Thứ Ba, 20 tháng 8, 2019
Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2019
Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2019
Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019
Thứ Năm, 16 tháng 5, 2019
Thứ Ba, 26 tháng 3, 2019
Nữ Thám Tử Nancy Drew - Chạy Đua Với Thời Gian Chương 14: Và người chiến thắng là
Nữ Thám Tử Nancy
Drew - Chạy Đua Với Thời Gian Chương 14: Và người chiến thắng là
“DREW! KHÔNG ĐỜI
NÀO!” Tôi nghe giọng Deirdre hét lên sau lưng mình. Cô nàng ủi ngay vào xe tôi,
làm cả hai ngã lăn trên vỉa hè.
Deirdre bật dậy, lao ngay về phía tôi. Khuôn mặt thường ngày
tái xanh tái mét của nó giờ đây đỏ bừng như củ cải đỏ vì quá bực tức.
“Nancy Drew!” ông Holman bước đến, đấm cho Deirdre một đấm,
thật đấy. Ông đến giúp tôi đứng dậy.
“Cậu chẳng có cách nào thắng cuộc đua này được, Drew,”
Deirdre hét lên khi len lỏi qua đám đông đang reo hò cổ vũ quanh tôi. “Tôi đã
vượt xa cậu đến nỗi thậm chí còn chẳng thấy cậu đâu nữa! Cậu không thể nào đuổi
kịp và qua mặt tôi mà tôi lại không thấy. Cậu đã đi đường tắt. Đồ ăn gian.”
“Không hẳn vậy,” tôi nói, dựng xe dậy và tháo mấy cái giỏ
ra. “Tôi đổi hướng đường đua, nhưng không thể nói đó là đường tắt được.”
“Chú nghĩ có lẽ cháu nên giải thích, Nancy ạ,” ông Holman
nói. “Chú e rằng cô Shannon đây nói đúng đấy. Hệ thống theo dõi dành cho đội
cháu đã ngưng hoạt động cách đây vài giờ rồi.”
“Nancy Drew không bao giờ gian lận đâu,” bà Mahoney vừa nói
vừa tiến đến. “Tôi tin chắc cô bé sẽ có một lời giải thích chính đáng cho tất cả
mọi chuyện. Phải không cháu Nancy?”
“Dĩ nhiên là cháu sẽ giải thích,” tôi nói. “Bà Mahoney, chú
Holman, cháu có thể nói chuyện riêng với bà và chú được không ạ? Cháu nhờ bà và
chú mời cảnh sát trưởng McGinnis cùng tham gia với chúng ta nữa, được không ạ?”
“Được chứ, Nancy,” bà Mahoney trả lời. “Chúng ta cùng vào
ngân hàng chứ hả?”
“Nancy!” Bess kêu to và chạy ào đến. “Bà đã ở đâu vậy?”
George và Ned chạy sát ngay đằng sau.
“Tao không sao, nhưng còn ba người sao thế?” tôi hỏi. “Chú
Holman nói đội mình đã biến mất khỏi màn hình hệ thống theo dõi GPS.”
“Đi mà hỏi con nhỏ Deirdre ấy?” George nói. “Tao cam đoan nó
biết rõ mọi chuyện mà, đúng không, DeeDee?”
“Điều duy nhất tôi biết rõ rằng tôi là người thắng cuộc đua
này, Georgia,” Deirdre càu nhàu. Một trong hai anh em nhà Jensen bước tới bên
con nhỏ, hai tên đấy giống nhau quá, tôi chịu không thể phân biệt được.
Ned kéo tôi tránh xa Deirdre. “Đội mình gặp đủ thứ rắc rối hết,”
Ned nói. “Bess đã làm hỏng xe đạp của em trên một đoạn đường đua nguy hiểm bị
phủ một lớp sỏi trơn một cách khó hiểu. Xe của anh lại bị mất một nửa bộ bánh
răng, còn tay lái của George thì kỳ quái đến nỗi ngay cả Bess cũng không sửa được.
Chắc chắn là bọn Deirdre đứng sau tất cả mớ rắc rối này - nhưng dĩ nhiên, chẳng
có bằng chứng gì cả. Ý anh là, trừ đúng một chi tiết bọn nó là đội duy nhất cắm
trại gần với mình. Cứ đem điều đó lên báo với trọng tài thôi.”
“Để em thử cái này xem sao,” tôi bảo Ned, rồi thò tay vào một
trong những cái giỏ, nhưng không mở nó ra. Tôi lấy cái huy hiệu bằng đồng có biểu
tượng cung Song Sinh và bình tĩnh bước trở lại nơi Bess, George, Deirdre và anh
chàng Jensen nào đó đang đứng.
“Bây giờ là cái gì nữa đây?” Deidre nói. “Nếu mấy người nghĩ
sẽ bảo trọng tài tước đi chiến thắng chính đáng của đội này thì... nhầm to rồi
nhé.”
“Thật ra, tôi có một câu muốn hỏi đồng đội của cậu đây.” Tôi
đưa cho một trong hai anh chàng sinh đôi cái huy hiệu bằng đồng. “Không biết có
phải là của các cậu không? Vì các cậu bảo thuộc cung Song Sinh, với lại...”
Anh chàng kia chìa ngay tay ra phía tôi, ngắt lời. “Cậu thấy
nó ở đâu thế? Từ hôm bữa đến giờ tôi cứ đi tìm mãi.” Được rồi, rõ ràng anh
chàng này đã nhận ra cái huy hiệu.
“Ngạc nhiên quá đi mất, tôi lại tìm thấy nó ở dưới ghế xe của
Ned đấy,” tôi mỉm cười.
“Vậy thì nó không thể nào là của cậu đâu, Thad,” Deirdre xen
vào, trừng mắt nhìn anh chàng. “Đúng”
Thad trông có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng rồi vội vã rụt tay về,
lí nhí lầm bầm trong họng, “Phải, mình nghĩ vậy.”
“Tôi không biết cậu có ý đồ gì,” Deirdre nói với tôi, đôi mắt
xanh nheo lại. “Nhưng chẳng ích gì đâu. Đi thôi, Thad.”
Con nhỏ quay người bỏ đi, anh chàng kia theo sát gót nó tạo
thành một khối xanh và đen.
“Còn tiền thì sao?” Bess hỏi. “Bà tìm thấy nó chưa?”
“Nó không sao rồi,” tôi cười toe toét nói, vỗ vỗ nhẹ vào mấy
cái giỏ.
“Được rồi hả?” Ned kêu lên. “Không thể tin được!”
“Khẽ nào,” tôi nhắc. “Hầu hết mọi người thậm chí còn không
biết nó đã biến mất đâu - cứ lẳng lặng để lại chỗ cũ thôi.”
Tôi không thể rời mắt khỏi Deirdre và Thad. Con nhỏ kéo cậu
ta đến băng ghế gần chậu tắm chim trong công viên đối diện ngân hàng. Chính cái
băng ghế mà tôi đã ngồi nói chuyện với chú Luther hôm trước. Deirdre có vẻ như
đang ở trong tâm trạng không-thể-cãi-lại-được-đâu và mắng nhiếc cậu Thad thậm tệ.
Tôi nghe tiếng loa thông báo rằng mọi người hãy kiên nhẫn một chút, đội thắng
cuộc sẽ được công bố chỉ trong giây lát nữa thôi.
Tôi đưa Ned mấy cái giỏ. “Ba người vào ngân hàng trước đi,”
tôi bảo cả đội. “Bảo bà Mahoney và những người khác là em sẽ vào ngay.”
Ned, Bess và George theo sau cảnh sát trưởng McGinnis, ông
Holman, và bà Mahoney vào ngân hàng. Tôi đi vòng qua đám đông, rồi nấp phía sau
một bụi cây lớn trong công viên, chỉ cách chỗ Deirdre đang ngồi quay lưng lại
vài mét thôi. Từ đây khó mà trông thấy được nó, nhưng nghe thì đủ rõ từng từ một.
“Không thể tin nổi là cậu lại ngớ ngẩn đến thế,” con nhỏ
nói. “Nancy nó đang bẫy, và cậu thiếu chút nữa là rơi ngay vào cái bẫy của nó rồi!”
“Nhưng,” Thad trả lời. “Cái huy hiệu đó đối với tôi rất quan
trọng. Đó là món quà của một người bạn đặc biệt.”
