ﯓjﯓ♥ﯓﯓﻕjﻕ Chuyến tàu 16 giờ 50
Agatha Christie
Chương tám
Tác giả: Agatha Christie
Lúc bước vào phòng đọc sách, viên công chứng Wimborne không khỏi giật mình. Ông nhìn chằm chằm vào người đàn ông cao lớn, dáng vẻ đàng hoàng, đang đứng bên cạnh thanh tra Bacon .
Viên thanh tra Craddock của Cục Điều tra Hình sự ở London, vừa mới được cử về đây.
- Cục Điều tra? Chà!... - viên công chứng lẩm bẩm, rướn đôi lông mày.
Vẻ bình thản và tự nhiên, Craddock bắt đầu vào việc ngay:
- Thưa ông Wimborne, xin hãy bắt đầu công việc. Vì ông là đại diện pháp lý cho gia đình Crackenthorpe, tôi muốn thông báo ngay với ông những thông tin chúng tôi đã có trong tay, tất nhiên là chỉ riêng ông được biết.
Viên chánh thanh tra này rất giỏi trong việc đề cập đến những vấn đề tế nhị. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, ông cho viên công chứng thấy toàn bộ tầm nghiêm trọng của vụ án.
- Đồng nghiệp của tôi, ông Bacon, hẳn tán thành chứ? - ông quay sang ông này hỏi.
Thanh tra Bacon trịnh trọng gật đầu. Thái độ của hai viên thanh tra cảnh sát cho thấy họ đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc tiếp xúc này. Tuy nhiên viên công chứng không phải là người dễ bị lừa.
Viên chánh thanh tra nói tiếp:
- Cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nạn nhân đã đi từ London đến đây, thành phố Brackhampton này. Thêm nữa, bà ta đến London chưa lâu, rất có thể từ Pháp sang, nhưng điều này chúng tôi chưa hoàn toàn chắc chắn.
Viên công chức lộ vẻ bực bội, nhưng ông chỉ nói:
- Có thật là như thế không?
Thanh tra Bacon nói chen vào:
- Sự thật là như thế, cho nên Sở Cảnh sát thành phố cho rằng vụ án này nên đưa lên cho Cục Điều tra của Bộ thì có đầy đủ điều kiện tiến hành hơn.
Công chứng Wimborne lạnh lùng nói:
- Tôi chỉ mong vụ án được làm sáng tỏ. Các ông hẳn đã thấy vụ án này gây rất nhiều phiền toái cho gia đình thân chủ tôi. Tuy không có người nào trong số thành viên gia đình dính líu đến vụ án, nhưng...
Thấy ông ta ngập ngừng, Chánh thanh tra Craddock bèn đỡ lời:
- ... Nhưng họ rất không muốn thấy một tử thi được phát hiện trong dinh cơ của cha họ. Tôi công nhận, nhưng tôi cũng chỉ công nhận một điều đó thôi. Bây giờ tôi muốn gặp riêng từng người trong gia đình.
- Tôi thấy không cần thiết.
- Cần thiết đấy. Rất có thể họ không cung cấp được thông tin nào giá trị, nhưng ta chưa thể nói trước. Riêng ông công chứng, chúng tôi yêu cầu ông cho chúng tôi biết một số thông tin về dinh cơ Josiah Crackenthorpe cho xây toà nhà này năm 1884 đến nay, dinh cơ Rutherford Hall chưa hề có người nào khác đến ở, ngoài các thành viên trong gia đình.
- Điều này đáng chú ý đấy, - Chánh thanh tra Craddock điềm tĩnh nói - Nhưng xin ông cho tôi biết chính xác hơn về gia đình này.
Câu chuyện ông công chứng kể không cung cấp được thêm chi tiết nào mới. Chánh thanh tra Craddock bèn hỏi :
- Nhân đây xin hỏi thêm, cụ Luther Crackenthorpe, chủ nhân hiện nay của dinh cơ này đã bao giờ có ý định bán nó không?
- Bản chúc thư của cụ cố Josiah Crackenthorpe, thân sinh cụ Luther Crackenthorpe hiện nay, đã quy định chính thức: Cấm cụ bán.
- Chà, điều này quan trọng đấy! Hiện ai giữ bản chúc thư đó?
Viên công chức càng khó chịu hơn:
- Tại sao tôi phải trả lời câu đó?
Chánh thanh tra Craddock liền lấy giọng hết sức ngọt ngào đáp:
- Chỉ để rút ngắn thời gian. Vì ông thừa biết, nếu ông không cho tôi xem, tôi có thể xin bản sao chúc thư đó ở Cục Đăng ký?
Viên công chức gượng cười:
- Tôi biết, nhưng tôi muốn khẳng định rằng điều ông yêu cầu không cần thiết. Mọi khoản trong chúc thư đó rất minh bạch, không có điều bí mật nào. Cụ cố Josiah Crackenthorpe để lại một gia tài kếch xù, được đầu tư vào một loạt doanh nghiệp lớn, tiền lãi đó con trai cụ, cụ Luther Crackenthorpe được hưởng. Hẳn các ông biết cụ cố Josiah Crackenthorpe có hai con trai, con đầu đã chết trong một vụ tai nạn, cụ Luther Crackenthorpe hiện nay là con thứ. Chỉ sau khi cụ Luther qua đời, toàn bộ tài sản kia mới được chia đều cho các con cụ. Cụ Luther Crackenthorpe có năm người con, thì hai người đã chết: Edmund Crackenthorpe và Edith Crackenthorpe. Do đấy tài sản sẽ chia tư, cho ba người con còn lại, Cedric, Harold, Emma và đứa cháu ngoại, con trai của bà Edith, cậu Alexander Eastley.
- Đấy là tài sản, còn dinh cơ Rutherford Hall thì sao?
- Dinh cơ sẽ thuộc sở hữu của người con lớn nhất còn lại, cụ thể trong trường hợp này là ông Cedric Crackenthorpe, và sau này là các con ông ta.
Sau một lát suy nghĩ, viên chánh thanh tra hỏi:
- Nghĩa là cụ Luther Crackenthorpe không được quyền định đoạt số phận tài sản cũng như dinh cơ Rutherford Hall?
- Đúng thế.
- Rắc rối đấy. Tôi đoán lúc sinh thời, cụ cố Josiah không ưa cụ Luther?
- Chắc thế. Ngay ông con cả trước khi chết cũng bị cụ cố Josiah ghét, cho là ông ta lười biếng. Đến cụ Luther này, cụ cố còn ghét hơn. Vì thời trẻ, cụ Luther hiện nay đã không thích kinh doanh, mà đi ngao du khắp châu Âu, say mê sưu tầm đồ cổ (thí dụ cái quan tài cổ đó), một công việc mà cụ cố thân sinh không tán thành chút nào. Cho nên cụ cố Josiah mới đề ra trong bản chúc thư những điều khoản kỳ quái như thế : Không cho con được hưởng quyền thừa kế, mà chỉ chia cho các cháu, sau khi cha họ chết.
- Tóm lại là hiện nay, các con cụ Luther Crackenthorpe chưa được hưởng chút tài sản nào, mà phải chờ đến khi cụ qua đời. Trong khi đó, bản thân cụ Luther lại không có quyền định đoạt gì hết vì không có quyền thừa kế. Đúng như thế chứ gì?
- Tuy nhiên tôi vẫn chưa thấy các điều khoản trong bản chúc thư có liên quan gì với người phụ nữ vô danh bị giết kia... một phụ nữ từ nước ngoài đến.
Chánh thanh tra Craddock đáp ngay:
- Có thể không liên quan, nhưng tôi vẫn muốn làm cho rõ.
Viên công chứng nhìn xoáy vào viên chánh thanh tra, sau đó, có vẻ đã mãn nguyện, ông ta xin cáo từ:
- Nếu hai ông không hỏi gì thêm, - viên công chứng Wimborne nói. - Tôi trở về London bây giờ.
- Với chúng tôi, thế là tạm đủ. Cảm ơn ông, thưa ông Wimborne.
Đột nhiên chuông ngoài cửa vang lên.
- Hai đứa trẻ lại làm trò gì rồi! - viên công chứng nói.
Chánh Thanh tra Craddock nói to:
- Chắc chúng nóng lòng muốn ăn bữa trưa. Thôi, chúng tôi để gia đình nghỉ ngơi. Chiều nay, tôi và thanh tra Bacon sẽ quay lại, khoảng hai giờ mười lăm, để tiến hành gặp gỡ từng thành viên trong gia đình.
Nghe nhắc đến chuyện ấy, viên công chứng lại tỏ vẻ khó chịu:
- Các ông thấy có thật cần thiết không?
Viên chánh thanh tra nhún vai:
- Rất có thể một người nào trong số đó nhớ ra một chi tiết có ích cho việc điều tra chăng?
Viên công chứng mặt tối sầm, bước ra khỏi phòng.
Xong cuộc thẩm vấn của viên cảnh sát trưởng địa phương, Lucy vào bếp. Bữa trưa nay sẽ có rất nhiều người ăn. Trong lúc cô đang tất bật làm thì ông con rể Bryan Eastley hiện ra trên ngưỡng cửa bếp :
- Tôi có thể giúp gì cô được không? - ông ta hỏi - Tôi nghĩ tôi có thể giúp được gì đó trong cái nhà này.
Hơi ngạc nhiên, Lucy tò mò ngước nhìn ông ta. Bryan không ngồi xe chung mà về Rutherford Hall bằng ô tô riêng của ông ta, cho nên Lucy chưa có dịp quan sát con người này. Bây giờ cô mới nhìn kỹ, thấy Bryan khá đáng mến và còn tương đối trẻ. Mái tóc nâu và cặp mắt xanh có phần mơ màng. Hàng ria mép dầy khiến ông ta giống một phi công của lực lượng không quân Anh.
Chưa thấy cô người làm trả lời, Bryan ngồi xuống bên cạnh bàn bếp rộng.
- Xin ông đứng dậy cho, được không? - Lucy nói - Tôi cần đặt đĩa pudding.
Bryan vội vã đứng lên.
Ông ta nói:
- Theo lối của người Anh xưa kia, món pudding bao giờ cũng ăn kèm với thịt bò rán. Nó có cái mùi rất dễ chịu! Nhưng có lẽ tôi chẳng nên nói nhiều, còn để cô làm.
- Ông muốn giúp tôi một tay kia mà! - Lucy nói giọng vui vẻ. - Vậy ông lật hộ tôi những miếng khoai tây trên chảo.
Bryan thực hiện ngay.
Lucy nói tiếp:
- Bây giờ ông bỏ món pudding vào lò hộ.
Bryan vội vã làm, nhưng ông ta khẽ kêu lên.
- Ông bị bỏng rồi chứ gì? - Lucy hỏi.
- Hơi một chút thôi.
- Chắc ông chưa bao giờ nấu ăn, đúng vậy không?
- Trái lại, tôi rất hay phải nấu nướng. Nhưng tài ba của tôi chỉ thu hẹp trong hai món: trứng tráng và mỡ hun khói. Thỉnh thoảng tôi làm thêm một món rán.
- Sống ở London ông thấy dễ chịu chứ?
- Dễ chịu gì đâu? - ông ta nói giọng hơi buồn.
Rồi ông ta ngắm nghía căn bếp:
- Nhìn cảnh tượng này tôi nhớ lại thời nhỏ, sống với cha mẹ, sung sướng biết bao nhiêu!
Có vẻ Bryan chìm đắm trong những kỷ niệm xa xưa. Thái độ ấy làm Lucy chú ý. Cô thầm nghĩ, có lẽ ông ta nhiều tuổi hơn vẻ bề ngoài. Dù sao, ông ta cũng không có nét gì giống con trai ông, cậu Alexander.
Bryan làm Lucy nhớ đến những phi công của lực lượng không quân Anh cô đã tiếp xúc hồi chiến tranh, hồi đó cô còn ở tuổi thiếu nữ.
- Ông đã từng lái máy bay chiến đấu?
- Chính thế mà tôi đâm gặp khó khăn. Người ta quá yêu quý phi công chiến đấu cho nên khi hoà bình trở lại, họ cố kiếm việc cho chúng tôi. Thế là rất tốt, nhưng làm công chức không hợp với tính nết tôi. Cô có thể tưởng tượng, người như tôi mà ngồi cạo giấy trong văn phòng! Đã bao nhiêu lần tôi tìm cách thoát ra, làm một thứ gì đó. Nhưng tôi lại không có vốn. Giá như tôi có một khoản tiền nhỏ để bắt đầu một hoạt động kinh doanh nào đấy thì thật thoả nguyện.
Bryan thở dài, nói tiếp:
- Cô không biết vợ tôi, bà Edith, nhỉ?... Tất nhiên là cô không biết bà ấy rồi! Edith hoàn toàn khác những người trong gia đình này, bởi bà ấy đã từng phục vụ trong quân đội. Bà ấy còn kể với tôi, cha bà ấy là người dối trá và bủn xỉn. Nói riêng với cô, cô Eyelessbarrow, cô biết do đâu ông cụ bủn xỉn không? Cụ thấy cho đến khi chết, cụ không được hưởng quyền sở hữu gia tài này, bởi gia tài không thừa kế cho cụ mà cho các con của cụ, tất nhiên sau khi cụ chết. Edith đã chết, nhưng phần thừa kế của bà ấy sẽ chuyển sang cho thằng Alexander, khi nó đủ hai mươi mốt tuổi.
Vừa lúc ấy, Alexander cùng cậu bạn Stoddard thở hồng hộc chạy vào, mặt mũi đỏ ửng vì giá lạnh bên ngoài.
- Chào bố! - cậu ta dịu dàng nói. - Con thấy bố đã hạ cánh xuống bếp!
Cậu ta nói bằng giọng như bố nói với con chứ không phải con nói với bố. Rồi nhìn mấy đĩa thức ăn, cậu ta reo lên:
- Thịt bò rán trông ngon quá!
- Cậu tránh ra cho tôi làm nào. Còn món nước xốt tôi chưa làm!
- Phải tối thiểu hai bát nước xốt đấy chứ? - Alexander nói.
Stoddard vẻ trịnh trọng chen vào:
- Cô Lucy, chúng cháu có giúp gì được cho cô không?
- Thế thì còn gì bằng! Cậu ra gõ cửa chuông báo mời mọi người chuẩn bị xuống ăn. Còn Stoddard, cậu bưng hộ tôi cái khay thức ăn này sang phòng ăn.
Hai đứa trẻ vui vẻ thực hiện ngay.
Ngoài gian tiền sảnh, viên công chứng Wimborne đang trịnh trọng xỏ tay vào găng. Trong khi đó, tiểu thư Emma từ trên gác đi xuống.
Cô nói:
- Mời ông ở lại ăn với chúng tôi, ông Wimborne!
- Cảm ơn tiểu thư, tôi phải đi London bây giờ, có cuộc hẹn quan trọng. Tôi sẽ ăn trên tàu.
- Tôi rất biết ơn ông đã đến đây, khiến chúng tôi thấy yên tâm hẳn.
Đúng lúc ấy, hai viên thanh tra cảnh sát, Craddock và Bacon, trong phòng đọc sách bước ra. Thấy vậy, viên công chứng bước đến bên Emma:
- Tiểu thư đừng lo lắng gì hết. Đây là chánh thanh tra Craddock ở Cục Điều tra, đến đây trực tiếp tiến hành công việc. Sau bữa ăn, ông ta sẽ hỏi tiểu thư một số điều. Và tôi xin nhắc lại, trong chuyện này không có bất cứ điều gì khiến tiểu thư phải lo lắng hết.
Quay sang viên chánh thanh tra, Wimborne hỏi:
- Tôi có thể kể với tiểu thư Emma những gì ông đã cho tôi biết không?
- Tất nhiên là được.
- Vậy thì thế này, cô Emma ạ. Chánh thanh tra Craddock cho tôi biết vụ án vượt ra ngoài chức trách của chính quyền địa phương. Người phụ nữ bị giết từ London đến đây. Và lại là người từ nước ngoài đến Anh.
- Người nước ngoài? - Emma kinh ngạc. - Hay bà ta là người Pháp?
Câu nói của Emma làm viên công chứng ngạc nhiên, quay đi. Trong khi đó, mắt viên chánh thanh tra Craddock lại chăm chú nhìn Emma, thầm nghĩ, tại sao cô này nghĩ ngay đến chuyện người phụ nữ bị giết kia là người Pháp? Và do đâu thái độ cô ta lại có vẻ hốt hoảng như vậy?
Lúc bước vào phòng đọc sách, viên công chứng Wimborne không khỏi giật mình. Ông nhìn chằm chằm vào người đàn ông cao lớn, dáng vẻ đàng hoàng, đang đứng bên cạnh thanh tra Bacon .
Viên thanh tra Craddock của Cục Điều tra Hình sự ở London, vừa mới được cử về đây.
- Cục Điều tra? Chà!... - viên công chứng lẩm bẩm, rướn đôi lông mày.
Vẻ bình thản và tự nhiên, Craddock bắt đầu vào việc ngay:
- Thưa ông Wimborne, xin hãy bắt đầu công việc. Vì ông là đại diện pháp lý cho gia đình Crackenthorpe, tôi muốn thông báo ngay với ông những thông tin chúng tôi đã có trong tay, tất nhiên là chỉ riêng ông được biết.
Viên chánh thanh tra này rất giỏi trong việc đề cập đến những vấn đề tế nhị. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, ông cho viên công chứng thấy toàn bộ tầm nghiêm trọng của vụ án.
- Đồng nghiệp của tôi, ông Bacon, hẳn tán thành chứ? - ông quay sang ông này hỏi.
Thanh tra Bacon trịnh trọng gật đầu. Thái độ của hai viên thanh tra cảnh sát cho thấy họ đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc tiếp xúc này. Tuy nhiên viên công chứng không phải là người dễ bị lừa.
Viên chánh thanh tra nói tiếp:
- Cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nạn nhân đã đi từ London đến đây, thành phố Brackhampton này. Thêm nữa, bà ta đến London chưa lâu, rất có thể từ Pháp sang, nhưng điều này chúng tôi chưa hoàn toàn chắc chắn.
Viên công chức lộ vẻ bực bội, nhưng ông chỉ nói:
- Có thật là như thế không?
Thanh tra Bacon nói chen vào:
- Sự thật là như thế, cho nên Sở Cảnh sát thành phố cho rằng vụ án này nên đưa lên cho Cục Điều tra của Bộ thì có đầy đủ điều kiện tiến hành hơn.
Công chứng Wimborne lạnh lùng nói:
- Tôi chỉ mong vụ án được làm sáng tỏ. Các ông hẳn đã thấy vụ án này gây rất nhiều phiền toái cho gia đình thân chủ tôi. Tuy không có người nào trong số thành viên gia đình dính líu đến vụ án, nhưng...
Thấy ông ta ngập ngừng, Chánh thanh tra Craddock bèn đỡ lời:
- ... Nhưng họ rất không muốn thấy một tử thi được phát hiện trong dinh cơ của cha họ. Tôi công nhận, nhưng tôi cũng chỉ công nhận một điều đó thôi. Bây giờ tôi muốn gặp riêng từng người trong gia đình.
- Tôi thấy không cần thiết.
- Cần thiết đấy. Rất có thể họ không cung cấp được thông tin nào giá trị, nhưng ta chưa thể nói trước. Riêng ông công chứng, chúng tôi yêu cầu ông cho chúng tôi biết một số thông tin về dinh cơ Josiah Crackenthorpe cho xây toà nhà này năm 1884 đến nay, dinh cơ Rutherford Hall chưa hề có người nào khác đến ở, ngoài các thành viên trong gia đình.
- Điều này đáng chú ý đấy, - Chánh thanh tra Craddock điềm tĩnh nói - Nhưng xin ông cho tôi biết chính xác hơn về gia đình này.
Câu chuyện ông công chứng kể không cung cấp được thêm chi tiết nào mới. Chánh thanh tra Craddock bèn hỏi :
- Nhân đây xin hỏi thêm, cụ Luther Crackenthorpe, chủ nhân hiện nay của dinh cơ này đã bao giờ có ý định bán nó không?
- Bản chúc thư của cụ cố Josiah Crackenthorpe, thân sinh cụ Luther Crackenthorpe hiện nay, đã quy định chính thức: Cấm cụ bán.
- Chà, điều này quan trọng đấy! Hiện ai giữ bản chúc thư đó?
Viên công chức càng khó chịu hơn:
- Tại sao tôi phải trả lời câu đó?
Chánh thanh tra Craddock liền lấy giọng hết sức ngọt ngào đáp:
- Chỉ để rút ngắn thời gian. Vì ông thừa biết, nếu ông không cho tôi xem, tôi có thể xin bản sao chúc thư đó ở Cục Đăng ký?
Viên công chức gượng cười:
- Tôi biết, nhưng tôi muốn khẳng định rằng điều ông yêu cầu không cần thiết. Mọi khoản trong chúc thư đó rất minh bạch, không có điều bí mật nào. Cụ cố Josiah Crackenthorpe để lại một gia tài kếch xù, được đầu tư vào một loạt doanh nghiệp lớn, tiền lãi đó con trai cụ, cụ Luther Crackenthorpe được hưởng. Hẳn các ông biết cụ cố Josiah Crackenthorpe có hai con trai, con đầu đã chết trong một vụ tai nạn, cụ Luther Crackenthorpe hiện nay là con thứ. Chỉ sau khi cụ Luther qua đời, toàn bộ tài sản kia mới được chia đều cho các con cụ. Cụ Luther Crackenthorpe có năm người con, thì hai người đã chết: Edmund Crackenthorpe và Edith Crackenthorpe. Do đấy tài sản sẽ chia tư, cho ba người con còn lại, Cedric, Harold, Emma và đứa cháu ngoại, con trai của bà Edith, cậu Alexander Eastley.
- Đấy là tài sản, còn dinh cơ Rutherford Hall thì sao?
- Dinh cơ sẽ thuộc sở hữu của người con lớn nhất còn lại, cụ thể trong trường hợp này là ông Cedric Crackenthorpe, và sau này là các con ông ta.
Sau một lát suy nghĩ, viên chánh thanh tra hỏi:
- Nghĩa là cụ Luther Crackenthorpe không được quyền định đoạt số phận tài sản cũng như dinh cơ Rutherford Hall?
- Đúng thế.
- Rắc rối đấy. Tôi đoán lúc sinh thời, cụ cố Josiah không ưa cụ Luther?
- Chắc thế. Ngay ông con cả trước khi chết cũng bị cụ cố Josiah ghét, cho là ông ta lười biếng. Đến cụ Luther này, cụ cố còn ghét hơn. Vì thời trẻ, cụ Luther hiện nay đã không thích kinh doanh, mà đi ngao du khắp châu Âu, say mê sưu tầm đồ cổ (thí dụ cái quan tài cổ đó), một công việc mà cụ cố thân sinh không tán thành chút nào. Cho nên cụ cố Josiah mới đề ra trong bản chúc thư những điều khoản kỳ quái như thế : Không cho con được hưởng quyền thừa kế, mà chỉ chia cho các cháu, sau khi cha họ chết.
