cô. Thậm chí ngay cả trong lúc công việc khẩn trương, trong khi bàn bạc với các kỹ sư, các cán bộ thiết kế, nghiên cứu các bản vẽ, các ma-két, ý nghĩ tôi cứ xoay quanh Ôn-ga. Có lúc mới đi làm được nửa ngày, hoặc công việc đang dở dang tôi cũng vờ lấy cớ này cớ khác, phóng xe về với Ôn-ga...

Sao lại như vậy? Chỉ có thể nói một cách đơn giản nhất là tôi đã quá mê say, yêu thương cô ấy. Các ông có thể không hiểu nổi tâm tư, tình cảm cũng như những xúc động của tôi. Đối với tôi, trên đời còn gì quý hơn là Ôn-ga... Có lẽ cô ta cũng thấy, và tất nhiên không thể không nhận thấy được rằng, trong công tác tôi đã có những khó khăn, đã có nhiều lúc không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn. Đây là chưa nói đến công tác nghiên cứu khoa học nữa: chả là trước đây, khi chưa cưới vợ, thỉnh thoảng tôi vẫn hay viết bài cho các báo và tạp chí xây dựng, nhưng gần đây thì việc đó đã bị bỏ bê hoàn toàn.

Cứ thế, công việc của tôi mỗi ngày một kém hơn và chính nhiều khi tôi đã phải để cho Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na giúp đỡ một số công việc. Cô ta làm việc đó rất thoải mái, rất tế nhị. Nhờ đó, tôi mới biết rằng cô ta đánh máy khá thạo, và hơn thế nữa, đọc bản vẽ không đến nỗi tồi. Theo lời khuyên, à mà không phải, theo đề nghị của Ôn-ga tôi đã bắt đầu đem các tài liệu thiết kế về nhà làm vào các buổi tối. Nhưng đó cũng chỉ là những tài liệu có tính chất bộ phận như các chi tiết bản vẽ, các số liệu và các ý kiến đề nghị, nhận xét. Cô ta giúp đỡ tôi một cách nhiệt tình, tích cực. Những buổi tối như vậy thật là hạnh phúc! Tôi có cơ hội ngồi bên Ôn-ga hàng giờ liền, tối nào cũng bên nhau, cùng phân tích, trao đổi và đùa giỡn.

Dần dà, tôi cũng không biết là bao lâu, nhưng qua một thời gian tôi cảm thấy Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na có thể đã đóng vai trò lãnh đạo của tôi không kém gì tôi mấy. Điều đó dễ hiểu thôi. Nếu như trước đây tôi chỉ hay mang về nhà những tài liệu chung nhất hoặc chỉ là bộ phận không quan trọng trong các đồ án thiết kế thì dần dà, do công việc đòi hỏi và do thói quen, tôi hay mang về nhà những tài liệu mật và đôi khi cả những thứ tối mật. Đối với tôi, việc mang tài liệu như vậy về nhà không có gì khó khăn cả vì tôi là một trong những người lãnh đạo chính xây dựng các công trình. Những tài liệu đó thường được cất kỹ trong tủ sắt phòng làm việc của tôi, cho nên ngoài tôi thì không ai có quyền lấy ra. Thế là Ôn-ga đã đọc và thấy hết các tài liệu đó...

Chắc các ông sẽ nói rằng tôi đã phạm tội để lộ các tài liệu bí mật quân sự? Vâng, đúng vậy. Nhưng quả là lúc đó thì tôi không nghĩ như vậy. Nhưng khi làm việc ở nhà, tôi không rời Ôn-ga ra một phút nào. Tôi cho rằng, việc gì tôi phải giấu cô ta những điều bí mật đó. Tôi đã mù quáng, hoàn toàn mù quáng nên không thấy, không để ý đến thái độ quan tâm ngày càng mãnh liệt và quá rõ rệt của cô ta đối với các tài liệu tối mật. Thái độ đó thể hiện rất tự nhiên, rất đường hoàng.

Nhưng vấn đề không phải chỉ có thế! Tôi vui sướng vì sự săn sóc, quan tâm của vợ tôi đối với công tác của tôi nên đã nhiều lần kể cho cô ta biết nhiều việc khác như: nội dung các cuộc họp lãnh đạo để thảo luận các vấn đề bí mật mà nội dung chỉ được nói trong phạm vi những người chỉ huy xây dựng. Hoặc đã nêu lên những nhận xét về cán bộ kỹ thuật, về các người lãnh đạo khác. Tóm lại những điều tôi biết hoặc đang suy nghĩ tôi đều nói hoặc trao đổi ý kiến với vợ tôi, kể cả những nhận xét về tài năng, mặt yếu, mặt mạnh của cán bộ do tôi phụ trách...

Tình hình cứ như vậy diễn ra, có lẽ đến hơn một năm nếu như không có chuyện bất ngờ đã chấm dứt tất cả. Chuyện đó xảy ra cũng như bị phát hiện thật đột ngột và cũng thật kinh khủng...

Trê-nhi-a-ép bỗng thở dài thiểu não rồi im bặt. Trong phòng lặng lẽ đến nỗi chỉ nghe tiếng ngòi bút ghi biên bản của Lu-ga-nốp sột soạt trên giấy. Một, rồi hai, ba phút trôi qua. Mi-rô-nốp cũng trầm ngâm, anh không thúc giục gì. Trê-nhi-a-ép ngồi im, khoanh tay trên gối, đầu cúi gục trông thật mệt mỏi, chán chường. Cuối cùng, như đã lấy lại sức, ông ta lại trầm ngâm nói tiếp:

-- Một hôm, tôi đã mang về nhà một tài liệu mới để tranh thủ nghiên cứu chuẩn bị cho một cuộc họp quan trọng. Đây là một tài liệu thuộc loại đặc biệt và tuyệt mật, nhưng tối hôm ấy tôi bận làm việc nhiều. Mãi đến nửa đêm mới mó tay đến nó. Khi tôi đọc xong tài liệu thì Ôn-ga đã đi nghỉ. Lấy cớ nhức đầu, cô ta đi nằm sớm hơn mọi khi. Sáng hôm sau khi tôi thức dậy thì Ôn-ga cũng đã dậy trước tôi. Và đó cũng là điều khác với ngày thường.

Chuẩn bị đi làm, tôi mở cặp định lấy tập tài liệu để xem qua lần nữa, nhưng tôi sửng sốt: không thấy tập tài liệu đó trong cặp. Tôi cuống cuồng, run lên như người bị sốt, lục tìm kỹ trong cặp. Nhưng cũng chả thấy đâu. Tôi sợ đến gần như phát điên lên. Tôi nhớ rõ là trước lúc đi ngủ, tôi đã bỏ nó vào cặp rồi thế mà giờ đây tìm mãi vẫn không thấy. Tôi dở từng tờ giấy, tờ bìa, lục các tập tài liệu cũ và bày tất cả ra trên bàn, xem hết các ngăn kéo, tủ sách, tủ đứng nhưng đều uổng công vô ích. Lúc đầu tôi cũng không để ý đến thái độ dửng dưng của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na. Cô ta có vẻ như không chú ý gì đến hành động luống cuống của tôi. Tôi càng lục lọi cuống quít thì cô ta càng dửng dưng. Nhưng bỗng có lúc tôi bất ngờ quay lại, tôi bắt gặp một nụ cười khó hiểu, độc ác thoáng hiện trên miệng cô ta. Nhưng cảm giác đó chỉ thoáng hiện trong chốc lát. Thái độ Ôn-ga thay đổi hẳn, cô ta có vẻ lo lắng, hỏi tôi là có chuyện gì xảy ra, cần gì mà lục tung lên như vậy? Chả hiểu sao lúc bấy giờ tôi không muốn nói thật. Đó là lần đầu tiên tôi không muốn nói thật với Ôn-ga. Tại sao vậy? Chính tôi cũng không biết nữa. Làm ra vẻ hết sức bình tĩnh, tôi nhẹ nhàng hỏi cô ta có cầm tập giấy gì đó trong cặp không và nếu cầm xem thì để đâu rồi?

"Anh không điên đấy chứ?" -- cô ta lạnh lùng hỏi lại tôi và quay ngoắt đi. Từ trước đến nay cô ấy chưa hề ăn nói với tôi như vậy bao giờ. Nhưng lúc ấy tôi cũng chả chú ý gì đến thái độ đó vì tôi chả còn tâm trí đâu mà để ý đến nó. Tôi còn mải nghĩ đến hậu quả của việc mất bản tài liệu này. Đúng thế, đây có phải là chuyện mất mát thông thường đâu? Chỉ riêng việc tôi tự ý mang tài liệu đó về nhà mà tính chất tuyệt mật của nó rõ ràng, đã đủ gây cho tôi bao hậu quả nặng nề rồi.

Trong đầu tôi thoáng một ý nghĩ may rủi, nếu tôi đã cầm tài liệu khác về nhà còn bản kia vẫn còn nằm trong két sắt ở phòng làm việc thì sao? Ý nghĩ đó thật chẳng qua cũng như người chết đuối cố vớ lấy cọng rơm mà thôi. Dầu sao không thể chậm phút nào nữa, tôi phóng xe đến ngay công trường.

Tất nhiên, trong tủ sắt chả có tài liệu nào cả. Nỗi lo sợ như luồng điện lạnh buốt chạy khắp người tôi. Tôi thẫn thờ, lo sợ và thất vọng. Không nói với ai lời nào, tôi lại phóng xe về nhà. Để làm gì? Tôi cũng không biết tự trả lời mình ra sao nữa.

Hoàn toàn chán chường, hoang mang và thất vọng, tôi bước vào phòng. Ôn-ga không có nhà. Chiếc cặp ác nghiệt nằm trên bàn, như nó vẫn được đặt ở đấy từ trước. Tôi như người mất hồn, ngồi phịch xuống ghế, thẫn thờ với tay mở cặp và cũng chả hiểu để làm gì nữa. Nhưng cái gì thế này? Hoa mắt chăng? Không! Tôi vẫn tỉnh táo! Tài liệu mật mà tôi tìm suốt từ sáng đến giờ đang nằm trong cặp tôi, giữa những giấy tờ khác mà tôi mà tôi đã lục tung lên.

Có thể nói đáng lẽ ra lúc đó tôi phải vui sướng reo to lên nhưng tôi không thể nào biểu lộ được một niềm vui nào. Một sự sợ hãi khó hiểu xâm chiếm lòng tôi, nhưng tay tôi thì vẫn cầm lấy tài liệu đó xem đi xem lại theo một bản năng tự nhiên. Tôi bỗng nhớ lại nụ cười cay độc mà Ôn-ga cố dấu tôi. Giọng nói dửng dưng, mất tự nhiên của cô ta lúc tôi hỏi. Tôi lại nghĩ tới điều khác. Trước đây tôi không hề để ý đến vấn đề chi tiêu của Ôn-ga. Bao nhiêu lương tôi đều đưa hết cho cô. Giờ đây bất giác tôi nghĩ đến nó. Trán tôi bỗng toát mồ hôi lạnh ngắt, mắt tôi mờ đi như có một màn sương che phủ: cô ta lấy đâu ra lắm tiền thế? Mua sắm bao nhiêu là đồ dùng, may bao nhiêu là quần áo. Cái mới thì bao giờ cũng đắt hơn, sang hơn.

-- Ông chả cần phải kê khai bản đối chiếu ra đây làm gì, -- Mi-rô-nốp nói. -- Chỉ cần tính sơ sơ cũng biết rằng ông đã chi tiêu nhiều hơn là tiền lương thực tế...

-- Tôi đã nói gì nhỉ? -- Trê-nhi-a-ép cướp lời. -- Đúng là tôi không hề tính toán gì cả... nhưng trong buổi sáng phũ phàng hôm ấy, tự nhiên tôi bỗng thấy rằng, các món tiền chi tiêu lớn của chúng tôi đã vượt quá xa mức lương của tôi... Một điều như vậy mà sao trước đây tôi không biết đến. Thật là không sao hình dung được. Trách gì người ta thường nói: tình yêu mù quáng.

-- Thật là lạ... -- Mi-rô-nốp trầm ngâm lẩm bẩm, -- đúng là trước đây ông không nhận thấy điều đó chứ? Ông hãy cho biết thêm, -- Mi-rô-nốp bỗng đột ngột hỏi, -- vợ ông thường hay tự đi mua sắm lấy hay là, đôi lúc nào đó hoặc có thứ nào đó do ông tự mua lấy?

