nhathongnguyen

Không có gì xa lạ đối với con người

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Nghìn Lẻ Một Đêm 11-20



                                             Chương 11
  CHUYỆN KỂ CỦA TU SĨ KHỔ HẠNH THỨ BA, CON VUA
“Thưa quý bà rất đáng kính, câu chuyện tôi kể đây hoàn toàn khác với những câu chuyện bà đã nghe. Hai hoàng tử kể chuyện trước tôi đều mỗi người mất một con mắt đơn thuần do hậu quả của số mệnh, còn tôi bị chột thì lại do chính lỗi lầm của mình, tự mình gây nên tội, tự mình rước vạ vào thân như chuyện tôi kể hầu bà nghe sau đây:
“Tôi tên là Agib, con một quốc vương tên là Cassib. Sau khi phụ vương băng hà, tôi lên nối ngôi và vẫn đóng đô tại nơi cha tôi đã trị vì. Kinh thành này toạ lạc trên bờ biển, có một hải cảng vào loại đẹp nhất và an toàn nhất. Nó còn có một công xưởng khá lớn đủ khả năng cung cấp thiết bị cho một trăm năm mươi chiến hạm luôn luôn sẵn sàng phục vụ khi cần thiết. Ngoài ra còn trang bị cho năm chục thương thuyền vận tải hàng hoá và cũng từng ấy những du thuyền nhỏ nhẹ để đi dạo và vui chơi trên mặt nước. Vương quốc tôi còn có nhiều thành phố tráng lệ với vô vàn hải đảo lớn, hầu hết đều nằm trong tầm nhìn của kinh đô.
Đầu tiên, tôi đi thăm các tỉnh. Sau đó tôi cho vũ trang hạm đội và đi tuần du các đảo để động viên các thần dân của mình hăng hái làm tròn trách nhlệm. Trở về một thời gian, tôi lại đi tuần du và những chuyến đi về ấy đã ho tôi hiểu biết về nghề hàng hải và thấy yêu thích nó. Vì vậy tôi quyết định làm một chuyến đi thám hiểm xa ngoài những hòn đảo của mình. Để thực hiện dự định đó tôi cho chuẩn bị mười chiếc tàu rồi giương buồm khởi hành.
Bốn mươi ngày đầu thuận buồm xuôi gió nhưng đến đêm thứ bốn mươi mốt thì bị ngược gió dữ dội và một cơn bão mạnh tưởng chừng muốn nhận chìm cả đoàn thuyền chúng tôi. Tuy nhiên, lúc trời hửng sáng thì cũng là lúc gió cũng dịu dần, mây tan và trời đẹp. Chúng tôi ghé vào một hòn đảo, đừng lại hai ngày để nghỉ ngơi lấy lại sức. Rồi lại tiếp tục ra khơi. Sau mười hôm lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi hy vọng nhìn thấy đất liền vì cơn bão vừa qua đã làm tôi thay đổi ý định ra lệnh cho quay trở về. Tôi chợt nhận thấy là người hoa tiêu bị lạc phương hướng không biết là tàu mình hiện đang ở đâu. Tôi ra lệnh cho một thuỷ thủ leo lên đỉnh cột buồm cao nhất để thăm đò thì gã báo cho biết là về phía phải và bên trái xa tít tận chân trời chỉ thấy mênh mông trời và biển. Nhưng về phía trước mặt, phía mũi con tàu thấy có một mảng đen lớn.
Nghe thấy vậy, người hoa tiêu mặt biến sắc, một tay dứt khăn trên đầu ném xuống sàn tàu, tay kia tự tát vào mặt mình và kêu to:
- Ôi! Bệ hạ, chúng ta nguy mất rồi! Không một ai trong chúng ta thoát khỏi hiểm nguy này. Với tất cả kinh nghiệm của mình, tôi không sao có thể bảo đảm cho chúng ta thoát hiểm được.
Nói xong hắn nức nở khóc như một người biết chắc mình không sao tránh khỏi chết. Sự tuyệt vọng cả y gieo hoang mang cho toàn thể mọi người trên tàu. Tôi hỏi vì lý do gì mà y lại tuyệt vọng tới vậy.
- Than ôi! Tâu bệ hạ - Hắn đáp- Cơn bão đã đánh lạc hướng chúng ta quá xa cho nên chỉ đến trưa ngày mal thôi là chúng ta sẽ tới gần cái mảng đen đó chẳng có gì khác là một quả núi màu đen, là một mỏ nam châm ngay lúc này đang hút đoàn tàu chúng ta vì những chiếc đinh và sắt thép cấu tạo con tàu. Ngày mai khi chúng ta tôi gần nữa thì sức hút nam châm càng mạnh, mạnh đến nỗi là tất cả nhũng chiếc đinh ở sườn tàu sẽ như bị rút ra bay đến dính vào quả núi. Các tàu của chúng ta sẽ bị vỡ tan và đắm ngay tại chỗ. Sườn phơi ra phía biển của quả núi này dính vô vàn nhũng chiếc đinh sắt của không biết bao nhiêu tàu bè mà nó làm cho đắm. Do đó mà lực hút của quả núi này mỗi ngày lại mạnh hơn lên. Núi này người hoa tiêu nói tiếp - vô cùng hiểm trở. Trên đỉnh núi có một cái vòm bằng đồng nguyên chất, những cột chơng cũng.bằng đồng. Trên đỉnh vòm nhô lên một con ngựa đúc đồng nguyên khối, cưỡi trên lưng ngựa là một kỵ sĩ, ngực che một tấm chì trên đó có khắc hình bùa phép. Theo truyền thuyết, tâu bệ hạ, thì bức tượng này là nguyên nhân chính của sự đắm chìm không biết bao nhiêu tàu bè và bao nhiêu con người đã tử nạn ở chốn này. Và tai hoạ vẫn còn cứ kéo dài cho tới khi nào lật đổ được pho tượng đó.
Người hoa tiêu kể xong lại khóc và tất cả đoàn thuỷ thủ cũng sụt sùi khóc theo. Bản thân tôi, tôi không tin là mình tới ngày tận số. Tuy vậy, mỗi người đều cùng lo cho mình cách riêng để tự bảo vệ. Và trong cái tình thế chưa biết ngã ngũ ra sao họ đi chúc lẫn cho nhau, cho những ai may mắn sống sót.
Sáng hôm sau chúng tôi nhìn thấy rõ quả núi đen và với những điều đã nghe biết, chúng tôi càng thấy nó thật rùng rợn. Đến buổi trưa, quả núi đã xích lại khá gần và đúng như lời người hoa tiêu đã báo trước, chúng tôi nhìn thấy những chiếc đinh và tất cả những thứ gì bằng sắt đều nhất loạt rời tàu, bay vèo vèo về phía quả núi. Lực hút của nam châm cực mạnh đã làm cho những thứ bằng sắt này đập mạnh vào sườn núi tạo thành một thứ âm thanh thật ghê rợn. Những con tàu toác ra và chìm nghỉm xuống đáy biển rất sâu. Tất cả đoàn tuỳ tùng của tôi đều chết đuối. Nhưng Thượng đế đã rủ lòng thương cho tôi bám được vào một tấm ván, và gió đẩy giạt tới chân quả núi đen. Tôi không bị thương và may mắn cho tôi là đã cập bờ vào một nơi có những bậc trèo lên đến tận đỉnh núi”.
Scheherazađe muốn kể tiếp câu chuyện, nhưng trời sáng đã khiến nàng im lặng. Hoàng đế thấy quả là hoàng hậu không đánh lừa mình vì phần mở đầu thật là hấp dẫn. Vì vậy chúng ta cũng sẽ chắng ngạc nhiên chút nào là ông chưa ra lệnh đưa hoàng hậu ra hành quyết ngày hôm đó.