- Tóm lại là hiện nay, các con cụ Luther Crackenthorpe chưa được hưởng chút tài sản nào, mà phải chờ đến khi cụ qua đời. Trong khi đó, bản thân cụ Luther lại không có quyền định đoạt gì hết vì không có quyền thừa kế. Đúng như thế chứ gì?
- Tuy nhiên tôi vẫn chưa thấy các điều khoản trong bản chúc thư có liên quan gì với người phụ nữ vô danh bị giết kia... một phụ nữ từ nước ngoài đến.
Chánh thanh tra Craddock đáp ngay:
- Có thể không liên quan, nhưng tôi vẫn muốn làm cho rõ.
Viên công chứng nhìn xoáy vào viên chánh thanh tra, sau đó, có vẻ đã mãn nguyện, ông ta xin cáo từ:
- Nếu hai ông không hỏi gì thêm, - viên công chứng Wimborne nói. - Tôi trở về London bây giờ.
- Với chúng tôi, thế là tạm đủ. Cảm ơn ông, thưa ông Wimborne.
Đột nhiên chuông ngoài cửa vang lên.
- Hai đứa trẻ lại làm trò gì rồi! - viên công chứng nói.
Chánh Thanh tra Craddock nói to:
- Chắc chúng nóng lòng muốn ăn bữa trưa. Thôi, chúng tôi để gia đình nghỉ ngơi. Chiều nay, tôi và thanh tra Bacon sẽ quay lại, khoảng hai giờ mười lăm, để tiến hành gặp gỡ từng thành viên trong gia đình.
Nghe nhắc đến chuyện ấy, viên công chứng lại tỏ vẻ khó chịu:
- Các ông thấy có thật cần thiết không?
Viên chánh thanh tra nhún vai:
- Rất có thể một người nào trong số đó nhớ ra một chi tiết có ích cho việc điều tra chăng?
Viên công chứng mặt tối sầm, bước ra khỏi phòng.
Xong cuộc thẩm vấn của viên cảnh sát trưởng địa phương, Lucy vào bếp. Bữa trưa nay sẽ có rất nhiều người ăn. Trong lúc cô đang tất bật làm thì ông con rể Bryan Eastley hiện ra trên ngưỡng cửa bếp :
- Tôi có thể giúp gì cô được không? - ông ta hỏi - Tôi nghĩ tôi có thể giúp được gì đó trong cái nhà này.
Hơi ngạc nhiên, Lucy tò mò ngước nhìn ông ta. Bryan không ngồi xe chung mà về Rutherford Hall bằng ô tô riêng của ông ta, cho nên Lucy chưa có dịp quan sát con người này. Bây giờ cô mới nhìn kỹ, thấy Bryan khá đáng mến và còn tương đối trẻ. Mái tóc nâu và cặp mắt xanh có phần mơ màng. Hàng ria mép dầy khiến ông ta giống một phi công của lực lượng không quân Anh.
Chưa thấy cô người làm trả lời, Bryan ngồi xuống bên cạnh bàn bếp rộng.
- Xin ông đứng dậy cho, được không? - Lucy nói - Tôi cần đặt đĩa pudding.
Bryan vội vã đứng lên.
Ông ta nói:
- Theo lối của người Anh xưa kia, món pudding bao giờ cũng ăn kèm với thịt bò rán. Nó có cái mùi rất dễ chịu! Nhưng có lẽ tôi chẳng nên nói nhiều, còn để cô làm.
- Ông muốn giúp tôi một tay kia mà! - Lucy nói giọng vui vẻ. - Vậy ông lật hộ tôi những miếng khoai tây trên chảo.
Bryan thực hiện ngay.
Lucy nói tiếp:
- Bây giờ ông bỏ món pudding vào lò hộ.
Bryan vội vã làm, nhưng ông ta khẽ kêu lên.
- Ông bị bỏng rồi chứ gì? - Lucy hỏi.
- Hơi một chút thôi.
- Chắc ông chưa bao giờ nấu ăn, đúng vậy không?
- Trái lại, tôi rất hay phải nấu nướng. Nhưng tài ba của tôi chỉ thu hẹp trong hai món: trứng tráng và mỡ hun khói. Thỉnh thoảng tôi làm thêm một món rán.
- Sống ở London ông thấy dễ chịu chứ?
- Dễ chịu gì đâu? - ông ta nói giọng hơi buồn.
Rồi ông ta ngắm nghía căn bếp:
- Nhìn cảnh tượng này tôi nhớ lại thời nhỏ, sống với cha mẹ, sung sướng biết bao nhiêu!
Có vẻ Bryan chìm đắm trong những kỷ niệm xa xưa. Thái độ ấy làm Lucy chú ý. Cô thầm nghĩ, có lẽ ông ta nhiều tuổi hơn vẻ bề ngoài. Dù sao, ông ta cũng không có nét gì giống con trai ông, cậu Alexander.
Bryan làm Lucy nhớ đến những phi công của lực lượng không quân Anh cô đã tiếp xúc hồi chiến tranh, hồi đó cô còn ở tuổi thiếu nữ.
- Ông đã từng lái máy bay chiến đấu?
- Chính thế mà tôi đâm gặp khó khăn. Người ta quá yêu quý phi công chiến đấu cho nên khi hoà bình trở lại, họ cố kiếm việc cho chúng tôi. Thế là rất tốt, nhưng làm công chức không hợp với tính nết tôi. Cô có thể tưởng tượng, người như tôi mà ngồi cạo giấy trong văn phòng! Đã bao nhiêu lần tôi tìm cách thoát ra, làm một thứ gì đó. Nhưng tôi lại không có vốn. Giá như tôi có một khoản tiền nhỏ để bắt đầu một hoạt động kinh doanh nào đấy thì thật thoả nguyện.
Bryan thở dài, nói tiếp:
- Cô không biết vợ tôi, bà Edith, nhỉ?... Tất nhiên là cô không biết bà ấy rồi! Edith hoàn toàn khác những người trong gia đình này, bởi bà ấy đã từng phục vụ trong quân đội. Bà ấy còn kể với tôi, cha bà ấy là người dối trá và bủn xỉn. Nói riêng với cô, cô Eyelessbarrow, cô biết do đâu ông cụ bủn xỉn không? Cụ thấy cho đến khi chết, cụ không được hưởng quyền sở hữu gia tài này, bởi gia tài không thừa kế cho cụ mà cho các con của cụ, tất nhiên sau khi cụ chết. Edith đã chết, nhưng phần thừa kế của bà ấy sẽ chuyển sang cho thằng Alexander, khi nó đủ hai mươi mốt tuổi.
Vừa lúc ấy, Alexander cùng cậu bạn Stoddard thở hồng hộc chạy vào, mặt mũi đỏ ửng vì giá lạnh bên ngoài.
- Chào bố! - cậu ta dịu dàng nói. - Con thấy bố đã hạ cánh xuống bếp!
Cậu ta nói bằng giọng như bố nói với con chứ không phải con nói với bố. Rồi nhìn mấy đĩa thức ăn, cậu ta reo lên:
- Thịt bò rán trông ngon quá!
- Cậu tránh ra cho tôi làm nào. Còn món nước xốt tôi chưa làm!
- Phải tối thiểu hai bát nước xốt đấy chứ? - Alexander nói.
Stoddard vẻ trịnh trọng chen vào:
- Cô Lucy, chúng cháu có giúp gì được cho cô không?
- Thế thì còn gì bằng! Cậu ra gõ cửa chuông báo mời mọi người chuẩn bị xuống ăn. Còn Stoddard, cậu bưng hộ tôi cái khay thức ăn này sang phòng ăn.
Hai đứa trẻ vui vẻ thực hiện ngay.
Ngoài gian tiền sảnh, viên công chứng Wimborne đang trịnh trọng xỏ tay vào găng. Trong khi đó, tiểu thư Emma từ trên gác đi xuống.
Cô nói:
- Mời ông ở lại ăn với chúng tôi, ông Wimborne!
- Cảm ơn tiểu thư, tôi phải đi London bây giờ, có cuộc hẹn quan trọng. Tôi sẽ ăn trên tàu.
- Tôi rất biết ơn ông đã đến đây, khiến chúng tôi thấy yên tâm hẳn.
Đúng lúc ấy, hai viên thanh tra cảnh sát, Craddock và Bacon, trong phòng đọc sách bước ra. Thấy vậy, viên công chứng bước đến bên Emma:
- Tiểu thư đừng lo lắng gì hết. Đây là chánh thanh tra Craddock ở Cục Điều tra, đến đây trực tiếp tiến hành công việc. Sau bữa ăn, ông ta sẽ hỏi tiểu thư một số điều. Và tôi xin nhắc lại, trong chuyện này không có bất cứ điều gì khiến tiểu thư phải lo lắng hết.
Quay sang viên chánh thanh tra, Wimborne hỏi:
- Tôi có thể kể với tiểu thư Emma những gì ông đã cho tôi biết không?
- Tất nhiên là được.
- Vậy thì thế này, cô Emma ạ. Chánh thanh tra Craddock cho tôi biết vụ án vượt ra ngoài chức trách của chính quyền địa phương. Người phụ nữ bị giết từ London đến đây. Và lại là người từ nước ngoài đến Anh.
- Người nước ngoài? - Emma kinh ngạc. - Hay bà ta là người Pháp?
Câu nói của Emma làm viên công chứng ngạc nhiên, quay đi. Trong khi đó, mắt viên chánh thanh tra Craddock lại chăm chú nhìn Emma, thầm nghĩ, tại sao cô này nghĩ ngay đến chuyện người phụ nữ bị giết kia là người Pháp? Và do đâu thái độ cô ta lại có vẻ hốt hoảng như vậy?
Viên thanh tra Craddock của Cục Điều tra Hình sự ở London, vừa mới được cử về đây.
- Cục Điều tra? Chà!... - viên công chứng lẩm bẩm, rướn đôi lông mày.
Vẻ bình thản và tự nhiên, Craddock bắt đầu vào việc ngay:
- Thưa ông Wimborne, xin hãy bắt đầu công việc. Vì ông là đại diện pháp lý cho gia đình Crackenthorpe, tôi muốn thông báo ngay với ông những thông tin chúng tôi đã có trong tay, tất nhiên là chỉ riêng ông được biết.
Viên chánh thanh tra này rất giỏi trong việc đề cập đến những vấn đề tế nhị. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, ông cho viên công chứng thấy toàn bộ tầm nghiêm trọng của vụ án.
- Đồng nghiệp của tôi, ông Bacon, hẳn tán thành chứ? - ông quay sang ông này hỏi.
Thanh tra Bacon trịnh trọng gật đầu. Thái độ của hai viên thanh tra cảnh sát cho thấy họ đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc tiếp xúc này. Tuy nhiên viên công chứng không phải là người dễ bị lừa.
Viên chánh thanh tra nói tiếp:
- Cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nạn nhân đã đi từ London đến đây, thành phố Brackhampton này. Thêm nữa, bà ta đến London chưa lâu, rất có thể từ Pháp sang, nhưng điều này chúng tôi chưa hoàn toàn chắc chắn.
Viên công chức lộ vẻ bực bội, nhưng ông chỉ nói:
- Có thật là như thế không?
Thanh tra Bacon nói chen vào:
- Sự thật là như thế, cho nên Sở Cảnh sát thành phố cho rằng vụ án này nên đưa lên cho Cục Điều tra của Bộ thì có đầy đủ điều kiện tiến hành hơn.
Công chứng Wimborne lạnh lùng nói:
- Tôi chỉ mong vụ án được làm sáng tỏ. Các ông hẳn đã thấy vụ án này gây rất nhiều phiền toái cho gia đình thân chủ tôi. Tuy không có người nào trong số thành viên gia đình dính líu đến vụ án, nhưng...
Thấy ông ta ngập ngừng, Chánh thanh tra Craddock bèn đỡ lời:
- ... Nhưng họ rất không muốn thấy một tử thi được phát hiện trong dinh cơ của cha họ. Tôi công nhận, nhưng tôi cũng chỉ công nhận một điều đó thôi. Bây giờ tôi muốn gặp riêng từng người trong gia đình.
- Tôi thấy không cần thiết.
- Cần thiết đấy. Rất có thể họ không cung cấp được thông tin nào giá trị, nhưng ta chưa thể nói trước. Riêng ông công chứng, chúng tôi yêu cầu ông cho chúng tôi biết một số thông tin về dinh cơ Josiah Crackenthorpe cho xây toà nhà này năm 1884 đến nay, dinh cơ Rutherford Hall chưa hề có người nào khác đến ở, ngoài các thành viên trong gia đình.
- Điều này đáng chú ý đấy, - Chánh thanh tra Craddock điềm tĩnh nói - Nhưng xin ông cho tôi biết chính xác hơn về gia đình này.
Câu chuyện ông công chứng kể không cung cấp được thêm chi tiết nào mới. Chánh thanh tra Craddock bèn hỏi :
- Nhân đây xin hỏi thêm, cụ Luther Crackenthorpe, chủ nhân hiện nay của dinh cơ này đã bao giờ có ý định bán nó không?
- Bản chúc thư của cụ cố Josiah Crackenthorpe, thân sinh cụ Luther Crackenthorpe hiện nay, đã quy định chính thức: Cấm cụ bán.
- Chà, điều này quan trọng đấy! Hiện ai giữ bản chúc thư đó?
Viên công chức càng khó chịu hơn:
- Tại sao tôi phải trả lời câu đó?
Chánh thanh tra Craddock liền lấy giọng hết sức ngọt ngào đáp:
- Chỉ để rút ngắn thời gian. Vì ông thừa biết, nếu ông không cho tôi xem, tôi có thể xin bản sao chúc thư đó ở Cục Đăng ký?
Viên công chức gượng cười:
- Tôi biết, nhưng tôi muốn khẳng định rằng điều ông yêu cầu không cần thiết. Mọi khoản trong chúc thư đó rất minh bạch, không có điều bí mật nào. Cụ cố Josiah Crackenthorpe để lại một gia tài kếch xù, được đầu tư vào một loạt doanh nghiệp lớn, tiền lãi đó con trai cụ, cụ Luther Crackenthorpe được hưởng. Hẳn các ông biết cụ cố Josiah Crackenthorpe có hai con trai, con đầu đã chết trong một vụ tai nạn, cụ Luther Crackenthorpe hiện nay là con thứ. Chỉ sau khi cụ Luther qua đời, toàn bộ tài sản kia mới được chia đều cho các con cụ. Cụ Luther Crackenthorpe có năm người con, thì hai người đã chết: Edmund Crackenthorpe và Edith Crackenthorpe. Do đấy tài sản sẽ chia tư, cho ba người con còn lại, Cedric, Harold, Emma và đứa cháu ngoại, con trai của bà Edith, cậu Alexander Eastley.
- Đấy là tài sản, còn dinh cơ Rutherford Hall thì sao?
- Dinh cơ sẽ thuộc sở hữu của người con lớn nhất còn lại, cụ thể trong trường hợp này là ông Cedric Crackenthorpe, và sau này là các con ông ta.
Sau một lát suy nghĩ, viên chánh thanh tra hỏi:
- Nghĩa là cụ Luther Crackenthorpe không được quyền định đoạt số phận tài sản cũng như dinh cơ Rutherford Hall?
- Đúng thế.
- Rắc rối đấy. Tôi đoán lúc sinh thời, cụ cố Josiah không ưa cụ Luther?
- Chắc thế. Ngay ông con cả trước khi chết cũng bị cụ cố Josiah ghét, cho là ông ta lười biếng. Đến cụ Luther này, cụ cố còn ghét hơn. Vì thời trẻ, cụ Luther hiện nay đã không thích kinh doanh, mà đi ngao du khắp châu Âu, say mê sưu tầm đồ cổ (thí dụ cái quan tài cổ đó), một công việc mà cụ cố thân sinh không tán thành chút nào. Cho nên cụ cố Josiah mới đề ra trong bản chúc thư những điều khoản kỳ quái như thế : Không cho con được hưởng quyền thừa kế, mà chỉ chia cho các cháu, sau khi cha họ chết.
- Tóm lại là hiện nay, các con cụ Luther Crackenthorpe chưa được hưởng chút tài sản nào, mà phải chờ đến khi cụ qua đời. Trong khi đó, bản thân cụ Luther lại không có quyền định đoạt gì hết vì không có quyền thừa kế. Đúng như thế chứ gì?
- Tuy nhiên tôi vẫn chưa thấy các điều khoản trong bản chúc thư có liên quan gì với người phụ nữ vô danh bị giết kia... một phụ nữ từ nước ngoài đến.
Chánh thanh tra Craddock đáp ngay:
- Có thể không liên quan, nhưng tôi vẫn muốn làm cho rõ.
Viên công chứng nhìn xoáy vào viên chánh thanh tra, sau đó, có vẻ đã mãn nguyện, ông ta xin cáo từ:
- Nếu hai ông không hỏi gì thêm, - viên công chứng Wimborne nói. - Tôi trở về London bây giờ.
- Với chúng tôi, thế là tạm đủ. Cảm ơn ông, thưa ông Wimborne.
Đột nhiên chuông ngoài cửa vang lên.
- Hai đứa trẻ lại làm trò gì rồi! - viên công chứng nói.
Chánh Thanh tra Craddock nói to:
- Chắc chúng nóng lòng muốn ăn bữa trưa. Thôi, chúng tôi để gia đình nghỉ ngơi. Chiều nay, tôi và thanh tra Bacon sẽ quay lại, khoảng hai giờ mười lăm, để tiến hành gặp gỡ từng thành viên trong gia đình.
Nghe nhắc đến chuyện ấy, viên công chứng lại tỏ vẻ khó chịu:
- Các ông thấy có thật cần thiết không?
Viên chánh thanh tra nhún vai:
- Rất có thể một người nào trong số đó nhớ ra một chi tiết có ích cho việc điều tra chăng?
Viên công chứng mặt tối sầm, bước ra khỏi phòng.
Xong cuộc thẩm vấn của viên cảnh sát trưởng địa phương, Lucy vào bếp. Bữa trưa nay sẽ có rất nhiều người ăn. Trong lúc cô đang tất bật làm thì ông con rể Bryan Eastley hiện ra trên ngưỡng cửa bếp :
- Tôi có thể giúp gì cô được không? - ông ta hỏi - Tôi nghĩ tôi có thể giúp được gì đó trong cái nhà này.
Hơi ngạc nhiên, Lucy tò mò ngước nhìn ông ta. Bryan không ngồi xe chung mà về Rutherford Hall bằng ô tô riêng của ông ta, cho nên Lucy chưa có dịp quan sát con người này. Bây giờ cô mới nhìn kỹ, thấy Bryan khá đáng mến và còn tương đối trẻ. Mái tóc nâu và cặp mắt xanh có phần mơ màng. Hàng ria mép dầy khiến ông ta giống một phi công của lực lượng không quân Anh.
Chưa thấy cô người làm trả lời, Bryan ngồi xuống bên cạnh bàn bếp rộng.
- Xin ông đứng dậy cho, được không? - Lucy nói - Tôi cần đặt đĩa pudding.
Bryan vội vã đứng lên.
Ông ta nói:
- Theo lối của người Anh xưa kia, món pudding bao giờ cũng ăn kèm với thịt bò rán. Nó có cái mùi rất dễ chịu! Nhưng có lẽ tôi chẳng nên nói nhiều, còn để cô làm.
- Ông muốn giúp tôi một tay kia mà! - Lucy nói giọng vui vẻ. - Vậy ông lật hộ tôi những miếng khoai tây trên chảo.
Bryan thực hiện ngay.
Lucy nói tiếp:
- Bây giờ ông bỏ món pudding vào lò hộ.
Bryan vội vã làm, nhưng ông ta khẽ kêu lên.
- Ông bị bỏng rồi chứ gì? - Lucy hỏi.
- Hơi một chút thôi.
- Chắc ông chưa bao giờ nấu ăn, đúng vậy không?
- Trái lại, tôi rất hay phải nấu nướng. Nhưng tài ba của tôi chỉ thu hẹp trong hai món: trứng tráng và mỡ hun khói. Thỉnh thoảng tôi làm thêm một món rán.
- Sống ở London ông thấy dễ chịu chứ?
- Dễ chịu gì đâu? - ông ta nói giọng hơi buồn.
Rồi ông ta ngắm nghía căn bếp:
- Nhìn cảnh tượng này tôi nhớ lại thời nhỏ, sống với cha mẹ, sung sướng biết bao nhiêu!
Có vẻ Bryan chìm đắm trong những kỷ niệm xa xưa. Thái độ ấy làm Lucy chú ý. Cô thầm nghĩ, có lẽ ông ta nhiều tuổi hơn vẻ bề ngoài. Dù sao, ông ta cũng không có nét gì giống con trai ông, cậu Alexander.
Bryan làm Lucy nhớ đến những phi công của lực lượng không quân Anh cô đã tiếp xúc hồi chiến tranh, hồi đó cô còn ở tuổi thiếu nữ.
- Ông đã từng lái máy bay chiến đấu?
- Chính thế mà tôi đâm gặp khó khăn. Người ta quá yêu quý phi công chiến đấu cho nên khi hoà bình trở lại, họ cố kiếm việc cho chúng tôi. Thế là rất tốt, nhưng làm công chức không hợp với tính nết tôi. Cô có thể tưởng tượng, người như tôi mà ngồi cạo giấy trong văn phòng! Đã bao nhiêu lần tôi tìm cách thoát ra, làm một thứ gì đó. Nhưng tôi lại không có vốn. Giá như tôi có một khoản tiền nhỏ để bắt đầu một hoạt động kinh doanh nào đấy thì thật thoả nguyện.
Bryan thở dài, nói tiếp:
- Cô không biết vợ tôi, bà Edith, nhỉ?... Tất nhiên là cô không biết bà ấy rồi! Edith hoàn toàn khác những người trong gia đình này, bởi bà ấy đã từng phục vụ trong quân đội. Bà ấy còn kể với tôi, cha bà ấy là người dối trá và bủn xỉn. Nói riêng với cô, cô Eyelessbarrow, cô biết do đâu ông cụ bủn xỉn không? Cụ thấy cho đến khi chết, cụ không được hưởng quyền sở hữu gia tài này, bởi gia tài không thừa kế cho cụ mà cho các con của cụ, tất nhiên sau khi cụ chết. Edith đã chết, nhưng phần thừa kế của bà ấy sẽ chuyển sang cho thằng Alexander, khi nó đủ hai mươi mốt tuổi.
Vừa lúc ấy, Alexander cùng cậu bạn Stoddard thở hồng hộc chạy vào, mặt mũi đỏ ửng vì giá lạnh bên ngoài.