“Tôi không cần biết,” Deirdre càu nhàu. “Ngay từ ban đầu kế
hoạch của chúng ta là vài trò chơi khăm với những chiếc xe đạp trong suốt cuộc
đua. Những cái ruột xe bị thủng, dầu loang, làm lạc tay lái... tất cả đều đã được
thỏa thuận rồi, và tất cả đều có hiệu quả. Tôi cũng đã nói là đi phá cái xe của
Ned đêm hôm trước nữa.”
“Và bọn tôi đã làm thế mà,” Thad tự hào nói. “Ngay trong trường,
giữa ban ngày ban mặt. Một đứa canh chừng, đứa còn lại cắt xích.”
“Be bé cái mồm thôi,” Deirdre rít lên. “Nhưng lúc đó tôi đã
nói với cậu và bây giờ tôi cũng đang nói đây, rằng đẩy chiếc xe xuống sông là một
sai lầm. Điều đó đi quá giới hạn đấy, biết chưa?”
“Bọn tôi không cưỡng được,” Thad hạ giọng. “Khi bọn tôi trở
lại thị trấn thì thấy chiếc xe của cậu ta đang đậu sẵn ở đó. Quá ngon ăn. Bọn
tôi cũng có đẩy chiếc xe xuống nhánh sông đâu. Bọn tôi chỉ thả cái cần thắng khẩn
cấp thôi, còn nó tự lăn xuống đấy chứ.”
“Không có gì vui đâu Thad,” Deirdre nói. “Tôi cảnh báo cậu.
Quên cái huy hiệu ngu ngốc đó đi và ngậm miệng lại. Dặn em trai cậu, cả với
Malcolm cũng phải vậy luôn.”
Deirdre quay trở lại phía vạch đích, đi ngang qua bụi cỏ có
tôi đang nấp, gần đến nỗi tôi phải đưa tay che miệng mình để nó không nghe được
hơi thở của tôi. Tôi chờ cho tới khi Thad theo sau nó rồi mới quay lại chỗ đám
đông và vào ngân hàng.
Bên trong, bà Mahoney, cảnh sát trưởng McGinnis, ông Holman
và cả đội đều đang đợi.
Tôi kể họ nghe hết mọi chuyện đã xảy ra kể từ bữa ăn trưa
hôm trước. Rồi tôi bàn giao lại số tiền.
Phản ứng đầu tiên của mọi người là tán dương nhiệt liệt. Mọi
người chúc mừng tôi và đặt ra nhiều câu hỏi.
“Ta thật sự rất sốc khi Sĩ quan Rainey lại làm chuyện như vậy,”
bà Mahoney nói .
“Anh ta giả làm nhân viên an ninh để tiếp cận số tiền, và chắc
chắn cũng là kẻ đã tráo tiền với mớ báo cắt vụn đó khi không có ai nhìn,” tôi
chỉ ra. “Khi phát hiện thấy xe ôtô bị hư, anh ta phải lấy xe đạp lại từ cậu em
trai để cho tiền vào trong mấy cái giỏ. Còn cách ngụy trang nào để thoát khỏi
thị trấn trong ngày đua xe tốt hơn là trang bị cho mình hình ảnh một tay đua
đang chạy xe trên đường?”
Bà Mahoney và ông Holman dĩ nhiên rất phấn khởi khi nhận lại
số tiền đã mất. Ông Holman siết chặt tay tôi. Bà Mahoney trao cho tôi một cái
ôm đầy mùi nước hoa đắt tiền.
Cảnh sát trưởng McGinnis lùi lại, nhưng miễn cưỡng gật đầu.
Nên lấy lòng ông ấy một chút, tôi không muốn mất một nguồn thông tin như ông ấy
chút nào.
“Thưa sếp, chắc chú sẽ muốn nói chuyện với Jasper Rainey đấy,”
tôi nói. “Cháu không nghĩ cậu ta có liên quan tới vụ trộm của anh trai mình,
nhưng chú là một điều tra viên rất giỏi, nên cháu tin chắc là chú sẽ moi được sự
thật từ đó.”
Cảnh sát trưởng McGinnis lại gật đầu và tặng tôi một trong
những nụ cười hiếm hoi của ông. “Chú làm rồi, Nancy. Cậu ta có chứng cứ ngoại
phạm rất chặt chẽ.”
“Đội của cháu đã phải bỏ nhiều công sức để giúp cháu lấy lại
được số tiền này,” tôi nhắc họ. “Cháu nghĩ họ cũng đáng được khen ngợi đấy.”
“Chú nghĩ họ đáng được thưởng hơn thế nhiều ấy chứ,” ông
Holman nói. “Về mặt kỹ thuật mà nói, cháu đã băng qua vạch đích trước nhất đó,
Nancy à. Chú sẽ rất vui mừng thông báo đội các cháu là đội thắng cuộc. Chắc chắn
mọi người cũng sẽ đồng ý ngay khi được nghe đầu đuôi câu chuyện.”
“Mọi người, trừ con nhỏ Deirdre Shannon,” George càu nhàu.
“Nếu chú biết...”
“George,” tôi ngắt lời, “hội ý toàn đội.”
Tôi dẫn Geroge, Bess, và Ned qua một góc của ngân hàng,
trong khi ông Holman và bà Mahoney cất tiền ở một nơi an toàn. Tôi có thể nghe
tiếng cảnh sát trưởng McGinnis gọi điện thoại cho đồng nghiệp ở thủ đô yêu cầu
họ bắt giữ tên Rainey đang bỏ trốn. Qua cửa sổ, tôi có thể thấy có thêm bốn đội
nữa đang đạp xe cán vạch đích.
“Nancy, phải báo với họ những gì con nhỏ đó đã làm,” Bess
nói. “Nếu không thì thật chẳng công bằng. Tôi không muốn nói đội mình phải thắng,
nhưng đội của Deirdre cũng không được. Bọn nó không thể được công nhận thắng
sau hai ngày toàn bày trò chơi khăm và phá hoại như thế, ngay cả khi tụi mình
không thể chứng minh được điều đó.”
Tôi kể các bạn mình nghe nội dung cuộc nói chuyện giữa
Deirdre và Thad Jensen mà tôi nghe lỏm được.
“Vậy đó,” Geroge nói, giọng kinh tởm. “Tao biết đội mình
không thể là những người thắng cuộc một cách chính đáng được, thậm chí Nancy
còn không tham gia trong cuộc đua nữa mà. Nhưng vẫn có thể đề nghị đội đến ngay
sau đội Deirdre là đội thắng cuộc được đó.”
“Khoan đã,” tôi nói. “Mục tiêu chính của cuộc đua này là
gì?”
“Để thu tiền cho Quỹ Mở rộng Trái tim,” Bess trả lời.
“Chính xác,” tôi tán thành. “Ông Shannon sẽ ủng hộ thêm một
ngàn đô vào tổng số nếu như con gái của ông ấy thắng. Cho nên, một là tụi mình
cứ để nó nhận Chiếc Đe Vàng và biết chắc là có thêm một ngàn đô nữa cho quỹ;
hai là tụi mình có thể...”
“Được rồi, được rồi.” George đồng ý. “Mày nói đúng lắm,
Nancy. Dù sao thì quỹ cũng có tên là ‘Mở rộng Trái tim’ mà.” Rồi nó đưa tay ra,
và chúng tôi cùng siết chặt tay nhau đưa lên cao thêm một lần nữa, vì cuộc đua
xe đạp quyên tiền năm nay.
Sau đó chúng tôi nói với bà Mahoney về quyết định của cả đội.
“Một giải pháp tuyệt vời,” bà Mahoney nói. “Cám ơn các cháu
rất nhiều!”
“Cháu thấy ông Holman đã được thả rồi,” tôi nói. “Không sao
chứ ạ?”
“Tất nhiên,” bà Mahoney nói. “Ông ấy sẽ không bị buộc bất cứ
tội gì hết. Ông ấy hoàn toàn trong sạch.” Bà cười thân thiện với tôi và đội của
tôi.
“Không có cháu, chúng ta làm được gì chứ hả, Nancy?” bà nói.
“Nhờ cháu và các bạn của cháu, mọi người đều chiến thắng!”
“Trừ tay sĩ quan Rainey kia,” Ned nói. “Hắn ta thua một quả
quá đậm.”
“Cũng đáng lắm,” bà Mahoney nói. “Ta chỉ tiếc mỗi một điều
là không được thấy vẻ mặt hắn khi hắn mở mấy cái giỏ đó ra.”
Tất cả chúng tôi cùng đi tới đám đông đang reo hò trên con
đường chính.