Trê-nhi-a-ép nói ngay:

-- Biết nói với các ông thế nào được. Thực ra tôi bận và không phải là người thích la cà các cửa hiệu. Nhưng, cũng có lúc và có thứ cả hai chúng tôi cùng đi...

-- Thế tấm thảm, tấm thảm trong phòng ăn, cả hai người cùng đi mua chứ? Ông có nhớ giá bao nhiêu không? Tấm thảm tốt lắm!

-- Tấm thảm à? Để tôi nhớ lại xem... Hình như, hình như... cả hai chúng tôi cùng đi thì phải...

-- Thế còn giá cả thì sao? Bao nhiêu? Món hàng này khá đắt. Nhìn qua cũng biết được giá trị của nó.

-- Giá thì tôi không nhớ, -- Trê-nhi-a-ép lúng túng trả lời.

An-đrây nhận thấy Trê-nhi-a-ép lần này nói năng rất trôi chảy, lưu loát và có vẻ tự chủ. Biết được thủ thuật của ông ta, Mi-rô-nốp hơi nheo mắt rồi ra vẻ vô tư, xua tay nói:

-- Thôi được, ông không nhớ rõ thì thôi, không cần thiết lắm. Dù sao thì đây cũng không phải là điều quan trọng. Ông cứ kể tiếp đi.

Với một sự nhạy cảm qua kinh nghiệm thực tế phong phú, An-đrây biết rằng, dáng điệu khoát tay và giọng nói có vẻ vô tư của anh vừa rồiđã làm cho Trê-nhi-a-ép đặc ý hơn nên câu hỏi về chiếc thảm đã được bỏ qua nhanh chóng.

Trê-nhi-a-ép tiếp tục một cách tự tin.

-- Sau đó tôi ngồi một mình khá lâu trong căn phòng quen thuộc nhưng lúc này trống rỗng quá. Tôi thầm suy nghĩ, đánh giá sự việc vừa xảy ra. "Chả có lẽ, -- tôi nghĩ, -- chả lẽ Ôn-ga, người mà tôi hằng quý mến, tin yêu lại có thể bán mình cho ai đó! Cô ta là ai? Gián điệp chăng? Không, không thể như vậy được. Không thể nào mà tin được rằng cô Ôn-ga của tôi lại là kẻ có thể bán rẻ Tổ quốc, lại có thể bán đi cái thiêng liêng nhất của đời mình, lại có thể là người của cơ quan gián điệp nước ngoài. Nhưng, tại sao cô ta lại có biểu hiện ngày càng quan tâm, chú ý nhiều đến công việc của tôi? Tại sao cô ta ngày càng có nhiều tiền tiêu pha như vậy? Và cuối cùng là, làm sao có thể giải thích được sự kiện bí ẩn về tài liệu mật đã mất đi nhưng giờ đây lại nằm trong cặp ngay trước mắt tôi thế này? " Nhưng dù thế nào đi nữa tôi vẫn không tin được rằng Ôn-ga là gián điệp. Không thể tin được, thế thôi. Tôi nghĩ rằng, cô ta không thể như vậy. Không thể là con quái vật hiện hình xúc phạm tôi, dày xéo lên tình yêu của tôi, lên tất cả những gì thiêng liêng, lên tình yêu của cô ta đối với tôi... nhưng có thể có tình yêu giữa cô ta và tôi không? Cô ta có thực sự yêu tôi không? Tôi suy nghĩ và nghi ngờ điều đó. Trong óc tôi lại hiện lên vẻ thờ ơ của cô ta khi tôi đang cuống cuồng tìm tập tài liệu bị mất, hiện lên những hiện tượng, những thái độ, những chi tiết khác mà trước đây tôi không để ý tới. Khó mà nói được, tôi đã ngồi như vậy bao lâu, bị dày vò dằn vặt vì những ý nghĩ mâu thuẫn ghê gớm ấy. Khi thì hầu như đã khẳng định Ôn-ga là gián điệp, khi thì lại tự biện hộ cho cô ta và phỉ báng mình về tính đa nghi quỷ quái. Lúc đó, chính Ôn-ga, vâng, chính cô ta đã làm tôi sực tỉnh. Đang miên man, tôi bỗng nghe thấy tiếng cửa phòng ngoài sịch mở. Cô ta đang bước vào nhà. Có lẽ không biết là tôi ở nhà, và không biết có tôi đang nghe ngóng nên cô khe khẽ vừa hát vừa treo áo lên giá. Tim tôi như thắt lại. Mọi sự nghi ngờ và hoang mang đều biến mất. Các ông thử tự nghĩ xem. Ôn-ga hát, Ôn-ga đang vui trong khi cô ta có biết tai nạn đang chờ tôi không, nỗi bất hạnh đang đe dọa tôi không? Như vậy là thế nào? Sự thờ ơ chăng? Sự vô tư chăng? Không! Rõ ràng là cô ta chả lo lắng gì cho tôi, cho số phận của tôi cả. Vì có lẽ cô ta đã biết rằng tài liệu đã ở chỗ cũ, chả có gì mất mát mà lo. Tài liệu đã không mất thì cũng chả có tai họa hay hậu quả gì cả.

Tất cả những điều đó chỉ diễn ra trong đầu óc tôi chỉ mấy giây trong khi Ôn-ga đang treo áo ở phòng ngoài. Tôi hiểu tất cả và cũng nhanh chóng quyết định vấn đề. Khi Ôn-ga vừa bước vào phòng, cô ta hết sức sửng sốt khi thấy tôi ở nhà. Tôi đã trấn tĩnh lại và bình thản ngẩng đầu nhìn cô ta với một nụ cười âu yếm. "Ôn-ga, -- tôi nói, -- anh mới tạt về được mấy phút và em biết không, -- tôi vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào cặp tài liệu, -- tập tài liệu mà anh tưởng bị mất lại đang nằm ở đây, ở trong cặp này. Té ra nó vẫn nằm trong cặp. Có lẽ nó lẫn vào đống giấy tờ này. Thế mà anh thì cứ cuống lên nên chả thấy gì cả. Thật là thần hồn nát thần tính".

"Thế đấy, -- cô ta mỉm cười nói, -- anh thật hay đoảng tính. Suýt nữa lai làm om sòm lên..."

Cô ta tỏ ra rất bình tĩnh, tự nhiên. Nhưng, không một cử chỉ hoặc thái độ nào của cô ta lần này có thể lừa dối được tôi. Trái lại, cô ta càng tỏ ra tự nhiên và bình thản bao nhiêu thì tôi càng cảm thấy kinh tởm và nguy hiểm bấy nhiêu.

Ngày hôm ấy mặc dầu đến công trường nhưng tôi không thể bình tĩnh làm việc được. Trong đầu óc tôi chỉ quay cuồng một ý nghĩ: cần phải nhanh chóng vạch mặt Ôn-ga, cần phải bắt quả tang cô ta. Nhưng làm thế nào? Lấy cớ là phải viết một báo cáo khẩn, tôi đóng cửa ngồi lỳ trong phòng nghĩ miên man... Dần dần một kế hoạch hành động đã hình thành...

Khoảng một tuần sau tôi quyết định bắt đầu hành động. Suốt thời gian đó Ôn-ga vẫn tỏ ra hiền dịu, ân cần săn sóc tôi như trước. Tuy nhiên, từ những ngày ấy, bất cứ hành động hoặc thái độ nào của cô đối với tôi, tôi đều cảm thấy là hoàn toàn giả dối. Tuy nhiên, biết vậy nhưng tôi cũng không để lộ thái độ hoặc hành động gì khác. Ôn-ga càng đóng kịch giỏi bao nhiêu thì tôi cũng tỏ ra không kém gì cô ta. Làm được điều đó thật không phải là dễ! Tuy vậy, dù thế nào đi nữa tôi vẫn yêu Ôn-ga: đoạn tuyệt với những tình cảm của mình thật là khó. Các ông thử đặt vào địa vị tôi thì các ông sẽ hiểu được lòng tôi bị dày vò ra sao...

Tôi nói gì nhỉ? Có lẽ tôi đã đi lạc đề rồi chăng? Nhưng chỉ cần các ông thử sống một lúc nào đó vào tình thế của tôi thì các ông sẽ hiểu ngay tôi đã sống ra sao trong những ngày ấy...

Trê-nhi-a-ép lại im lặng, một phút sau ông ta lại tiếp tục sự thú nhận của mình:

-- Như tôi đã nói, khoảng một tuần sau, tôi lại mang về nhà một bản đề án thiết kế mà tôi đã chọn sẵn từ trước. Bản đề án này chả có gì là bí mật. Nhưng Ôn-ga thì không thể biết được điều đó.

Về đến nhà, tôi bảo Ôn-ga rằng: tối nay tôi phải làm việc đến khuya vì sáng mai tôi phải phát biểu ý kiến về một bản đề án quan trọng. Trong cách nói tôi cố làm ra cho Ôn-ga hiểu rằng bản đề án mà tôi nói có tính chất quan trọng đặc biệt.

Trải bản đề án thiết kế lên bàn, tôi cố làm ra vẻ hết sức tập trung nghiên cứu các số liệu thiết kế. Ôn-ga thì nằm trên đi-văng đọc tiểu thuyết. Khoảng hơn một giờ trôi qua. Sau đó Ôn-ga đứng dậy đi đi lại lại một lúc trong phòng và cuối cùng, đến đứng sau lưng tôi. Tỳ sát ngực vào vai tôi, cô hơi cúi đầu nhìn vào bản vẽ thiết kế. Tôi ngả đầu trên thành ghế, thở dài vẻ mệt mỏi.

"Sao, -- Ôn-ga hỏi, -- anh mệt à?Em có thể giúp anh được việc gì không?"

"Ừ, à không. -- Tôi uể oải trả lời. -- Em giúp gì được? Nếu cần nhờ em đánh máy các ý kiến nhận xét của anh thì các ý kiến đó chưa chín chắn lắm. Ôn-ga, em cứ đi nằm đi. Anh cần suy nghĩ thêm lát nữa".

Khi cô ta đi nằm rồi, tôi còn nói thêm: nếu sáng mai cô ta đánh máy hộ những ý kiến nhận xét của tôi thì hay quá. Trả lời câu hỏi của cô ta là bao giờ thì đánh máy được, tôi nói rằng tôi cần nghiên cứu thêm độ vài ba tiếng nữa và sẽ viết lại cho mạch lạc, để cô ta có thể đánh máy vào sáng sớm mai... "Sáng mai anh phải đến Thành ủy, -- tôi giải thích thêm, -- và sẽ làm việc ở đấy vài giờ. Trong thời gian đó em có thể đánh máy xong".

Chúng tôi thỏa thuận với nhau như vậy.

Dù muốn hay không, tôi vẫn cứ phải cố ngồi đến nửa đêm để bịa ra những ý kiến không quan trọng lắm. Tuy vậy, những ý kiến đó cũng rất cần thiết cho kế hoạch hành động của tôi. Sáng hôm sau tôi nhắc lại với Ôn-ga là nên cố gắng đánh máy cho xong trong thời gian tôi làm việc ở Thành ủy. Tôi để cặp da với bản đề án và bản nhận xét của tôi trên bàn làm việc. Rồi lên xe ra đi.

Tất nhiên, tôi chả có việc gì phải đến Thành ủy cả. Khi xe vừa rẽ vào góc phố, tôi liền bảo lái xe dừng lại. Tôi đi ra và dạo bộ độ mươi -- mười lăm phút cho sảng khoái rồi quay về nhà. Lên thang gác, tôi nhè nhẹ mở cửa, rón rén bước vào phòng treo áo và bất ngờ mở cửa phòng làm việc, ập vào. Ôn-ga đang đứng quay lưng lại phía tôi, cúi mình trên bàn. Tôi thấy bản đề án của tôi đã được trải rộng và đóng ghim trên bàn. Nghe tiếng cửa bật mở, Ôn-ga quay phắt lại và khi nhìn thấy tôi thì nét mặt cô ta vừa lộ vẻ lúng túng sợ hãi đồng thời có vẻ căm tức. Cô ta luống cuống rời khỏi bàn, tay dấu một vật gì đó sau lưng. Nhưng tôi hành động còn nhanh hơn: tôi lao đến trước mặt Ôn-ga, vặn trái tay cô ta lại và giật lấy chiếc máy ảnh trong tay cô. Vâng, chính là chiếc máy ảnh đang nằm trước mặt chúng ta đây...