- Chào bố! - cậu ta dịu dàng nói. - Con thấy bố đã hạ cánh xuống bếp!
Cậu ta nói bằng giọng như bố nói với con chứ không phải con nói với bố. Rồi nhìn mấy đĩa thức ăn, cậu ta reo lên:
- Thịt bò rán trông ngon quá!
- Cậu tránh ra cho tôi làm nào. Còn món nước xốt tôi chưa làm!
- Phải tối thiểu hai bát nước xốt đấy chứ? - Alexander nói.
Stoddard vẻ trịnh trọng chen vào:
- Cô Lucy, chúng cháu có giúp gì được cho cô không?
- Thế thì còn gì bằng! Cậu ra gõ cửa chuông báo mời mọi người chuẩn bị xuống ăn. Còn Stoddard, cậu bưng hộ tôi cái khay thức ăn này sang phòng ăn.
Hai đứa trẻ vui vẻ thực hiện ngay.
Ngoài gian tiền sảnh, viên công chứng Wimborne đang trịnh trọng xỏ tay vào găng. Trong khi đó, tiểu thư Emma từ trên gác đi xuống.
Cô nói:
- Mời ông ở lại ăn với chúng tôi, ông Wimborne!
- Cảm ơn tiểu thư, tôi phải đi London bây giờ, có cuộc hẹn quan trọng. Tôi sẽ ăn trên tàu.
- Tôi rất biết ơn ông đã đến đây, khiến chúng tôi thấy yên tâm hẳn.
Đúng lúc ấy, hai viên thanh tra cảnh sát, Craddock và Bacon, trong phòng đọc sách bước ra. Thấy vậy, viên công chứng bước đến bên Emma:
- Tiểu thư đừng lo lắng gì hết. Đây là chánh thanh tra Craddock ở Cục Điều tra, đến đây trực tiếp tiến hành công việc. Sau bữa ăn, ông ta sẽ hỏi tiểu thư một số điều. Và tôi xin nhắc lại, trong chuyện này không có bất cứ điều gì khiến tiểu thư phải lo lắng hết.
Quay sang viên chánh thanh tra, Wimborne hỏi:
- Tôi có thể kể với tiểu thư Emma những gì ông đã cho tôi biết không?
- Tất nhiên là được.
- Vậy thì thế này, cô Emma ạ. Chánh thanh tra Craddock cho tôi biết vụ án vượt ra ngoài chức trách của chính quyền địa phương. Người phụ nữ bị giết từ London đến đây. Và lại là người từ nước ngoài đến Anh.
- Người nước ngoài? - Emma kinh ngạc. - Hay bà ta là người Pháp?
Câu nói của Emma làm viên công chứng ngạc nhiên, quay đi. Trong khi đó, mắt viên chánh thanh tra Craddock lại chăm chú nhìn Emma, thầm nghĩ, tại sao cô này nghĩ ngay đến chuyện người phụ nữ bị giết kia là người Pháp? Và do đâu thái độ cô ta lại có vẻ hốt hoảng như vậy?
Lúc bước vào phòng đọc sách, viên công chứng Wimborne không khỏi giật mình. Ông nhìn chằm chằm vào người đàn ông cao lớn, dáng vẻ đàng hoàng, đang đứng bên cạnh thanh tra Bacon .
Viên thanh tra Craddock của Cục Điều tra Hình sự ở London, vừa mới được cử về đây.
- Cục Điều tra? Chà!... - viên công chứng lẩm bẩm, rướn đôi lông mày.
Vẻ bình thản và tự nhiên, Craddock bắt đầu vào việc ngay:
- Thưa ông Wimborne, xin hãy bắt đầu công việc. Vì ông là đại diện pháp lý cho gia đình Crackenthorpe, tôi muốn thông báo ngay với ông những thông tin chúng tôi đã có trong tay, tất nhiên là chỉ riêng ông được biết.
Viên chánh thanh tra này rất giỏi trong việc đề cập đến những vấn đề tế nhị. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, ông cho viên công chứng thấy toàn bộ tầm nghiêm trọng của vụ án.
- Đồng nghiệp của tôi, ông Bacon, hẳn tán thành chứ? - ông quay sang ông này hỏi.
Thanh tra Bacon trịnh trọng gật đầu. Thái độ của hai viên thanh tra cảnh sát cho thấy họ đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc tiếp xúc này. Tuy nhiên viên công chứng không phải là người dễ bị lừa.
Viên chánh thanh tra nói tiếp:
- Cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nạn nhân đã đi từ London đến đây, thành phố Brackhampton này. Thêm nữa, bà ta đến London chưa lâu, rất có thể từ Pháp sang, nhưng điều này chúng tôi chưa hoàn toàn chắc chắn.
Viên công chức lộ vẻ bực bội, nhưng ông chỉ nói:
- Có thật là như thế không?
Thanh tra Bacon nói chen vào:
- Sự thật là như thế, cho nên Sở Cảnh sát thành phố cho rằng vụ án này nên đưa lên cho Cục Điều tra của Bộ thì có đầy đủ điều kiện tiến hành hơn.
Công chứng Wimborne lạnh lùng nói:
- Tôi chỉ mong vụ án được làm sáng tỏ. Các ông hẳn đã thấy vụ án này gây rất nhiều phiền toái cho gia đình thân chủ tôi. Tuy không có người nào trong số thành viên gia đình dính líu đến vụ án, nhưng...
Thấy ông ta ngập ngừng, Chánh thanh tra Craddock bèn đỡ lời:
- ... Nhưng họ rất không muốn thấy một tử thi được phát hiện trong dinh cơ của cha họ. Tôi công nhận, nhưng tôi cũng chỉ công nhận một điều đó thôi. Bây giờ tôi muốn gặp riêng từng người trong gia đình.
- Tôi thấy không cần thiết.
- Cần thiết đấy. Rất có thể họ không cung cấp được thông tin nào giá trị, nhưng ta chưa thể nói trước. Riêng ông công chứng, chúng tôi yêu cầu ông cho chúng tôi biết một số thông tin về dinh cơ Josiah Crackenthorpe cho xây toà nhà này năm 1884 đến nay, dinh cơ Rutherford Hall chưa hề có người nào khác đến ở, ngoài các thành viên trong gia đình.
- Điều này đáng chú ý đấy, - Chánh thanh tra Craddock điềm tĩnh nói - Nhưng xin ông cho tôi biết chính xác hơn về gia đình này.
Câu chuyện ông công chứng kể không cung cấp được thêm chi tiết nào mới. Chánh thanh tra Craddock bèn hỏi :
- Nhân đây xin hỏi thêm, cụ Luther Crackenthorpe, chủ nhân hiện nay của dinh cơ này đã bao giờ có ý định bán nó không?
- Bản chúc thư của cụ cố Josiah Crackenthorpe, thân sinh cụ Luther Crackenthorpe hiện nay, đã quy định chính thức: Cấm cụ bán.
- Chà, điều này quan trọng đấy! Hiện ai giữ bản chúc thư đó?
Viên công chức càng khó chịu hơn:
- Tại sao tôi phải trả lời câu đó?
Chánh thanh tra Craddock liền lấy giọng hết sức ngọt ngào đáp:
- Chỉ để rút ngắn thời gian. Vì ông thừa biết, nếu ông không cho tôi xem, tôi có thể xin bản sao chúc thư đó ở Cục Đăng ký?
Viên công chức gượng cười:
- Tôi biết, nhưng tôi muốn khẳng định rằng điều ông yêu cầu không cần thiết. Mọi khoản trong chúc thư đó rất minh bạch, không có điều bí mật nào. Cụ cố Josiah Crackenthorpe để lại một gia tài kếch xù, được đầu tư vào một loạt doanh nghiệp lớn, tiền lãi đó con trai cụ, cụ Luther Crackenthorpe được hưởng. Hẳn các ông biết cụ cố Josiah Crackenthorpe có hai con trai, con đầu đã chết trong một vụ tai nạn, cụ Luther Crackenthorpe hiện nay là con thứ. Chỉ sau khi cụ Luther qua đời, toàn bộ tài sản kia mới được chia đều cho các con cụ. Cụ Luther Crackenthorpe có năm người con, thì hai người đã chết: Edmund Crackenthorpe và Edith Crackenthorpe. Do đấy tài sản sẽ chia tư, cho ba người con còn lại, Cedric, Harold, Emma và đứa cháu ngoại, con trai của bà Edith, cậu Alexander Eastley.
- Đấy là tài sản, còn dinh cơ Rutherford Hall thì sao?
- Dinh cơ sẽ thuộc sở hữu của người con lớn nhất còn lại, cụ thể trong trường hợp này là ông Cedric Crackenthorpe, và sau này là các con ông ta.
Sau một lát suy nghĩ, viên chánh thanh tra hỏi:
- Nghĩa là cụ Luther Crackenthorpe không được quyền định đoạt số phận tài sản cũng như dinh cơ Rutherford Hall?
- Đúng thế.
- Rắc rối đấy. Tôi đoán lúc sinh thời, cụ cố Josiah không ưa cụ Luther?
- Chắc thế. Ngay ông con cả trước khi chết cũng bị cụ cố Josiah ghét, cho là ông ta lười biếng. Đến cụ Luther này, cụ cố còn ghét hơn. Vì thời trẻ, cụ Luther hiện nay đã không thích kinh doanh, mà đi ngao du khắp châu Âu, say mê sưu tầm đồ cổ (thí dụ cái quan tài cổ đó), một công việc mà cụ cố thân sinh không tán thành chút nào. Cho nên cụ cố Josiah mới đề ra trong bản chúc thư những điều khoản kỳ quái như thế : Không cho con được hưởng quyền thừa kế, mà chỉ chia cho các cháu, sau khi cha họ chết.
- Tóm lại là hiện nay, các con cụ Luther Crackenthorpe chưa được hưởng chút tài sản nào, mà phải chờ đến khi cụ qua đời. Trong khi đó, bản thân cụ Luther lại không có quyền định đoạt gì hết vì không có quyền thừa kế. Đúng như thế chứ gì?
- Tuy nhiên tôi vẫn chưa thấy các điều khoản trong bản chúc thư có liên quan gì với người phụ nữ vô danh bị giết kia... một phụ nữ từ nước ngoài đến.
Chánh thanh tra Craddock đáp ngay:
- Có thể không liên quan, nhưng tôi vẫn muốn làm cho rõ.
Viên công chứng nhìn xoáy vào viên chánh thanh tra, sau đó, có vẻ đã mãn nguyện, ông ta xin cáo từ:
- Nếu hai ông không hỏi gì thêm, - viên công chứng Wimborne nói. - Tôi trở về London bây giờ.
- Với chúng tôi, thế là tạm đủ. Cảm ơn ông, thưa ông Wimborne.
Đột nhiên chuông ngoài cửa vang lên.
- Hai đứa trẻ lại làm trò gì rồi! - viên công chứng nói.
Chánh Thanh tra Craddock nói to:
- Chắc chúng nóng lòng muốn ăn bữa trưa. Thôi, chúng tôi để gia đình nghỉ ngơi. Chiều nay, tôi và thanh tra Bacon sẽ quay lại, khoảng hai giờ mười lăm, để tiến hành gặp gỡ từng thành viên trong gia đình.
Nghe nhắc đến chuyện ấy, viên công chứng lại tỏ vẻ khó chịu:
- Các ông thấy có thật cần thiết không?
Viên chánh thanh tra nhún vai:
- Rất có thể một người nào trong số đó nhớ ra một chi tiết có ích cho việc điều tra chăng?
Viên công chứng mặt tối sầm, bước ra khỏi phòng.
Xong cuộc thẩm vấn của viên cảnh sát trưởng địa phương, Lucy vào bếp. Bữa trưa nay sẽ có rất nhiều người ăn. Trong lúc cô đang tất bật làm thì ông con rể Bryan Eastley hiện ra trên ngưỡng cửa bếp :
- Tôi có thể giúp gì cô được không? - ông ta hỏi - Tôi nghĩ tôi có thể giúp được gì đó trong cái nhà này.
Hơi ngạc nhiên, Lucy tò mò ngước nhìn ông ta. Bryan không ngồi xe chung mà về Rutherford Hall bằng ô tô riêng của ông ta, cho nên Lucy chưa có dịp quan sát con người này. Bây giờ cô mới nhìn kỹ, thấy Bryan khá đáng mến và còn tương đối trẻ. Mái tóc nâu và cặp mắt xanh có phần mơ màng. Hàng ria mép dầy khiến ông ta giống một phi công của lực lượng không quân Anh.
Chưa thấy cô người làm trả lời, Bryan ngồi xuống bên cạnh bàn bếp rộng.
- Xin ông đứng dậy cho, được không? - Lucy nói - Tôi cần đặt đĩa pudding.
Bryan vội vã đứng lên.
Ông ta nói:
- Theo lối của người Anh xưa kia, món pudding bao giờ cũng ăn kèm với thịt bò rán. Nó có cái mùi rất dễ chịu! Nhưng có lẽ tôi chẳng nên nói nhiều, còn để cô làm.
- Ông muốn giúp tôi một tay kia mà! - Lucy nói giọng vui vẻ. - Vậy ông lật hộ tôi những miếng khoai tây trên chảo.
Bryan thực hiện ngay.
Lucy nói tiếp:
- Bây giờ ông bỏ món pudding vào lò hộ.
Bryan vội vã làm, nhưng ông ta khẽ kêu lên.
- Ông bị bỏng rồi chứ gì? - Lucy hỏi.
- Hơi một chút thôi.
- Chắc ông chưa bao giờ nấu ăn, đúng vậy không?
- Trái lại, tôi rất hay phải nấu nướng. Nhưng tài ba của tôi chỉ thu hẹp trong hai món: trứng tráng và mỡ hun khói. Thỉnh thoảng tôi làm thêm một món rán.
- Sống ở London ông thấy dễ chịu chứ?
- Dễ chịu gì đâu? - ông ta nói giọng hơi buồn.
Rồi ông ta ngắm nghía căn bếp:
- Nhìn cảnh tượng này tôi nhớ lại thời nhỏ, sống với cha mẹ, sung sướng biết bao nhiêu!
Có vẻ Bryan chìm đắm trong những kỷ niệm xa xưa. Thái độ ấy làm Lucy chú ý. Cô thầm nghĩ, có lẽ ông ta nhiều tuổi hơn vẻ bề ngoài. Dù sao, ông ta cũng không có nét gì giống con trai ông, cậu Alexander.
Bryan làm Lucy nhớ đến những phi công của lực lượng không quân Anh cô đã tiếp xúc hồi chiến tranh, hồi đó cô còn ở tuổi thiếu nữ.
- Ông đã từng lái máy bay chiến đấu?
- Chính thế mà tôi đâm gặp khó khăn. Người ta quá yêu quý phi công chiến đấu cho nên khi hoà bình trở lại, họ cố kiếm việc cho chúng tôi. Thế là rất tốt, nhưng làm công chức không hợp với tính nết tôi. Cô có thể tưởng tượng, người như tôi mà ngồi cạo giấy trong văn phòng! Đã bao nhiêu lần tôi tìm cách thoát ra, làm một thứ gì đó. Nhưng tôi lại không có vốn. Giá như tôi có một khoản tiền nhỏ để bắt đầu một hoạt động kinh doanh nào đấy thì thật thoả nguyện.
Bryan thở dài, nói tiếp:
- Cô không biết vợ tôi, bà Edith, nhỉ?... Tất nhiên là cô không biết bà ấy rồi! Edith hoàn toàn khác những người trong gia đình này, bởi bà ấy đã từng phục vụ trong quân đội. Bà ấy còn kể với tôi, cha bà ấy là người dối trá và bủn xỉn. Nói riêng với cô, cô Eyelessbarrow, cô biết do đâu ông cụ bủn xỉn không? Cụ thấy cho đến khi chết, cụ không được hưởng quyền sở hữu gia tài này, bởi gia tài không thừa kế cho cụ mà cho các con của cụ, tất nhiên sau khi cụ chết. Edith đã chết, nhưng phần thừa kế của bà ấy sẽ chuyển sang cho thằng Alexander, khi nó đủ hai mươi mốt tuổi.
Vừa lúc ấy, Alexander cùng cậu bạn Stoddard thở hồng hộc chạy vào, mặt mũi đỏ ửng vì giá lạnh bên ngoài.
- Chào bố! - cậu ta dịu dàng nói. - Con thấy bố đã hạ cánh xuống bếp!
Cậu ta nói bằng giọng như bố nói với con chứ không phải con nói với bố. Rồi nhìn mấy đĩa thức ăn, cậu ta reo lên:
- Thịt bò rán trông ngon quá!
- Cậu tránh ra cho tôi làm nào. Còn món nước xốt tôi chưa làm!
- Phải tối thiểu hai bát nước xốt đấy chứ? - Alexander nói.
Stoddard vẻ trịnh trọng chen vào:
- Cô Lucy, chúng cháu có giúp gì được cho cô không?
- Thế thì còn gì bằng! Cậu ra gõ cửa chuông báo mời mọi người chuẩn bị xuống ăn. Còn Stoddard, cậu bưng hộ tôi cái khay thức ăn này sang phòng ăn.
Hai đứa trẻ vui vẻ thực hiện ngay.
Ngoài gian tiền sảnh, viên công chứng Wimborne đang trịnh trọng xỏ tay vào găng. Trong khi đó, tiểu thư Emma từ trên gác đi xuống.
Cô nói:
- Mời ông ở lại ăn với chúng tôi, ông Wimborne!
- Cảm ơn tiểu thư, tôi phải đi London bây giờ, có cuộc hẹn quan trọng. Tôi sẽ ăn trên tàu.
- Tôi rất biết ơn ông đã đến đây, khiến chúng tôi thấy yên tâm hẳn.
Đúng lúc ấy, hai viên thanh tra cảnh sát, Craddock và Bacon, trong phòng đọc sách bước ra. Thấy vậy, viên công chứng bước đến bên Emma:
- Tiểu thư đừng lo lắng gì hết. Đây là chánh thanh tra Craddock ở Cục Điều tra, đến đây trực tiếp tiến hành công việc. Sau bữa ăn, ông ta sẽ hỏi tiểu thư một số điều. Và tôi xin nhắc lại, trong chuyện này không có bất cứ điều gì khiến tiểu thư phải lo lắng hết.
Quay sang viên chánh thanh tra, Wimborne hỏi:
- Tôi có thể kể với tiểu thư Emma những gì ông đã cho tôi biết không?
- Tất nhiên là được.
- Vậy thì thế này, cô Emma ạ. Chánh thanh tra Craddock cho tôi biết vụ án vượt ra ngoài chức trách của chính quyền địa phương. Người phụ nữ bị giết từ London đến đây. Và lại là người từ nước ngoài đến Anh.
- Người nước ngoài? - Emma kinh ngạc. - Hay bà ta là người Pháp?
Câu nói của Emma làm viên công chứng ngạc nhiên, quay đi. Trong khi đó, mắt viên chánh thanh tra Craddock lại chăm chú nhìn Emma, thầm nghĩ, tại sao cô này nghĩ ngay đến chuyện người phụ nữ bị giết kia là người Pháp? Và do đâu thái độ cô ta lại có vẻ hốt hoảng như vậy?
ﯓjﯓ♥ﯓﯓﻕjﻕ Chuyến tàu 16 giờ 50
Agatha Christie
Chương chín
Tác giả: Agatha Christie
Trong bữa ăn chỉ bốn người có vẻ thích thú với các món ăn: Lucy Eyelessbarrow, hai cậu thiếu niên và Cedric Crackenthorpe. Chàng hoạ sĩ anh cả này hoàn toàn thản nhiên trước vụ án đã khiến ông ta về Anh. Thậm chí nhìn ông ta, người khác dễ có cảm giác ông ta coi đây chỉ là tấn hài kịch, một kiểu hài kịch đầy tử khí.
Lucy nhận thấy thái độ của Cedric làm ông em Harold rất khó chịu, bởi Harold coi vụ án là một nỗi nhục cho gia đình Crackenthorpe. Còn tiểu thư Emma thì có vẻ băn khoăn điều gì đó. Riêng người con trai út, Alfred dường như vẫn đang mải suy nghĩ về những vấn đề riêng tư của cá nhân anh ta.
Sau bữa ăn, hai viên thanh tra cảnh sát lại đến và yêu cầu gặp Cedric. Giọng vui vẻ, thân tình, Chánh thanh tra Craddock mời người hoạ sĩ ngồi xuống.
- Tôi nghe nói ông từ quần đảo Baleares về thẳng đây. Phải chăng ông sống ở đó?
- Sáu năm nay rồi. Tôi rất thích màu sắc thiên nhiên rực rỡ tại đó.
- Tôi biết ở Baleares trời thường xuyên nắng ấm chứ không như ở đây. Nhưng thôi, ta vào việc. Tôi được biết dịp lễ Noel vừa rồi, ông đã về Rutherford Hall. Vì sao lần này ông lại về nữa?
- Tôi nhận được điện của em gái tôi, cô Emma. Trong dinh cơ Rutherford Hall của chúng tôi, chưa bao giờ có chuyện án mạng. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi này...
- Ông quan tâm đến các vấn đề tội phạm?
- Chỉ đơn giản là các vụ án mạng kích thích óc tò mò của tôi. “Ai là thủ phạm?” Các ông hiểu chứ? Nhất là lần này án mạng lại rơi đúng vào nhà tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ Emma cần có chỗ dựa tinh thần và có người tiếp nhà chức trách hộ.
- Tóm lại, ông về đây do tò mò và do trách nhiệm với gia đình. Tôi tin rằng tiểu thư Emma rất biết ơn ông, mặc dù ông anh thứ hai và ông em cũng có vẻ để nâng đỡ tiểu thư.
- Hai đứa em tôi ấy về đây đâu phải để giúp Emma. Harold chẳng hạn thì rất bực! Cậu ấy rất không muốn cái chết của một phụ nữ tung tích bất hảo ảnh hưởng đến uy tín một nhà tư vấn kinh doanh tầm cỡ như cậu ấy.
Viên chánh thanh tra ngạc nhiên:
- Nạn nhân là một phụ nữ bất hảo?
- Qua những biểu hiện thì tôi cho là như thế.
- Tôi thấy ông phỏng đoán quá dễ dàng đấy.
- Chứ còn gì nữa? Bởi tôi thấy bà ta không phải người tôi quen biết.
- Ông không quen biết nạn nhân mà đã vội phỏng đoán ư?
Cedric lắc đầu:
- Ông lầm rồi. Tôi hoàn toàn không có ý nghĩ nào về bà ta. Hay ông cho rằng bà ta đến đây để gặp một người trong gia đình chúng tôi?... Không thể có chuyện ấy được. Bởi người đàn ông duy nhất có mặt trong dinh cơ Rutherford Hall lúc xảy ra vụ án là cha tôi, một ông già ốm yếu và đáng kính, ông công nhận không?