“À, à,” tôi nói, “gã ta sẽ có dư dả thời gian để đọc tất cả
những tờ báo đó thôi ạ. Ở trong tù!”
Chương 5: Manh ...
Chương 7: Thu ...
Chương 8: Cái ...
chương 11: Tai ...
Chương 12
Chương 13
Chương 14
TRUYỆN TRINH THÁM
Chương 5: Manh ...
Chương 7: Thu ...
Chương 8: Cái ...
chương 11: Tai ...
Chương 12
Chương 13
Chương 14
TRUYỆN TRINH THÁM
Nữ Thám Tử Nancy Drew - Chạy Đua Với Thời Gian Chương 13: Bối rối!
Nữ Thám Tử Nancy Drew - Chạy Đua Với Thời Gian
Chương 13: Bối rối!
ÁNH SÁNG TRONG PHÒNG LỜ MỜ, và mặt tôi chỉ cách cái cửa vài
cen-ti-mét. Tôi cảm thấy con thuyền tròng trành qua phải rồi bắt đầu di chuyển
nhanh. Một luồng ánh sáng xẹt qua vai trái tôi. Tôi nhìn lên và thấy một cái lỗ
hổng nhỏ phía trên đầu mình. Ánh trăng chiếu xuống qua một tấm lưới chắn. Cũng
có nghĩa là tôi và kẻ kia đang đi về hướng nam.
Tôi có thể biết chắc là trừ kẻ đang lái thuyền kia thì trên
thuyền chẳng còn ai nữa, và tôi có thể thay đổi vị trí mà không bị nghe thấy.
Dù đang đứng rất gần đuôi thuyền rồi nhưng vẫn còn một ít khoảng trống để tôi
di chuyển.
Có vài điều làm tôi thật sự lo lắng. Thứ nhất, kẻ lái thuyền
có thể vào khoang, rồi vào trong buồng. Thứ hai, hắn có thể vào khoang để kiểm
tra số tiền. Kiểu nào thì cũng rắc rối cả. Chắc chắn đó là hắn, chỉ có thể là
Jasper hoặc tay sĩ quan Rainey thôi.
Nếu bị phát hiện thì tôi sẽ nói gì, làm gì đây? Nếu là tay
sĩ quan Rainey, tôi có thể giả vờ tỏ ra vui mừng và cư xử như thể tôi nghĩ rằng
anh ta cũng đang theo dõi kẻ xấu giống như tôi thôi. Còn nếu là Jasper, phản ứng
sẽ phải khác. Và dù thế nào đi chăng nữa, tôi cũng phải giả vờ mình chẳng biết
gì về số tiền trên tàu; và bất kể kẻ đó là ai, tôi cũng phải cố đánh lạc hướng
để hắn không đến gần cái ba lô. Mục tiêu của tôi là phải thoát càng nhanh càng
tốt - cùng với số tiền.
Trong khi suy tính với tình huống kẻ đang lái thuyền là
Jasper, tôi ngồi sụp xuống những tấm vải bạt chất đống trên sàn. Chân tôi đau
quá, nên ngay cả có phải ngồi trên sàn thuyền bốc mùi thì vẫn còn hơn là phải đứng
thêm dù chỉ một phút. Đột nhiên tôi thấy rất mệt. Cả một ngày dài đã tiêu tốn gần
hết năng lượng của tôi và rốt cuộc cũng đến lúc kiệt sức. Tôi rút một thanh kẹo
trong ba lô ra, cắn liền bốn miếng, sau đó chiêu thêm vài ngụm nước. Thật ngon
lành làm sao!
Mí mắt tôi trĩu nặng, nhưng cứ hễ nhắm mắt là tôi lại thấy
hình ảnh con đường mòn cũ kỹ dưới bánh xe đạp của mình. Tôi có thể cảm nhận
chân mình lại đạp xe, và nghe thấy tiếng bánh xe kêu vùn vụt.
Chẳng bao lâu sau chiếc thuyền có vẻ như đã xuôi theo dòng
nước sông, lịch bịch rời xa bến cảng. Đây chỉ là một con thuyền câu cũ kỹ,
không tạo cảm giác như đang chạy với vận tốc nhanh. Tôi cho là người lái đang
giảm tốc độ xuống một nửa để bớt ồn ào.
Chiếc thuyền vừa kêu lịch bịch vừa lắc lư qua lại, còn tôi
thì bám sát hơn vào những tấm bạt. Thật khó giữ cho mình tỉnh táo. Một chốc sau
tôi đã không tài nào mở mắt được nữa, và cuối cùng thì chẳng còn nghe được tiếng
động cơ hay ngửi thấy mùi cá bốc lên từ mấy tấm bạt nữa. Cảm giác duy nhất còn
lại là tôi đang bị lắc qua lắc lại.
UỲNH!
Một tiếng động lớn làm rung chuyển con thuyền và đánh thức
tôi khỏi cơn mê ngủ. Tôi bật dậy ngay và lúc lắc đầu. Ánh trăng mỏng mảnh rọi
qua tấm chắn trên nóc căn buồng. Tôi nhìn đồng hồ. Bốn giờ!
Suy nghĩ của tôi rối tung lên. Tôi không phải chỉ vừa tỉnh dậy
khỏi một cơn mơ ngủ mà đã ngủ hơn một tiếng đồng hồ rồi.
Con tim lại bắt đầu run rẩy. Tôi hít thở sâu vài cái để đầu
óc nhẹ bớt. Có tiếng chân chạy rầm rầm trên boong tới cửa khoang thuyền, sau đó
là ba tiếng bước chân vào trong phòng.
Tôi đứng sững lại, căng tai lên nghe ngóng. Có tiếng lạo xạo,
rồi tiếng cọt kẹt, và sau đó là sự im lìm.
Trong gần mười lăm phút không có thêm một tiếng động nào nữa.
Rồi những tiếng khịt mũi và tiếng ngáy tràn ngập không gian. Ai đó đang ngáy!
Tôi nghĩ kẻ lái thuyền chắc đã ngủ trên tấm nệm trong phòng kia rồi.
Tôi thậm chí còn không nghĩ tới có khả năng này nữa. Tôi bỏ
hết những kế hoạch trước đó và vạch ra một kế hoạch mới.
Sau khi xem xét những hướng hành động khác nhau, tôi quyết định
đánh liều rời khỏi chiếc thuyền trong khi tên kia đang ngủ. Nếu là sĩ quan
Rainey, tôi vẫn có thể làm theo kế hoạch cũ - nói với anh ta rằng chúng tôi là
hai đồng nghiệp đang cùng lần theo dấu vết kẻ xấu. Nếu là Jasper, tôi sẽ phải bịa
ra điều gì đó ngay tại chỗ.
Nhưng tốt nhất là cố mà chuồn khỏi đây cho êm, sẽ không bị
ai phát hiện ra. Tất cả những lựa chọn khác đều bắt đầu với việc tôi đã bị phát
hiện.
Tôi cố ép mình chờ thêm mười lăm phút nữa hay khoảng khoảng
đó trước khi tiếp tục hành động. Tiếng ngáy vẫn không ngừng nghỉ, và chắc chắn
đủ ồn để át đi những tiếng động do tôi tạo nên khi thoát ra ngoài.
Được rồi, cuối cùng tôi tự nhủ, đi thôi...
Tôi bật khóa, mở cửa thật nhẹ nhàng. Thậm chí chính tôi cũng
không thể nghe được tiếng lách cách của then cửa vì tiếng ngáy ngoài kia. Tôi nấp
sau cánh cửa trong giây lát, hoàn toàn khuất so với chỗ của kẻ đang nằm ngủ
trên nệm.
Tiếng ngáy vẫn đều đều, thế là tôi bước ra phòng. Kẻ đang ngủ
là sĩ quan Rainey, trên mình còn nguyên bộ đồng phục. Tôi bò qua căn phòng nhỏ
và hết sức thận trọng với thứ hàng hóa nguy hiểm mình đang mang trên lưng.
Lên ba bước nữa, băng ngang boong thuyền, và bước lên cầu
tàu. Đến lúc này tình hình vẫn tốt. Tôi cẩn thận bước khỏi chiếc thuyền, cố gắng
càng ít cử động càng tốt. Tôi vẫn còn nghe tiếng ngáy khi nhảy qua cầu tàu, lên
mặt đất. Còn một thứ khác nữa đang buộc vào cầu tàu: một chiếc ca nô cao tốc -
một thứ hoàn hảo cho cuộc tẩu thoát nhanh chóng bằng đường sông.