Sự việc xảy ra làm tôi điếng người mặc dầu trước khi hành động tôi cũng đã hình dung sự việc tương tự. Nhưng, tôi vẫn cho rằng mình hoài nghi và kiểm tra mà thôi. Giờ đây thì rõ ràng, kẻ đứng trước mặt tôi, người mà tôi hằng yêu quý lại là một kẻ phản bội, một tội phạm và hơn thế nữa đã bị chính tôi bắt quả tang với đầy đủ tang chứng.

Cầm chặt chiếc máy ảnh trong tay, tôi hoang mang và căm giận đến nỗi không làm sao nói được lời nào nữa. Ôn-ga đã trấn tĩnh lại trước tôi. "Kìa, -- cô ta nói giọng thách thức, -- anh còn đứng đực ra đấy làm gì? Chạy ngay đi mà tố cáo chứ! Đến ngay cơ quan an ninh nhà nước đi! Đến đấy và tố cáo rằng, tôi...đã bắt... vạch mặt được một con gián điệp. Chạy đi, tôi khuyên anh thế đấy!.."

-- Thật là một lời khuyên thông minh. Thế sao lúc đó ông không hành động như vậy? -- Mi-rô-nốp nói, vẻ châm biếm.

-- Làm sao mà tôi có thể hành động như vậy được? -- Trê-nhi-a-ép thốt lên. -- Các ông phải hiểu cho tâm trạng của tôi chứ. Tôi chờ đợi những dòng nước mắt, những lời van xin, những lời thú tội, những lời thề nguyền, nghĩa là những lời nói gì cũng được miễn là những lời không phải như cô ta vừa nói. "Ôn-ga... Ôn-ga, -- tôi thì thào với một vẻ bối rối cao độ, -- em nói gì vậy? Như vậy có ích gì?" Cô ta cười với một giọng độc ác và bình thản ngồi lên bàn. Cần phải nói thật rằng: lúc này cô ta đã tỏ ra hơn hẳn tôi trong cách xử sự.

"Anh bạn thân mến của tôi, anh nên biết rằng, -- cô ta nói giọng cay độc rít qua kẽ răng, -- tôi không đến nỗi ngu ngốc để tin rằng, anh không hề biết gì về tôi mặc dầu anh thủ vai cũng khá cao tay đấy. Thú thật là tôi cũng không ngờ anh tỏ ra khéo léo đến thế. Giờ thì anh có thể đi mà báo cáo... nhưng, con chim ưng của tôi ạ, anh nên nhớ rằng rồi đây anh sẽ cùng tôi ngồi chung một xà-lim để tán chuyện đấy. Chúng ta quả là đẹp đôi vì nàng là điệp viên còn chàng cũng là gián điệp. Thật là tuyệt!"

-- "Ôn-ga, em hãy bình tĩnh! -- Tôi rên lên. -- Em nói gì lạ vậy? Tôi mà là gián điệp à?"

-- "Thế anh là gì? -- Ôn-ga vừa hỏi vừa cười nhạo báng. -- Đừng có mà giả ngây giả ngô. Anh chính là một tên gián điệp loại bự nhất. Một tên tay sai của cơ quan gián điệp nước ngoài. Báo chí sẽ viết về anh như vậy".

Những lời Ôn-ga nói quả là tôi không chịu nổi. Nhưng, tôi cũng không đủ sức để phản ứng lại. Còn cô ta thì không thương xót gì tôi cả. Ôi! Khi vạch ra cái kế hoạch hành động này tôi thật ngu ngốc, ngây thơ như đứa trẻ nhỏ. Tôi hoang mang không hiểu nổi Ôn-ga là người thế nào? Cô ta làm việc với ai? Không! Rõ ràng Ôn-ga không phải là một điệp viên bình thường. Cô ta phải là một gián điệp có kinh nghiệm, bậc anh chị. Chểnh mảng dựa lưng vào thành ghế, cô ta chậm rãi khinh bỉ từng lời, từng lời đay nghiến tôi. Qua lời của cô ta, tôi càng hiểu rằng: tôi đã bị chết đứng, bị dồn vào chân tường và không còn lối nào thoát nữa. Ôn-ga thì cứ đường hoàng chế diễu, còn tôi thì đứng nghe và câm như hến. Tôi còn nói gì được? Cô ta nói thẳng ra rằng, đã hơn một năm nay tôi đã tự nguyện "cung cấp" cho một cơ quan gián điệp nước ngoài những tài liệu quốc phòng tối mật,... gồm các số liệu, các đề án thiết kế về các công trình phòng thủ đất nước... Ôn-ga đã lần lượt nêu ra một cách rất chính xác những tài liệu mà do sự mù quáng của tôi, do sự vi phạm "tự giác" của tôi về kỷ luật và nguyên tắc bảo mật quốc gia nên, qua tay cô ta chúng đã được chuyển cho cơ quan gián điệp nước ngoài. Tất nhiên, Ôn-ga cũng đã nói cho tôi biết là "bản tài liệu tuyệt mật" tuần trước đã bị mất khoảng nửa ngày là do cô lấy. Cuốn phim chụp toàn bộ tài liệu đó đã được chuyển tới "sếp" của ả ta.

"Đấy, -- cô ta nói, -- sự việc là thế đấy. Còn tôi ư? Vai trò của tôi ở đây rất nhỏ bé. Tôi chỉ là người liên lạc có nhiệm vụ chuyển những tin tức và tài liệu mật do anh, chính anh cung cấp cho cơ quan gián điệp nước ngoài. Cung cấp qua ai, vấn đề này chỉ là phụ thôi. Nào, anh thử tìm cách chứng minh, biện bạch là không phải như vậy, xem nào. Anh tưởng rằng bọn ngồi ở Ủy ban an ninh nhà nước toàn là bọn ngốc nghếch cả, và họ sẽ tin vào lời thanh minh về "tình yêu mù quáng" của anh đấy chăng? Không phải như vậy đâu anh bạn ạ! Anh bạn ạ, con chim ưng của tôi ạ, anh sẽ bị xem như tội phạm chính, là tên gián điệp chính. Người bị hỏi cung trước tiên sẽ là anh chứ không phải là tôi".

Tất nhiên tất cả những điều Ôn-ga nói đều là những lời vu khống trắng trợn nhưng đồng thời cũng là những lời buộc tội thực tế mà tôi không đủ lý lẽ và bằng chứng để bác lại được. Ai, ai là người tin rằng tôi, trong thực tế không hề biết gì về việc làm của vợ tôi. Vâng, chỉ cần một chứng cớ hiển nhiên về việc tôi đã tự ý đưa các tài liệu mật ra khỏi khu vực công trường cũng đủ để kết án tôi rồi.

-- Đúng, -- Mi-rô-nốp nói, thông cảm, -- tình thế của ông quả là tiến thoái lưỡng nan. Nhưng, ngoài ông ra thì ông còn buộc lỗi cho ai nữa?

-- Không, tôi không đổ tội cho ai cả. Tự tôi cả, tôi hoàn toàn có tội...

-- Ông có tìm cách gỡ lối thoát không?

-- Thật lòng mà nói, lúc bấy giờ tôi cũng không nghĩ tới chuyện tìm lối thoát gì. Ôn-ga chả để cho tôi làm việc đó, chả để cho tôi kịp thở nữa. Cô ta công nhiên chế nhạo tôi một cách cay độc mà tôi có thể nói rằng cô ta rất thích thú khoái trá.

"Còn tiền, tiền thì... -- Cô ta cười. -- Đấy bao nhiêu là tiền để sắm sửa những thứ này đấy. -- Cô ta vừa nói vừa chỉ vào đồ đạc sang trọng trong phòng ăn, phòng ngủ. -- Anh tưởng rằng những quần áo kia cũng là do tiền của anh đưa cho chăng? Tiền anh thì được bao nhiêu để sắm sửa những thứ đó? Cái gọi là tiền lương của anh thì được bao nhiêu? Chẳng đủ liếm mép đâu!"

"Ngoài lương ra thì tôi còn biết lấy tiền ở đâu nữa? -- Tôi cãi lại. -- Em biết rõ điều ấy chứ!"

"Anh đừng có vờ ngốc nữa. -- Ôn-ga cau mày nói. -- Chả lẽ cứ phải đưa tận tay cho anh mới là giao tiền à? Chả lẽ người ta không thể đưa thẳng cho tôi hay sao? Đưa cho ai chả được. Và, anh nên nhớ rằng, -- Ôn-ga vừa nói vừa giơ ngón tay trỏ chỉ vào mặt tôi, -- "ở đấy" người ta có sổ sách hết. Người ta ghi đủ từng cô-pếch.* Đề phòng lúc nào cần thì còn phải có bằng chứng chứ: chẳng hạn cho Ủy ban an ninh nhà nước biết. Cung cách nó là thế đấy, anh bạn thân yêu của tôi ạ. Vậy thì anh hãy nghĩ suy cho chín đi, xem có nên dại dột tự chui đầu vào thòng lọng không".

Tôi đã bị dồn vào thế bí, bi mắc mưu oan. Tôi đờ đẫn nhìn Ôn-ga, lặng im. Tôi chỉ biết im lặng, thế thôi. Tôi đứng như vậy đến mấy phút. Rồi chính Ôn-ga lại phá tan sự im lặng nặng nề đó. "Sao lại đứng như phỗng ấy? Sao anh không chạy đi mà tố cáo, mà ăn năn hối hận về tội lỗi của mình? Đi đi để mà xin khoan hồng", -- cô ta lại mai mỉa tôi.

-- "Ôn-ga, -- tôi nói mà cảm thấy mình hèn hạ quá, -- em nói gì vậy? Anh biết đi đâu bây giờ? Và để làm gì? Anh... anh không biết là nên làm gì bây giờ. Thật là kinh khủng, đáng sợ..."

Vâng, thật là xấu hổ khi tôi nói những lời đó. Đó là một sự đầu hàng, đầu hàng không điều kiện. Ôn-ga biết ngay. Cô ta đứng dậy, đến bên tôi, xoa má tôi như an ủi đứa trẻ con và nói với tôi bằng một giọng rất nhẹ nhàng. "Anh đã biết việc gì đang xảy ra rồi chứ? Nó làm cho anh đến loạn thần kinh được đấy! Nhưng nói thẳng ra, thì điều đó thế mà lại hóa hay đấy. Dù sao thì giờ đây anh cũng sẽ phải tiếp tục làm cái việc này. Nhưng phải khôn ngoan hơn. Anh cứ việc đưa các tài liệu cần thiết về nhà. Còn tiếp sau đó là việc riêng của tôi. Anh không cần bận tâm".

Và ngay trong cái phút đó tôi bất giác nghĩ rằng, phải thủ tiêu con rắn độc này đi. Phải giết nó. Tự tay tôi giết chứ không cần ai khác. Tôi không còn lối thoát nào khác. Đến cơ quan an ninh tố cáo nó -- tôi không thể làm được. Tôi sợ liên quan, không, tôi phải giết nó, phải tự tay tôi đập tan, chặt đứt cái mắt xích gai góc này đi. Nhưng đồng thời lúc ấy tôi lại thấy thương cô ta. Vì, tôi xin nhắc lại, tôi rất yêu, tiếc cho cô ta...

-- Ông thương Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na lắm sao? Chỉ thương cho cô ta không thôi ư? Ông muốn cứu vớt số mệnh cô ta chăng? -- Mi-rô-nốp hỏi dồn và suýt bật cười. -- Có đúng thế không, ông Ca-pi-tôn I-la-ri-ô-nô-vích?

-- Việc gì tôi phải dối lòng nhỉ? -- Trê-nhi-a-ép hạ giọng. -- Không phải tôi chỉ nghĩ riêng về Ôn-ga. Riêng số phận tôi, nếu như việc này bị phát hiện thì cũng sẽ bị liên lụy không ít. Không, tôi không đủ can đảm tự chui đầu vào thòng lọng. Vâng, tôi cũng tự thấy như vậy là nhát gan, hèn hạ và mặc dầu là vô tình, nhưng tôi cũng đã nhúng khá sâu vào công việc rồi.