- Nhưng rất có thể nạn nhân trước đây có quen biết một người trong gia đình và bà ta tìm đến đây, mặc dù không biết người đàn ông đó có hiện có mặt tại Rutherford Hall hay không. Xin ông thử cố nhớ lại xem, thưa ông Cedric.
Cedric suy nghĩ một lúc lâu rồi vẩy tay, nói:
- Tất nhiên chúng tôi đã từng thuê người làm vào từng quãng thời gian nhất định, nhưng quả thật tôi không nhớ ra có người phụ nữ kia không. Ông thử hỏi những ai thường xuyên sinh sống trong dinh cơ này, may ra họ nhớ ra chăng?
- Tất nhiên tôi sẽ hỏi. Xin sang chuyện khác. Như ông đã biết, qua khám nghiệm tử thi, người ta chưa xác định được thời gian xảy ra vụ án. Theo bác sĩ pháp y thì cách đây khoảng hai tuần lễ, nhiều lắm là ba tuần. Có nghĩa trong khoảng thời gian trước hoặc sau lễ Noel, vậy mà ông lại có mặt ở đây trong thời gian đó. Xin ông cho biết ông về Anh ngày nào và rời khỏi đây ngày nào?
Im lặng một lúc, rồi Cedric nói:
- Để tôi nhớ lại xem... tôi đáp máy bay, đến đây hôm thứ bảy trước lễ Noel, tức là ... ngày 21/12.
- Từ sân bay Majorque ông về thẳng đây?
- Đúng thế. Máy bay cất cánh buổi sáng, và hạ cánh vào buổi trưa.
- Còn ngày ông rời khỏi đây?
- Thứ sáu, ngày 27.
- Cảm ơn ông.
Cedric nhăn mặt:
- Vậy là tôi đâm có mặt ở đây đúng vào thời gian khả nghi - ông ta nhún vai. - Nhưng bóp cổ phụ nữ không phải môn thể thao tôi thích tiến hành vào dịp Noel.
- Tôi hy vọng là như thế, thưa ông Cedric Crackenthorpe.
Thấy viên chánh thanh tra nhìn mình bằng cặp mắt không tán thành, chàng hoạ sĩ bèn nói luôn:
- Gây một vụ án khủng khiếp như vậy đồng nghĩa với việc phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của ngày lễ ấy, một ngày lễ cầu chúc cho sự bình an và thiện ý.
Chánh thanh tra Craddock nói ngắn gọn:
- Thế là tạm đủ. Cảm ơn.
Khi cánh cửa khép lại sau lưng Cedric, Chánh thanh tra Craddock hỏi đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao về tay này?
Bacon bĩu môi:
- Tôi không chịu nổi loại người ăn nói kiểu nửa bông phèng nửa hỗn hào ấy. Bọn nghệ sĩ chuyên sống bất chấp mọi thứ. Rất dám giao du với gái bất hảo lắm.
Chánh thanh tra Craddock nói:
- Chúng ta kiểm tra xem, nếu đúng anh ta chưa rời khỏi Majorque trước ngày 21 thì chắc chắn anh ta không phải là thủ phạm.
Bacon không hài lòng nhìn viên chánh thanh tra của Cục Điều tra:
- Tôi thấy có lúc nào ông nhấn mạnh thời gian chính xác của vụ án đâu?
- Bao giờ tôi cũng dự trữ một chủ bài dành cho những cuộc thẩm vấn sau. Bây giờ ta nghe vị tư vấn kinh doanh ở thủ đô xem anh ta phát hiện thêm cho chúng ta được điều gì.
Nhà kinh doanh tỏ ra rất đĩnh đạc, nhưng chỉ nói ra được những mẩu câu chung chung: “vụ án thật đáng tiếc”, “rồi báo chí sẽ bêu giếu chúng tôi”...
Nói xong, Harold ngồi cứng đờ trên ghế, như người đang hít những mùi hôi thối.
Chánh thanh tra Craddock hỏi vặn đủ cách, nhưng Harold không biết gì, và cũng không phỏng đoán gì, chỉ nói rằng ông ta đến Rutherford Hall hôm trước lễ Noel và ở lại đây đến kỳ nghỉ cuối tuần tiếp theo.
Khi Harold đã ra, Chánh thanh tra Craddock thở dài:
- Vậy là chỉ có thể!
Craddock tin rằng Harold không chịu giúp nhà chức trách. Người thứ ba bước vào là Alfred, dáng điệu chán chường, điển hình của loại thanh niên sống phóng túng.
Nhìn anh ta, Chánh thanh tra Craddock cảm thấy hình như mình đã gặp con người này ở đâu. Hay trong một bức ảnh đăng trên báo?
Khi được hỏi về nghề nghiệp, Alfred làm một cử chỉ không rõ rệt:
- Trong lúc này thì tôi làm nghề bảo hiểm. Thời gian rất gần đây, tôi quan tâm đến việc tung ra thị trường một kiểu máy có tiếng nói. Gây dư luận ầm ĩ, và tôi kiếm được cũng kha khá.
Chánh thanh tra tỏ vẻ chăm chú nghe, thật ra ông chú ý nhiều hơn đến bộ đồ mới tinh của nhân chứng: kiểu cách hiện đại, nhưng may cắt tồi và bằng thứ vải rẻ tiền. Trái ngược với ông anh Cedric hoạ sĩ, mặc một bộ trông luộm thuộm nhưng thật ra lại may cắt rất đẹp và bằng thứ vải đắt tiền. Rõ ràng Alfred có cách sống “đánh lừa”, chỉ cốt gây ấn tượng chốc lát.
Chánh thanh tra Craddock đưa ra những câu hỏi thông thường. Alfred tỏ rất quan tâm đến vụ án.
Anh ta nói:
- Theo đúng logic thì nạn nhân rất có thể là đã từng làm thuê cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi đã thuê rất nhiều người từ những nơi xa lạ, trong số đó có cả hai phụ nữ Ba Lan và một phụ nữ Đức. Nhưng việc chị Emma tôi không nhận diện được nạn nhân khiến mọi dự đoán kia đều vô nghĩa. Bà chị tôi rất có tài nhớ mặt người. Thêm nữa, theo tôi nhớ thì trong số phụ nữ làm thuê cho gia đình chúng tôi, không có ai ở London... Mà căn cứ vào đâu các ông khẳng định rằng nạn nhân từ London đến đây?
Câu hỏi giọng thản nhiên, nhưng cặp mắt Alfred lại lộ ra một vẻ tò mò đặc biệt.
Viên chánh thanh tra chỉ cười, không đáp. Alfred vẫn chằm chằm nhìn ông ta, mắt không chớp.
- Vậy là ông không muốn cho tôi biết? Hay các ông tìm thấy tấm vé tàu trong túi bà ta?
- Có thể là như thế.
- Vậy ta có thể đặt giả thuyết nạn nhân lên tàu ở ga London. Vậy thì người bà ta định gặp tất biết trước rằng “bảo tàng” là nơi thuận tiện cho y gây án. Có nghĩa y biết rất rõ dinh cơ này. Nếu ở địa vị các ông, tôi phải tìm ra hắn cho bằng được.
- Thì chúng tôi đang tìm, - viên thanh tra điềm tĩnh nói.
Và khi nói câu ấy, ông ta nói bằng giọng trịnh trọng.
Trong bữa ăn chỉ bốn người có vẻ thích thú với các món ăn: Lucy Eyelessbarrow, hai cậu thiếu niên và Cedric Crackenthorpe. Chàng hoạ sĩ anh cả này hoàn toàn thản nhiên trước vụ án đã khiến ông ta về Anh. Thậm chí nhìn ông ta, người khác dễ có cảm giác ông ta coi đây chỉ là tấn hài kịch, một kiểu hài kịch đầy tử khí.
Lucy nhận thấy thái độ của Cedric làm ông em Harold rất khó chịu, bởi Harold coi vụ án là một nỗi nhục cho gia đình Crackenthorpe. Còn tiểu thư Emma thì có vẻ băn khoăn điều gì đó. Riêng người con trai út, Alfred dường như vẫn đang mải suy nghĩ về những vấn đề riêng tư của cá nhân anh ta.
Sau bữa ăn, hai viên thanh tra cảnh sát lại đến và yêu cầu gặp Cedric. Giọng vui vẻ, thân tình, Chánh thanh tra Craddock mời người hoạ sĩ ngồi xuống.
- Tôi nghe nói ông từ quần đảo Baleares về thẳng đây. Phải chăng ông sống ở đó?
- Sáu năm nay rồi. Tôi rất thích màu sắc thiên nhiên rực rỡ tại đó.
- Tôi biết ở Baleares trời thường xuyên nắng ấm chứ không như ở đây. Nhưng thôi, ta vào việc. Tôi được biết dịp lễ Noel vừa rồi, ông đã về Rutherford Hall. Vì sao lần này ông lại về nữa?
- Tôi nhận được điện của em gái tôi, cô Emma. Trong dinh cơ Rutherford Hall của chúng tôi, chưa bao giờ có chuyện án mạng. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi này...
- Ông quan tâm đến các vấn đề tội phạm?
- Chỉ đơn giản là các vụ án mạng kích thích óc tò mò của tôi. “Ai là thủ phạm?” Các ông hiểu chứ? Nhất là lần này án mạng lại rơi đúng vào nhà tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ Emma cần có chỗ dựa tinh thần và có người tiếp nhà chức trách hộ.
- Tóm lại, ông về đây do tò mò và do trách nhiệm với gia đình. Tôi tin rằng tiểu thư Emma rất biết ơn ông, mặc dù ông anh thứ hai và ông em cũng có vẻ để nâng đỡ tiểu thư.
- Hai đứa em tôi ấy về đây đâu phải để giúp Emma. Harold chẳng hạn thì rất bực! Cậu ấy rất không muốn cái chết của một phụ nữ tung tích bất hảo ảnh hưởng đến uy tín một nhà tư vấn kinh doanh tầm cỡ như cậu ấy.
Viên chánh thanh tra ngạc nhiên:
- Nạn nhân là một phụ nữ bất hảo?
- Qua những biểu hiện thì tôi cho là như thế.
- Tôi thấy ông phỏng đoán quá dễ dàng đấy.
- Chứ còn gì nữa? Bởi tôi thấy bà ta không phải người tôi quen biết.
- Ông không quen biết nạn nhân mà đã vội phỏng đoán ư?
Cedric lắc đầu:
- Ông lầm rồi. Tôi hoàn toàn không có ý nghĩ nào về bà ta. Hay ông cho rằng bà ta đến đây để gặp một người trong gia đình chúng tôi?... Không thể có chuyện ấy được. Bởi người đàn ông duy nhất có mặt trong dinh cơ Rutherford Hall lúc xảy ra vụ án là cha tôi, một ông già ốm yếu và đáng kính, ông công nhận không?
- Nhưng rất có thể nạn nhân trước đây có quen biết một người trong gia đình và bà ta tìm đến đây, mặc dù không biết người đàn ông đó có hiện có mặt tại Rutherford Hall hay không. Xin ông thử cố nhớ lại xem, thưa ông Cedric.
Cedric suy nghĩ một lúc lâu rồi vẩy tay, nói:
- Tất nhiên chúng tôi đã từng thuê người làm vào từng quãng thời gian nhất định, nhưng quả thật tôi không nhớ ra có người phụ nữ kia không. Ông thử hỏi những ai thường xuyên sinh sống trong dinh cơ này, may ra họ nhớ ra chăng?
- Tất nhiên tôi sẽ hỏi. Xin sang chuyện khác. Như ông đã biết, qua khám nghiệm tử thi, người ta chưa xác định được thời gian xảy ra vụ án. Theo bác sĩ pháp y thì cách đây khoảng hai tuần lễ, nhiều lắm là ba tuần. Có nghĩa trong khoảng thời gian trước hoặc sau lễ Noel, vậy mà ông lại có mặt ở đây trong thời gian đó. Xin ông cho biết ông về Anh ngày nào và rời khỏi đây ngày nào?
Im lặng một lúc, rồi Cedric nói:
- Để tôi nhớ lại xem... tôi đáp máy bay, đến đây hôm thứ bảy trước lễ Noel, tức là ... ngày 21/12.
- Từ sân bay Majorque ông về thẳng đây?
- Đúng thế. Máy bay cất cánh buổi sáng, và hạ cánh vào buổi trưa.
- Còn ngày ông rời khỏi đây?
- Thứ sáu, ngày 27.
- Cảm ơn ông.
Cedric nhăn mặt:
- Vậy là tôi đâm có mặt ở đây đúng vào thời gian khả nghi - ông ta nhún vai. - Nhưng bóp cổ phụ nữ không phải môn thể thao tôi thích tiến hành vào dịp Noel.
- Tôi hy vọng là như thế, thưa ông Cedric Crackenthorpe.
Thấy viên chánh thanh tra nhìn mình bằng cặp mắt không tán thành, chàng hoạ sĩ bèn nói luôn:
- Gây một vụ án khủng khiếp như vậy đồng nghĩa với việc phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của ngày lễ ấy, một ngày lễ cầu chúc cho sự bình an và thiện ý.
Chánh thanh tra Craddock nói ngắn gọn:
- Thế là tạm đủ. Cảm ơn.
Khi cánh cửa khép lại sau lưng Cedric, Chánh thanh tra Craddock hỏi đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao về tay này?
Bacon bĩu môi:
- Tôi không chịu nổi loại người ăn nói kiểu nửa bông phèng nửa hỗn hào ấy. Bọn nghệ sĩ chuyên sống bất chấp mọi thứ. Rất dám giao du với gái bất hảo lắm.
Chánh thanh tra Craddock nói:
- Chúng ta kiểm tra xem, nếu đúng anh ta chưa rời khỏi Majorque trước ngày 21 thì chắc chắn anh ta không phải là thủ phạm.
Bacon không hài lòng nhìn viên chánh thanh tra của Cục Điều tra:
- Tôi thấy có lúc nào ông nhấn mạnh thời gian chính xác của vụ án đâu?
- Bao giờ tôi cũng dự trữ một chủ bài dành cho những cuộc thẩm vấn sau. Bây giờ ta nghe vị tư vấn kinh doanh ở thủ đô xem anh ta phát hiện thêm cho chúng ta được điều gì.
Nhà kinh doanh tỏ ra rất đĩnh đạc, nhưng chỉ nói ra được những mẩu câu chung chung: “vụ án thật đáng tiếc”, “rồi báo chí sẽ bêu giếu chúng tôi”...
Nói xong, Harold ngồi cứng đờ trên ghế, như người đang hít những mùi hôi thối.
Chánh thanh tra Craddock hỏi vặn đủ cách, nhưng Harold không biết gì, và cũng không phỏng đoán gì, chỉ nói rằng ông ta đến Rutherford Hall hôm trước lễ Noel và ở lại đây đến kỳ nghỉ cuối tuần tiếp theo.
Khi Harold đã ra, Chánh thanh tra Craddock thở dài:
- Vậy là chỉ có thể!
Craddock tin rằng Harold không chịu giúp nhà chức trách. Người thứ ba bước vào là Alfred, dáng điệu chán chường, điển hình của loại thanh niên sống phóng túng.
Nhìn anh ta, Chánh thanh tra Craddock cảm thấy hình như mình đã gặp con người này ở đâu. Hay trong một bức ảnh đăng trên báo?
Khi được hỏi về nghề nghiệp, Alfred làm một cử chỉ không rõ rệt:
- Trong lúc này thì tôi làm nghề bảo hiểm. Thời gian rất gần đây, tôi quan tâm đến việc tung ra thị trường một kiểu máy có tiếng nói. Gây dư luận ầm ĩ, và tôi kiếm được cũng kha khá.
Chánh thanh tra tỏ vẻ chăm chú nghe, thật ra ông chú ý nhiều hơn đến bộ đồ mới tinh của nhân chứng: kiểu cách hiện đại, nhưng may cắt tồi và bằng thứ vải rẻ tiền. Trái ngược với ông anh Cedric hoạ sĩ, mặc một bộ trông luộm thuộm nhưng thật ra lại may cắt rất đẹp và bằng thứ vải đắt tiền. Rõ ràng Alfred có cách sống “đánh lừa”, chỉ cốt gây ấn tượng chốc lát.
Chánh thanh tra Craddock đưa ra những câu hỏi thông thường. Alfred tỏ rất quan tâm đến vụ án.
Anh ta nói:
- Theo đúng logic thì nạn nhân rất có thể là đã từng làm thuê cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi đã thuê rất nhiều người từ những nơi xa lạ, trong số đó có cả hai phụ nữ Ba Lan và một phụ nữ Đức. Nhưng việc chị Emma tôi không nhận diện được nạn nhân khiến mọi dự đoán kia đều vô nghĩa. Bà chị tôi rất có tài nhớ mặt người. Thêm nữa, theo tôi nhớ thì trong số phụ nữ làm thuê cho gia đình chúng tôi, không có ai ở London... Mà căn cứ vào đâu các ông khẳng định rằng nạn nhân từ London đến đây?
Câu hỏi giọng thản nhiên, nhưng cặp mắt Alfred lại lộ ra một vẻ tò mò đặc biệt.
Viên chánh thanh tra chỉ cười, không đáp. Alfred vẫn chằm chằm nhìn ông ta, mắt không chớp.
- Vậy là ông không muốn cho tôi biết? Hay các ông tìm thấy tấm vé tàu trong túi bà ta?
- Có thể là như thế.
- Vậy ta có thể đặt giả thuyết nạn nhân lên tàu ở ga London. Vậy thì người bà ta định gặp tất biết trước rằng “bảo tàng” là nơi thuận tiện cho y gây án. Có nghĩa y biết rất rõ dinh cơ này. Nếu ở địa vị các ông, tôi phải tìm ra hắn cho bằng được.
- Thì chúng tôi đang tìm, - viên thanh tra điềm tĩnh nói.
Và khi nói câu ấy, ông ta nói bằng giọng trịnh trọng.
Lucy nhận thấy thái độ của Cedric làm ông em Harold rất khó chịu, bởi Harold coi vụ án là một nỗi nhục cho gia đình Crackenthorpe. Còn tiểu thư Emma thì có vẻ băn khoăn điều gì đó. Riêng người con trai út, Alfred dường như vẫn đang mải suy nghĩ về những vấn đề riêng tư của cá nhân anh ta.
Sau bữa ăn, hai viên thanh tra cảnh sát lại đến và yêu cầu gặp Cedric. Giọng vui vẻ, thân tình, Chánh thanh tra Craddock mời người hoạ sĩ ngồi xuống.
- Tôi nghe nói ông từ quần đảo Baleares về thẳng đây. Phải chăng ông sống ở đó?
- Sáu năm nay rồi. Tôi rất thích màu sắc thiên nhiên rực rỡ tại đó.
- Tôi biết ở Baleares trời thường xuyên nắng ấm chứ không như ở đây. Nhưng thôi, ta vào việc. Tôi được biết dịp lễ Noel vừa rồi, ông đã về Rutherford Hall. Vì sao lần này ông lại về nữa?
- Tôi nhận được điện của em gái tôi, cô Emma. Trong dinh cơ Rutherford Hall của chúng tôi, chưa bao giờ có chuyện án mạng. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi này...
- Ông quan tâm đến các vấn đề tội phạm?
- Chỉ đơn giản là các vụ án mạng kích thích óc tò mò của tôi. “Ai là thủ phạm?” Các ông hiểu chứ? Nhất là lần này án mạng lại rơi đúng vào nhà tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ Emma cần có chỗ dựa tinh thần và có người tiếp nhà chức trách hộ.
- Tóm lại, ông về đây do tò mò và do trách nhiệm với gia đình. Tôi tin rằng tiểu thư Emma rất biết ơn ông, mặc dù ông anh thứ hai và ông em cũng có vẻ để nâng đỡ tiểu thư.
- Hai đứa em tôi ấy về đây đâu phải để giúp Emma. Harold chẳng hạn thì rất bực! Cậu ấy rất không muốn cái chết của một phụ nữ tung tích bất hảo ảnh hưởng đến uy tín một nhà tư vấn kinh doanh tầm cỡ như cậu ấy.
Viên chánh thanh tra ngạc nhiên:
- Nạn nhân là một phụ nữ bất hảo?
- Qua những biểu hiện thì tôi cho là như thế.
- Tôi thấy ông phỏng đoán quá dễ dàng đấy.
- Chứ còn gì nữa? Bởi tôi thấy bà ta không phải người tôi quen biết.
- Ông không quen biết nạn nhân mà đã vội phỏng đoán ư?
Cedric lắc đầu:
- Ông lầm rồi. Tôi hoàn toàn không có ý nghĩ nào về bà ta. Hay ông cho rằng bà ta đến đây để gặp một người trong gia đình chúng tôi?... Không thể có chuyện ấy được. Bởi người đàn ông duy nhất có mặt trong dinh cơ Rutherford Hall lúc xảy ra vụ án là cha tôi, một ông già ốm yếu và đáng kính, ông công nhận không?
- Nhưng rất có thể nạn nhân trước đây có quen biết một người trong gia đình và bà ta tìm đến đây, mặc dù không biết người đàn ông đó có hiện có mặt tại Rutherford Hall hay không. Xin ông thử cố nhớ lại xem, thưa ông Cedric.
Cedric suy nghĩ một lúc lâu rồi vẩy tay, nói:
- Tất nhiên chúng tôi đã từng thuê người làm vào từng quãng thời gian nhất định, nhưng quả thật tôi không nhớ ra có người phụ nữ kia không. Ông thử hỏi những ai thường xuyên sinh sống trong dinh cơ này, may ra họ nhớ ra chăng?
- Tất nhiên tôi sẽ hỏi. Xin sang chuyện khác. Như ông đã biết, qua khám nghiệm tử thi, người ta chưa xác định được thời gian xảy ra vụ án. Theo bác sĩ pháp y thì cách đây khoảng hai tuần lễ, nhiều lắm là ba tuần. Có nghĩa trong khoảng thời gian trước hoặc sau lễ Noel, vậy mà ông lại có mặt ở đây trong thời gian đó. Xin ông cho biết ông về Anh ngày nào và rời khỏi đây ngày nào?
Im lặng một lúc, rồi Cedric nói:
- Để tôi nhớ lại xem... tôi đáp máy bay, đến đây hôm thứ bảy trước lễ Noel, tức là ... ngày 21/12.
- Từ sân bay Majorque ông về thẳng đây?
- Đúng thế. Máy bay cất cánh buổi sáng, và hạ cánh vào buổi trưa.
- Còn ngày ông rời khỏi đây?
- Thứ sáu, ngày 27.
- Cảm ơn ông.
Cedric nhăn mặt:
- Vậy là tôi đâm có mặt ở đây đúng vào thời gian khả nghi - ông ta nhún vai. - Nhưng bóp cổ phụ nữ không phải môn thể thao tôi thích tiến hành vào dịp Noel.