Mặt trăng đã gần lặn, tôi phải rời khỏi nơi này càng nhanh
càng tốt. Tôi không biết chính xác mình đang ở đâu, nhưng có lẽ cũng phải cách
chỗ giấu xe đạp ít nhất là vài giờ đạp xe.
Tôi khẽ khàng đi lên cầu tàu, chân bước cùng nhịp với mạch đập
trong cơ thể mình.
“Hắt... xìiiii!” tiếng hắt xì to và dài nhất mà tôi từng được
nghe, phá tan sự tĩnh mịch của không gian. Tôi thấy ánh đèn nhảy múa trên
khoang thuyền. Qua cửa sổ, tôi có thể thấy Rainey vươn vai đứng lên. Sau đó gã
bước về phía mấy bậc thang dẫn lên boong.
Trong khoảng một phút tôi không tài nào cử động nổi. Giống
như một trong những giấc mơ mà trong đó bạn muốn chạy vô cùng, nhưng lại không
thể. Tôi vội nhìn quanh tìm chỗ ẩn nấp.
Kia rồi, có một cái nhà kho ở khoảng giữa ngọn đồi, tôi liền
chạy tới đó. Tiếng cái ba lô đập vào lưng đã khích lệ tôi. Tôi lao vào nhà kho
bằng gỗ tồi tàn và đóng sầm cửa lại.
Qua khe hở của những tấm ván, tôi thấy Rainey bước lòng vòng
trên boong. Gã đem theo một số thức ăn gì đó - vì quá xa nên tôi không thể biết
chính xác là gì. Gã ngồi trên một cái thùng và bắt đầu ăn.
Vừa nhìn thấy thế là tôi lại cảm thấy đói. Trong phút chốc
tôi mơ đến miếng bánh mỳ chuối của bà Hannah. Tôi cố ép mình phải tập trung vào
thực tại.
Tôi không dám đi đâu cả, gã sẽ trông thấy tôi mất. Tôi chỉ đứng
đó để xem xét, chờ đợi, những giác quan của tôi đang tiếp nhận môi trường mới
này. Bên trong nhà kho có mùi rất lạ. Nó có mùi mốc, giống như mùi đất kết hợp
với một mùi nào khác nữa vậy. Tôi không đoán được thứ còn lại là gì.
Tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân của Rainey trên boong.
Gã có vẻ bồn chồn, không chịu được việc ngồi yên trên thùng. Như tôi quan sát
được, cứ cách vài phút gã lại đứng dậy đi loanh quanh.
Rồi tôi nghe một tiếng động khác - có thứ gì đó đang di chuyển
phía sau mình. Tôi giật thót. Không phải chỉ có mình tôi trong cái nhà kho này.
Chẳng có tí ánh sáng nào lọt vào cái nơi nhỏ bé này cả. Mặt
trăng đã khuất dần về phía tây, mặt trời thì vẫn chưa mọc.
Lúc đầu tôi không dám mở đèn pin - e rằng Rainey có thể thấy
ánh sáng di chuyển bên trong nhà kho. Nhưng sau một số tiếng động nữa, tôi
không còn lựa chọn nào khác, đành phải bật đèn lên thôi.
Tôi xoay ba lô lại để tìm cái túi trước, và hành động này
gây âm thanh lạo xạo như thể có ai quét sàn nhà với một cây chổi to vậy. Tôi mở
túi. Âm thanh phát ra càng lớn hơn nữa.
Tôi quay lưng về phía cửa để cố gắng che đi những gì mình sắp
làm, rồi chiếu đèn pin xuống dưới chân. Ánh đèn quét quanh sàn.
Tôi đang ở trong kho với hàng tá rắn! Rắn nhiều kích cỡ, nhiều
chủng loại khác nhau, đang cuộn lại và bò ra xa ánh đèn. Khiếp quá! Tôi cảm nhận
được những gói tiền mặt trong ba lô của mình khi lùi về phía cửa, cố gắng tránh
càng xa càng tốt những sinh vật trơn tuột kia.
Tôi chợt nhớ tới những gì Jasper nói về việc muốn bắt đầu
kinh doanh rắn, và những gì chị Susie tình cờ nghe hắn nói về việc bắt rắn như
thế nào.
Những con rắn tôi đang thấy đây là rắn vườn không độc. Nhưng
cũng không phải là thứ hay ho để chọn núp chung một chỗ vào ban đêm - thậm chí
là ban ngày, hay gì gì nữa. Cái nào tệ hơn nhỉ, tôi tự hỏi: bị mắc kẹt trong một
nhà kho đầy rắn, hay để Rainey biết tôi đang ở đây?
Tôi gửi cho Rainey một thông điệp ngoại cảm dứt khoát là phải
đi thôi. Chỉ cần nhảy vào chiếc xuồng máy thôi, tôi âm thầm cầu nguyện. Đi đi!
Tiến thẳng về hướng thành phố. Đi thẳng tới Brazil. Hay bất cứ nơi nào. Miễn là
ra khỏi đây thôi!
Tôi nghển cổ nhìn quanh, hồi hộp quay lưng về phía bầy rắn
rít. Hoặc Rainey đã nhận được lời khẩn cầu của tôi, hoặc sự bồn chồn của gã đã
lên đến đỉnh điểm. Gã đi vào trong buồng lái, rồi trở ra, mang theo những cái
giỏ mà gã chẳng hề biết bên trong chỉ toàn báo là báo.
“Nào, nào,” tôi thì thầm. Chính tôi cũng đang bồn chồn ở mức
đỉnh điểm đây. Tôi phải thoát khỏi cái nhà kho này ngay lập tức!
Tôi soi đèn qua sàn một lần nữa, làm mấy “đứa bạn” cùng
phòng giật mình cuộn tròn lại. Rồi tôi quay lại theo dõi Rainey, những ngón tay
của tôi bám chắc vào tay nắm cửa.
Rainey tắt đèn trong buồng lái của chiếc thuyền đánh cá, ném
mấy cái giỏ vào ca nô, rồi nhảy xuống theo.
Tiếng động cơ ca nô kêu rù rù cũng không thể át được một âm
thanh mới tôi vừa nghe sau lưng mình. Lần này không giống tiếng động của mấy
con rắn vườn. Âm thanh này tôi chỉ nghe được ở các sở thú, và một lần nữa, khi
tôi đang điều tra một vụ án ở sa mạc California, tiếng lục lạc khô khốc vang vọng
lại từ phía góc xa của nhà kho.
Chiếc xuồng máy vừa phóng đi là tôi giật mạnh cửa, lao ra
ngoài, và đóng sầm cánh cửa lại phía sau lưng mình. Rồi tôi chạy xuống bến tàu,
nhào lên chiếc thuyền câu cũ kỹ. Chìa khóa treo tòng teng trong ổ khóa. Được rồi!
Tôi lái thuyền ra khỏi cầu tàu. Màu vàng rực rỡ của ánh bình minh đã bắt đầu
len qua lùm cây phía bên phải tôi.
Có vẻ phải tốn kha khá thời gian để quay trở lại chỗ cầu tàu
nơi mà chiếc thuyền neo lúc đầu. Chủ yếu là vì tôi không biết chính xác cái cầu
tàu đó ở đâu, và cũng vì nó quá nhỏ và tách biệt đến nỗi tôi cứ phải chạy ra chạy
vào vài cái ngõ cụt trước khi rốt cuộc cũng tìm ra nó.
Tôi neo thuyền lại và lên đồi, đi về phía chiếc xe đạp vẫn
được giấu an toàn dưới bụi gai. Tôi cởi ba lô ra và ngả lưng lên mặt đất. Được
nằm trên bãi cỏ đầy sương thật tuyệt vời! Đã lâu lắm rồi tôi mới được nằm nghỉ
ngơi như vậy. Tôi vươn vai và ăn một ít trái cây tìm thấy trong giỏ. Chỉ còn một
ít đồ ăn nhẹ, và tôi biết một lát nữa mình sẽ còn cần ăn nhiều hơn. Chai nước
chỉ còn một nửa, vì vậy tôi chỉ cho phép mình uống một phần tư chai thôi. Đúng
là loại nước ngon nhất mà tôi từng được uống trong đời.
Sau khi được tiếp thêm làn sóng năng lượng mới, tôi liền
quay trở lại công việc. Tôi lấy tiền trong ba lô ra, nhét vào mấy cái giỏ trên
xe, cuối cùng là nhét cả cái ba lô rỗng không vào.