-- Nhưng, nói ra vẫn tốt hơn, -- Mi-rô-nốp nhận xét. -- Dù thế nào chăng nữa nói ra vẫn tốt hơn, vẫn còn có lương tâm hơn. Nhân thể, ông có thể cho biết là việc này xảy ra lúc nào. Ông có thể xác định được không?

-- Vào tháng Giêng, -- Trê-nhi-a-ép đáp ngay không ngần ngừ. -- Vào cuối tháng Giêng năm nay.

-- Tốt lắm, thế sau đó thì sao nữa? Ông bắt đầu phải thi hành những nhiệm vụ gián điệp của vợ ông chứ?

Trê-nhi-a-ép lắc đầu chối từ.

-- Không. Tôi không thực hiện một nhiệm vụ nào cả. Thỉnh thoảng tôi có vờ mang về nhà một vài tài liệu nào đó nhưng không phải là loại có tính chất bí mật quốc gia. Tất nhiên là Ôn-ga tuy có chú ý đến nhưng làm sao cô ta có thể biết được.

-- Thế cô ta cũng không biết rằng ông làm cái việc này chỉ là để che mắt cô ta, chỉ là tạm chịu đựng tình hình bất lợi của ông thôi ư?

-- Chà, biết nói thế nào được? Tôi nghĩ rằng cô ta có biết. Cô ta biết ngay sau đó ít lâu, vì càng ngày cô ấy càng đòi hỏi tôi nhiều hơn. Nhưng vấn đề không phải là ở đấy. Cuộc sống của chúng tôi ngày càng nguy hiểm, không thể nào chịu nổi, mọi sự như đảo ngược lại. Ôn-ga ngày càng khinh thường tôi một cách trắng trợn. Cô ta thường bỏ đi đâu suốt ngày và có khi đêm cũng không về nhà. Ít lâu sau tôi mới dò biết được rằng: cô ta đã có một người nào đó và khi hiểu rằng tôi đã biết được việc đó thì cô ta cũng chả cần dấu tôi nữa. Tôi đã hoàn toàn phụ thuộc vào cô ta rồi. Dần dà tôi mới hiểu một cách chắc chắn rằng, Ôn-ga chả bao giờ yêu mến gì tôi cả. Cô ta chỉ cần cái chức vụ, địa vị và quyền hành của tôi, sự mê muội của tôi để moi các vấn đề bí mật, để lợi dụng tôi vào các mục đích tội lỗi, chứ thực ra cô ta chả cần gì tôi và tình yêu của tôi. Tình yêu là gì vậy? Nếu như ở đây có ai nói: tình yêu là dịu dàng, trìu mến, là những gì tươi đẹp nhất thì đó chỉ là một sự chơi chữ kinh tởm mà thôi. Tôi càng tin như vậy bao nhiêu thì cái ý định phải giết, phải thủ tiêu con quỷ cái ấy càng rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu. Hôm qua, tôi đã kể rất đúng và hoàn toàn thành khẩn với các ông về những tháng cuối cùng mà chúng tôi chung sống với nhau: quả là những ngày ở địa ngục -- địa ngục trần gian.

Tôi còn khai gì thêm được nữa? -- Trê-nhi-a-ép lại tiếp tục sau một phút im lặng. -- Tất cả những gì đã xảy ra về sau, tôi đã kể hết với các ông hôm qua rồi. Tôi chỉ có dấu một điều là: không nói đến cái nguyên nhân chính, nguyên nhân thực sự đã khiến tôi giết Ôn-ga và dấu việc cô ta là gián điệp... Tôi muốn bảo vệ danh dự cho cô ta.

-- Chỉ vì bảo vệ danh dự cho cô ta thôi ư? -- Mi-rô-nốp hỏi.

-- Vâng, tôi xin thề là chỉ vì thế.

-- Thế về sau ra sao? Ông khai tiếp đi!

-- Khai tiếp à? Nhưng tôi còn khai gì thêm được? Tất cả những việc tiếp theo như chuyện đi nghỉ, chuyện nhầm vé, tôi đã nói hết rồi. Chả có gì thêm nữa.

Trê-nhi-a-ép thở dài nặng nề và uể oải dựa lưng vào thành ghế.

-- Thế đấy, -- ông ta lại nói, như chán nản, -- tôi đã nói hết rồi. Chả còn gì hơn nữa. Các ông cứ việc xét xử tôi...

Mi-rô-nốp lặng nhìn ông ta một cách nhạo báng:

-- Mới có thế này mà đã xử ư? Sao ông vẫn vội vã thế, ông Trê-nhi-a-ép? Còn lâu mới xét xử được. Ông hãy cho biết thêm là, sau khi giết vợ xong, có người nào đến để định liên lạc với ông không? Tức là những cộng sự của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na ấy.

-- Không, không có ai cả.

-- Ta hãy cứ cho là như vậy đi. Thế thì bản thân ông, ông có biết ai trong số bạn bè, người quen hoặc họ hàng của cô ấy không? Cả lúc cô ấy còn sống nữa.

-- Tôi không biết ai cả. Ít khi gặp họ đến nhà tôi lắm.

-- Chả lẽ không bao giờ có một người quen hoặc họ hàng hay bạn bè nào đến thăm nhà ông cả hay sao? Và chả lẽ cô ấy cũng không đến chơi nhà ai cả hay sao? Không thể như vậy được.

-- Tại sao lại không, vì lẽ cô ta không còn họ hàng thân thích gì nữa. Hình như, theo tôi nhớ thì cô ta còn có bà cô hay bà dì thì phải. Ôn-ga đã có lần đến thăm bà ta. Đúng, có lần cô ta có nói với tôi là đến nhà bà ta ở đâu đấy để... để làm đơn ly dị với chồng cũ.

-- Đến nhà bà cô ấy à? Ông tin chắc như vậy chứ? -- Lu-ga-nốp bỗng xen vào. Anh nhớ lại lời khai của bà Na-vơ-rô-xcai-a: sau khi đã bỏ đi Crai-xcơ, Ôn-ga không còn lần nào đến nhà bà nữa.

-- Tôi không thể khẳng định được, -- Trê-nhi-a-ép ngập ngừng, -- nhưng có lúc tôi nghe cô ta nói như vậy.

-- Thôi được, -- Mi-rô-nốp nói. -- Thế còn bạn bè của Ôn-ga thì sao? Ông có biết ai trong số đó không? Ông có thể kể ra vài người được không?

-- Không biết ai cả, -- Trê-nhi-a-ép kiên quyết nói. -- Quả là tôi không biết người bạn nào của Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na cả.

Mi-rô-nốp liền cầm lấy cặp và rút mấy tấm ảnh để sẵn, trong đó có ảnh của Lép-cô-vích, Cô-nhi-lê-va và Vôi-xê-khốp-xcai-a. Anh đứng dậy đi đến bên bàn và bày mấy tấm ảnh trước mặt Trê-nhi-a-ép.

-- Trong số những người có trong những bức ảnh này, ông có biết hoặc là đã gặp ai? Gặp tình cờ một mình hoặc là đã gặp cùng với vợ ông?

Trong lúc Trê-nhi-a-ép đang xem và cầm từng bức ảnh lên, Mi-rô-nốp đứng tránh sang một góc và nhìn kỹ diễn biến nét mặt của ông ta.

-- Đây, cái này, -- Trê-nhi-a-ép nói và đặt bức ảnh Cô-nhi-lê-va sang một bên. -- Đây là ảnh vợ tôi, -- Ôn-ga Nhi-cô-lai-ép-na Vê-lít-cô. Còn đây là bà giúp việc Lép-cô-vích, Xtê-pha Lép-cô-vích. Còn những ảnh này, -- ông ta vừa nói vừa nhìn kỹ lần nữa những ảnh còn lại. -- Đúng, những người này tôi không biết là ai cả.

Tuy vậy, An-đrây cũng đã kịp nhận thấy khi Trê-nhi-a-ép cầm đến bức ảnh Vôi-xê-khốp-xcai-a, ông ta hơi nhíu mày lại, ánh mắt thoáng lộ vẻ kinh ngạc... và căng thẳng.

-- Tốt lắm, -- Mi-rô-nốp vừa nói vừa xếp lại các bức ảnh. -- Không biết tức là không biết. Còn một vấn đề nữa: ông cũng hoàn toàn không biết gì về ngăn kéo bí mật cả hay sao? Có đúng thế không?

-- Không, tôi không biết. Các ông hãy tin tôi. Sau hôm tôi trả máy ảnh cho Ôn-ga, cô ta cất dấu ở đâu, tôi không biết. Tôi có để ý lục lọi các tủ nhưng không thấy. Còn các thứ khác thì tôi mới thấy lần đầu. Các ông cứ thử nghĩ xem, nếu như tôi biết những thứ đồ dùng nhục nhã nhơ nhuốc ấy thì dại gì tôi lại không dùng để tự cứu thoát mình khỏi bàn tay con rắn độc ấy.

Trê-nhi-a-ép cười buồn bã. Mi-rô-nốp đưa mắt liếc nhanh Lu-ga-nốp.

-- Thôi được, -- anh nói, -- chúng ta cứ ghi như vậy. Ông còn định khai thêm gì nữa không?

-- Xin lỗi, -- Trê-nhi-a-ép nói và đưa hai tay ôm lấy thái dương. -- Tôi... tôi rất mệt... Đầu đau như búa bổ...

-- Biết làm sao được, -- Mi-rô-nốp nói. -- Cuộc hỏi cung hôm nay tạm kết thúc ở đây vậy. Ông có cần bác sĩ không? Hay chúng tôi đưa thuốc đau đầu cho ông nhé?

-- Không, xin cảm ơn. Tôi chỉ cần nằm một mình ít lâu sẽ đỡ thôi...

Mặc dầu Trê-nhi-a-ép đã lấy cớ đau đầu để thoái thác cuộc hỏi cung nhưng ông ta vẫn đọc rất kỹ biên bản khẩu cung. Không những ông ta chỉ đọc mà còn cẩn thận ký tên vào từng trang, gạch dưới và chữa lại những câu chữ cần bổ sung thêm ý. Việc làm đó kéo dài đến hơn một tiếng đồng hồ. Xong xuôi đâu đấy, ông ta được dẫn đi. Lu-ga-nốp đứng dậy, khoan khoái vươn vai và dang rộng hai tay quay quay trong không khí.

-- Chà, chà. Tay bại đi vì viết nhiều quá. Nhưng hôm nay ghi chép không đến nỗi vô ích. Thế nào An-đrây, cậu tính sao về vấn đề Cô-nhi-lê-va?

-- Điều gì cần nói thì mình đã nói hôm trước rồi. Càng nghe Trê-nhi-a-ép, trong đầu mình càng khẳng định được cái ý: tôi không phải là tôi và con ngựa này cũng không phải của tôi. Đúng như cậu nghĩ, Cô-nhi-lê-va, tất nhiên chỉ là cái vỏ ngoài thôi. Còn nhiều điều chưa rõ ràng chung quanh cô ta. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết được, cô ta đã đổi thành họ Vê-lít-cô như thế nào, nhận nhiệm vụ gì và đã liên hệ với những ai? Cần phải làm việc nhiều nữa với các vấn đề này. Còn đám mây mù bao phủ quanh Trê-nhi-a-ép, theo tôi nghĩ, không những chưa tan đi mà trái lại, còn dày đặc hơn.