- Tôi hy vọng là như thế, thưa ông Cedric Crackenthorpe.
Thấy viên chánh thanh tra nhìn mình bằng cặp mắt không tán thành, chàng hoạ sĩ bèn nói luôn:
- Gây một vụ án khủng khiếp như vậy đồng nghĩa với việc phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của ngày lễ ấy, một ngày lễ cầu chúc cho sự bình an và thiện ý.
Chánh thanh tra Craddock nói ngắn gọn:
- Thế là tạm đủ. Cảm ơn.
Khi cánh cửa khép lại sau lưng Cedric, Chánh thanh tra Craddock hỏi đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao về tay này?
Bacon bĩu môi:
- Tôi không chịu nổi loại người ăn nói kiểu nửa bông phèng nửa hỗn hào ấy. Bọn nghệ sĩ chuyên sống bất chấp mọi thứ. Rất dám giao du với gái bất hảo lắm.
Chánh thanh tra Craddock nói:
- Chúng ta kiểm tra xem, nếu đúng anh ta chưa rời khỏi Majorque trước ngày 21 thì chắc chắn anh ta không phải là thủ phạm.
Bacon không hài lòng nhìn viên chánh thanh tra của Cục Điều tra:
- Tôi thấy có lúc nào ông nhấn mạnh thời gian chính xác của vụ án đâu?
- Bao giờ tôi cũng dự trữ một chủ bài dành cho những cuộc thẩm vấn sau. Bây giờ ta nghe vị tư vấn kinh doanh ở thủ đô xem anh ta phát hiện thêm cho chúng ta được điều gì.
Nhà kinh doanh tỏ ra rất đĩnh đạc, nhưng chỉ nói ra được những mẩu câu chung chung: “vụ án thật đáng tiếc”, “rồi báo chí sẽ bêu giếu chúng tôi”...
Nói xong, Harold ngồi cứng đờ trên ghế, như người đang hít những mùi hôi thối.
Chánh thanh tra Craddock hỏi vặn đủ cách, nhưng Harold không biết gì, và cũng không phỏng đoán gì, chỉ nói rằng ông ta đến Rutherford Hall hôm trước lễ Noel và ở lại đây đến kỳ nghỉ cuối tuần tiếp theo.
Khi Harold đã ra, Chánh thanh tra Craddock thở dài:
- Vậy là chỉ có thể!
Craddock tin rằng Harold không chịu giúp nhà chức trách. Người thứ ba bước vào là Alfred, dáng điệu chán chường, điển hình của loại thanh niên sống phóng túng.
Nhìn anh ta, Chánh thanh tra Craddock cảm thấy hình như mình đã gặp con người này ở đâu. Hay trong một bức ảnh đăng trên báo?
Khi được hỏi về nghề nghiệp, Alfred làm một cử chỉ không rõ rệt:
- Trong lúc này thì tôi làm nghề bảo hiểm. Thời gian rất gần đây, tôi quan tâm đến việc tung ra thị trường một kiểu máy có tiếng nói. Gây dư luận ầm ĩ, và tôi kiếm được cũng kha khá.
Chánh thanh tra tỏ vẻ chăm chú nghe, thật ra ông chú ý nhiều hơn đến bộ đồ mới tinh của nhân chứng: kiểu cách hiện đại, nhưng may cắt tồi và bằng thứ vải rẻ tiền. Trái ngược với ông anh Cedric hoạ sĩ, mặc một bộ trông luộm thuộm nhưng thật ra lại may cắt rất đẹp và bằng thứ vải đắt tiền. Rõ ràng Alfred có cách sống “đánh lừa”, chỉ cốt gây ấn tượng chốc lát.
Chánh thanh tra Craddock đưa ra những câu hỏi thông thường. Alfred tỏ rất quan tâm đến vụ án.
Anh ta nói:
- Theo đúng logic thì nạn nhân rất có thể là đã từng làm thuê cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi đã thuê rất nhiều người từ những nơi xa lạ, trong số đó có cả hai phụ nữ Ba Lan và một phụ nữ Đức. Nhưng việc chị Emma tôi không nhận diện được nạn nhân khiến mọi dự đoán kia đều vô nghĩa. Bà chị tôi rất có tài nhớ mặt người. Thêm nữa, theo tôi nhớ thì trong số phụ nữ làm thuê cho gia đình chúng tôi, không có ai ở London... Mà căn cứ vào đâu các ông khẳng định rằng nạn nhân từ London đến đây?
Câu hỏi giọng thản nhiên, nhưng cặp mắt Alfred lại lộ ra một vẻ tò mò đặc biệt.
Viên chánh thanh tra chỉ cười, không đáp. Alfred vẫn chằm chằm nhìn ông ta, mắt không chớp.
- Vậy là ông không muốn cho tôi biết? Hay các ông tìm thấy tấm vé tàu trong túi bà ta?
- Có thể là như thế.
- Vậy ta có thể đặt giả thuyết nạn nhân lên tàu ở ga London. Vậy thì người bà ta định gặp tất biết trước rằng “bảo tàng” là nơi thuận tiện cho y gây án. Có nghĩa y biết rất rõ dinh cơ này. Nếu ở địa vị các ông, tôi phải tìm ra hắn cho bằng được.
- Thì chúng tôi đang tìm, - viên thanh tra điềm tĩnh nói.
Và khi nói câu ấy, ông ta nói bằng giọng trịnh trọng.
Trong bữa ăn chỉ bốn người có vẻ thích thú với các món ăn: Lucy Eyelessbarrow, hai cậu thiếu niên và Cedric Crackenthorpe. Chàng hoạ sĩ anh cả này hoàn toàn thản nhiên trước vụ án đã khiến ông ta về Anh. Thậm chí nhìn ông ta, người khác dễ có cảm giác ông ta coi đây chỉ là tấn hài kịch, một kiểu hài kịch đầy tử khí.
Lucy nhận thấy thái độ của Cedric làm ông em Harold rất khó chịu, bởi Harold coi vụ án là một nỗi nhục cho gia đình Crackenthorpe. Còn tiểu thư Emma thì có vẻ băn khoăn điều gì đó. Riêng người con trai út, Alfred dường như vẫn đang mải suy nghĩ về những vấn đề riêng tư của cá nhân anh ta.
Sau bữa ăn, hai viên thanh tra cảnh sát lại đến và yêu cầu gặp Cedric. Giọng vui vẻ, thân tình, Chánh thanh tra Craddock mời người hoạ sĩ ngồi xuống.
- Tôi nghe nói ông từ quần đảo Baleares về thẳng đây. Phải chăng ông sống ở đó?
- Sáu năm nay rồi. Tôi rất thích màu sắc thiên nhiên rực rỡ tại đó.
- Tôi biết ở Baleares trời thường xuyên nắng ấm chứ không như ở đây. Nhưng thôi, ta vào việc. Tôi được biết dịp lễ Noel vừa rồi, ông đã về Rutherford Hall. Vì sao lần này ông lại về nữa?
- Tôi nhận được điện của em gái tôi, cô Emma. Trong dinh cơ Rutherford Hall của chúng tôi, chưa bao giờ có chuyện án mạng. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi này...
- Ông quan tâm đến các vấn đề tội phạm?
- Chỉ đơn giản là các vụ án mạng kích thích óc tò mò của tôi. “Ai là thủ phạm?” Các ông hiểu chứ? Nhất là lần này án mạng lại rơi đúng vào nhà tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ Emma cần có chỗ dựa tinh thần và có người tiếp nhà chức trách hộ.
- Tóm lại, ông về đây do tò mò và do trách nhiệm với gia đình. Tôi tin rằng tiểu thư Emma rất biết ơn ông, mặc dù ông anh thứ hai và ông em cũng có vẻ để nâng đỡ tiểu thư.
- Hai đứa em tôi ấy về đây đâu phải để giúp Emma. Harold chẳng hạn thì rất bực! Cậu ấy rất không muốn cái chết của một phụ nữ tung tích bất hảo ảnh hưởng đến uy tín một nhà tư vấn kinh doanh tầm cỡ như cậu ấy.
Viên chánh thanh tra ngạc nhiên:
- Nạn nhân là một phụ nữ bất hảo?
- Qua những biểu hiện thì tôi cho là như thế.
- Tôi thấy ông phỏng đoán quá dễ dàng đấy.
- Chứ còn gì nữa? Bởi tôi thấy bà ta không phải người tôi quen biết.
- Ông không quen biết nạn nhân mà đã vội phỏng đoán ư?
Cedric lắc đầu:
- Ông lầm rồi. Tôi hoàn toàn không có ý nghĩ nào về bà ta. Hay ông cho rằng bà ta đến đây để gặp một người trong gia đình chúng tôi?... Không thể có chuyện ấy được. Bởi người đàn ông duy nhất có mặt trong dinh cơ Rutherford Hall lúc xảy ra vụ án là cha tôi, một ông già ốm yếu và đáng kính, ông công nhận không?
- Nhưng rất có thể nạn nhân trước đây có quen biết một người trong gia đình và bà ta tìm đến đây, mặc dù không biết người đàn ông đó có hiện có mặt tại Rutherford Hall hay không. Xin ông thử cố nhớ lại xem, thưa ông Cedric.
Cedric suy nghĩ một lúc lâu rồi vẩy tay, nói:
- Tất nhiên chúng tôi đã từng thuê người làm vào từng quãng thời gian nhất định, nhưng quả thật tôi không nhớ ra có người phụ nữ kia không. Ông thử hỏi những ai thường xuyên sinh sống trong dinh cơ này, may ra họ nhớ ra chăng?
- Tất nhiên tôi sẽ hỏi. Xin sang chuyện khác. Như ông đã biết, qua khám nghiệm tử thi, người ta chưa xác định được thời gian xảy ra vụ án. Theo bác sĩ pháp y thì cách đây khoảng hai tuần lễ, nhiều lắm là ba tuần. Có nghĩa trong khoảng thời gian trước hoặc sau lễ Noel, vậy mà ông lại có mặt ở đây trong thời gian đó. Xin ông cho biết ông về Anh ngày nào và rời khỏi đây ngày nào?
Im lặng một lúc, rồi Cedric nói:
- Để tôi nhớ lại xem... tôi đáp máy bay, đến đây hôm thứ bảy trước lễ Noel, tức là ... ngày 21/12.
- Từ sân bay Majorque ông về thẳng đây?
- Đúng thế. Máy bay cất cánh buổi sáng, và hạ cánh vào buổi trưa.
- Còn ngày ông rời khỏi đây?
- Thứ sáu, ngày 27.
- Cảm ơn ông.
Cedric nhăn mặt:
- Vậy là tôi đâm có mặt ở đây đúng vào thời gian khả nghi - ông ta nhún vai. - Nhưng bóp cổ phụ nữ không phải môn thể thao tôi thích tiến hành vào dịp Noel.
- Tôi hy vọng là như thế, thưa ông Cedric Crackenthorpe.
Thấy viên chánh thanh tra nhìn mình bằng cặp mắt không tán thành, chàng hoạ sĩ bèn nói luôn:
- Gây một vụ án khủng khiếp như vậy đồng nghĩa với việc phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của ngày lễ ấy, một ngày lễ cầu chúc cho sự bình an và thiện ý.
Chánh thanh tra Craddock nói ngắn gọn:
- Thế là tạm đủ. Cảm ơn.
Khi cánh cửa khép lại sau lưng Cedric, Chánh thanh tra Craddock hỏi đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao về tay này?
Bacon bĩu môi:
- Tôi không chịu nổi loại người ăn nói kiểu nửa bông phèng nửa hỗn hào ấy. Bọn nghệ sĩ chuyên sống bất chấp mọi thứ. Rất dám giao du với gái bất hảo lắm.
Chánh thanh tra Craddock nói:
- Chúng ta kiểm tra xem, nếu đúng anh ta chưa rời khỏi Majorque trước ngày 21 thì chắc chắn anh ta không phải là thủ phạm.
Bacon không hài lòng nhìn viên chánh thanh tra của Cục Điều tra:
- Tôi thấy có lúc nào ông nhấn mạnh thời gian chính xác của vụ án đâu?
- Bao giờ tôi cũng dự trữ một chủ bài dành cho những cuộc thẩm vấn sau. Bây giờ ta nghe vị tư vấn kinh doanh ở thủ đô xem anh ta phát hiện thêm cho chúng ta được điều gì.
Nhà kinh doanh tỏ ra rất đĩnh đạc, nhưng chỉ nói ra được những mẩu câu chung chung: “vụ án thật đáng tiếc”, “rồi báo chí sẽ bêu giếu chúng tôi”...
Nói xong, Harold ngồi cứng đờ trên ghế, như người đang hít những mùi hôi thối.
Chánh thanh tra Craddock hỏi vặn đủ cách, nhưng Harold không biết gì, và cũng không phỏng đoán gì, chỉ nói rằng ông ta đến Rutherford Hall hôm trước lễ Noel và ở lại đây đến kỳ nghỉ cuối tuần tiếp theo.
Khi Harold đã ra, Chánh thanh tra Craddock thở dài:
- Vậy là chỉ có thể!
Craddock tin rằng Harold không chịu giúp nhà chức trách. Người thứ ba bước vào là Alfred, dáng điệu chán chường, điển hình của loại thanh niên sống phóng túng.
Nhìn anh ta, Chánh thanh tra Craddock cảm thấy hình như mình đã gặp con người này ở đâu. Hay trong một bức ảnh đăng trên báo?
Khi được hỏi về nghề nghiệp, Alfred làm một cử chỉ không rõ rệt:
- Trong lúc này thì tôi làm nghề bảo hiểm. Thời gian rất gần đây, tôi quan tâm đến việc tung ra thị trường một kiểu máy có tiếng nói. Gây dư luận ầm ĩ, và tôi kiếm được cũng kha khá.
Chánh thanh tra tỏ vẻ chăm chú nghe, thật ra ông chú ý nhiều hơn đến bộ đồ mới tinh của nhân chứng: kiểu cách hiện đại, nhưng may cắt tồi và bằng thứ vải rẻ tiền. Trái ngược với ông anh Cedric hoạ sĩ, mặc một bộ trông luộm thuộm nhưng thật ra lại may cắt rất đẹp và bằng thứ vải đắt tiền. Rõ ràng Alfred có cách sống “đánh lừa”, chỉ cốt gây ấn tượng chốc lát.
Chánh thanh tra Craddock đưa ra những câu hỏi thông thường. Alfred tỏ rất quan tâm đến vụ án.
Anh ta nói:
- Theo đúng logic thì nạn nhân rất có thể là đã từng làm thuê cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi đã thuê rất nhiều người từ những nơi xa lạ, trong số đó có cả hai phụ nữ Ba Lan và một phụ nữ Đức. Nhưng việc chị Emma tôi không nhận diện được nạn nhân khiến mọi dự đoán kia đều vô nghĩa. Bà chị tôi rất có tài nhớ mặt người. Thêm nữa, theo tôi nhớ thì trong số phụ nữ làm thuê cho gia đình chúng tôi, không có ai ở London... Mà căn cứ vào đâu các ông khẳng định rằng nạn nhân từ London đến đây?
Câu hỏi giọng thản nhiên, nhưng cặp mắt Alfred lại lộ ra một vẻ tò mò đặc biệt.
Viên chánh thanh tra chỉ cười, không đáp. Alfred vẫn chằm chằm nhìn ông ta, mắt không chớp.
- Vậy là ông không muốn cho tôi biết? Hay các ông tìm thấy tấm vé tàu trong túi bà ta?
- Có thể là như thế.
- Vậy ta có thể đặt giả thuyết nạn nhân lên tàu ở ga London. Vậy thì người bà ta định gặp tất biết trước rằng “bảo tàng” là nơi thuận tiện cho y gây án. Có nghĩa y biết rất rõ dinh cơ này. Nếu ở địa vị các ông, tôi phải tìm ra hắn cho bằng được.
- Thì chúng tôi đang tìm, - viên thanh tra điềm tĩnh nói.
Và khi nói câu ấy, ông ta nói bằng giọng trịnh trọng.
ﯓjﯓ♥ﯓﯓﻕjﻕ Chuyến tàu 16 giờ 50
Agatha Christie
Chương mười
Tác giả: Agatha Christie
- Tiểu thư nhận ra vật này không? - Chánh thanh tra Craddock hỏi.
Xem rất nhanh, Emma lắc đầu:
- Không phải của tôi.
- Vậy tiểu thư biết nó của ai không?
- Hoàn toàn không.
- Thôi được, chúng tôi không giữ tiểu thư thêm nữa. Tạm thời hãy thế đã. Xin cảm ơn, tiểu thư Crackenthorpe.
Emma mỉm cười đi ra, và Chánh thanh tra Craddock chưa kịp nói hết câu thì cửa bật mở, cụ Luther Crackenthorpe hiện ra trên ngưỡng cửa, trút cơn giận dữ lên đầu hai nhà chức trách:
- Các người không còn biết phép lịch sự nào nữa hay sao? Cục Điều tra xông vào cái nhà này mà không thèm thưa với chủ nhân tòa nhà một lời! Ai là chủ nhân ở đây? Tôi hỏi hai ông: Ai? Hai ông trả lời đi!
Chánh thanh tra Craddock vội đứng lên, nhã nhặn nói:
- Tất nhiên là cụ rồi, thưa cụ Crackenthorpe! Nhưng tôi thấy cụ đã kể hết những điều cụ biết với ông bạn đồng nghiệp của tôi đây và do thấy sức khoẻ cụ không được tốt, tôi không muốn làm phiền cụ. Bác sĩ Quimper nói với chúng tôi rằng…
- Đúng là tôi không khoẻ như trâu! Có điều Quimper tuy là bác sĩ giỏi nhưng anh ta giống như một bà già, chỉ muốn tôi nằm yên. Anh ta rất máy móc. Hôm trước lễ Noel, anh ta thấy tôi đau bụng… chỉ có vậy thôi! Đúng là tôi không được khoẻ, nhưng đâu đến nỗi không giúp được các ông? Một vụ án mạng xảy ra trong nhà tôi, cụ thể là một toà nhà xây theo kiểu từ thời Nữ hoàng Elizabeth! Nhưng thôi, ta không bàn đến chuyện kiến trúc nữa, phải không? Vậy kế hoạch của các ông định thế nào?
- Thưa cụ, hiện còn quá sớm để nói đến chuyện kế hoạch. Chúng tôi đang cố tìm nhân thân của nạn nhân.
- Chị ta đến nhà tôi để làm gì phải không? - cụ già phản đối - Hay các ông cho rằng chị ta tằng tịu với một trong những đứa con của tôi? Nếu như vậy thì xin các ông loại thằng Harold ra khỏi phạm vi nghi vấn. Còn thằng Cedric thì nó thiết sống gì tại đất nước quê hương? Cho nên có thể thấy ngay rằng đó là một trong số nhân tình của thằng Alfred. Do thấy chị ta tìm cách gặp nó, nên một thằng cha nhân tình khác của chị ta đã theo dõi và giết chị ta vì ghen… Tôi nhận định như thế, các ông thấy sao?
Chánh thanh tra Craddock lựa lời xã giao nói rằng nhận định của cụ có phần có lý, nhưng ông nói thêm rằng Alfred đã khai là không quen biết nạn nhân.
- Hừm! - cụ già kêu lên. - Nó sợ, có vậy thôi! Xưa nay nó vẫn là thằng hèn, thằng Alfred ấy! Nó nói dối như cuội. Mà tất cả đám con tôi, không đứa nào tôi tin được, chúng đều là những con diều hâu chỉ mong cha chúng chết cho mau. Nếu tôi không giúp ích gì được cho các ông, tôi xin lui. Tôi cần phải nằm nghỉ.
Cụ già đi xong, thanh tra Bacon quay sang nhìn đồng nghiệp ở Cục Điều tra:
- Một trong số nhân tình của Alfred? Tôi cho rằng ông cụ bịa ra tất cả những chuyện đó.
Bacon ngập ngừng một chút rồi nói thêm:
- Theo tôi, ta cần loại Alfred ra khỏi diện nghi vấn. Tất nhiên cậu ta là dân lý tài, chỉ nghĩ đến tiền, nhưng cậu ta không có chút biểu hiện nào của một tên giết người. Tôi đang nghĩ về viên cựu phi công…
- Bryan Eastley?
- Chính ông ta. Bryan đã kể tôi nghe về hai lần ông ta gây chuyện với đám phi công quân sự. Loại người ấy, do sớm tiếp cận với cuộc sống mạo hiểm, rất dễ làm chuyện này chuyện nọ, vì họ cho rằng nếu cuộc sống bình thản thì tẻ quá. Rất có thể Bryan dan díu với một người phụ nữ, và khi thấy cần thủ tiêu chị ta…
Nhưng rồi Bacon nói thêm:
- Có điều tại sao anh ta giấu tử thi vào cỗ quan tài cổ của bố vợ?
Chánh thanh tra Craddock gật gù, nhưng không nói gì cụ thể. Bacon gợi ý nên về thành phố, vì đã đến giờ bữa ăn phụ buổi chiều. Nhưng Chánh thanh tra Craddock nói ông cần đi gặp một người quen cũ .
Ngồi giữa những đồ trang trí bằng men sứ Trung Hoa trong phòng khách của bà Florecen “trung thành”, bà Marple nói với Chánh thanh tra Craddock:
- Tôi rất mừng là ông được giao vụ án này.
- Ngay khi nhận được thư bà, - viên chánh thanh tra đáp. - Tôi đã liên hệ với ông cục trưởng. Đúng lúc ấy thì cục trưởng được cảnh sát thành phố Brackhampton báo cáo về vụ án mạng, nên sếp chăm chú nghe tôi trình bày mọi chi tiết bà cho biết. Hẳn là cha tôi đã nói với sếp về bà…
- Huân tước Henry tốt quá! - bà Marple khẽ nói.
- Tôi có thể kể bà nghe nhận định của sếp tôi được không?
- Tất nhiên rồi, nếu làm thế không vi phạm nguyên tắc của các ông.
- Không đâu. Vậy thì thế này. Thoạt đầu sếp đã nghĩ, có thể đây là chuyện hoang đường của hai bà già giàu trí tưởng tượng. Nhưng khi nghe chi tiết thì sếp gạt ngay cái ý nghĩa kia đi, và bảo tôi: Cậu quen một trong mấy bà ấy, vậy tôi giao cho cậu vụ án này. Thế là tôi về đây và hiện đang ngồi trước mặt bà.
- Vậy ông đã biết những gì về vụ án này?