Trong khi sắp xếp, tôi chú ý đến tấm biển NGÕ CỤT mà tôi đã
thấy hồi tiếng trước, khi lần đầu tiên lên đến ngọn đồi này. Bất thình lình tôi
cười phá lên. Bị nhốt trong cái nhà kho tối đầy rắn là quá đủ tồi tệ rồi, nhưng
khi sự tĩnh lặng bị phá vỡ bởi những tiếng lách cách thì cụm từ ngõ cụt kia đã
mang một ý nghĩa hoàn toàn mới.
Tôi đứng lên, vươn vai lần nữa và xem đồng hồ. Hơn tám giờ một
chút. Có lẽ tôi đang cách thị trấn khoảng ba tiếng, vậy là phải tốn ít nhất chừng
đó thời gian để quay trở về. Tôi nói ít nhất, là vì biết rằng thực tế thể nào
cũng sẽ lâu hơn, vì năng lượng trong tôi giờ chỉ còn là xúc cảm và tinh thần
thôi. Chứ thể xác tôi kiệt quệ rồi. Dù vậy, tôi vẫn quyết tâm phải mang số tiền
về lại River Heights.
Từ chỗ này thì chẳng mong gọi được điện thoại cho đội mình;
tôi vẫn đang ở một nơi hoang vu, quá xa thị trấn để có thể có sóng điện thoại
di dộng. Thế là tôi đành đội mũ bảo hiểm vào, nhảy lên xe, và bắt đầu đạp về
nhà. Mục tiêu của tôi đã rõ: Đem tiền về lại ngân hàng, tốt nhất là trước khi
cuộc đua kết thúc.
Ánh nắng ấm áp chiếu trên xe đạp tôi. Tôi buộc mình phải tiếp
tục di chuyển bằng cách làm cho tâm trí phải bận rộn suy nghĩ. Tôi hình dung về
đội của mình, cảm nhận được sự ủng hộ và động viên của họ mặc dù họ không biết
tôi đang ở đâu. Tôi nghĩ về bà Mahoney, ông Holman, về tất cả những cổ động
viên khác và những người đã góp tiền cho cuộc đua. Tôi nghĩ về bố và bà Hannah,
họ sẽ hãnh diện như thế nào khi biết rằng tôi đã giải quyết được vụ án này. Và
hơn hết, tôi nghĩ về những người sẽ được hưởng lợi từ Quỹ Mở rộng Trái tim.
Chạy được một lúc tôi lại ăn vài miếng bánh, và dừng vài lần
bên suối để làm mát bằng cách vốc nước lên mặt.
Cuối cùng tôi cũng tới được con đường dành cho vòng cuối
cùng của lộ trình đua. Từ bây giờ tôi sẽ không dừng lại nghỉ nữa. Khi tới được
rìa thị trấn, tôi đã tự thưởng cho mình ngụm nước và thanh kẹo cuối cùng rồi.
Tôi cảm nhận được một luồng phấn khích khi chạy tới đường
Main. Phía trước, tôi có thể thấy đầy người hâm mộ đang tập trung trên khán
đài. Bố tôi và bà Hannah đang ngồi ở hàng đầu, ngay vạch đích đến. Chỉ riêng
chuyện nhìn thấy bố về thị trấn kịp lúc xem tôi thi đấu thôi cũng đã mang lại
cho tôi một nguồn năng lượng mới rồi. Và toàn bộ những hình ảnh của cuối tuần
này lướt nhanh trong đầu tôi.
Tôi cười toe và giơ tay chào đám đông.
“Nancy! Nancy!” Những giọng nói quen thuộc la lên khi tôi chạy
dọc con đường. Bà Mahoney và ông Holman - vừa được phóng thích - cũng chạy ra
đón chào tôi.
Sao họ biết tôi đã tìm được số tiền đó nhỉ? Tôi tự hỏi. Sao
mọi người lại hào hứng quá như thế? Tôi đã kể gì đâu. Nhưng rồi tôi để ý thấy dải
ruy băng phất phơ trên vai mình - dải băng của vạch đích!
Nữ Thám Tử Nancy Drew - Không Dấu Vết Chương 12: Hương Vị Tình Bạn
Nữ Thám Tử Nancy Drew - Không Dấu Vết Chương 12: Hương Vị
Tình Bạn
Tác giả: Carolyn Keene
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 861 / 8
Cập nhật: 2016-06-27 09:56:58 +0700
Link download: epubePub
KindleMobi/PRC PDF A4A4 PDF A5A5
PDF A6A6 - xem thông tin ebook
Chương 12: Hương Vị Tình Bạn
B
ess và George ngây ra nhìn tôi giây lát. “Hả?” cuối cùng
George nói.
Tôi mỉm cười trước vẻ ngơ ngẩn của hai đứa bạn. “Thật sự khá
là đơn giản, một khi tao nhận ra được rằng bọn mình đã phí thời gian lo tìm động
cơ phạm tội, mà lẽ ra cần nghĩ đến một điều khác cơ,” tôi nói. “Là cơ hội.”
“Ý bà là sao?” Bess bối rối. “Không phải tất cả bọn họ đều
có cơ hội sao? Chẳng phải tất cả đều ở trong nhà trước khi vụ trộm xảy ra đấy
còn gì?”
“Đúng,” tôi nói. “Đi thôi. Tôi sẽ giải thích trên đường đến
nhà Simone. Tôi muốn đến đó xác minh lại vài thứ.”
Bess có vẻ nghi ngờ. “Bà Hannah chịu để bà đi sao?”
Tôi nhún vai. “Chỉ có một cách để biết thôi.”
Thật kỳ diệu, bọn tôi đã thuyết phục được bà Hannah. Bà biết
rõ là trong lúc đang lần theo manh mối, tôi sẽ không thể nghĩ tới điều gì khác
cho tới khi tìm ra được nó. Thế nên nghe tôi giải thích lý do vì sao muốn đến
nhà Simone, bà chỉ thở dài và đưa tôi ra cửa.
“Cố đừng để cộc đầu vào bất cứ thứ gì trên đường đi, được chứ?”
bà nói với theo khi tôi ra khỏi cửa trước cùng các bạn.
“Xin hứa ạ!” tôi ngoái đầu lại trả lời.
Thèo và René có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy bọn tôi quay lại
sớm như vậy. Simone đã đi mua sắm về, và đã được nghe kể chuyện của Jacques.
Pierre và Jacques vẫn còn trong bệnh viện, dù có gọi điện về báo là Jacques sắp
được cho xuất viện và họ sẽ sớm về tới nhà.
Sau khi trao đổi vài câu về tình hình của Jacques, thấy chẳng
có gì phải lo nữa, tôi đề nghị Simone và hai anh chàng Pháp còn lại vào phòng
khách. “Em nghĩ em đã biết chuyện gì xảy ra với quả trứng Fabergé của chị rồi,”
tôi nói với Simone.
Chị há hốc miệng, mắt sáng lên như sao. “Thật hả?” chị kêu
lên. “Thế nào hả, Nancy? Cho chị biết đi, nó ở đâu?”
“Chị sẽ được biết ngay thôi,” tôi hứa. “Nhưng trước tiên, em
muốn hỏi mọi người vài câu đã.”
Tôi bắt đầu bằng cách giải thích là tôi, Bess và George có
lúc đã nghi ngờ Jacques như thế nào. “Nhưng em biết Jacques không thể nào là thủ
phạm được, ít nhất là theo những gì mà các bạn ở đây đã cho biết về cái ngày vụ
trộm xảy ra,” tôi nói. “Vì theo như chúng ta biết, cậu ấy chưa bao giờ chỉ có một
mình trong nhà trước khi quả trứng biến mất.” Tôi quay sang René và Thèo. “Các
bạn nói là vừa tới nơi thì gần như ngay lập tức đã ra ngoài đi thăm thú. Các bạn
chỉ làm duy nhất một điều trước đó là đem cất hành lý, phải không? Và ba người
đi chung với nhau?”
Thèo gật đầu. “Phải,” cậu xác nhận, trông hơi bối rối.
“Và Pierre có lên cùng các bạn không?” tôi tiếp tục.
“Không,” René xen vào. “Pierre chỉ cho chúng tôi lối lên cầu
thang, và ba đứa tự lên tìm phòng dành cho khách trong khi Pierre ở dưới để ghi
vài dòng nhắn với Simone là cả bọn sẽ ra ngoài một chút.”
Tôi gật đầu, không hề ngạc nhiên. “Điều đó có nghĩa: người
duy nhất ở một mình dưới nhà giữa lúc Simone ra ngoài và trước khi các bạn quay
về, phát hiện quả trứng đã bị mất chính là...”
