Ca thán- ý nói ko đồng tình, chê
trách than phiền những hành vi nguòi nào
đó . dùng sai, nên sửa ta thán.
Ăn cháo đái bát. Đúng là: Ăn cháo đá bát
Anh bộ đội đi dép trên đầu đội mũ.(Viết
không có dấu phẩy). Viết có dấu phẩy:, Anh
bộ đội đi dép, trên đầu đội mũ.
“Nha may cơ khi gia lam “.Viết không có
dấu có thể hiểu là:(nhà mày có khỉ già lắm)= có dấu. Nhà máy cơ khí Gia Lâm
Bò cày không được, bán. Khác “Bò cày
không được bán”
Rắn là một loải bò, sát không chân. Viết đúng là: “Rắn là loài bò sát không chân”
Ý nghĩa:
Con hư tại mẹ cháu hư tại bà. Viết và nói
đúng là:” Con hư tại cha mẹ, cháu hư tại ông bà”
Ông cha ta đánh giặc. Viết và nói đúng
là:”Tổ tiên ta đánh giặc” Ý nghĩa cả ông
,cha ,cả bà,mẹ cũng đánh giặc giữ nước.
Hỏi vợ. Viết và nói đúng là: dạm hỏi .Linh tinh chữ nghĩa
Linh tinh chữ nghĩa
Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt
Đăng bởi Hà Thủy Nguyên vào November 12,
2013 in ARTICLE, Lịch
sử - Văn hóa
*Book
Hunter: Trong ngôn ngữ
giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử
dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này
thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ.
Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp
nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến cho văn
bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường
hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
1.-
Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
CHUNG
CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh
từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có
nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi
nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy
phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
KHẢ
NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế
mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời
không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng
xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité,
capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng
từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói
về năng lực mà con người mà thôi.
QUÁ
TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi
qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại.
Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện
công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường
hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương
lai.
HUYỀN
THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán,
mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai
nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình,
truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người
có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại
sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có
thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không
có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện
ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy,
ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con
người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ
đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền
thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp
nầy hay không?”
HÔN
PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã
có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng
người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói
hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng
như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2.-
Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
ĐỘC
LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc
lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là
sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác.
Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với
nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng
Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất
hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên
không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu
chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có
buộc phải theo cái sai của họ.
PHONG
KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban
đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công
và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ
và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với
nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong
kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong
kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở
Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân
chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng
từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích
của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
TIÊU
CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết
sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu
thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế
là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn
định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước
thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn
côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong
truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới
trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không
hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim
luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
3.-
Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
QUỐC
GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói
như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể
đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là
ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật
忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt
khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA
PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà
có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt
trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ
(toàn Hán Việt) thì mới đúng.
ĐỆ
NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để
quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất
(tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì
cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm,
thế là bậy rồi. Không có` tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo
tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được
Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên
viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du
lịch.
4.-
Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X
QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy
cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi.
Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là
tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích
thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ
đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về
khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích
thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ,
các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến
gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10
nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc
chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét
về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến
sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước
đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không
lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
BÊ
TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phu, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm
Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê
tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài
ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà
được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói
một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.
Còn
một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh,
truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân
vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
NỮ
NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân
viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do,
các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ
nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và
phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt:
“nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết
điều nầy sao?
TRIỀU
CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi
người ta nói đến thủy triều trên song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí
trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước
danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute
marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một
động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào
cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại
sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng
lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
HẠT
NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái
nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm
心 là cái lõi hay cái nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ
ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển
sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay
nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được.
Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân
hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn
nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt,
không cần chuyển sang tiếng Nôm.
TẶC.
Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn
tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm
vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể
ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc
賊có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn
trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng
là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ đang
được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố.
Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép
với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là
bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải
đinh” thì hơn.
Còn
vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp
trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bên
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân…
Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bên
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân…
5.-
Dùng từ vô nghĩa
Bệnh
viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái
gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và
bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại
nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có
nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép
“bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui
tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn
chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có
nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da
của cây liễu !!!
ĐẠI
TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc
sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng
nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là
gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt
ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại
trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để
thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo.
Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
SỰ
CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một
sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có
nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán
cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
HOÀN
CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn
biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh
bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?
ĐÔI
CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa
ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi
nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công
nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn
công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa
ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ
rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là
sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ
nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
XÂY
DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng
tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định
làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.-
Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
NGƯỠNG.
Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ
nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí
dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái
hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu
tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn
dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh
nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ
lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không
trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các
đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
KIÊU
NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A
hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có
nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường
chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ
kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho
đúng được.
TRAO
ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại
dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ:
“Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chử tịch”
7.-
Dùng từ thiếu chính xác
CHẤT
LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là tính chất
của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là
cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được ( masse). Thí dụ: “khối
lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta
dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được
(qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon
má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
CẢM
GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan
của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm
đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ:
‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
THỐNG
NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về
một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý,
cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi
cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
GIẢI
PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi
công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng
một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng
thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG
KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói:
“Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra
nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi
tên mới đúng.
8.-
Từ vựng lộn xộn.
LÁI
XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và
một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe,
tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp
một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn
cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải
là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài
xế cũng được rõ ràng minh bạch.
YÊU
CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp
ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu.
Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
NGHIÊN
CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống,
còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh
là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên
cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết
những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói
bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
ẤN
TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ
quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học.
Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả
động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
THẦN
TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ
nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó
rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
TRÊN.
Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải
báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
LÀM
TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe
tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt,
học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
LÃNH
ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong
tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi.
Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ.
Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”
Sự
rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ
20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ
vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và
trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi
về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9.-
Cóp tiếng Tàu đang dùng.
LƯU
BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu
hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời
Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ,
đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp
thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi,
lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại
lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
TRANH
THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình
để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh
thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra
rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng
bên Tàu.
Việc
đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều
điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán
Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay,
đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí
dụ,大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế
trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất
cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là
2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng
hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ
Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
10.-
Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
ĐIỂM
YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm
không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt
thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
THẤP
ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã
được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa
duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa.
Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo
tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có
nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng
khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi
đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng
điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11.-
Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
XA
XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời
gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo
từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp
nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách
bừa bãi được.
Còn
rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy;
đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm
bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly
/ ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh;
thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng /
hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi
thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ
trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ
Việt Nam hiện nay.
Cứ
cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến
sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng
ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
12.-
Ghép từ bừa bãi.
KÍCH
CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho
nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công
việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất
chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
GIAO
HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện
thế nầy: Đồng chí giám đốc phài một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời
dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp
nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác;
không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
13.-
Dùng từ dao to búa lớn
CHIẾN.
Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và
bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải
có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải
khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất
lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại
sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi
vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong,
tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển
bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế
mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày
nay.
CHIẾN
ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng
sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
NGÀI.
Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi
các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với
tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài
nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
THAM
QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một
công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
NGHIÊN
CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng
làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
14.-
Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
KHẨN
TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Uc từ năm 1975. Cách đây vài năm,
thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya,
tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình
tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng
xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có
hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách
nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng
hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ
hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
BÁO
CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về
Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh
trên chiến trường.
15.-
Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
MÁY
BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước
người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học,
đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là
máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
LÍNH
THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục
chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ
cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì
của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm
để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức
sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân
tộc mình.
16.-
Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
COMPUTER
dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm
những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để
dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau
để chọn từ cho chính xác.
INFORMATION
TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một
kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ
kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm
còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại
tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch
sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực
và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa
các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ.
(trich TrieuThanh Magazine)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]