- Tôi đã đọc biên bản lời khai của bà Gillicuddy với cảnh sát thị trấn Mary Mead, đã nghe thuật lại lời bà ấy nói với nhân viên soát vé trên tàu, đã đọc cả lá thư bà ấy gửi cho viên trưởng ga Brackhampton báo sự việc bà ấy nhìn thấy. Tôi còn đọc báo cáo của văn phòng hoả xa và các nhân viên thanh tra đường sắt trong khu vực. Nhưng tất cả những thứ đó không thể bằng con mắt tinh tường của bà, thưa bà Marple. Bà có cặp mắt của một nhà ngoại cảm.
- Không phải đâu, tôi chỉ có một chủ bài quan trọng: bà Gillicuddy ấy là bạn tôi, và ông nên nhớ bà ấy không hề có kiểu tưởng tượng hoang đường như các bà già khác.
- Tôi tin là như thế. Nhưng rất tiếc là bà Gillicuddy đã đi Ceylan. Tuy nhiên tôi đã bố trí người thẩm vấn bà ấy bên Ceylan.
Một phút im lặng.
Bà Marple nói tiếp:
- Cách suy luận của tôi không có gì độc đáo đâu. Hẳn ông còn nhớ câu chuyện của văn hào Mark Twain về cậu bé đi tìm con ngựa lạc chứ? Cậu ta làm thế nào?… Cậu ta chỉ tự hỏi, nếu cậu ta là con ngựa đó thì cậu ta sẽ đi đâu… và thế là cậu ta tìm thấy con ngựa đúng chỗ cậu ta dự đoán!
- Có nghĩa bà đã tự đặt bà vào địa vị hung thủ, trong trường hợp này là một kẻ sát nhân ghê tởm? - Chánh thanh tra Craddock ngạc nhiên, mắt nhìn chằm chằm vào thân hình bé nhỏ, yếu đuối, với mái tóc trắng phau của bà già, - bà quả là một khối óc phi thường, một tâm hồn sâu thẳm!
- Đứa cháu Raymond của tôi cũng hay nói tôi như vậy, - bà Marple đáp. - Nhưng thôi, ta tạm gác chuyện ấy lại, bây giờ ông thử đặt ông vào địa vị hung thủ, xem hắn náu ở đâu?
Viên chánh thanh tra lắc đầu:
- Tôi rất muốn làm theo, nhưng khó quá! Tôi chỉ nghĩ hung thủ phải là kẻ biết tường tận dinh cơ Rutherford Hall.
- Đúng thế! Nhưng nếu chỉ như thế ta sẽ có vô vàn khả năng. Biết bao nhiêu người đã biết căn nhà “bảo tàng” ấy: các binh sĩ trong đơn vị phòng không, rồi thành viên Hội Bảo trợ người cao tuổi… Họ đều biết có cỗ quan tài cổ kia và biết chìa khoá căn nhà treo chỗ nào. Chưa kể những người tuy chưa vào đó nhưng được nghe kể lại… Và số đông đảo con người ấy đều có thể thấy rằng đó là nơi giấu tử thi tốt nhất.
- Bà nói rất đúng, thưa bà Marple.
Viên chánh thanh tra thở dài nói tiếp:
- Khó quá. Mà chưa xác định được nhân thân nạn nhân, chúng tôi còn giậm chân tại chỗ, không sao tiến lên được!
- Tất nhiên điều này vô cùng khó…
- Cuối cùng chúng ta sẽ tìm ra thôi! Chúng tôi đã thẩm tra lại tất cả những vụ phụ nữ mất tích nào có thể dính dáng đến vụ án này. Không kết quả! Bác sĩ pháp y cho rằng nạn nhân khoảng ba mươi, ba mươi nhăm tuổi, khoẻ mạnh, có thể đã có chồng và có ít nhất một đứa con. Tấm áo măng tô bằng lông thú của chị ta thuộc loại đắt tiền, được mua tại một hiệu thời trang tại London, nhưng khi đưa chủ hiệu xem ảnh nạn nhân, ông ta không nhận ra. Các quần áo khác trên người chị ta là hãng nước ngoài, phần lớn mua tại Paris. Chúng tôi đã liên hệ với cảnh sát Paris và hiện nay họ đang điều tra tiếp. Sớm hay muộn sẽ có một người nào đó báo cho họ biết thân nhân, hoặc người thuê nhà bị mất tích. Tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian, tôi tin là như thế!
- Hộp phấn không giúp gì được các ông sao?
- Rất tiếc là không. Đó là loại phấn thông thường được bày bán hàng trăm chiếc trên phố Rivoli. Nhưng hôm ấy, lẽ ra bà nên đưa ngay hộp phấn đó cho cảnh sát, hoặc trao lại cho cô Lucy Eyelessbarrow là người đã tìm thấy nó.
- Một phụ nữ tập chơi golf tình cờ nhặt được một vật nhỏ vô giá trị trong bụi cây, ông nghĩ nên báo cảnh sát ngay hay sao? Hôm đó tôi cho rằng trước hết phải tìm thấy tử thi đã.
Viên chánh thanh tra sửng sốt:
- Ra bà đã đoán trước là sẽ tìm thấy tử thi?
- Đúng thế. Cô Lucy Eyelessbarrow là người rất thông minh, ông đã thấy đấy!
- Tất nhiên rồi, thậm chí cô ấy còn làm tôi sợ nữa đấy. Một phụ nữ năng động, tháo vát, đến mức ít đàn ông nào dám kết hôn…
- Điều đó thì tôi chưa đồng ý với ông đâu, ông Craddock. Tất nhiên phải là một người đàn ông hiểu biết và quý cô ấy. Nhưng cách xử sự của Lucy ở Rutherford Hall ra sao?
- Tuyệt vời! Toàn thể gia đình nghe theo cô ấy răm rắp. Tôi dám nói thậm chí cả chim chóc cũng ngoan ngoãn đậu xuống bàn tay cô ấy để ăn. Tôi xin nói thêm với bà, hiện nay gia đình Crackenthorpe chưa ai biết nhiệm vụ bà giao cho cô Lucy Eyelessbarrow, còn chúng tôi thì tuyệt đối giữ kín chuyện đó.
- Tốt lắm! Nhưng đến bây giờ thì tôi không yêu cầu Lucy làm thêm gì nữa. Cô ấy đã hoàn thành nhiệm vụ tôi giao.
- Và cô Lucy Eyelessbarrow có thể xin nghỉ việc nếu cô ấy muốn?
- Đúng thế.
- Nhưng cô ấy vẫn ở lại. Tại sao?
- Tôi chưa biết. Có thể cô ấy quan tâm đến…
- … vụ án hay… gia đình Crackenthorpe?
- Không loại trừ cả hai cùng kết hợp!
Viên tranh tra Craddock nhìn thẳng vào mắt bà cụ:
- Bà có phỏng đoán nào xung quanh vấn đề ấy không?
- Tôi ấy à? Không.
- Tôi tha thiết muốn được bà cho biết.
Bà Marple làm một cử chỉ từ chối.
- Nếu vậy, - viên chánh thanh tra nói tiếp - tôi đành phải tự mình tiến hành điều tra thôi. Công việc của người cảnh sát nhiều khi rất nhàm chán.
Sau một lát, ông ta nói thêm:
- Vậy là bà không gợi cho tôi được điều gì thêm nữa?
Bà Marple suy nghĩ một lúc lâu, rồi đột nhiên bà ngẩng đầu lên, nói rất khẽ:
- Tôi nghĩ đến những tốp đi biểu diễn nghệ thuật lưu động, các nghệ sĩ này thường đi xa nhà trong một thời gian dài và ít khi họ chịu trao đổi thư từ với gia đình. Nếu tử thi kia của một thành viên trong một đội nghệ thuật lưu động kiểu như vậy thì còn lâu gia đình mới biết tin chị ta mất tích để đi báo cảnh sát.
Viên chánh thanh tra giật mình:
- Chao ôi, quả là điều gợi ý của bà hết sức quý giá! Chúng tôi sẽ cố khai thác lời gợi ý đó. Nhưng sao bà cười?
- Tôi đang nghĩ đến thái độ của bà Gillicuddy bạn tôi khi bà ấy biết tin đã tìm thấy tử thi.
- Đấy nhé! - Bà Gillicuddy reo lên.
Bà già đáng kính kia không tìm ra lời để thể hiện nỗi ngạc nhiên, và bà chăm chú nhìn viên sĩ quan cảnh sát trẻ người Ceylan đang vui vẻ bầy ra bàn rất nhiều tấm ảnh chụp.
Khi đã bình tĩnh lại được, bà nói:
- Chính là chị ta rồi! - bà nói bằng giọng khẳng định quen thuộc. - Tội nghiệp! Tôi rất mừng thấy tử thi chị ấy đã được tìm ra. Cậu biết không, khi tôi kể chuyện này ra, không ai chịu tin tôi, cảnh sát cũng như quan chức đường sắt. Họ còn bảo là tôi hoang tưởng nữa chứ, cậu nghĩ có bực không? Bây giờ thì không ai dám bảo là tôi đã không làm tròn bổn phận!
Viên sĩ quan trẻ nghiêng đầu tỏ vẻ tán thành.
Bà Gillicicuddy nói tiếp:
- Vậy là tử thi đã được tìm thấy…
- …trong một căn nhà cũ kỹ, xây trong khu dinh cơ Rutherford Hall, nằm ở ngoại vi thành phố Brackhampton.
- Chưa bao giờ tôi nghe nói đến cái dinh cơ ấy. Nhưng do đâu hung thủ lại chọn nơi ấy để giấu tử thi?
Trong lúc viên sĩ quan Ceylan chưa tìm được câu trả lời, bà Gillicuddy nói thêm:
- Tôi đoán bà Marple bạn tôi đã vào cuộc, và đã được người ta tin cậy.
Viên cảnh sát trẻ liếc nhìn sổ tay:
- Người ta tìm ra tử thi là một phụ nữ trẻ, tên là Lucy Eyelessbarrow.
- Tôi hoàn toàn không biết chị ấy! Nhưng tôi cam đoan có bàn tay của bà Marple bạn tôi!
Viên sĩ quan trẻ nhún vai - chuyện đó có quan trọng gì đối với anh ta đâu? Anh ta đưa ra câu hỏi chính yếu:
- Bà khẳng định đó là người phụ nữ bà nhìn thấy trong toa tàu…
- …đúng lúc chị ta bị một gã đàn ông bóp cổ?… Đúng thế, tôi tin chính là chị ta!
- Còn gã đàn ông, hình dạng ra sao, thưa bà?
- Cao lớn… tóc đen…
- Còn gì nữa ạ?
- Tôi rất khó tả thêm chi tiết: hắn quay lưng về phía tôi.
- Nhưng nếu bây giờ gặp, liệu bà có thể nhận ra y được không?
- Không, bởi tôi không nhìn thấy mặt gã.
- Bà có đoán được tuổi của y không?
Bà Gillicuddy suy nghĩ rồi đáp:
- Tôi chỉ có thể đoán gã không còn trẻ lắm. Khoảng giữa ba mươi nhăm và bốn mươi. Thật ra lúc ấy tôi chú ý đến người phụ nữ đang bị bóp cổ nhiều hơn, nhất là chị ta lại quay mặt về phía tôi. Khi bị bóp cổ, mặt chị ta trương lên, bị xung huyết tím ngắt, lưỡi thè ra, sau đó thì mặt tái nhợt và chị ta khuỵu xuống… Đến bây giờ, nhiều đêm tôi vẫn còn mơ thấy cảnh tượng đó!
- Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Viên cảnh sát trẻ nói và gấp cuốn sổ tay, - bao giờ bà về Anh ạ?
- Phải sau ba tuần lễ… Nhưng có cần tôi về sớm hơn không?
- Không đâu, thưa bà. Trừ khi người ta bắt được kẻ tình nghi…
Hai ngày sau, bà Gillicuddy nhận được thư của bà Marple. Chữ viết nhỏ li ti và rất nhiều đoạn gạch đít. Tuy nhiên bà đã quen với chữ viết của bạn cho nên đọc được dễ dàng. Đọc xong, bà tự buông thả cho nỗi vui mừng, và có lẽ cả niềm tự hào.
Bà Gillicuddy thầm nghĩ: “Vậy là đôi bạn già chúng tôi đã cho các người thấy chúng tôi đâu phải là những kẻ bỏ đi!”.
- Tiểu thư nhận ra vật này không? - Chánh thanh tra Craddock hỏi.
Xem rất nhanh, Emma lắc đầu:
- Không phải của tôi.
- Vậy tiểu thư biết nó của ai không?
- Hoàn toàn không.
- Thôi được, chúng tôi không giữ tiểu thư thêm nữa. Tạm thời hãy thế đã. Xin cảm ơn, tiểu thư Crackenthorpe.
Emma mỉm cười đi ra, và Chánh thanh tra Craddock chưa kịp nói hết câu thì cửa bật mở, cụ Luther Crackenthorpe hiện ra trên ngưỡng cửa, trút cơn giận dữ lên đầu hai nhà chức trách:
- Các người không còn biết phép lịch sự nào nữa hay sao? Cục Điều tra xông vào cái nhà này mà không thèm thưa với chủ nhân tòa nhà một lời! Ai là chủ nhân ở đây? Tôi hỏi hai ông: Ai? Hai ông trả lời đi!
Chánh thanh tra Craddock vội đứng lên, nhã nhặn nói:
- Tất nhiên là cụ rồi, thưa cụ Crackenthorpe! Nhưng tôi thấy cụ đã kể hết những điều cụ biết với ông bạn đồng nghiệp của tôi đây và do thấy sức khoẻ cụ không được tốt, tôi không muốn làm phiền cụ. Bác sĩ Quimper nói với chúng tôi rằng…
- Đúng là tôi không khoẻ như trâu! Có điều Quimper tuy là bác sĩ giỏi nhưng anh ta giống như một bà già, chỉ muốn tôi nằm yên. Anh ta rất máy móc. Hôm trước lễ Noel, anh ta thấy tôi đau bụng… chỉ có vậy thôi! Đúng là tôi không được khoẻ, nhưng đâu đến nỗi không giúp được các ông? Một vụ án mạng xảy ra trong nhà tôi, cụ thể là một toà nhà xây theo kiểu từ thời Nữ hoàng Elizabeth! Nhưng thôi, ta không bàn đến chuyện kiến trúc nữa, phải không? Vậy kế hoạch của các ông định thế nào?
- Thưa cụ, hiện còn quá sớm để nói đến chuyện kế hoạch. Chúng tôi đang cố tìm nhân thân của nạn nhân.
- Chị ta đến nhà tôi để làm gì phải không? - cụ già phản đối - Hay các ông cho rằng chị ta tằng tịu với một trong những đứa con của tôi? Nếu như vậy thì xin các ông loại thằng Harold ra khỏi phạm vi nghi vấn. Còn thằng Cedric thì nó thiết sống gì tại đất nước quê hương? Cho nên có thể thấy ngay rằng đó là một trong số nhân tình của thằng Alfred. Do thấy chị ta tìm cách gặp nó, nên một thằng cha nhân tình khác của chị ta đã theo dõi và giết chị ta vì ghen… Tôi nhận định như thế, các ông thấy sao?
Chánh thanh tra Craddock lựa lời xã giao nói rằng nhận định của cụ có phần có lý, nhưng ông nói thêm rằng Alfred đã khai là không quen biết nạn nhân.
- Hừm! - cụ già kêu lên. - Nó sợ, có vậy thôi! Xưa nay nó vẫn là thằng hèn, thằng Alfred ấy! Nó nói dối như cuội. Mà tất cả đám con tôi, không đứa nào tôi tin được, chúng đều là những con diều hâu chỉ mong cha chúng chết cho mau. Nếu tôi không giúp ích gì được cho các ông, tôi xin lui. Tôi cần phải nằm nghỉ.
Cụ già đi xong, thanh tra Bacon quay sang nhìn đồng nghiệp ở Cục Điều tra:
- Một trong số nhân tình của Alfred? Tôi cho rằng ông cụ bịa ra tất cả những chuyện đó.
Bacon ngập ngừng một chút rồi nói thêm:
- Theo tôi, ta cần loại Alfred ra khỏi diện nghi vấn. Tất nhiên cậu ta là dân lý tài, chỉ nghĩ đến tiền, nhưng cậu ta không có chút biểu hiện nào của một tên giết người. Tôi đang nghĩ về viên cựu phi công…
- Bryan Eastley?
- Chính ông ta. Bryan đã kể tôi nghe về hai lần ông ta gây chuyện với đám phi công quân sự. Loại người ấy, do sớm tiếp cận với cuộc sống mạo hiểm, rất dễ làm chuyện này chuyện nọ, vì họ cho rằng nếu cuộc sống bình thản thì tẻ quá. Rất có thể Bryan dan díu với một người phụ nữ, và khi thấy cần thủ tiêu chị ta…
Nhưng rồi Bacon nói thêm:
- Có điều tại sao anh ta giấu tử thi vào cỗ quan tài cổ của bố vợ?
Chánh thanh tra Craddock gật gù, nhưng không nói gì cụ thể. Bacon gợi ý nên về thành phố, vì đã đến giờ bữa ăn phụ buổi chiều. Nhưng Chánh thanh tra Craddock nói ông cần đi gặp một người quen cũ .
Ngồi giữa những đồ trang trí bằng men sứ Trung Hoa trong phòng khách của bà Florecen “trung thành”, bà Marple nói với Chánh thanh tra Craddock:
- Tôi rất mừng là ông được giao vụ án này.
- Ngay khi nhận được thư bà, - viên chánh thanh tra đáp. - Tôi đã liên hệ với ông cục trưởng. Đúng lúc ấy thì cục trưởng được cảnh sát thành phố Brackhampton báo cáo về vụ án mạng, nên sếp chăm chú nghe tôi trình bày mọi chi tiết bà cho biết. Hẳn là cha tôi đã nói với sếp về bà…
- Huân tước Henry tốt quá! - bà Marple khẽ nói.
- Tôi có thể kể bà nghe nhận định của sếp tôi được không?
- Tất nhiên rồi, nếu làm thế không vi phạm nguyên tắc của các ông.
- Không đâu. Vậy thì thế này. Thoạt đầu sếp đã nghĩ, có thể đây là chuyện hoang đường của hai bà già giàu trí tưởng tượng. Nhưng khi nghe chi tiết thì sếp gạt ngay cái ý nghĩa kia đi, và bảo tôi: Cậu quen một trong mấy bà ấy, vậy tôi giao cho cậu vụ án này. Thế là tôi về đây và hiện đang ngồi trước mặt bà.
- Vậy ông đã biết những gì về vụ án này?
- Tôi đã đọc biên bản lời khai của bà Gillicuddy với cảnh sát thị trấn Mary Mead, đã nghe thuật lại lời bà ấy nói với nhân viên soát vé trên tàu, đã đọc cả lá thư bà ấy gửi cho viên trưởng ga Brackhampton báo sự việc bà ấy nhìn thấy. Tôi còn đọc báo cáo của văn phòng hoả xa và các nhân viên thanh tra đường sắt trong khu vực. Nhưng tất cả những thứ đó không thể bằng con mắt tinh tường của bà, thưa bà Marple. Bà có cặp mắt của một nhà ngoại cảm.
- Không phải đâu, tôi chỉ có một chủ bài quan trọng: bà Gillicuddy ấy là bạn tôi, và ông nên nhớ bà ấy không hề có kiểu tưởng tượng hoang đường như các bà già khác.
- Tôi tin là như thế. Nhưng rất tiếc là bà Gillicuddy đã đi Ceylan. Tuy nhiên tôi đã bố trí người thẩm vấn bà ấy bên Ceylan.
Một phút im lặng.
Bà Marple nói tiếp:
- Cách suy luận của tôi không có gì độc đáo đâu. Hẳn ông còn nhớ câu chuyện của văn hào Mark Twain về cậu bé đi tìm con ngựa lạc chứ? Cậu ta làm thế nào?… Cậu ta chỉ tự hỏi, nếu cậu ta là con ngựa đó thì cậu ta sẽ đi đâu… và thế là cậu ta tìm thấy con ngựa đúng chỗ cậu ta dự đoán!
- Có nghĩa bà đã tự đặt bà vào địa vị hung thủ, trong trường hợp này là một kẻ sát nhân ghê tởm? - Chánh thanh tra Craddock ngạc nhiên, mắt nhìn chằm chằm vào thân hình bé nhỏ, yếu đuối, với mái tóc trắng phau của bà già, - bà quả là một khối óc phi thường, một tâm hồn sâu thẳm!
- Đứa cháu Raymond của tôi cũng hay nói tôi như vậy, - bà Marple đáp. - Nhưng thôi, ta tạm gác chuyện ấy lại, bây giờ ông thử đặt ông vào địa vị hung thủ, xem hắn náu ở đâu?
Viên chánh thanh tra lắc đầu:
- Tôi rất muốn làm theo, nhưng khó quá! Tôi chỉ nghĩ hung thủ phải là kẻ biết tường tận dinh cơ Rutherford Hall.
- Đúng thế! Nhưng nếu chỉ như thế ta sẽ có vô vàn khả năng. Biết bao nhiêu người đã biết căn nhà “bảo tàng” ấy: các binh sĩ trong đơn vị phòng không, rồi thành viên Hội Bảo trợ người cao tuổi… Họ đều biết có cỗ quan tài cổ kia và biết chìa khoá căn nhà treo chỗ nào. Chưa kể những người tuy chưa vào đó nhưng được nghe kể lại… Và số đông đảo con người ấy đều có thể thấy rằng đó là nơi giấu tử thi tốt nhất.
- Bà nói rất đúng, thưa bà Marple.
Viên chánh thanh tra thở dài nói tiếp:
- Khó quá. Mà chưa xác định được nhân thân nạn nhân, chúng tôi còn giậm chân tại chỗ, không sao tiến lên được!
- Tất nhiên điều này vô cùng khó…
- Cuối cùng chúng ta sẽ tìm ra thôi! Chúng tôi đã thẩm tra lại tất cả những vụ phụ nữ mất tích nào có thể dính dáng đến vụ án này. Không kết quả! Bác sĩ pháp y cho rằng nạn nhân khoảng ba mươi, ba mươi nhăm tuổi, khoẻ mạnh, có thể đã có chồng và có ít nhất một đứa con. Tấm áo măng tô bằng lông thú của chị ta thuộc loại đắt tiền, được mua tại một hiệu thời trang tại London, nhưng khi đưa chủ hiệu xem ảnh nạn nhân, ông ta không nhận ra. Các quần áo khác trên người chị ta là hãng nước ngoài, phần lớn mua tại Paris. Chúng tôi đã liên hệ với cảnh sát Paris và hiện nay họ đang điều tra tiếp. Sớm hay muộn sẽ có một người nào đó báo cho họ biết thân nhân, hoặc người thuê nhà bị mất tích. Tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian, tôi tin là như thế!
- Hộp phấn không giúp gì được các ông sao?