“Pierre!” Simone kết lời thay cho tôi với gương mặt trắng bệch,
miệng há hốc.
“Nhưng chúng tôi chỉ ở trên nhà có một lát thôi mà,” René
kêu lên. “Chỉ vừa đủ thời gian để cất hành lý và vào phòng vệ sinh một chút
thôi.”
Tôi nhún vai. “Thì cũng đâu cần nhiều thời gian,” tôi lý giải.
“Tôi tin chắc Pierre biết chính xác chìa khóa khung thủy tinh cất chỗ nào, chị
Simone có buồn giấu nó đi đâu chứ. Tất cả những gì cậu ta cần làm là mở khung
ra, lấy quả trứng, giấu nó đâu đó để lấy sau, và xóa dấu vân tay.”
Simone đứng bật dậy, vẻ mặt băn khoăn và cau có. “Em đang
nói là Pierre lấy quả trứng?” chị thốt lên. “Nhưng vì sao lại thế?”
Tôi do dự. “À, về điều này thì em không hoàn toàn chắc chắn,”
tôi nói. “Nhưng em có một giả thuyết.”
Simone không đợi nghe tôi nói hết câu đã chạy vội khỏi
phòng. Cả bọn có thể nghe tiếng bước chân chị chạy nhanh lên cầu thang, rồi
hành lang trên lầu. Một lát sau chị quay lại.
George há hốc miệng, chỉ vào vật Simone đang cầm trong tay.
“Quả trứng!” nó kêu lên.
“Chị tìm thấy trong túi của Pierre.” Simone giơ lên món vật
báu gia truyền nằm trong bàn tay run rẩy của mình. “Chị vẫn không thể tin được...”
Ngay lúc đó có tiếng cửa trước mở. Một lát sau Jacques bước
vào, trên cánh tay có vài miếng băng dán và một vết trầy lớn trước trán. Nhưng
ngoài ra thì trông cậu hoàn toàn khỏe mạnh.
“Chào mọi người,” cậu nói. “Pierre đang đậu xe. Bệnh viện
nói là tôi chẳng chết được đâu, cho nên họ gửi...” Jacques im bặt khi thình
lình để thấy quả trứng Fabergé trong tay chị Simone. “Ui... ơ,” cậu nói. “Cô
tìm thấy nó ở đâu thế?”
“Tôi nghĩ bạn biết mà,” tôi nở nụ cười cảm thông. “Bạn biết
Pierre lấy nó, đúng không?”
Jacques trông như thể muốn bệnh đến nơi. “Sao bạn biết?” cậu
tiến một bước về phía tôi. “Mình nghĩ là Pierre đã lấy; mình biết rõ Pierre nên
đã để ý thấy cậu ta cư xử không được bình thường lắm. Nhưng mình không tìm được
bằng chứng, mình không có cơ hội kiểm tra phòng Pierre - lúc nào cậu ta cũng kè
kè bên cạnh mình.” Cậu nhún vai. “Sau đêm đó, mình thậm chí không dám chắc
Pierre còn giữ quả trứng nữa không. Thế rồi mình kiểm tra tất cả các tiệm đồ cổ
tại địa phương nhưng không thấy dấu hiệu gì.”
“A ha!” George la lên. “Vậy nên bạn mới đến mấy tiệm đồ cổ
đó vào cái ngày bọn tôi theo dõi bạn hả.”
Bess thúc cùi chỏ vào cô chị họ. “Ngày bọn mình tình cờ gặp
được cậu ấy trong khi đang đi mua sắm chứ.”
Một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt ủ rũ của Jacques.
“Không sao,” cậu nói với hai chị em họ. “Tôi biết lúc đó các bạn đang theo dõi
tôi mà. Tôi chỉ hy vọng lý do đúng như mademoiselle Bess nói, rằng các quý cô
người Mỹ đáng yêu đây đã si mê tôi điên cuồng.”
Bess trông lúng túng. “Xin lỗi bạn nhé,” nó nói. “Lúc đó bọn
tôi đang cố giúp Nancy.”
Lần này thì Jacques thật sự cười khùng khục. Rồi vẻ mặt cậu
nghiêm nghị trở lại khi liếc nhìn Simone. “Bất luận thế nào,” cậu nói, “cháu
cũng nhanh chóng nhận ra một vật có giá trị lớn như vậy tuyệt đối không thể bán
ở một thị trấn nhỏ như River Heights được. Từ đó suy ra, nếu quả thật Pierre đã
lấy quả trứng thì nó vẫn còn trong nhà. Cho nên hôm nay cháu mới xung phong
trèo lên thang, vì nghĩ rằng rốt cuộc cũng có cơ hội tìm kiếm trong phòng cậu
ta.”
“Khi bạn trèo lên cái thang rồi thì Pierre cũng đã nhận ra ý
định đó,” tôi nói, do dự một chút vì không biết phải nói tiếp thế nào, tôi khá
chắc rằng việc Jacques ngã không phải là tai nạn. Chắc chắn Pierre đã kéo cái
thang.
Nét mặt Simone cho thấy chị cũng đã suy ra rồi, nên tôi chẳng
cần phải nói thêm nữa. Tôi thấy khó chịu giùm cho chị. Chị đã tìm lại được vật
gia truyền, nhưng thật kinh khủng khi biết chính cháu ruột của mình là thủ phạm.
Tôi mở miệng muốn nói điều gì đó an ủi, nhưng ngay lúc ấy
Pierre bước vào phòng, thấy tất cả chúng tôi tụ họp ở đó, cậu ta lúng túng. Rồi
đến khi thấy quả trứng thì mặt cậu ta lập tức biến sắc.
“Ngon ngon,” tôi nói, nhìn xuống đĩa của mình. “Còn miếng
bánh bí nào giống thế này nữa không chị?”
“Có ngay, có ngay đây,” Simone mỉm cười, với tay lấy cái đĩa
đựng rau củ xắt lát ở trên bàn picnic gần đó.
“Cảm ơn chị.” Tôi liếc nhìn quanh mảnh sân sau nhỏ bé. Sau
khi Pierre rời đi vài ngày trước, Simone đã nhờ một công ty làm vườn đến nhổ sạch
cỏ dại, và sửa sang lại khu vườn. Bây giờ trông nó thật tuyệt. Khoảnh rau củ
đang đâm hoa kết trái, một vườn hồng bị cỏ dại che khuất đã khoe sắc trở lại,
và trên bãi cỏ không những kê được bếp nướng và cái bàn picnic, mà còn kê được
nhiều ghế tựa cùng các băng ghế dài nữa. Lúc này, bạn bè và hàng xóm mới của
Simone đều đã ngồi đông đủ trên các băng ghế đó. Tôi thấy Ned và bà Hannah đang
ngồi với vài người hàng xóm, đĩa đồ ăn để trên đùi. Ở chỗ bức tường nhìn ra
sông, bố tôi đang tán gẫu với chị Zucker trong khi nhóc Owen chơi với một quả
bóng ở gần đó. Ông Geffington và chú Safer đang đứng với nhau gần mấy dây bí
trong vườn.
George và Bess bước rảo tới gần bếp nướng. “Một bữa tiệc
ngoài trời quá tuyệt vời, chị Simone ạ,” George nói. “Nếu chị cứ tổ chức tiệc
tùng kiểu này, với đồ ăn ngon như thế này, chị sẽ là người nổi tiếng nhất vùng
đó!”
“Cảm ơn em, George.” Simone mỉm cười. “Dĩ nhiên, bữa tiệc
này chủ yếu là để cảm ơn em, Bess và Nancy đã giúp chị trong sự cố nho nhỏ hồi
tuần trước.” Chị liếc nhìn tôi. “Chị rất biết ơn em đã làm mọi thứ để tìm lại
quả trứng. Và giúp đỡ chị sau đó nữa.”
“Em rất vui khi giúp được chị mà,” tôi nói. Tôi biết Simone
vẫn thấy không vui về chuyện Pierre. Khi Pierre thú nhận việc ăn cắp quả trứng,
Simone đã gọi điện cho gia đình bên Pháp. Chỉ hai tiếng đồng hồ sau đó, Pierre
đã lên máy bay trở về nhà - với một ông bố đang cực kỳ giận dữ. Simone quyết định
không kiện cáo gì hết, và cam đoan với bọn tôi là anh của chị, tức bố của
Pierre, chắc chắn sẽ cho cậu con trai một trận nên thân khi về đến nhà.