-- Ồ, An-đrây I-va-nô-vích ạ, thật là viển vông, -- Lu-ga-nốp dang tay nói, không dấu vẻ chế diễu của mình. -- Vấn đề Cô-nhi-lê-va mình rất đồng ý với cậu: chúng ta còn phải làm việc nhiều hơn; mặc dầu thực lòng mà nói, mình cũng chưa thấy là chúng ta có thể làm được gì nữa. Còn Trê-nhi-a-ép, theo ý mình, cậu hơi quá bi quan đấy. Theo mình nghĩ, ông ta đã nói được điều chính, và là điều chủ yếu rồi!.. Mình biết... mình biết chắc như vậy! -- Lu-ga-nốp nói say sưa, thậm chí giơ cả hai tay như định ngăn không cho Mi-rô-nốp tranh cãi mặc dầu Mi-rô-nốp vẫn ngồi im, lắng nghe. -- Mình biết rõ hết. Cậu lại muốn nói đến bản thông báo, đến máng nước, đến Xa-vê-li-ép chứ gì... Thế ngộ như Xa-vê-li-ép nhầm thì sao? Nếu như anh ta trông lầm Trê-nhi-a-ép khi đến gần máng nước thì sao? -- Điều này không thể là không có được. Cũng có khi là một sự ngẫu nhiên, một sự trùng hợp hết sức lạ lùng nào đó chứ không có nghĩa gì khác cả! Vì cho đến nay chúng ta cũng chưa biết gì, chưa mò được gì về mối liên hệ giữa Trê-nhi-a-ép và Vôi-xê-khốp-xcai-a! Cô ta có can dự gì vào đây? Còn giả thuyết cho rằng Trê-nhi-a-ép đã đánh Xa-vê-li-ép thì thật ra cũng chưa rõ ràng đáng tin lắm. Thái độ Trê-nhi-a-ép hôm nay thì sao? Không, dù có nói gì đi chăng nữa, theo mình, hôm nay Trê-nhi-a-ép đã tỏ ra thành khẩn đấy. Mình xin nhắc lại: theo mình thì Trê-nhi-a-ép đã nói được điều chính yếu...

-- Ôi, Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích, cậu ngây thơ thế? Điều chính ư? Mình đồng ý những điều Trê-nhi-a-ép nói ra đều rất quan trọng nhưng ông ta đã thực sự nói hết và thành khẩn chưa thì còn phải bàn đã. Hiện tượng ở ống máng nước, việc hành hung Xa-vê-li-ép và sự xuất hiện của Vôi-xê-khốp-xcai-a mà cậu vẫn chưa tin là một đường dây thống nhất à? Theo cậu, đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng? Tôi ngờ lắm. Cần phải nghi ngờ, cần phải đảo ngược các vấn đề lại. Chúng ta không có quyền bỏ qua những hiện tượng này. Đó là những chứng cớ thực tế, chứng cớ lý tưởng và quan trọng. Chúng ta phải nắm lấy mặc dầu chưa thể xác minh hoặc giải thích được rõ ràng. Hoàn toàn không được coi đây là sự trùng hợp, là sự ngẫu nhiên. Không thể có cách nào khác hơn được. Còn thái độ Trê-nhi-a-ép hôm nay nữa, nó vẫn có cái gì đó chưa lưu loát lắm đâu...

-- Thí dụ?...-- Lu-ga-nốp hỏi. -- Tôi chả thấy có gì đặc biệt cần chú ý cả.

-- Điều này thật rõ ràng và rất dễ hiểu. Cứ đọc kỹ biên bản, cậu sẽ thấy một số chi tiết về lời khai trong cuộc hỏi cung, cậu sẽ thấy điều đáng chú ý.

-- Đó là những điều gì, nếu không có gì bí mật thì cậu có thể nói rõ hơn được không?

-- Có gì mà phải bí mật. Sẵn sàng thôi. Điều thứ nhất -- đó là thái độ khó hiểu, kỳ lạ của ông ta khi nói đến tấm thảm. Ông ta đã cố ý tránh không trả lời thẳng vào câu hỏi mà theo tôi, câu hỏi đó rõ ràng và đơn giản. Hơn thế nữa, ông ta không thể quên được rằng, tấm thảm đó đã được mua sau khi Ôn-ga bị giết. Ông ta mua nó về không phải để trang trí, mà đúng hơn chính là để che vết máu trên sàn nhà mà chúng ta đã phát hiện ra. Tại sao ông ta lại tránh câu hỏi đó, không trả lời cho trung thực? Vì thực ra, so với những điều ông ta đã thú nhận thì chi tiết đó chỉ là điều không đáng kể. Nhưng ông ta vẫn cứ dấu. Tại sao lại như vậy? Điều này cũng rất dễ hiểu. Cậu cho là đúng, khi ông ta cứ khăng khăng nhận là tấm thảm đó không phải do ông ta hay Cô-nhi-lê-va mua riêng mà cả hai cùng đi mua, nhưng thực ra lại chính do ông ta mua sau khi đã giết Cô-nhi-lê-va. Trê-nhi-a-ép không muốn thú nhận điều đó. Tại sao vậy? Sao Trê-nhi-a-ép không muốn nhận là ông ta đã mua nó sau khi Cô-nhi-lê-va không còn nữa? Tôi thấy điều này rất tế nhị. Nếu ông ta nhận như thế thì sẽ một câu hỏi hợp lý khác: ông ta lấy đâu ra tiền để mua sắm thứ hàng đắt tiền như vậy? Vì nếu ta bắt ông ta kê khai đầy đủ chi tiết các khoản thu nhập của ông ta sau khi Cô-nhi-lê-va bị giết thì rõ ràng là ông ta sẽ rất lúng túng trước một điều đáng ngờ là ông ta lấy tiền ở đâu ra để mua tấm thảm không phải là xoàng đó. Cậu hãy tự nghĩ xem, theo mình thì nó là như vậy đấy.

-- Hay lắm, -- Lu-ga-nốp nói. -- Đúng là mình có ghi trong biên bản nhưng không chú ý phân tích kỹ như cậu được.

-- Chưa phải hết đâu, -- Mi-rô-nốp tiếp tục. -- Còn nhiều điều thú vị hơn nữa. Khi Trê-nhi-a-ép xem các bức ảnh mà mình với cậu đã cố ý lựa chọn trước khi hỏi cung, mình đã quan sát nét mặt ông ta rất chăm chú...

-- Có gì khác không?

-- Khi thấy ảnh Vôi-xê-khốp-xcai-a thì Trê-nhi-a-ép không còn cái vẻ thờ ơ lạnh nhạt nữa. Trê-nhi-a-ép có biết Vôi-xê-khốp-xcai-a. Điều này mình có thể lấy đầu ra bảo đảm với cậu. Cậu biết chứ, chi tiết này chả phải là thường, không phải là không đáng kể đâu. Do đó ý kiến cho rằng sự xuất hiện của Vôi-xê-khốp-xcai-a chỉ là ngẫu nhiên là hoàn toàn không đúng. Từ đấy ta có thể rút ra một nhận định là không nên và không được tự thỏa mãn với những lời khai của Trê-nhi-a-ép, không nên cho rằng ông ta đã khai tất cả những điều gì có thể khai được -- đó là một vấn đề. Vấn đề thứ hai là Vôi-xê-khốp-xcai-a.

-- Ừ, có lý... đấy, -- Lu-ga-nốp ngập ngừng công nhận. -- Cậu nói cũng có lý, nhưng cậu hiểu không, mình vẫn chưa thấy có gì cụ thể cả. Các chi tiết, những giả thuyết cũng chỉ là để mà suy xét thêm chứ chưa phải là cơ sở chính để dựa vào đó mà hành động. Còn nhân vật Vôi-xê-khốp-xcai-a cũng chưa có gì rõ ràng cả.

Mi-rô-nốp im nhún vai. Phải, tranh cãi làm gì ở đây. Anh không muốn tranh luận nhiều vì thời gian không còn nhiều nhặn gì. Điều cần thiết phải làm ngay bây giờ là đến gặp cục trưởng Cục an ninh để báo cáo kết quả cuộc hỏi cung và gọi điện thoại cho Mát-xcơ-va.


Tìm kiếm với từ khoá:

CHƯƠNG 18

Mi-rô-nốp và Lu-ga-nốp chưa kịp báo cáo cặn kẽ cho đại tá Xcơ-vô-re-xki về kết quả cuộc hỏi cung Trê-nhi-a-ép thì đã có điện Mát-xcơ--va gọi. Mi-rô-nốp vội cầm ống nghe. Anh nhận ngay ra tiếng của thiếu tướng Va-xi-li-ép.

Cuộc nói chuyện kéo dài bất thường. Không những thiếu tướng chỉ chăm chú nghe báo cáo về thái độ mới đây của Trê-nhi-a-ép mà còn hỏi tỷ mỉ về các biện pháp đã được áp dụng trong quá trình điều tra. Ông căn vặn về các chứng cớ và hiện tượng, thậm chí cả những chi tiết cụ thể. Về thái độ của Trê-nhi-a-ép, ông đã nhận rõ hết tính chất nghiêm trọng của nó, tuy nhiên, cũng như Mi-rô-nốp, ông cho rằng chưa thể tin hoàn toàn vào lời khai của tội phạm được.

-- Cô-nhi-lê-va, -- Xê-men Pha-đê-ê-vích lẩm bẩm. -- Cô-nhi-lê-va... Vai trò cô này, các anh chưa xác định rõ được. Quả là nhiều mâu thuẫn trong đời tư của cô gái xấu số ấy: một mặt, đó là những nét bình thường về tư cách qua lời nhận xét của Xa-đốp-xki và của những người khác kể cả bà Na-vơ-rô-xcai-a, những lời nhận xét rất tốt đẹp trong thời gian ở đội du kích, nhưng mặt khác còn có nhiều điều khó hiểu như việc tại sao cô ta lại bí mật đổi họ thành Vê-lít-cô, mẩu giấy bí hiểm dấu trong lần lót áo và bây giờ lại là những hoạt động gián điệp. Không phải chỉ là hoạt động gián điệp đơn thuần mà còn cả âm mưu cưỡng bức chồng là Trê-nhi-a-ép nữa. Việc này những loại gián điệp thường không thể làm được. Mà cô ta lôi kéo Trê-nhi-a-ép vào tròng thật khéo léo và rất có tài nghệ đấy. Không, bộ mặt thật của Cô-nhi-lê-va còn phức tạp lắm, còn mất nhiều công sức mới làm sáng tỏ được. Hơn thế nữa, -- thiếu tướng đề ra câu hỏi khác, -- trong bản báo cáo, anh có viết rằng: Lu-ga-nốp sau khi đến gặp bà Na-vơ-rô-xcai-a đã xác nhận hình như Cô-nhi-lê-va còn có người anh thì phải. Các anh đã cho tìm kiếm người này chưa? Hiện nay anh ta ở đâu?

-- Chúng tôi đã tìm rồi, -- Mi-rô-nốp trả lời. -- Anh ta hiện ở An-ma-A-ta. Tuy biết vậy nhưng chưa gặp anh ta được. Tại sao lại như vậy? Vì rằng xét về toàn bộ mối quan hệ chúng tôi thấy là đã lâu lắm anh ta không hề gặp Cô-nhi-lê-va. Họ xa nhau từ bé. Hiện nay, họ cũng chả có liên lạc gì với nhau... Quan hệ của họ từ lâu đã rất lạnh nhạt...

-- Sao lại thế được. -- Thiếu tướng cắt ngang lời Mi-rô-nốp. -- Anh em bao giờ chả là anh em. Anh ta hiện là người thân thiết nhất trong số những người ruột thịt còn lại. Các anh có thể bảo đảm với tôi là sau khi anh ruột Cô-nhi-lê-va bỏ đi khỏi Vô-rô-ne-giơ thì họ không gặp hoặc không viết thư từ gì cho nhau cả không? Ít ra cũng mấy năm gần đây. Chả có lẽ như vậy được. Tức là, giờ đây các anh phải khẳng định cho bằng được rằng, anh ta có biết cô em gái ở đây. Phải tận dụng mọi mắt xích, không được bỏ qua hay xem thường bất cứ một khâu nào, phải kiên nhẫn tìm tòi và lùng sục để xác minh và tìm cho ra tông tích của Cô-nhi-lê-va.