- Rất tiếc là không. Đó là loại phấn thông thường được bày bán hàng trăm chiếc trên phố Rivoli. Nhưng hôm ấy, lẽ ra bà nên đưa ngay hộp phấn đó cho cảnh sát, hoặc trao lại cho cô Lucy Eyelessbarrow là người đã tìm thấy nó.
- Một phụ nữ tập chơi golf tình cờ nhặt được một vật nhỏ vô giá trị trong bụi cây, ông nghĩ nên báo cảnh sát ngay hay sao? Hôm đó tôi cho rằng trước hết phải tìm thấy tử thi đã.
Viên chánh thanh tra sửng sốt:
- Ra bà đã đoán trước là sẽ tìm thấy tử thi?
- Đúng thế. Cô Lucy Eyelessbarrow là người rất thông minh, ông đã thấy đấy!
- Tất nhiên rồi, thậm chí cô ấy còn làm tôi sợ nữa đấy. Một phụ nữ năng động, tháo vát, đến mức ít đàn ông nào dám kết hôn…
- Điều đó thì tôi chưa đồng ý với ông đâu, ông Craddock. Tất nhiên phải là một người đàn ông hiểu biết và quý cô ấy. Nhưng cách xử sự của Lucy ở Rutherford Hall ra sao?
- Tuyệt vời! Toàn thể gia đình nghe theo cô ấy răm rắp. Tôi dám nói thậm chí cả chim chóc cũng ngoan ngoãn đậu xuống bàn tay cô ấy để ăn. Tôi xin nói thêm với bà, hiện nay gia đình Crackenthorpe chưa ai biết nhiệm vụ bà giao cho cô Lucy Eyelessbarrow, còn chúng tôi thì tuyệt đối giữ kín chuyện đó.
- Tốt lắm! Nhưng đến bây giờ thì tôi không yêu cầu Lucy làm thêm gì nữa. Cô ấy đã hoàn thành nhiệm vụ tôi giao.
- Và cô Lucy Eyelessbarrow có thể xin nghỉ việc nếu cô ấy muốn?
- Đúng thế.
- Nhưng cô ấy vẫn ở lại. Tại sao?
- Tôi chưa biết. Có thể cô ấy quan tâm đến…
- … vụ án hay… gia đình Crackenthorpe?
- Không loại trừ cả hai cùng kết hợp!
Viên tranh tra Craddock nhìn thẳng vào mắt bà cụ:
- Bà có phỏng đoán nào xung quanh vấn đề ấy không?
- Tôi ấy à? Không.
- Tôi tha thiết muốn được bà cho biết.
Bà Marple làm một cử chỉ từ chối.
- Nếu vậy, - viên chánh thanh tra nói tiếp - tôi đành phải tự mình tiến hành điều tra thôi. Công việc của người cảnh sát nhiều khi rất nhàm chán.
Sau một lát, ông ta nói thêm:
- Vậy là bà không gợi cho tôi được điều gì thêm nữa?
Bà Marple suy nghĩ một lúc lâu, rồi đột nhiên bà ngẩng đầu lên, nói rất khẽ:
- Tôi nghĩ đến những tốp đi biểu diễn nghệ thuật lưu động, các nghệ sĩ này thường đi xa nhà trong một thời gian dài và ít khi họ chịu trao đổi thư từ với gia đình. Nếu tử thi kia của một thành viên trong một đội nghệ thuật lưu động kiểu như vậy thì còn lâu gia đình mới biết tin chị ta mất tích để đi báo cảnh sát.
Viên chánh thanh tra giật mình:
- Chao ôi, quả là điều gợi ý của bà hết sức quý giá! Chúng tôi sẽ cố khai thác lời gợi ý đó. Nhưng sao bà cười?
- Tôi đang nghĩ đến thái độ của bà Gillicuddy bạn tôi khi bà ấy biết tin đã tìm thấy tử thi.
- Đấy nhé! - Bà Gillicuddy reo lên.
Bà già đáng kính kia không tìm ra lời để thể hiện nỗi ngạc nhiên, và bà chăm chú nhìn viên sĩ quan cảnh sát trẻ người Ceylan đang vui vẻ bầy ra bàn rất nhiều tấm ảnh chụp.
Khi đã bình tĩnh lại được, bà nói:
- Chính là chị ta rồi! - bà nói bằng giọng khẳng định quen thuộc. - Tội nghiệp! Tôi rất mừng thấy tử thi chị ấy đã được tìm ra. Cậu biết không, khi tôi kể chuyện này ra, không ai chịu tin tôi, cảnh sát cũng như quan chức đường sắt. Họ còn bảo là tôi hoang tưởng nữa chứ, cậu nghĩ có bực không? Bây giờ thì không ai dám bảo là tôi đã không làm tròn bổn phận!
Viên sĩ quan trẻ nghiêng đầu tỏ vẻ tán thành.
Bà Gillicicuddy nói tiếp:
- Vậy là tử thi đã được tìm thấy…
- …trong một căn nhà cũ kỹ, xây trong khu dinh cơ Rutherford Hall, nằm ở ngoại vi thành phố Brackhampton.
- Chưa bao giờ tôi nghe nói đến cái dinh cơ ấy. Nhưng do đâu hung thủ lại chọn nơi ấy để giấu tử thi?
Trong lúc viên sĩ quan Ceylan chưa tìm được câu trả lời, bà Gillicuddy nói thêm:
- Tôi đoán bà Marple bạn tôi đã vào cuộc, và đã được người ta tin cậy.
Viên cảnh sát trẻ liếc nhìn sổ tay:
- Người ta tìm ra tử thi là một phụ nữ trẻ, tên là Lucy Eyelessbarrow.
- Tôi hoàn toàn không biết chị ấy! Nhưng tôi cam đoan có bàn tay của bà Marple bạn tôi!
Viên sĩ quan trẻ nhún vai - chuyện đó có quan trọng gì đối với anh ta đâu? Anh ta đưa ra câu hỏi chính yếu:
- Bà khẳng định đó là người phụ nữ bà nhìn thấy trong toa tàu…
- …đúng lúc chị ta bị một gã đàn ông bóp cổ?… Đúng thế, tôi tin chính là chị ta!
- Còn gã đàn ông, hình dạng ra sao, thưa bà?
- Cao lớn… tóc đen…
- Còn gì nữa ạ?
- Tôi rất khó tả thêm chi tiết: hắn quay lưng về phía tôi.
- Nhưng nếu bây giờ gặp, liệu bà có thể nhận ra y được không?
- Không, bởi tôi không nhìn thấy mặt gã.
- Bà có đoán được tuổi của y không?
Bà Gillicuddy suy nghĩ rồi đáp:
- Tôi chỉ có thể đoán gã không còn trẻ lắm. Khoảng giữa ba mươi nhăm và bốn mươi. Thật ra lúc ấy tôi chú ý đến người phụ nữ đang bị bóp cổ nhiều hơn, nhất là chị ta lại quay mặt về phía tôi. Khi bị bóp cổ, mặt chị ta trương lên, bị xung huyết tím ngắt, lưỡi thè ra, sau đó thì mặt tái nhợt và chị ta khuỵu xuống… Đến bây giờ, nhiều đêm tôi vẫn còn mơ thấy cảnh tượng đó!
- Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Viên cảnh sát trẻ nói và gấp cuốn sổ tay, - bao giờ bà về Anh ạ?
- Phải sau ba tuần lễ… Nhưng có cần tôi về sớm hơn không?
- Không đâu, thưa bà. Trừ khi người ta bắt được kẻ tình nghi…
Hai ngày sau, bà Gillicuddy nhận được thư của bà Marple. Chữ viết nhỏ li ti và rất nhiều đoạn gạch đít. Tuy nhiên bà đã quen với chữ viết của bạn cho nên đọc được dễ dàng. Đọc xong, bà tự buông thả cho nỗi vui mừng, và có lẽ cả niềm tự hào.
Bà Gillicuddy thầm nghĩ: “Vậy là đôi bạn già chúng tôi đã cho các người thấy chúng tôi đâu phải là những kẻ bỏ đi!”.
Xem rất nhanh, Emma lắc đầu:
- Không phải của tôi.
- Vậy tiểu thư biết nó của ai không?
- Hoàn toàn không.
- Thôi được, chúng tôi không giữ tiểu thư thêm nữa. Tạm thời hãy thế đã. Xin cảm ơn, tiểu thư Crackenthorpe.
Emma mỉm cười đi ra, và Chánh thanh tra Craddock chưa kịp nói hết câu thì cửa bật mở, cụ Luther Crackenthorpe hiện ra trên ngưỡng cửa, trút cơn giận dữ lên đầu hai nhà chức trách:
- Các người không còn biết phép lịch sự nào nữa hay sao? Cục Điều tra xông vào cái nhà này mà không thèm thưa với chủ nhân tòa nhà một lời! Ai là chủ nhân ở đây? Tôi hỏi hai ông: Ai? Hai ông trả lời đi!
Chánh thanh tra Craddock vội đứng lên, nhã nhặn nói:
- Tất nhiên là cụ rồi, thưa cụ Crackenthorpe! Nhưng tôi thấy cụ đã kể hết những điều cụ biết với ông bạn đồng nghiệp của tôi đây và do thấy sức khoẻ cụ không được tốt, tôi không muốn làm phiền cụ. Bác sĩ Quimper nói với chúng tôi rằng…
- Đúng là tôi không khoẻ như trâu! Có điều Quimper tuy là bác sĩ giỏi nhưng anh ta giống như một bà già, chỉ muốn tôi nằm yên. Anh ta rất máy móc. Hôm trước lễ Noel, anh ta thấy tôi đau bụng… chỉ có vậy thôi! Đúng là tôi không được khoẻ, nhưng đâu đến nỗi không giúp được các ông? Một vụ án mạng xảy ra trong nhà tôi, cụ thể là một toà nhà xây theo kiểu từ thời Nữ hoàng Elizabeth! Nhưng thôi, ta không bàn đến chuyện kiến trúc nữa, phải không? Vậy kế hoạch của các ông định thế nào?
- Thưa cụ, hiện còn quá sớm để nói đến chuyện kế hoạch. Chúng tôi đang cố tìm nhân thân của nạn nhân.
- Chị ta đến nhà tôi để làm gì phải không? - cụ già phản đối - Hay các ông cho rằng chị ta tằng tịu với một trong những đứa con của tôi? Nếu như vậy thì xin các ông loại thằng Harold ra khỏi phạm vi nghi vấn. Còn thằng Cedric thì nó thiết sống gì tại đất nước quê hương? Cho nên có thể thấy ngay rằng đó là một trong số nhân tình của thằng Alfred. Do thấy chị ta tìm cách gặp nó, nên một thằng cha nhân tình khác của chị ta đã theo dõi và giết chị ta vì ghen… Tôi nhận định như thế, các ông thấy sao?
Chánh thanh tra Craddock lựa lời xã giao nói rằng nhận định của cụ có phần có lý, nhưng ông nói thêm rằng Alfred đã khai là không quen biết nạn nhân.
- Hừm! - cụ già kêu lên. - Nó sợ, có vậy thôi! Xưa nay nó vẫn là thằng hèn, thằng Alfred ấy! Nó nói dối như cuội. Mà tất cả đám con tôi, không đứa nào tôi tin được, chúng đều là những con diều hâu chỉ mong cha chúng chết cho mau. Nếu tôi không giúp ích gì được cho các ông, tôi xin lui. Tôi cần phải nằm nghỉ.
Cụ già đi xong, thanh tra Bacon quay sang nhìn đồng nghiệp ở Cục Điều tra:
- Một trong số nhân tình của Alfred? Tôi cho rằng ông cụ bịa ra tất cả những chuyện đó.
Bacon ngập ngừng một chút rồi nói thêm:
- Theo tôi, ta cần loại Alfred ra khỏi diện nghi vấn. Tất nhiên cậu ta là dân lý tài, chỉ nghĩ đến tiền, nhưng cậu ta không có chút biểu hiện nào của một tên giết người. Tôi đang nghĩ về viên cựu phi công…
- Bryan Eastley?
- Chính ông ta. Bryan đã kể tôi nghe về hai lần ông ta gây chuyện với đám phi công quân sự. Loại người ấy, do sớm tiếp cận với cuộc sống mạo hiểm, rất dễ làm chuyện này chuyện nọ, vì họ cho rằng nếu cuộc sống bình thản thì tẻ quá. Rất có thể Bryan dan díu với một người phụ nữ, và khi thấy cần thủ tiêu chị ta…
Nhưng rồi Bacon nói thêm:
- Có điều tại sao anh ta giấu tử thi vào cỗ quan tài cổ của bố vợ?
Chánh thanh tra Craddock gật gù, nhưng không nói gì cụ thể. Bacon gợi ý nên về thành phố, vì đã đến giờ bữa ăn phụ buổi chiều. Nhưng Chánh thanh tra Craddock nói ông cần đi gặp một người quen cũ .
Ngồi giữa những đồ trang trí bằng men sứ Trung Hoa trong phòng khách của bà Florecen “trung thành”, bà Marple nói với Chánh thanh tra Craddock:
- Tôi rất mừng là ông được giao vụ án này.
- Ngay khi nhận được thư bà, - viên chánh thanh tra đáp. - Tôi đã liên hệ với ông cục trưởng. Đúng lúc ấy thì cục trưởng được cảnh sát thành phố Brackhampton báo cáo về vụ án mạng, nên sếp chăm chú nghe tôi trình bày mọi chi tiết bà cho biết. Hẳn là cha tôi đã nói với sếp về bà…
- Huân tước Henry tốt quá! - bà Marple khẽ nói.
- Tôi có thể kể bà nghe nhận định của sếp tôi được không?
- Tất nhiên rồi, nếu làm thế không vi phạm nguyên tắc của các ông.
- Không đâu. Vậy thì thế này. Thoạt đầu sếp đã nghĩ, có thể đây là chuyện hoang đường của hai bà già giàu trí tưởng tượng. Nhưng khi nghe chi tiết thì sếp gạt ngay cái ý nghĩa kia đi, và bảo tôi: Cậu quen một trong mấy bà ấy, vậy tôi giao cho cậu vụ án này. Thế là tôi về đây và hiện đang ngồi trước mặt bà.
- Vậy ông đã biết những gì về vụ án này?
- Tôi đã đọc biên bản lời khai của bà Gillicuddy với cảnh sát thị trấn Mary Mead, đã nghe thuật lại lời bà ấy nói với nhân viên soát vé trên tàu, đã đọc cả lá thư bà ấy gửi cho viên trưởng ga Brackhampton báo sự việc bà ấy nhìn thấy. Tôi còn đọc báo cáo của văn phòng hoả xa và các nhân viên thanh tra đường sắt trong khu vực. Nhưng tất cả những thứ đó không thể bằng con mắt tinh tường của bà, thưa bà Marple. Bà có cặp mắt của một nhà ngoại cảm.
- Không phải đâu, tôi chỉ có một chủ bài quan trọng: bà Gillicuddy ấy là bạn tôi, và ông nên nhớ bà ấy không hề có kiểu tưởng tượng hoang đường như các bà già khác.
- Tôi tin là như thế. Nhưng rất tiếc là bà Gillicuddy đã đi Ceylan. Tuy nhiên tôi đã bố trí người thẩm vấn bà ấy bên Ceylan.
Một phút im lặng.
Bà Marple nói tiếp:
- Cách suy luận của tôi không có gì độc đáo đâu. Hẳn ông còn nhớ câu chuyện của văn hào Mark Twain về cậu bé đi tìm con ngựa lạc chứ? Cậu ta làm thế nào?… Cậu ta chỉ tự hỏi, nếu cậu ta là con ngựa đó thì cậu ta sẽ đi đâu… và thế là cậu ta tìm thấy con ngựa đúng chỗ cậu ta dự đoán!
- Có nghĩa bà đã tự đặt bà vào địa vị hung thủ, trong trường hợp này là một kẻ sát nhân ghê tởm? - Chánh thanh tra Craddock ngạc nhiên, mắt nhìn chằm chằm vào thân hình bé nhỏ, yếu đuối, với mái tóc trắng phau của bà già, - bà quả là một khối óc phi thường, một tâm hồn sâu thẳm!
- Đứa cháu Raymond của tôi cũng hay nói tôi như vậy, - bà Marple đáp. - Nhưng thôi, ta tạm gác chuyện ấy lại, bây giờ ông thử đặt ông vào địa vị hung thủ, xem hắn náu ở đâu?
Viên chánh thanh tra lắc đầu:
- Tôi rất muốn làm theo, nhưng khó quá! Tôi chỉ nghĩ hung thủ phải là kẻ biết tường tận dinh cơ Rutherford Hall.
- Đúng thế! Nhưng nếu chỉ như thế ta sẽ có vô vàn khả năng. Biết bao nhiêu người đã biết căn nhà “bảo tàng” ấy: các binh sĩ trong đơn vị phòng không, rồi thành viên Hội Bảo trợ người cao tuổi… Họ đều biết có cỗ quan tài cổ kia và biết chìa khoá căn nhà treo chỗ nào. Chưa kể những người tuy chưa vào đó nhưng được nghe kể lại… Và số đông đảo con người ấy đều có thể thấy rằng đó là nơi giấu tử thi tốt nhất.
- Bà nói rất đúng, thưa bà Marple.
Viên chánh thanh tra thở dài nói tiếp:
- Khó quá. Mà chưa xác định được nhân thân nạn nhân, chúng tôi còn giậm chân tại chỗ, không sao tiến lên được!
- Tất nhiên điều này vô cùng khó…
- Cuối cùng chúng ta sẽ tìm ra thôi! Chúng tôi đã thẩm tra lại tất cả những vụ phụ nữ mất tích nào có thể dính dáng đến vụ án này. Không kết quả! Bác sĩ pháp y cho rằng nạn nhân khoảng ba mươi, ba mươi nhăm tuổi, khoẻ mạnh, có thể đã có chồng và có ít nhất một đứa con. Tấm áo măng tô bằng lông thú của chị ta thuộc loại đắt tiền, được mua tại một hiệu thời trang tại London, nhưng khi đưa chủ hiệu xem ảnh nạn nhân, ông ta không nhận ra. Các quần áo khác trên người chị ta là hãng nước ngoài, phần lớn mua tại Paris. Chúng tôi đã liên hệ với cảnh sát Paris và hiện nay họ đang điều tra tiếp. Sớm hay muộn sẽ có một người nào đó báo cho họ biết thân nhân, hoặc người thuê nhà bị mất tích. Tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian, tôi tin là như thế!
- Hộp phấn không giúp gì được các ông sao?
- Rất tiếc là không. Đó là loại phấn thông thường được bày bán hàng trăm chiếc trên phố Rivoli. Nhưng hôm ấy, lẽ ra bà nên đưa ngay hộp phấn đó cho cảnh sát, hoặc trao lại cho cô Lucy Eyelessbarrow là người đã tìm thấy nó.
- Một phụ nữ tập chơi golf tình cờ nhặt được một vật nhỏ vô giá trị trong bụi cây, ông nghĩ nên báo cảnh sát ngay hay sao? Hôm đó tôi cho rằng trước hết phải tìm thấy tử thi đã.
Viên chánh thanh tra sửng sốt:
- Ra bà đã đoán trước là sẽ tìm thấy tử thi?
- Đúng thế. Cô Lucy Eyelessbarrow là người rất thông minh, ông đã thấy đấy!
- Tất nhiên rồi, thậm chí cô ấy còn làm tôi sợ nữa đấy. Một phụ nữ năng động, tháo vát, đến mức ít đàn ông nào dám kết hôn…
- Điều đó thì tôi chưa đồng ý với ông đâu, ông Craddock. Tất nhiên phải là một người đàn ông hiểu biết và quý cô ấy. Nhưng cách xử sự của Lucy ở Rutherford Hall ra sao?
- Tuyệt vời! Toàn thể gia đình nghe theo cô ấy răm rắp. Tôi dám nói thậm chí cả chim chóc cũng ngoan ngoãn đậu xuống bàn tay cô ấy để ăn. Tôi xin nói thêm với bà, hiện nay gia đình Crackenthorpe chưa ai biết nhiệm vụ bà giao cho cô Lucy Eyelessbarrow, còn chúng tôi thì tuyệt đối giữ kín chuyện đó.
- Tốt lắm! Nhưng đến bây giờ thì tôi không yêu cầu Lucy làm thêm gì nữa. Cô ấy đã hoàn thành nhiệm vụ tôi giao.
- Và cô Lucy Eyelessbarrow có thể xin nghỉ việc nếu cô ấy muốn?
- Đúng thế.
- Nhưng cô ấy vẫn ở lại. Tại sao?
- Tôi chưa biết. Có thể cô ấy quan tâm đến…
- … vụ án hay… gia đình Crackenthorpe?
- Không loại trừ cả hai cùng kết hợp!
Viên tranh tra Craddock nhìn thẳng vào mắt bà cụ:
- Bà có phỏng đoán nào xung quanh vấn đề ấy không?
- Tôi ấy à? Không.
- Tôi tha thiết muốn được bà cho biết.
Bà Marple làm một cử chỉ từ chối.
- Nếu vậy, - viên chánh thanh tra nói tiếp - tôi đành phải tự mình tiến hành điều tra thôi. Công việc của người cảnh sát nhiều khi rất nhàm chán.
Sau một lát, ông ta nói thêm:
- Vậy là bà không gợi cho tôi được điều gì thêm nữa?
Bà Marple suy nghĩ một lúc lâu, rồi đột nhiên bà ngẩng đầu lên, nói rất khẽ:
- Tôi nghĩ đến những tốp đi biểu diễn nghệ thuật lưu động, các nghệ sĩ này thường đi xa nhà trong một thời gian dài và ít khi họ chịu trao đổi thư từ với gia đình. Nếu tử thi kia của một thành viên trong một đội nghệ thuật lưu động kiểu như vậy thì còn lâu gia đình mới biết tin chị ta mất tích để đi báo cảnh sát.
Viên chánh thanh tra giật mình:
- Chao ôi, quả là điều gợi ý của bà hết sức quý giá! Chúng tôi sẽ cố khai thác lời gợi ý đó. Nhưng sao bà cười?
- Tôi đang nghĩ đến thái độ của bà Gillicuddy bạn tôi khi bà ấy biết tin đã tìm thấy tử thi.
- Đấy nhé! - Bà Gillicuddy reo lên.
Bà già đáng kính kia không tìm ra lời để thể hiện nỗi ngạc nhiên, và bà chăm chú nhìn viên sĩ quan cảnh sát trẻ người Ceylan đang vui vẻ bầy ra bàn rất nhiều tấm ảnh chụp.
Khi đã bình tĩnh lại được, bà nói:
- Chính là chị ta rồi! - bà nói bằng giọng khẳng định quen thuộc. - Tội nghiệp! Tôi rất mừng thấy tử thi chị ấy đã được tìm ra. Cậu biết không, khi tôi kể chuyện này ra, không ai chịu tin tôi, cảnh sát cũng như quan chức đường sắt. Họ còn bảo là tôi hoang tưởng nữa chứ, cậu nghĩ có bực không? Bây giờ thì không ai dám bảo là tôi đã không làm tròn bổn phận!