“Em vẫn không tin được Pierre lại nghĩ quả trứng đó là đồ giả,”
George vừa bình phẩm vừa với tay gắp một miếng nấm nướng.
Bess gật đầu. “Bây giờ chị nhắc em mới nhớ, em cũng chẳng hiểu
chi tiết đó,” nó thừa nhận. “Tại sao Pierre lại muốn trộm một quả trứng Fabergé
giả để làm gì?”
Simone thở dài, lật mấy miếng thịt và rau củ đang nướng. “Chị
nghĩ rốt cuộc chị đã hiểu tại sao rồi,” chị nói. “Các em biết không, bố của
Pierre, André, là anh trai của chị, nhưng lớn hơn chị khá nhiều. Chị là đứa con
nhỏ bé trong gia đình, bố chị đã quá cưng chiều chị, chị e là vậy. Điều đó thường
làm anh trai chị bực mình - không cần biết có lý do gì. Anh ấy khá nóng tính,
giống bố chị.”
Tôi gật đầu, giải thích thêm với Bess. “Có lần chị Simone
nói với tôi trên điện thoại điều gì đó về chuyện bố với anh trai chị ấy không hợp
nhau lắm. Tôi đã định hỏi chuyện này, nhưng rồi lại quên mất.”
George giả vờ ngạc nhiên. “Nancy Drew mà lại quên lần theo
manh mối ấy hả?” nó kêu lên châm chọc.
Tôi thè lưỡi trêu lại nó, rồi tiếp tục, “Dù sao thì em để ý
thấy chính bản thân Pierre cũng hơi hấp tấp và nóng nảy. Còn nhớ lúc cậu ta nổi
cáu với em ở buổi tiệc - khi cho rằng em đang buộc tội các bạn của cậu ta
không?”
George gật đầu và liếm ngón tay. “Có tật giật mình ấy mà.”
“Có lẽ, phần nào là thế,” tôi nói. “Nhưng việc đó cũng cho
thấy Pierre không phải lúc nào cũng nghĩ kỹ trước khi phản ứng. Đối với chuyện
quả trứng cũng vậy. Cậu ta nghe nói Simone sẽ cho thẩm định quả trứng vào thứ
hai, thế là tranh thủ ngay cơ hội đầu tiên để chộp lấy nó.”
“Hiểu rồi,” Bess nói. “Điều đó khớp với những gì Simone nói
với bọn mình sau khi Pierre thú nhận, phải không?”
“Đúng vậy,” tôi nói. Simone đã giải thích với bọn tôi là anh
trai chị luôn mong đợi được thừa hưởng những đồ vật có giá trị trong gia đình,
bao gồm cả quả trứng.
Simone thở dài. “Tất cả có vẻ thật điên rồ,” chị nói. “Bố chị
mất cách đây mười năm, để lại quả trứng cho chị, đứa con bé bỏng của ông. Mẹ chị
biết André muốn có quả trứng đó, dù anh ấy quá kiêu hãnh nên không nói ra. Thế
nên bà đã làm một cái giả cho anh ấy để cả hai anh em đều có quả trứng.” Chị cười
buồn bã. “Chị nghĩ André tội nghiệp cảm thấy rất khổ sở vì đã tranh cãi với bố
quá nhiều khi ông còn sống. Khi bố mất, anh ấy không bao giờ nói thêm với chị một
lời nào về việc muốn lấy lại quả trứng thật, thay vào đó anh nâng niu quả trứng
giả như một sự nhắc nhớ đến bố; và cũng chưa bao giờ nói với ai nó là giả.”
“Buồn thật!” Bess nói. “Thế là từ đó đến nay Pierre vẫn nghĩ
bố mình đang giữ quả trứng thật hả chị?”
Simone gật đầu, lật một miếng hành đang kêu xèo xèo. “Thật
ra, André nói với Pierre là anh ấy đã lấy trộm lại quả trứng từ chỗ chị, thế
vào đó là một bản sao do anh ấy đặt làm. Chị cũng không hiểu tại sao anh ấy lại
bịa ra chuyện đó để làm gì - có lẽ vì lòng kiêu hãnh, chị cho là vậy. Và cũng
chính sự kiêu hãnh đó đã khiến Pierre muốn lấy quả trứng. Nó cứ nghĩ sẽ bảo vệ
được tên tuổi cho bố mình nếu ngăn được việc đánh giá quả trứng, vì nó sợ chị sẽ
biết chuyện một khi người thẩm định cho biết quả trứng này là đồ giả. Nó sẵn
sàng gài bẫy bạn thân của mình, thậm chí khiến Jacques phải vào bệnh viện, chỉ
để bảo vệ danh dự cho bố mình.” Chị nhún vai. “Có lẽ nó không nhận thấy là chị
đã cho thẩm định quả trứng một lần rồi, lúc còn ở Paris. Cũng có thể nó cho rằng
lần thẩm định đó đã diễn ra trước khi bố nó tráo quả trứng. Chị cũng không biết
nữa. Có lẽ một ngày nào đó chị sẽ hỏi nó chuyện này.”
Tôi trầm ngâm gật đầu. Tôi thường để ý thấy các động cơ phạm
tội, hoặc thực hiện các hành vi xấu xa của người ta thường rất đơn giản - hoặc
là muốn tiền, hoặc báo thù, hoặc sự tự do, hoặc điều cơ bản nào đó khác. Nhưng
trong vụ này, tôi nhận thấy động cơ phức tạp hơn. Không thể nào xác định được
Pierre là thủ phạm nếu chỉ xét đến động cơ và nếu không tìm ra nhiều thông tin
hơn những gì tôi có được vào thời điểm đó. May mà tôi có thể suy luận ra bằng
cách xem xét đến cơ hội phạm tội, cùng với một dấu hiệu nhỏ về động cơ có thể.
“Vậy chị cho thẩm định chưa?” George tò mò hỏi Simone.
Simone mỉm cười. “Rồi,” chị nói. “Và quả trứng của chị đúng
là đồ thật. À, và chị cũng đã mua một hộp trưng bày có chức năng chống trộm tốt
hơn cho nó... chỉ để phòng xa thôi!”
Bess tì người lên bàn picnic. “Vậy tốt rồi,” nó nói. “Chắc
Jacques bực Pierre chuyện này lắm chị nhỉ? Ý em là, mới đầu thì Pierre cố gài bẫy
Jacques, sau đó còn làm cậu ấy ngã thang nữa.”
“Phải, dĩ nhiên rồi.” Simone buồn rầu. “Thật xấu hổ. Tụi nó
là bạn bè suốt bao nhiêu năm qua. Chị hy vọng tụi nó biết xử đâu ra đó.”
Vào lúc ấy, ông Geffington và chú Safer cùng bước về phía bếp
nướng, tay cầm mấy cái đĩa giấy trống không. Tôi mỉm cười khi thấy hai người họ
tán gẫu với nhau.
Ít nhất cũng có một tình bạn - bất chấp mọi thứ - dường như
đã sống sót được qua tuần vừa rồi, tôi nghĩ.
“Chắc phải bỏ thêm bí lên bếp nướng thôi,” tôi nói với
Simone khi hai người đó đến. “Bác Geffington có thể sẽ ăn hết tất cả số bí mà
chị có đấy, vì vườn của bác ấy sẽ chẳng có quả nào cho tới khi mấy dây bí mới
trồng ra trái.”
Bess cười khúc khích. “Ít ra lần này bác ấy cũng không phải
lo chúng bị đập phá nữa, vì bà đã khám phá được thủ phạm rồi.”
“Chị vừa nhớ ra,” Simone nói. “Mấy đứa trông bếp giùm chị
chút xíu, được không? Chị đang nấu một món trong bếp chắc giờ ăn được rồi.”
Bọn tôi gật đầu. Vài phút sau đó, cả ba đứa bận rộn phục vụ ông
Geffington, chú Safer, và nhiều người khác nữa quây quần bên bếp nướng.
Khi tôi đang rải vài miếng cà lên bếp thì cảnh sát trưởng
McGinnis tiến đến.
“Chà, chà, cô Drew,” ông chào tôi với một nụ cười không-được-vui-cho-lắm.
“Chú mới nói chuyện với bố cháu xong. Ông ấy nói cháu là người đã giải quyết vấn
đề nho nhỏ về bí ngòi của chúng ta hả.”
Tôi biết vì sao giọng ông lại đặc biệt không vui như thế.