Còn Trê-nhi-a-ép, -- thiếu tướng tiếp tục. -- Tôi hoàn toàn không thể tin là ông ta đã nói hết những gì có thể nói được. Tôi nghĩ, các anh đã nhận định đúng. Riêng ý kiến tôi: tôi cho là vai trò của ông ta ở đây không phải tầm thường. Tôi nghĩ không những Cô-nhi-lê-va định lôi cuốn, mà cô ả đã lôi cuốn được ông ta vào hoạt động gián điệp; và Trê-nhi-a-ép không những đã tự giác hành động mà còn có vẻ tích cực hơn nữa cơ đấy. Mặc dầu điều này ông ta còn dấu chưa nói ra. Hơn thế, tôi cho rằng không thể loại trừ khả năng: Cô-nhi-lê-va đã giới thiệu Trê-nhi-a-ép với "sếp" hoặc với một đại diện nào đó của cấp trên. Có thể, sau khi thủ tiêu xong Cô-nhi-lê-va, ông ta vẫn còn tiếp tục hoạt động một mình. Điều chính yếu bây giờ là: phải đứng vững trên một quan điểm kiên định và nghiêm chỉnh để suy nghĩ phân tích thì vấn đề sẽ rất dễ hiểu. Các sự kiện như: bản thông báo, ống máng nước, âm mưu ám hại Xa-vê-li-ép và tấm thảm mới, chả phải là tự nhiên từ đâu đến mà chính là có liên quan với nhau cả. Việc giết Cô-nhi-lê-va chưa chắc đã phải do ý định cá nhân mà cũng có thể là để thực hiện một nhiệm vụ được giao. Ta đã rõ, Cô-nhi-lê-va đã mua được Trê-nhi-a-ép cho chúng và tác dụng của cô ta đã hết nên chúng đã loại cô ta ra ngoài cuộc chơi. Cô ta chỉ là một mắt xích thừa. Đối với bọn gián điệp Mỹ, Anh và bất cứ bọn gián điệp đế quốc nào khác, đấy là một việc rất bình thường trong quan niệm sự dụng tay sai. Đối với chúng, con người chả có giá trị gì cả. Tất cả những điều này mặc dầu hiện giờ mới chỉ là giả thuyết nhưng cũng có thể là sự thật. Từ đó ta có thể rút ra kết luận là: cần phải làm việc nhiều hơn nữa, phải suy nghĩ, phải hỏi cung thật kiên trì và thông minh đối với Trê-nhi-a-ép cho đến khi đạt được sự thú nhận đầy đủ. Đừng có ngồi mà chờ ở lòng tự giác, thành khẩn của hắn ta. Chà, còn một việc nữa tôi suýt quên: các anh đã nghiên cứu kỹ quá khứ Trê-nhi-a-ép chưa? Đã phân tích đầy đủ về thực chất của ông ta chưa? Có thể trong khi phân tích, nghiên cứu quá khứ của ông ta, các anh sẽ phát hiện thêm những điều gì đó có thể làm cơ sở để hỏi xem: tại sao Trê-nhi-a-ép lại là mục tiêu, là điểm được chọn của chúng nếu như đúng là ông ta đã bị mua chuộc thực sự?

-- Thưa đồng chí thiếu tướng, -- Mi-rô-nốp đáp, vẻ bối rối, -- chúng tôi đã xem và tìm hiểu kỹ về quá khứ Trê-nhi-a-ép rồi. Đã đọc lý lịch, bản khai tiểu sử, hỏi các cơ quan an ninh về tư cách, đạo đức Trê-nhi-a-ép. Tất cả những nơi mà Trê-nhi-a-ép làm việc trước đây đều trả lời đầy đủ và đều nhận xét tốt về ông ta. Những chi tiết, những điều đáng nghi vấn theo như đồng chí gợi ý đều không có...

-- Hỏi với lại đáp, "lý lịch cá nhân", "tiểu sử"! -- Thiếu tướng xẵng giọng ngắt lời và Mi-rô-nốp như hình dung được những ngón tay của Xê-men Pha-đê-ê-vích run run, gõ liên hồi xuống mặt bàn. -- Thế còn những người, những người quen biết Trê-nhi-a-ép năm mươi năm trước đây, trong và trước thời gian chiến tranh thì các anh đã tìm đến chưa? Đã gặp để hỏi chuyện họ chưa?

-- Chưa, đồng chí Xê-men Pha-đê-ê-vích ạ, -- An-đrây thành thực và xấu hổ nhận lỗi, -- việc này chúng tôi chưa làm được! Chưa kịp làm ạ.

-- Đấy, nhiệm vụ các anh là ở đấy, -- thiếu tướng dịu giọng. -- Phải tìm cho được những người này, hỏi chuyện họ về tư cách và quá trình của Trê-nhi-a-ép, phải nghiên cứu toàn diện và liên tục bước đường đã đi của Trê-nhi-a-ép. Để giải quyết nhiệm vụ này, chúng tôi sẽ giúp các anh một phần. Chúng tôi sẽ tìm hộ các anh một số người có quen biết với ông ta, đã từng sống và làm việc với ông ta ở Mát-xcơ-va. Chúng tôi làm việc này dễ hơn. Vậy Trê-nhi-a-ép đã ở Crai-xcơ bao lâu? Hai năm, hả?

-- Khoảng như vậy, -- Mi-rô-nốp khẳng định. -- Hơn một ít. Trước khi về Crai-xcơ ông ta đã ở Xa-ra-tốp. Cũng khoảng trên dưới hai năm. Trước đó nữa thì ở U-ran, Trung Á và U-crai-na. Từ sau chiến tranh đến nay, ông ta cứ luôn lang thang như vậy. Nghề nghiệp ông ta nó thế, nghề xây dựng mà lại.

-- Nghề xây dựng à? Đúng, nhà xây dựng, kiến trúc sư... -- Thiếu tướng im lặng một lát, rồi tiếp. -- Thế anh thấy điều gì đáng chú ý trong này không: di chuyển và lại di chuyển. Kỹ sư xây dựng, đúng, nhưng làm gì đến nỗi cứ hai năm phải di chuyển một lần? Đáng chú ý đấy chứ hả? Thế sau chiến tranh Trê-nhi-a-ép đã đến Xi-bi-ri chưa? Hình như anh đã biết rằng, quê ông ta ở đâu vùng ấy phải không?

-- Sau chiến tranh Trê-nhi-a-ép không làm việc ở Xi-bi-ri, -- Mi-rô-nốp trả lời, -- nhưng cũng có thể là đã về đấy, trong những chuyến đi phép hoặc đi công tác. Báo cáo thiếu tướng, quả là chúng tôi chưa để ý kiểm tra chi tiết này.

-- Đấy, các anh thấy chưa, -- thiếu tướng sôi nổi nói, -- các anh phải kiểm tra ngay các vấn đề này. Chúng ta quyết định thế này nhé: tôi sẽ cho tìm những người quen biết cũ của Trê-nhi-a-ép, đã làm việc với ông ta vào những năm trước và trong chiến tranh. Khi đã có những hồ sơ cần thiết, chúng ta sẽ gặp họ để nói chuyện... và bây giờ, -- thiếu tướng im lặng một lát rồi tiếp, -- đến lượt Vôi-xê-khốp-xcai-a. Cần phải điều tra và bám cô này lập tức. Có thể đây cũng chưa phải là mắt xích cuối cùng trong chuỗi dây xích đâu. Cần phải làm gì? Phải bắt đầu từ đâu -- đấy là vấn đề cần phải đặt ra ngay. Có nên bố trí để anh tự làm quen với cô ta chăng? Tất nhiên là phải tìm cách tạo ra một cái cớ có vẻ hợp lý và tự nhiên nào đó để tiếp xúc với cô ta. Anh suy nghĩ xem và báo cáo cho tôi biết ý kiến. Hết đấy. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ thật tốt.

-- Đồng chí Xê-men Pha-đê-ê-vích, chúng tôi xin chấp hành, -- Mi-rô-nốp đáp và sau khi chào từ biệt thiếu tướng, anh bỏ ống nghe xuống.

Xcơ-vô-re-xki và Lu-ga-nốp từ nãy đến giờ vẫn im lặng theo dõi câu chuyện qua thái độ, lời nói của Mi-rô-nốp. Họ đã đoán và hiểu phần nào nhưng nhất định là không hoàn toàn đầy đủ. An-đrây báo cáo lại cho hai người nghe những ý kiến và chỉ thị của thiếu tướng, rồi nói sơ qua kế hoạch hành động của mình.

-- Cô-nhi-lê-va, -- Xcơ-vô-re-xki thở dài, lẩm bẩm nói sau khi nghe báo cáo của Mi-rô-nốp. -- Đúng, vấn đề Cô-nhi-lê-va còn mờ mịt lắm. Ở đây anh xác định thế nào? Về ông anh của cô ta ra sao? Tôi thì vẫn cho rằng, anh ta chắc chả biết gì nhiều về cô em gái. Nhưng ý kiến thiếu tướng cũng có phần đúng: dầu sao anh ta cũng là người thân thích duy nhất của cô ấy. Hiện nay anh ta đang ở đâu? Hình như là ở An-ma A-ta phải không?

-- Vâng, ở An-ma-A-ta. -- Lu-ga-nốp đáp. -- Khi đến Vô-rô-ne-giơ tôi đã biết về người này. Chúng tôi đã hỏi cơ quan an ninh ở An-ma-A-ta. Họ đã xác nhận. Anh ta hiện là cán bộ khoa học của Viện hàn lâm khoa học Ca-dắc-xtan. Anh ta sống ở đấy đã lâu.

-- Có thể anh cần phải đến tận đó xem sao. -- Xcơ-vô-re-xki bỗng quyết định. -- Phải trực tiếp nói chuyện với anh ta. Như vậy tốt hơn. Để khỏi mất thì giờ, anh phải đáp máy bay đi ngay.

-- Xin tuân lệnh, thưa đại tá, -- Lu-ga-nốp đáp. -- Bao giờ tôi đi được?

-- Còn anh, -- Xcơ-vô-re-xki quay lại hỏi Mi-rô-nốp, -- anh có thể vắng Va-xi-li vài ba hôm được không? Tôi thấy không nên dềnh dàng. Sáng mai đi ngay thì hơn.

-- Tôi không phản đối, -- sau một lát suy nghĩ, Mi-rô-nốp đồng ý, -- nhưng còn Trê-nhi-a-ép thì sao? Cần phải liên tục hỏi cung ông ta, nhưng một mình tôi sợ rằng không làm nổi...

-- Hai ba ngày cũng chả ảnh hưởng gì lắm. -- Xcơ-vô-re-xki nói. -- Vả lại Va-xi-li Nhi-cô-lai-ê-vích không nên ở đó lâu làm gì. Được, cứ việc tiến hành hỏi cung Trê-nhi-a-ép, tôi sẽ cùng tham gia với anh. Về quá khứ ông ta ra sao, chúng ta chưa cần hỏi vội. Phải chờ đến lúc Mát-xcơ-va tìm được bạn bè, người quen cũ của ông ta đã, lúc đó ta sẽ hành động. Tôi hiểu ý thiếu tướng như vậy đấy, có đúng không?

-- Rất đúng, thưa đồng chí Ki-rin Pê-tơ-rô-vích ạ.

-- Vậy chúng ta hãy bàn đến cô bạn mới -- Vôi-xê-khốp-xcai-a. -- Đại tá tiếp. -- Cần phải nói rằng, khi các anh đang làm việc về Trê-nhi-a-ép thì tôi cũng đã chú ý đến cô gái này rồi. -- Đại tá Xcơ-vô-re-xki vừa nói vừa mở cặp tài liệu lấy ra một tập giấy. -- Chưa có gì mới. Vẫn là những hồ sơ thông thường. Tôi muốn hỏi anh một điều là: anh đã nghiên cứu hồ sơ cô này chưa?

Mi-rô-nốp vẻ ngạc nhiên:

-- Tất nhiên là đọc rồi. Lẽ nào tôi lại bỏ lỡ cô ta như vậy?

-- Thế, thế đấy. Thế anh có kết luận và đề nghị gì không? Nói thẳng ra, tiểu sử cô này có nhiều điều đáng chú ý lắm.

-- Tôi đồng ý, tiểu sử rất đáng chú ý. Nhưng kết luận và đề nghị thì tôi chưa kịp...Lắm việc quá...

-- Thôi được. Anh hãy đọc lại lần nữa, đọc kỹ vào. Ta cùng nghiên cứu xem, có thể nó sẽ bổ ích.

Mi-rô-nốp cầm tập tiểu sử do đại tá đưa cho và lầm rầm đọc. Lần trước anh chỉ mới đọc qua, do đó chưa thể kết luận hay đề xuất gì được nên lần này anh đọc chậm và đọc kỹ từng đoạn.