Viên sĩ quan trẻ nghiêng đầu tỏ vẻ tán thành.
Bà Gillicicuddy nói tiếp:
- Vậy là tử thi đã được tìm thấy…
- …trong một căn nhà cũ kỹ, xây trong khu dinh cơ Rutherford Hall, nằm ở ngoại vi thành phố Brackhampton.
- Chưa bao giờ tôi nghe nói đến cái dinh cơ ấy. Nhưng do đâu hung thủ lại chọn nơi ấy để giấu tử thi?
Trong lúc viên sĩ quan Ceylan chưa tìm được câu trả lời, bà Gillicuddy nói thêm:
- Tôi đoán bà Marple bạn tôi đã vào cuộc, và đã được người ta tin cậy.
Viên cảnh sát trẻ liếc nhìn sổ tay:
- Người ta tìm ra tử thi là một phụ nữ trẻ, tên là Lucy Eyelessbarrow.
- Tôi hoàn toàn không biết chị ấy! Nhưng tôi cam đoan có bàn tay của bà Marple bạn tôi!
Viên sĩ quan trẻ nhún vai - chuyện đó có quan trọng gì đối với anh ta đâu? Anh ta đưa ra câu hỏi chính yếu:
- Bà khẳng định đó là người phụ nữ bà nhìn thấy trong toa tàu…
- …đúng lúc chị ta bị một gã đàn ông bóp cổ?… Đúng thế, tôi tin chính là chị ta!
- Còn gã đàn ông, hình dạng ra sao, thưa bà?
- Cao lớn… tóc đen…
- Còn gì nữa ạ?
- Tôi rất khó tả thêm chi tiết: hắn quay lưng về phía tôi.
- Nhưng nếu bây giờ gặp, liệu bà có thể nhận ra y được không?
- Không, bởi tôi không nhìn thấy mặt gã.
- Bà có đoán được tuổi của y không?
Bà Gillicuddy suy nghĩ rồi đáp:
- Tôi chỉ có thể đoán gã không còn trẻ lắm. Khoảng giữa ba mươi nhăm và bốn mươi. Thật ra lúc ấy tôi chú ý đến người phụ nữ đang bị bóp cổ nhiều hơn, nhất là chị ta lại quay mặt về phía tôi. Khi bị bóp cổ, mặt chị ta trương lên, bị xung huyết tím ngắt, lưỡi thè ra, sau đó thì mặt tái nhợt và chị ta khuỵu xuống… Đến bây giờ, nhiều đêm tôi vẫn còn mơ thấy cảnh tượng đó!
- Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Viên cảnh sát trẻ nói và gấp cuốn sổ tay, - bao giờ bà về Anh ạ?
- Phải sau ba tuần lễ… Nhưng có cần tôi về sớm hơn không?
- Không đâu, thưa bà. Trừ khi người ta bắt được kẻ tình nghi…
Hai ngày sau, bà Gillicuddy nhận được thư của bà Marple. Chữ viết nhỏ li ti và rất nhiều đoạn gạch đít. Tuy nhiên bà đã quen với chữ viết của bạn cho nên đọc được dễ dàng. Đọc xong, bà tự buông thả cho nỗi vui mừng, và có lẽ cả niềm tự hào.
Bà Gillicuddy thầm nghĩ: “Vậy là đôi bạn già chúng tôi đã cho các người thấy chúng tôi đâu phải là những kẻ bỏ đi!”.
- Tiểu thư nhận ra vật này không? - Chánh thanh tra Craddock hỏi.
Xem rất nhanh, Emma lắc đầu:
- Không phải của tôi.
- Vậy tiểu thư biết nó của ai không?
- Hoàn toàn không.
- Thôi được, chúng tôi không giữ tiểu thư thêm nữa. Tạm thời hãy thế đã. Xin cảm ơn, tiểu thư Crackenthorpe.
Emma mỉm cười đi ra, và Chánh thanh tra Craddock chưa kịp nói hết câu thì cửa bật mở, cụ Luther Crackenthorpe hiện ra trên ngưỡng cửa, trút cơn giận dữ lên đầu hai nhà chức trách:
- Các người không còn biết phép lịch sự nào nữa hay sao? Cục Điều tra xông vào cái nhà này mà không thèm thưa với chủ nhân tòa nhà một lời! Ai là chủ nhân ở đây? Tôi hỏi hai ông: Ai? Hai ông trả lời đi!
Chánh thanh tra Craddock vội đứng lên, nhã nhặn nói:
- Tất nhiên là cụ rồi, thưa cụ Crackenthorpe! Nhưng tôi thấy cụ đã kể hết những điều cụ biết với ông bạn đồng nghiệp của tôi đây và do thấy sức khoẻ cụ không được tốt, tôi không muốn làm phiền cụ. Bác sĩ Quimper nói với chúng tôi rằng…
- Đúng là tôi không khoẻ như trâu! Có điều Quimper tuy là bác sĩ giỏi nhưng anh ta giống như một bà già, chỉ muốn tôi nằm yên. Anh ta rất máy móc. Hôm trước lễ Noel, anh ta thấy tôi đau bụng… chỉ có vậy thôi! Đúng là tôi không được khoẻ, nhưng đâu đến nỗi không giúp được các ông? Một vụ án mạng xảy ra trong nhà tôi, cụ thể là một toà nhà xây theo kiểu từ thời Nữ hoàng Elizabeth! Nhưng thôi, ta không bàn đến chuyện kiến trúc nữa, phải không? Vậy kế hoạch của các ông định thế nào?
- Thưa cụ, hiện còn quá sớm để nói đến chuyện kế hoạch. Chúng tôi đang cố tìm nhân thân của nạn nhân.
- Chị ta đến nhà tôi để làm gì phải không? - cụ già phản đối - Hay các ông cho rằng chị ta tằng tịu với một trong những đứa con của tôi? Nếu như vậy thì xin các ông loại thằng Harold ra khỏi phạm vi nghi vấn. Còn thằng Cedric thì nó thiết sống gì tại đất nước quê hương? Cho nên có thể thấy ngay rằng đó là một trong số nhân tình của thằng Alfred. Do thấy chị ta tìm cách gặp nó, nên một thằng cha nhân tình khác của chị ta đã theo dõi và giết chị ta vì ghen… Tôi nhận định như thế, các ông thấy sao?
Chánh thanh tra Craddock lựa lời xã giao nói rằng nhận định của cụ có phần có lý, nhưng ông nói thêm rằng Alfred đã khai là không quen biết nạn nhân.
- Hừm! - cụ già kêu lên. - Nó sợ, có vậy thôi! Xưa nay nó vẫn là thằng hèn, thằng Alfred ấy! Nó nói dối như cuội. Mà tất cả đám con tôi, không đứa nào tôi tin được, chúng đều là những con diều hâu chỉ mong cha chúng chết cho mau. Nếu tôi không giúp ích gì được cho các ông, tôi xin lui. Tôi cần phải nằm nghỉ.
Cụ già đi xong, thanh tra Bacon quay sang nhìn đồng nghiệp ở Cục Điều tra:
- Một trong số nhân tình của Alfred? Tôi cho rằng ông cụ bịa ra tất cả những chuyện đó.
Bacon ngập ngừng một chút rồi nói thêm:
- Theo tôi, ta cần loại Alfred ra khỏi diện nghi vấn. Tất nhiên cậu ta là dân lý tài, chỉ nghĩ đến tiền, nhưng cậu ta không có chút biểu hiện nào của một tên giết người. Tôi đang nghĩ về viên cựu phi công…
- Bryan Eastley?
- Chính ông ta. Bryan đã kể tôi nghe về hai lần ông ta gây chuyện với đám phi công quân sự. Loại người ấy, do sớm tiếp cận với cuộc sống mạo hiểm, rất dễ làm chuyện này chuyện nọ, vì họ cho rằng nếu cuộc sống bình thản thì tẻ quá. Rất có thể Bryan dan díu với một người phụ nữ, và khi thấy cần thủ tiêu chị ta…
Nhưng rồi Bacon nói thêm:
- Có điều tại sao anh ta giấu tử thi vào cỗ quan tài cổ của bố vợ?
Chánh thanh tra Craddock gật gù, nhưng không nói gì cụ thể. Bacon gợi ý nên về thành phố, vì đã đến giờ bữa ăn phụ buổi chiều. Nhưng Chánh thanh tra Craddock nói ông cần đi gặp một người quen cũ .
Ngồi giữa những đồ trang trí bằng men sứ Trung Hoa trong phòng khách của bà Florecen “trung thành”, bà Marple nói với Chánh thanh tra Craddock:
- Tôi rất mừng là ông được giao vụ án này.
- Ngay khi nhận được thư bà, - viên chánh thanh tra đáp. - Tôi đã liên hệ với ông cục trưởng. Đúng lúc ấy thì cục trưởng được cảnh sát thành phố Brackhampton báo cáo về vụ án mạng, nên sếp chăm chú nghe tôi trình bày mọi chi tiết bà cho biết. Hẳn là cha tôi đã nói với sếp về bà…
- Huân tước Henry tốt quá! - bà Marple khẽ nói.
- Tôi có thể kể bà nghe nhận định của sếp tôi được không?
- Tất nhiên rồi, nếu làm thế không vi phạm nguyên tắc của các ông.
- Không đâu. Vậy thì thế này. Thoạt đầu sếp đã nghĩ, có thể đây là chuyện hoang đường của hai bà già giàu trí tưởng tượng. Nhưng khi nghe chi tiết thì sếp gạt ngay cái ý nghĩa kia đi, và bảo tôi: Cậu quen một trong mấy bà ấy, vậy tôi giao cho cậu vụ án này. Thế là tôi về đây và hiện đang ngồi trước mặt bà.
- Vậy ông đã biết những gì về vụ án này?
- Tôi đã đọc biên bản lời khai của bà Gillicuddy với cảnh sát thị trấn Mary Mead, đã nghe thuật lại lời bà ấy nói với nhân viên soát vé trên tàu, đã đọc cả lá thư bà ấy gửi cho viên trưởng ga Brackhampton báo sự việc bà ấy nhìn thấy. Tôi còn đọc báo cáo của văn phòng hoả xa và các nhân viên thanh tra đường sắt trong khu vực. Nhưng tất cả những thứ đó không thể bằng con mắt tinh tường của bà, thưa bà Marple. Bà có cặp mắt của một nhà ngoại cảm.
- Không phải đâu, tôi chỉ có một chủ bài quan trọng: bà Gillicuddy ấy là bạn tôi, và ông nên nhớ bà ấy không hề có kiểu tưởng tượng hoang đường như các bà già khác.
- Tôi tin là như thế. Nhưng rất tiếc là bà Gillicuddy đã đi Ceylan. Tuy nhiên tôi đã bố trí người thẩm vấn bà ấy bên Ceylan.
Một phút im lặng.
Bà Marple nói tiếp:
- Cách suy luận của tôi không có gì độc đáo đâu. Hẳn ông còn nhớ câu chuyện của văn hào Mark Twain về cậu bé đi tìm con ngựa lạc chứ? Cậu ta làm thế nào?… Cậu ta chỉ tự hỏi, nếu cậu ta là con ngựa đó thì cậu ta sẽ đi đâu… và thế là cậu ta tìm thấy con ngựa đúng chỗ cậu ta dự đoán!
- Có nghĩa bà đã tự đặt bà vào địa vị hung thủ, trong trường hợp này là một kẻ sát nhân ghê tởm? - Chánh thanh tra Craddock ngạc nhiên, mắt nhìn chằm chằm vào thân hình bé nhỏ, yếu đuối, với mái tóc trắng phau của bà già, - bà quả là một khối óc phi thường, một tâm hồn sâu thẳm!
- Đứa cháu Raymond của tôi cũng hay nói tôi như vậy, - bà Marple đáp. - Nhưng thôi, ta tạm gác chuyện ấy lại, bây giờ ông thử đặt ông vào địa vị hung thủ, xem hắn náu ở đâu?
Viên chánh thanh tra lắc đầu:
- Tôi rất muốn làm theo, nhưng khó quá! Tôi chỉ nghĩ hung thủ phải là kẻ biết tường tận dinh cơ Rutherford Hall.
- Đúng thế! Nhưng nếu chỉ như thế ta sẽ có vô vàn khả năng. Biết bao nhiêu người đã biết căn nhà “bảo tàng” ấy: các binh sĩ trong đơn vị phòng không, rồi thành viên Hội Bảo trợ người cao tuổi… Họ đều biết có cỗ quan tài cổ kia và biết chìa khoá căn nhà treo chỗ nào. Chưa kể những người tuy chưa vào đó nhưng được nghe kể lại… Và số đông đảo con người ấy đều có thể thấy rằng đó là nơi giấu tử thi tốt nhất.
- Bà nói rất đúng, thưa bà Marple.
Viên chánh thanh tra thở dài nói tiếp:
- Khó quá. Mà chưa xác định được nhân thân nạn nhân, chúng tôi còn giậm chân tại chỗ, không sao tiến lên được!
- Tất nhiên điều này vô cùng khó…
- Cuối cùng chúng ta sẽ tìm ra thôi! Chúng tôi đã thẩm tra lại tất cả những vụ phụ nữ mất tích nào có thể dính dáng đến vụ án này. Không kết quả! Bác sĩ pháp y cho rằng nạn nhân khoảng ba mươi, ba mươi nhăm tuổi, khoẻ mạnh, có thể đã có chồng và có ít nhất một đứa con. Tấm áo măng tô bằng lông thú của chị ta thuộc loại đắt tiền, được mua tại một hiệu thời trang tại London, nhưng khi đưa chủ hiệu xem ảnh nạn nhân, ông ta không nhận ra. Các quần áo khác trên người chị ta là hãng nước ngoài, phần lớn mua tại Paris. Chúng tôi đã liên hệ với cảnh sát Paris và hiện nay họ đang điều tra tiếp. Sớm hay muộn sẽ có một người nào đó báo cho họ biết thân nhân, hoặc người thuê nhà bị mất tích. Tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian, tôi tin là như thế!
- Hộp phấn không giúp gì được các ông sao?
- Rất tiếc là không. Đó là loại phấn thông thường được bày bán hàng trăm chiếc trên phố Rivoli. Nhưng hôm ấy, lẽ ra bà nên đưa ngay hộp phấn đó cho cảnh sát, hoặc trao lại cho cô Lucy Eyelessbarrow là người đã tìm thấy nó.
- Một phụ nữ tập chơi golf tình cờ nhặt được một vật nhỏ vô giá trị trong bụi cây, ông nghĩ nên báo cảnh sát ngay hay sao? Hôm đó tôi cho rằng trước hết phải tìm thấy tử thi đã.
Viên chánh thanh tra sửng sốt:
- Ra bà đã đoán trước là sẽ tìm thấy tử thi?
- Đúng thế. Cô Lucy Eyelessbarrow là người rất thông minh, ông đã thấy đấy!
- Tất nhiên rồi, thậm chí cô ấy còn làm tôi sợ nữa đấy. Một phụ nữ năng động, tháo vát, đến mức ít đàn ông nào dám kết hôn…
- Điều đó thì tôi chưa đồng ý với ông đâu, ông Craddock. Tất nhiên phải là một người đàn ông hiểu biết và quý cô ấy. Nhưng cách xử sự của Lucy ở Rutherford Hall ra sao?
- Tuyệt vời! Toàn thể gia đình nghe theo cô ấy răm rắp. Tôi dám nói thậm chí cả chim chóc cũng ngoan ngoãn đậu xuống bàn tay cô ấy để ăn. Tôi xin nói thêm với bà, hiện nay gia đình Crackenthorpe chưa ai biết nhiệm vụ bà giao cho cô Lucy Eyelessbarrow, còn chúng tôi thì tuyệt đối giữ kín chuyện đó.
- Tốt lắm! Nhưng đến bây giờ thì tôi không yêu cầu Lucy làm thêm gì nữa. Cô ấy đã hoàn thành nhiệm vụ tôi giao.
- Và cô Lucy Eyelessbarrow có thể xin nghỉ việc nếu cô ấy muốn?
- Đúng thế.
- Nhưng cô ấy vẫn ở lại. Tại sao?
- Tôi chưa biết. Có thể cô ấy quan tâm đến…
- … vụ án hay… gia đình Crackenthorpe?
- Không loại trừ cả hai cùng kết hợp!
Viên tranh tra Craddock nhìn thẳng vào mắt bà cụ:
- Bà có phỏng đoán nào xung quanh vấn đề ấy không?
- Tôi ấy à? Không.
- Tôi tha thiết muốn được bà cho biết.
Bà Marple làm một cử chỉ từ chối.
- Nếu vậy, - viên chánh thanh tra nói tiếp - tôi đành phải tự mình tiến hành điều tra thôi. Công việc của người cảnh sát nhiều khi rất nhàm chán.
Sau một lát, ông ta nói thêm:
- Vậy là bà không gợi cho tôi được điều gì thêm nữa?
Bà Marple suy nghĩ một lúc lâu, rồi đột nhiên bà ngẩng đầu lên, nói rất khẽ:
- Tôi nghĩ đến những tốp đi biểu diễn nghệ thuật lưu động, các nghệ sĩ này thường đi xa nhà trong một thời gian dài và ít khi họ chịu trao đổi thư từ với gia đình. Nếu tử thi kia của một thành viên trong một đội nghệ thuật lưu động kiểu như vậy thì còn lâu gia đình mới biết tin chị ta mất tích để đi báo cảnh sát.
Viên chánh thanh tra giật mình:
- Chao ôi, quả là điều gợi ý của bà hết sức quý giá! Chúng tôi sẽ cố khai thác lời gợi ý đó. Nhưng sao bà cười?
- Tôi đang nghĩ đến thái độ của bà Gillicuddy bạn tôi khi bà ấy biết tin đã tìm thấy tử thi.
- Đấy nhé! - Bà Gillicuddy reo lên.
Bà già đáng kính kia không tìm ra lời để thể hiện nỗi ngạc nhiên, và bà chăm chú nhìn viên sĩ quan cảnh sát trẻ người Ceylan đang vui vẻ bầy ra bàn rất nhiều tấm ảnh chụp.
Khi đã bình tĩnh lại được, bà nói:
- Chính là chị ta rồi! - bà nói bằng giọng khẳng định quen thuộc. - Tội nghiệp! Tôi rất mừng thấy tử thi chị ấy đã được tìm ra. Cậu biết không, khi tôi kể chuyện này ra, không ai chịu tin tôi, cảnh sát cũng như quan chức đường sắt. Họ còn bảo là tôi hoang tưởng nữa chứ, cậu nghĩ có bực không? Bây giờ thì không ai dám bảo là tôi đã không làm tròn bổn phận!
Viên sĩ quan trẻ nghiêng đầu tỏ vẻ tán thành.
Bà Gillicicuddy nói tiếp:
- Vậy là tử thi đã được tìm thấy…
- …trong một căn nhà cũ kỹ, xây trong khu dinh cơ Rutherford Hall, nằm ở ngoại vi thành phố Brackhampton.
- Chưa bao giờ tôi nghe nói đến cái dinh cơ ấy. Nhưng do đâu hung thủ lại chọn nơi ấy để giấu tử thi?
Trong lúc viên sĩ quan Ceylan chưa tìm được câu trả lời, bà Gillicuddy nói thêm:
- Tôi đoán bà Marple bạn tôi đã vào cuộc, và đã được người ta tin cậy.
Viên cảnh sát trẻ liếc nhìn sổ tay:
- Người ta tìm ra tử thi là một phụ nữ trẻ, tên là Lucy Eyelessbarrow.
- Tôi hoàn toàn không biết chị ấy! Nhưng tôi cam đoan có bàn tay của bà Marple bạn tôi!
Viên sĩ quan trẻ nhún vai - chuyện đó có quan trọng gì đối với anh ta đâu? Anh ta đưa ra câu hỏi chính yếu:
- Bà khẳng định đó là người phụ nữ bà nhìn thấy trong toa tàu…
- …đúng lúc chị ta bị một gã đàn ông bóp cổ?… Đúng thế, tôi tin chính là chị ta!
- Còn gã đàn ông, hình dạng ra sao, thưa bà?
- Cao lớn… tóc đen…
- Còn gì nữa ạ?
- Tôi rất khó tả thêm chi tiết: hắn quay lưng về phía tôi.
- Nhưng nếu bây giờ gặp, liệu bà có thể nhận ra y được không?
- Không, bởi tôi không nhìn thấy mặt gã.
- Bà có đoán được tuổi của y không?
Bà Gillicuddy suy nghĩ rồi đáp:
- Tôi chỉ có thể đoán gã không còn trẻ lắm. Khoảng giữa ba mươi nhăm và bốn mươi. Thật ra lúc ấy tôi chú ý đến người phụ nữ đang bị bóp cổ nhiều hơn, nhất là chị ta lại quay mặt về phía tôi. Khi bị bóp cổ, mặt chị ta trương lên, bị xung huyết tím ngắt, lưỡi thè ra, sau đó thì mặt tái nhợt và chị ta khuỵu xuống… Đến bây giờ, nhiều đêm tôi vẫn còn mơ thấy cảnh tượng đó!
- Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Viên cảnh sát trẻ nói và gấp cuốn sổ tay, - bao giờ bà về Anh ạ?
- Phải sau ba tuần lễ… Nhưng có cần tôi về sớm hơn không?
- Không đâu, thưa bà. Trừ khi người ta bắt được kẻ tình nghi…
Hai ngày sau, bà Gillicuddy nhận được thư của bà Marple. Chữ viết nhỏ li ti và rất nhiều đoạn gạch đít. Tuy nhiên bà đã quen với chữ viết của bạn cho nên đọc được dễ dàng. Đọc xong, bà tự buông thả cho nỗi vui mừng, và có lẽ cả niềm tự hào.
Bà Gillicuddy thầm nghĩ: “Vậy là đôi bạn già chúng tôi đã cho các người thấy chúng tôi đâu phải là những kẻ bỏ đi!”.
ﯓjﯓ♥ﯓﯓﻕjﻕ Chuyến tàu 16 giờ 50
ﯓjﯓ♥ﯓﯓﻕjﻕ Chuyến tàu 16 giờ 50
Chương mười một- Chương mười hai- Chương mười ba
Chương mười bốn- Chương mười lăm- Chương mười sáu
Chương mười bảy- Chương mười tám- Chương mười chín
Chương hai mươi- Chương hai mươi mốt- Chương hai mươi hai
Chương hai mươi ba- Chương hai mươi tư- Chương hai mươi lăm
Chương hai mươi sáu- Chương hai mươi bảy (hết)
Chuyến tàu 16 giờ 50
Truyện Trinh Thám
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]