Tôi chẳng những đã phá được vụ quả trứng bị mất cắp, trước khi nhân viên của
ông tìm được bất kỳ manh mối nào, mà còn giải quyết xong vụ bí bủng ngay trước
mũi ông. Có thể ông McGinnis chẳng hề để tâm đến chuyện đó - giống bố tôi, có lẽ
ông cũng chẳng nghĩ vụ này có gì đáng phải ầm ĩ - ngoại trừ việc ông Geffington
đã kể về tôi một cách sôi nổi trên tờ báo địa phương mà chẳng hề nhắc gì tới sở
cảnh sát cả.
Tôi quyết định đây là lúc thích hợp để tỏ ra mình rất biết
điều. Ai biết được khi nào tôi lại cần đến sự giúp đỡ của ông McGinnis trong một
vụ khác chứ? Thế nên tôi luôn cố gắng làm cho ông cảm thấy thoải mái hơn. “Dạ,
có lẽ cháu đã giải quyết được vụ đó rồi,” tôi vui vẻ thừa nhận. “Nhưng đó giống
như ăn may thôi chú à.”
“Chính xác là,” George tốt bụng nói thêm. “Nancy đã tìm ra bằng
cách đập đầu xuống đất.”
Cảnh sát trưởng có vẻ hơi bối rối. “Tôi hiểu,” ông nói, dù
rõ ràng chẳng hiểu gì cả.
Bess thấy tội nghiệp ông. “Nancy trượt ngã trên mấy bậc cầu
thang trước nhà bác Geffington hôm tối thứ bảy,” nó giải thích. “Lúc đó, bọn
cháu tưởng là tên trộm trứng đã xô bạn ấy ngã hay sao đó, vì thường ngày bạn ấy
đâu có vụng về như vậy. Nhưng vài ngày sau bác Geffington nói kẻ đập phá bí lại
ra tay vào đêm thứ bảy, và rằng bác ấy đã phải dọn dẹp bí vụn nhớp nháp ở mấy bậc
cầu thang.”
“Thế nên tụi cháu nhận ra là chắc hẳn Nancy đã bị trượt ngã
vì những mẩu vụn bí trơn nhớt đó,” George kết thúc.
Cảnh sát trưởng vẫn lúng túng. “Ờ, ờ,” ông nói. “Nhưng, ờ...”
Ông vẫn không hiểu tôi đã tìm ra kẻ phá hoại bí như thế nào.
“Sau đó cháu cộng hai với hai lại với nhau,” tôi nói tiếp.
“Chú biết không, khi Jacques - bạn chị Simone - bị ngã thang trong lúc nhà bị
khóa cửa; thế là cháu phải chạy băng qua bên kia đường nhờ người giúp đỡ. Biết
chị Zucker làm việc tại nhà nên cháu chạy thẳng đến đó luôn. Nhóc Owen đang
chơi ở lối cho xe chạy, với cây gậy bóng chày trong tay, nó đưa cháu giữ để chạy
vào nhà gọi mẹ. Lúc đó cháu đã để ý nhưng phải mãi sau mới nhận ra cây gậy rất
nhớp nháp - giống như bác Geffington miêu tả mấy bậc cầu thang nhà bác ấy vậy.”
George rõ ràng là thấy cảnh sát trưởng vẫn chưa sáng tỏ thêm
được chút nào. “Và đó là lúc Nancy nhận ra cây gậy bóng chày của Owen là, ờ, vũ
khí tàn sát bí. Vậy đó chú.”
Tôi vẫn còn tự hào về việc mình đã suy luận ra, dù tôi ước
sao mình phát hiện nó sớm hơn. Dù gì, với tất cả những mớ bòng bong trong vụ quả
trứng bị mất, chẳng có gì ngạc nhiên khi vụ bí phải để lùi lại một chút. Ngay
khi tôi suy nghĩ kỹ hơn về cây gậy nhớp nháp thì mọi thứ bắt đầu dễ hiểu hơn. Ở
nhà bà Mahoney hôm nọ, chị Zucker có nói là nhóc Owen ghét bí. Rồi khi tôi và
Ned ngồi ở tiệm Susie Lin, chị Susie cũng nói là Owen và các bạn nó đã xông vào
bình phẩm về món bánh bí rán trên thực đơn của chị. Và dĩ nhiên, mọi người đều
biết chị Zucker đã đi từ nhà này qua nhà khác trong vùng suốt cả tuần nay để vận
động tiền cho Ngày Hội Đe Búa. Trong lúc chị ngồi nói chuyện với chủ nhà bên
trong, thì bên ngoài ông nhóc Owen đã phá hủy hết tất cả món rau củ nó ít yêu
thích nhất bằng cây gậy bóng chày của mình. Thậm chí chú Safer còn nói đã thấy
hai mẹ con họ vào cái đêm vườn nhà ông Geffington bị tấn công.
Đầu tiên tôi lưu ý với chị Zucker về sự nghi ngờ ấy, chị đã
theo dõi thằng nhóc con mình cho tới khi bắt gặp nó và khẳng định giả thuyết của
tôi là đúng. Rồi chị xin lỗi ông Geffington và những hàng xóm khác bị ảnh hưởng.
Ông Geffington xin lỗi chú Safer. Nhóc Owen bị phạt không được xem tivi và
không được ăn bánh ngọt trong vòng một tháng. May mắn là vườn bí của chị Simone
mọc sum suê đến mức có thể sẽ cung cấp được cho mọi nhà quanh đó.
“Vậy là cuối cùng cũng tốt đẹp hết,” tôi khẽ nói, liếc về
phía Owen. Nhóc ta đang lẽo đẽo sau lưng mẹ mình khi chị đi đến cái bàn đựng thức
uống. Tôi để ý thấy nãy giờ nó lúc nào cũng lẽo đẽo theo chị Zucker, hẳn là cu
cậu đã được căn dặn kỹ lưỡng là không được phép ra khỏi tầm mắt của mẹ.
Bess cười khúc khích. “Thật buồn cười khi biết chuyện xảy ra
lại như vậy.”
“Hừm. Phải, chú nghĩ vậy,” nhưng trông cảnh sát trưởng
McGinnis chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “À, chú hy vọng thằng nhóc đó đã được
một bài học.”
“Cháu cũng nghĩ vậy ạ,” tôi lịch sự nói, cố giấu nụ cười cho
tới khi cảnh sát trưởng đi khỏi.
Vài phút sau, khi các bạn và tôi đang trò chuyện cùng chị
Zucker thì Simone từ trong nhà đi ra. Chị đang bê một cái đĩa lớn chất một chồng
cao ngất những cái bánh nướng.
“Có phải là...” Bess lên tiếng khi Simone đặt cái đĩa xuống
bàn picnic.
“Ừ,” Simone nháy mắt ngắt lời trước khi Bess kịp hỏi hết
câu. “Chính Susie Lin cho chị công thức làm bánh này đấy.” Chị hắng giọng. “Ăn
một cái không nào, Owen?” chị hỏi. “Cô nghĩ là cháu sẽ rất thích đấy.”
Chị Zucker liếc nhìn cái đĩa và cười. Nhưng chị im lặng khi
Simone đặt bánh lên một cái đĩa.
“Nè cậu nhóc,” chị nói. “Ăn thử đi, cháu sẽ thích cho mà
xem!”
Owen đón cái đĩa và nhìn chằm chằm cái bánh với vẻ đầy nghi
ngờ. “Bánh gì thế?” nhóc ta hỏi.
“Bánh khoai tây đấy mà” George nói với nó. “Phải không mọi
người?”
Simone gật đầu và mỉm cười, những người còn lại chúng tôi
mau lẹ tán thành. Owen liếc nhìn mẹ.
“Được mà, ăn đi con,” chị giục nó. “Con thích khoai tây mà.”
Owen thận trọng cầm cái bánh lên cho vào miệng. Nó cắn một
miếng nhỏ, nhai chậm chậm. Rồi cắn một miếng to hơn.
“Ngon ngon,” nó nói qua cái mồm nhồm nhoàm. “Cháu thích
khoai tây! Cho cháu một cái nữa nhé?”
Tôi khá chắc Owen không hiểu tại sao tất cả người lớn đều đồng
loạt cười to lên như thế. Nhưng khi nó ngấu nghiến thêm nhiều cái bánh bí rán nữa
thì tôi cho rằng nó chẳng thèm để ý nữa đâu.
Chương 5: Manh ...Chương 7: Thu ...
Chương 8: Cái ...
chương 11: Tai ...
Chương 12
Chương 13
Chương 14
TRUYỆN TRINH THÁM
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)