Đại tá đã nói đúng: Vôi-xê-khốp-xcai-a viết bản tiểu sử mình có vẻ rườm rà, dài dòng. Càng đọc càng thấy nhiều điểm đáng phải chú ý hơn. Cô sinh năm 1926 ở Ba-lan, tại một thành phố nhỏ tên là I-a-vô-rốp gần Lơ-vốp, nơi bố cô -- một người Ba-lan lai U-crai-na, làm giáo viên. Mẹ người U-crai-na và cũng là một nhà giáo. Gia đình thuộc loại nghèo, đời sống vất vả thiếu thốn, lương tháng nào cào tháng ấy. Ông bố là người có quan điểm tiến bộ, vì không phải là dân Ba-lan "chính cống" nên đã bị thải hồi nhiều lần. Gia đình đã vất vả lại càng gian nan do đó phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác để kiếm sống. Họ hết ở Xăm-bô lại đến Ra-va Rút-xcai-a là những thị trấn quanh Lơ-vốp rồi sau đó lại chuyển về Pô-bi-a-ních, gần Lốt-gia. Nói tóm lại họ cứ bị "du cư" luôn. Chiến tranh bùng nổ khi Vôi-xê-khốp-xcai-a và gia đình đang ở thị trấn Dơ-bô-xin thuộc thành phố Pô-dơ-nan gần biên giới Ba-lan -- Đức. Bọn Đức, Vôi-xê-khốp-xcai-a viết, ùa đến Pô-dơ-nan ngay những ngày đầu tiên của cuộc tiến công ăn cướp vào Ba-lan. Gia đình Vôi-xê-khốp-xcai-a không kịp chạy và cũng chả biết chạy đi đâu. Thế là họ phải sống những năm cay đắng trong vùng phát-xít chiếm đóng.

Năm 1942 cả gia đình đến Plôn-xcơ gần Vác-sa-va. Bố tham gia phong trào kháng chiến. Vôi-xê-khốp-xcai-a khi đó còn là một thiếu nữ, đã tích cực giúp đỡ ông trong hoạt động bí mật.

Năm 1943 bố hy sinh. Chẳng bao lâu sau mẹ cũng mất. Còn lại một mình, không nơi nương tựa, Vôi-xê-khốp-xcai-a đi Vác-sa-va để tìm đến những bạn bè cùng hoạt động trong tổ chức bí mật chống phát-xít của bố. Cuối năm 1943 cô đã tích cực tham gia đấu tranh chống phát-xít. Tháng Tám 1944 cô đã cùng với các đồng chí của mình trong tổ chức thanh niên cộng sản Vác-sa-va tham gia vào cuộc khởi nghĩa Vác-sa-va do các phần tử quá khích trong cái gọi là "quân đội Crai-ô-va" tổ chức. Cũng như phần lớn các đồng chí của mình tham gia cuộc khởi nghĩa, Vôi-xê-khốp-xcai-a không hề hiểu biết gì về các nguyên nhân và lý do thực sự của cuộc phiêu lưu đó. Cô ta cũng như hàng ngàn người dân Vác-sa-va và hàng trăm đảng viên cộng sản và thanh niên cộng sản Vác-sa-va đã chiến đấu trên đường phố Vác-sa-va cho đến viên đạn cuối cùng. Ngày hai mươi tháng Chín, Vôi-xê-khốp-xcai-a đã theo một tốp chiến sĩ của quân đoàn Li-u-đô-va Ba-lan, bất chấp mệnh lệnh phản bội của tướng Bu-rơ Cô-mô-rốp-xki, người cầm đầu cuộc khởi nghĩa, đã rút khỏi Vác-sa-va để bắt liên lạc với các đơn vị của tập đoàn quân thứ nhất quân đội Ba-lan đang chiến đấu bên cạnh quân đội Liên-xô. Trong khi vượt sông Vi-xtuyn, cô bị thương và được đưa vào điều trị tại một bệnh viện của quân đội Liên-xô

Cần phải công bằng mà nói rằng, bản tiểu sử tuy dài dòng nhưng đã viết khá rõ và ghi rất đầy đủ ngày, tháng của những sự kiện cụ thể, tên, họ những người đã cùng cô chiến đấu và công tác trong từng thời gian.

Tại bệnh viện, mặc dầu vết thương chưa lành hẳn, Vôi-xê-khốp-xcai-a đã tự nguyện giúp việc các y tá chăm sóc thương binh. Vì trong thời kỳ hoạt động bí mật, cô đã được học qua về công tác y tế và đủ trình độ làm y tá.

Trong số thương binh được cô chăm sóc có đại tá Va-xi-u-cốp -- tư lệnh một trong những sư đoàn xe tăng Quân đội Liên-xô. Ông đã chú ý đến Vôi-xê-khốp-xcai-a, còn phần mình, cô cũng đã chú ý đến viên đại tá can đảm này, mặc dầu ông ta hơn cô đến trên hai chục tuổi. Còn gì vui sướng hơn đối với cô là đã được một sĩ quan cao cấp và anh dũng như đại tá Va-xi-u-cốp để ý đến. Câu chuyện tất nhiên đã tiến triển theo ý đồ của nó. Khi Va-xi-u-cốp khỏi bệnh ra viện thì Vôi-xê-khốp-xcai-a đã đi cùng với ông về đơn vị. Thực tế cô đã trở thành vợ đại tá mặc dầu Va-xi-u-cốp không làm lễ cưới chính thức.

Chiến tranh kết thúc. Mùa hè năm 1946, Va-xi-u-cốp lúc bấy giờ đang đóng ở Béc-lin, được thuyên chuyển về Mát-xcơ-va và Vôi-xê-khốp-xcai-a cũng theo ông về đấy. Họ sống với nhau như đôi vợ chồng. Năm 1947, đại tá xin cho Vôi-xê-khốp-xcai-a vào học Trường đại học ngoại ngữ.

Mọi sự có thể diễn biến tốt đẹp nếu như không đột ngột có một chuyện tai tiếng. Nhưng dù sớm hay muộn chuyện đó cũng sẽ phải xảy ra thôi. Chuyện là: đại tá đã có vợ và đã có ba con ở Viễn Đông, nơi ông ở lâu nhất trước chiến tranh. Ông không thể ly dị vợ được, nhưng ông đã dấu vợ con về mối tình với Vôi-xê-khốp-xcai-a. Đối với Vôi-xê-khốp-xcai-a cũng vậy, ông cũng dấu sự thật về gia đình mình. Dù cho ông cố che dấu, cố chạy chọt nhưng rồi câu chuyện cũng đã vỡ lở và Va-xi-u-cốp bị hạ tầng công tác, bị buộc chuyển từ Mát-xcơ-va về Viễn Đông. Trước khi xảy ra chuyện kỷ luật, Vôi-xê-khốp-xcai-a đã biết hết cả, cô rất đau đớn thấy rằng mấy năm qua Va-xi-u-cốp đã lừa dối cô. Cô bỏ ông và xin vào ở ký túc xá sinh viên. Cô vùi đầu vào học tập như để cho vợi nỗi đau khổ của mối tình đầu dang dở. Sau khi thi đặt kết quả tốt, cô được cử làm giáo viên tiếng Anh và nhận công tác tại Khác-cốp. Ở đấy mấy năm cô lại được đổi về Crai-xcơ.

-- Thế nào? -- Xcơ-vô-re-xki hỏi khi thấy Mi-rô-nốp đã đọc xong và đang trầm ngâm suy nghĩ. -- Hấp dẫn đấy chứ?

-- Vâng, rất hấp dẫn! -- Mi-rô-nốp trầm ngâm. -- Đọc và suy nghĩ kỹ thì đây quả thật là một cô gái "anh hùng" và "bất hạnh". Cái anh Va-xi-u-cốp nào đó đểu thật. Ông ta đã coi đời người con gái như cái tàn thuốc lá. Mấy hôm trước, khi đọc tiểu sử này tôi chỉ chú ý đến thời gian cô ta ở Ba-lan mà thôi. Tuy vậy, suy nghĩ kỹ về thời kỳ này tôi vẫn thấy có một chút gì đó chưa ổn. Tất nhiên nếu như tất cả những gì cô ấy viết đều đúng thì...

-- Đấy, vấn đề là ở chỗ ấy đấy, -- Xcơ-vô-re-xki nói ngay. -- Tôi cũng nghĩ vậy. Nếu như có một điểm chính nào đó trong tất cả những điều Vôi-xê-khốp-xcai-a đã viết như tham gia quân đoàn Li-u-đô-va, cuộc khởi nghĩa Vác-sa-va, tham gia cuộc rút lui của đảng viên cộng sản và thanh niên cộng sản, rồi bị thương và do đó đã trở về đất Liên-xô -- là không đúng sự thật thì sao!

Mi-rô-nốp đằng hắng, nét mặt đầy vẻ băn khoăn. Xcơ-vô-re-xki chăm chú nhìn anh và cười rất hài lòng.

-- Thế nào anh bạn, anh vẫn còn điều nghi ngờ chứ? Có lẽ anh cũng đang nghi ngờ cả tôi là: làm sao mà biết được điều gì đúng điều gì sai? -- Ki-rin Pê-tơ-rô-vích hỏi với giọng không kém nghiêm túc. -- Rất đơn giản thôi! Trong khi các anh đang bận với Trê-nhi-a-ép, tôi đã quyết định tự mình nghiên cứu Vôi-xê-khốp-xcai-a. Tôi đã liên lạc với một số người, gửi điện đi hỏi ở các nơiđể xác minh thêm những điều nghi vấn. Do đó đã biết được về cô ta rõ thêm.

Và Xcơ-vô-re-xki kể lại: ông đã liên lạc với Cục an ninh nhà nước thành phố Mát-xcơ-va, với thành phố hiện Va-xi-u-cốp đang phục vụ, gửi một số câu hỏi sang nước Cộng hòa nhân dân Ba-lan nhờ xác minh rõ hơn một số vấn đề. Không phải tất cả các câu hỏi đều đã có trả lời nhưng có nhiều vấn đề trở nên rõ hơn. Thí dụ như có một số người mà Vôi-xê-khốp-xcai-a khai là đã hoạt động cùng với cô trong cuộc khởi nghĩa Vác-sa-va, hai trong số đó hiện đang làm việc ở đại sứ quán Ba-lan tại Mát-xcơ-va. Họ đã xác nhận phần Vôi-xê-khốp-xcai-a nói về thời kỳ hoạt động ở Vác-sa-va trong những ngày khởi nghĩa, về cuộc rút lui khỏi Vác-sa-va bắt liên lạc với các đơn vị binh đoàn Ba-lan và rút qua sông Vi-xtuyn.

Đoạn Vôi-xê-khốp-xcai-a bị thương, được đưa vào bệnh viện Quân đội Liên-xô, được điều trị và mối tình với Va-xi-u-cốp cũng đã được xác minh là đúng. Cô ta đã viết rất đúng câu chuyện tình yêu của mình với Va-xi-u-cốp và những năm tiếp theo. Còn Cục an ninh nhà nước thành phố Mát-xcơ-va thì xác minh đúng những năm cô ta về Mát-xcơ-va có học Trường đại học ngoại ngữ. Đầu năm học thứ hai cô bỗng quyết định vào ký túc xá sinh viên và sau khi tốt nghiệp cô được cử về Khác-cốp dạy học.

-- Và đây là văn bản cuối cùng về tiểu sử cô ta, -- Xcơ-vô-re-xki chấm dứt câu chuyện rồi đưa cho Mi-rô-nốp một tập giấy. -- Tôi vừa nhận được.

Đọc kỹ bản nhận xét của Cục an ninh nhà nước thành phố Mát-xcơ-va, Mi-rô-nốp bỗng chau mày. Anh chú ý đọc đi đọc lại một câu trong đó.

-- Đồng chí Ki-rin Pê-tơ-rô-vích, xin đồng chí một phút. Đồng chí hãy nghe câu này, -- Mi-rô-nốp nói và đọc to, -- "Khi mới vào học, Vôi-xê-khốp-xcai-a có cho biết rằng cô ta đã biết chút ít tiếng Anh khi còn đi học ở trường trung học ở nước nhà và tự học ở gia đình. Nhưng, giáo viên có nhận xét là cô ta biết rất hoàn hảo tiếng Anh và phát âm hoàn toàn đúng giọng Luân-đôn".

-- Ồ, anh tưởng tôi ngốc lắm hay sao mà không chú ý tới câu này! -- Xcơ-vô-re-xki nói. -- Chả lẽ một chi tiết như vậy mà lại bỏ qua đi hay sao? Tôi đã suy nghĩ nhiều về điểm này. Có chỗ không ổn ở đấy. Khó có thể hình dung được rằng, một gia đình giáo viên nghèo như vậy mà lại rất giỏi tiếng Anh

Khó tin lắm. Tôi suy nghĩ rất lung. Thực tình, chúng ta chưa biết gì về Vôi-xê-khốp-xcai-a ngoài những điều ghi trong bản tiểu sử này, và cũng chưa có cách nào tìm hiểu thêm về cô ta... Tôi giao việc này cho anh, nhất là cái giọng phát âm gốc Luân-đôn ấy...

-- Điều này cũng dễ hiểu thôi, -- Mi-rô-nốp thở dài, -- nhưng có cái khó là nên bắt đầu từ cái gì và kết thúc ra sao đối với cô giáo này? Căn cứ theo bản tiểu sử thì cô ta đã trải qua thử thách của "lửa, nước và ống đồng"(*) rồi đấy. Chả phải là tay non nớt gì đâu. Nhưng, nói chung thì...

-- "Nói chung" thì sao? -- Đại tá hỏi.

-- Sao ạ? Con người này tuyệt diệu lắm.

-- Sao, anh nói rõ xem, tuyệt diệu chỗ nào? -- Lu-ga-nốp bỗng tò mò hỏi.

-- Tất cả đều tuyệt diệu! -- Mi-rô-nốp thở dài. -- Tất cả những điều cô ta khai đều tuyệt diệu nhưng lại chả rõ ràng một tý gì. Lúc đầu nếu cứ đọc lướt đi thì ta sẽ nghĩ ngay: ồ thật là một con người anh hùng, đầy vinh dự! Cô ta đúng là một con người chân chính. Chả lẽ con người như vậy lại liên lạc với bọn gián điệp. Không, không thể tin được!.. Giả sử cô ta hết sức căm thù cái anh chàng đểu cáng Va-xi-u-cốp thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể vì một con sâu đó mà cô ta lại có thể căm thù tất cả chúng ta, cả đất nước ta và vì vậy mà liên hệ với bọn gián điệp để gọi là... rửa hận. Khó tin như vậy lắm. Tất cả những điều cô ta khai đều có vẻ tuyệt diệu nhưng chưa chắc toàn bộ lịch sử cô ta là đáng tin...

-- Khoan đã, khoan đã, -- Xcơ-vô-re-xki bỗng ngắt lời. -- Thế còn Trê-nhi-a-ép?

-- Sao -- Trê-nhi-a-ép sao? -- An-đrây chưa hiểu ngay ý câu hỏi của thủ trưởng. -- Trê-nhi-a-ép dính gì vào đây? Đồng chí định kết hợp gì ở đây?

-- Ồ, rất đơn giản thôi. Tiểu sử Trê-nhi-a-ép thì có kém gì Vôi-xê-khốp-xcai-a. Theo ý tôi thì ông ta còn nhiều điều xuất sắc hơn, đáng tin hơn chứ: đảng viên cộng sản, sĩ quan Xô-viết đã vào sinh ra tử...Chúng ta còn đòi hỏi gì hơn nữa? Còn cần gì phải điều tra nữa? Tiểu sử thì như vậy đấy.

-- Không, đồng chí Ki-rin Pê-tơ-rô-vích ạ. Tôi không đồng ý lắm, -- Mi-rô-nốp lắc đầu. -- Trê-nhi-a-ép à? Đối với Trê-nhi-a-ép còn cần làm việc nhiều nữa. Phải xới thật kỹ các vấn đề trong quá khứ, trong lý lịch ông ta lên nữa. Chỗ này, ý kiến thiếu tướng rất đúng.

-- Thế về quá khứ Vôi-xê-khốp-xcai-a anh rõ rồi chứ? -- Xcơ-vô-re-xki hỏi, giọng có vẻ hơi bực. -- Anh đã nghiên cứu kỹ rồi chứ? Ồ, sao dễ dãi vậy! Cần phải nói rằng, những gì thuộc về Vôi-xê-khốp-xcai-a thì chúng ta chỉ là mới bắt tay vào mà thôi. Những vấn đề về cô ta còn mờ mịt lắm. Tất cả đang ở phía trước. Anh mới xem qua chỉ có vài lần, chưa có nghiên cứu, chưa kiểm tra thật kỹ, mà đã vội kết luận thì tôi sợ rằng chưa chính xác đâu. Không nên nóng vội như vậy! Nào, bây giờ ta bàn vào việc cụ thể. Tôi nghĩ rằng, con đường điều tra ngắn nhất là làm quen với cô ta, kết bạn với cô ta. Đồng chí Xê-men Pha-đê-ê-vích có ý kiến rất hay, rất đúng và mạnh dạn đấy. Anh phải đến làm quen cô ta, hãy chơi thân và quan sát cô ta ở mọi góc cạnh. Anh biết tiếng Anh đấy chứ?

-- Vâng, có biết, -- Mi-rô-nốp trả lời. -- Đọc thạo nhưng nói thì còn phải luyện thêm...

-- Khá lắm. Đây mới là tuyệt! Làm quen thì chả khó lắm, tôi sẽ tạo cách cho anh: anh sẽ đóng vai thanh tra đi kiểm tra việc giảng dạy và học tiếng Anh ở các trường phổ thông, trong đó có trường Vôi-xê-khốp-xcai-a dạy. Đấy, cái cớ vào trường của anh đã có. Còn sự việc về sau, vai kịch diễn biến khá hay kém, là do anh quyết định. Thế nào, được chứ?

An-đrây nhún vai không trả lời: việc gì còn phải hỏi nữa? Chả còn cách nào khác hay hơn được và kế hoạch hành động được phác ra như sau: Lu-ga-nốp sáng mai sẽ bay đi An-ma A-ta, Xcơ-vô-re-xki và Mi-rô-nốp tiếp tục hỏi cung Trê-nhi-a-ép. Và cũng ngày mai, Mi-rô-nốp sẽ đến Sở giáo dục thành phố bắt đầu đợt kiểm tra và làm quen với Vôi-xê-khốp-xcai-a. Đã gần về chiều, còn rất ít thời gian để hỏi cung, nhưng Xcơ-vô-re-xki và Mi-rô-nốp vẫn quyết định phải hỏi ngay.

Theo lệnh của Xcơ-vô-re-xki, Trê-nhi-a-ép đã được dẫn vào phòng hỏi cung. Mi-rô-nốp để ý quan sát ông ta, nhưng không thấy có những thay đổi gì lắm. Chỉ có khuôn mặt là ủ rũ hơn. Vẫn như lần trước, Trê-nhi-a-ép cúi gằm mặt, chậm chạp lặng lẽ bước lại chiếc ghế dành sẵn và nặng nề ngồi xuống, hai tay chống lên đầu gối. Ông ta ngồi im, đầu cúi gằm sát ngực, mắt lim dim không nhìn Xcơ-vô-re-xki lẫn Mi-rô-nốp. Ông ta ngồi đấy và rõ ràng là làm như không chú ý đến sự có mặt của hai người.

Đại tá hỏi ngay. Mi-rô-nốp ngồi bên chiếc bàn con cạnh Xcơ-vô-re-xki, dở sẵn mấy tờ biên bản khẩu cung in sẵn, sắp xếp lại bút mực cho thuận tiện và sẵn sàng ghi chép lời khai của Trê-nhi-a-ép. Nhưng việc chuẩn bị của anh đã vô ích. Anh đã không phải... hay nói đúng hơn... không viết được gì cả. Trê-nhi-a-ép... im lặng. Ông ta im lặng một cách bướng bỉnh, ngoan cố. Xcơ-vô-re-xki hỏi gì thì hỏi, Mi-rô-nốp nói gì thì nói, họ có cáu đi chăng nữa, cũng đều tỏ ra vô ích. Mười lăm, hai mươi phút rồi

..nửa giờ trôi qua, Trê-nhi-a-ép vẫn im lặng như người câm điếc vậy. Ông ta ngồi im lìm không cựa quậy, đầu cúi gằm xuống nền nhà hầu như không nghe thấy những câu hỏi, không để ý gì đến vẻ sốt ruột cáu kỉnh của các cán bộ Cục an ninh.

"Trò gì thế này? -- Mi-rô-nốp thầm nghĩ. -- Một thủ đoạn mới của Trê-nhi-a-ép vừa nghĩ ra chăng? Hay là do hỏi cung căng thẳng nên thần kinh ông ta bị choáng?"

Xcơ-vô-re-xki biết chắc cuộc hỏi cung chả có kết quả gì nữa nên kiên quyết khoát tay, nói:

-- Ông không muốn nói chuyện hả, ông Trê-nhi-a-ép? Được thôi, đây là việc của ông. Nhưng ông đừng tưởng rằng, tôi không biết về những tính toán của ông. Sớm muộn gì rồi ông cũng phải nói. Nói hết sự thật. Chả có trò quái quỷ gì giúp ông thoát được đâu. Chúng tôi chẳng bận tâm làm gì đến trò trẻ này cho nó mất thì giờ. Sẽ có tòa án làm việc với ông. Ông nhớ lấy điều này. Thôi, ông vào phòng giam và suy nghĩ kỹ đi...

Đại tá bấm chuông, một lát sau Trê-nhi-a-ép bị dẫn đi. Ông ta nặng nề đứng dậy, lê chân, mặt cúi gằm chả thèm nhìn gì những người chung quanh, dáng bộ vẫn thiểu não lặng lẽ đi ra.

-- Thế nào, ý kiến của anh ra sao? -- Xcơ-vô-re-xki hỏi Mi-rô-nốp khi cánh cửa phòng đã đóng chặt sau lưng họ. -- Anh hiểu thế nào về cái trò này?

-- Tôi không ngờ lại thế này, -- Mi-rô-nốp khoát tay, nói. -- Các lần hỏi cung trước ông ta có như thế này đâu. Trông cứ như vừa câm vừa điếc...

-- Hừ, khó hiểu thật, -- Ki-rin Pê-tơ-rô-vích đăm chiêu xoa xoa trán, miệng lẩm bẩm. -- Trê-nhi-a-ép có phải là con người như thế này đâu. Phải cắt đứt cái tiết mục mới này đi thôi. Thế quản lý phòng giam có báo cáo gì cho anh về thái độ ông ta trong phòng giam không?

-- Không có gì đặc biệt cả. Tôi đã hỏi kỹ. Như đồng chí biết đấy, ông ta ngồi im một mình trong phòng, không vi phạm nội quy, trật tự phòng giam gì cả. Các đồng chí gác cho biết là mấy ngày đầu ông ta còn hay đi đi, lại lại trong phòng hết từ góc này sang góc khác, còn bây giờ chỉ ngồi im trên ghế. Chả thấy đọc sách báo gì. Tối vẫn ngủ bình thường. Biết nói thế nào được? Im lặng suốt ngày vì ông ta chả còn biết nói chuyện với ai. Quỷ bắt nó đi...

-- Thôi được, -- đại tá nói. -- Ta cứ chờ vài ba hôm xem sao. Rồi sẽ gọi lên hỏi lần nữa xem có gì khác không.

--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ -----

* Thành ngữ Nga, dùng chỉ những người từng trải nhiều hoặc có quá khứ phức tạp, không tốt.



Tìm kiếm với từ khoá:


Soi Chi Mong Manh




chuong 29          

1001 truyện trinh thám tuyệt hay
     
                                Gồm        “Chiếc Nhẫn Tình Cờ-Những Người Thích Đùa-Pháo Đài Số- Sherlock homes-Điệp Vụ Bí Ẩn-Chinh Đông Chinh Tây-Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân-Xâu Chuỗi Ngọc Trai-Sự Thật Đàng Sau Cái Chết-Vụ giết Người Trên Sân Gôn-Chuến Tàu 16 Giờ 50-Trại Giam Địa Ngục-Nnghinf Lẻ Một Đêm-Rừng Thẳm Tuyết Dày-Nam Tước Phôn gôn Rinh-xâu chuôi ngoc trai cái kính  chiếc khuy đong soi chi mong manh
 VV…”  https://nhathongnguyen.blogspot.com/2019/01/truyen-trinh-tham.htm





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]

nhathongnguyen.blogspot 9.8 su10 nhathongnguyen.blogspot 90286 student

Receive All Updates Via Twitter