***

- Nhân danh Thượng đế - Gầ n sáng hôm sau Dinarzade kêu chị - Nếu chị của em không còn ngủ nữa thì xin chị kể tlếp chuyện tu si thứ ba đi?
- Em thân yêu - Scheherazade đáp - Vị hoàng tử này đã kể tiếp chuyện của mình như sau:
“Nhìn thấy những bậc đá đó, tôi đã tạ ơn Thượng đế hết lời và vừa trèo lên vừa niệm tên thánh của Người vì nhìn sang phải, sang trái đều không có chỗ nào đặt chân. Đường đi lên hẹp, dốc đứng và khúc khuỷu đến mức tôi nghĩ chỉ cần một cơn gió không mạnh lắm cũng đủ gạt tôi ngã lăn tòm xuống biển. Nhưng cuối cùng tôi đã an toàn trèo lên được tới đỉnh núi. Tôi đi vào đưới cái vòm bằng đồng và quì xuống hôn mặt đất tạ ơn Thượng đế đã ra tay phù trợ.
Tôi qua đêm dưới cái vòm đó. Trong giấc ngủ, tôi chiêm bao thấy một lão trượng đáng kính hiện ra trước mắt bảo tôi:
Con hãy nghe đây, Agib! Khi ngủ dậy, con hãy đào đất ngay chỗ chân con đó. Con sẽ thấy một cái cung bằng đồng và ba mũi tên bằng chì được chế tạo ra dưới những chòm sao tất để giải thoát cho loài người khỏi bao nhiêu tai ách luôn đe doạ họ. Con hãy lần lượt bắn ba mũi tên này vào pho tượng. Người kị sĩ sẽ ngã nhào xuống biển và con ngựa thì đổ về phía con. Con sẽ chôn con ngựa xuống chỗ con đã đào được cung tên. Làm xong việc này mặt biển sẽ dâng lên ngang với đỉnh núi, tới tận chân vòm. Khi nước dâng tới đó, con sẽ thấy một chiếc xuồng nhỏ chỉ có một người chèo tới bằng mỗi tay một bơi chèo. Người này cũng bằng đồng nhưng khác với người kị sĩ mà con đã bắn nhào. Con lên xuồng và để cho y chèo đi, nhớ không được đọc đến tên Thượng đế. Trong mười ngày y sẽ lái xuồng cho con đi sang một biển khác và từ chỗ này con có thể tìm được đường về vương quốc của con an toàn miễn là, như ta đã đặn, trong suốt cuộc hành trình, tuyệt đối không được nhắc đến tên Thượng đế.
Đó là tất cả những điều ông cụ đó bảo và dặn dò tôi. Thức giấc, tôi thấy như nhẹ cả người, và ngay lập tức làm theo lời đã được dặn trong mộng. Tôi đào đất, lượm lên cây cung và ba mũi tên. Giương cung bắn vào tượng kị sĩ đồng, đến phát thứ ba thì nó nhào xuống biển, còn con rlgựa thì lăn kềnh xuống cạnh tôi. Tôi chôn nó vào cái hố cung tên và thấy mặt nước biển từ từ dâng lên. Khi mực nước ngang với chiều cao ngọn núi và tràn tới chân vòm thì tôi nhìn thấy phía xa một chiếc xuồng lao đến phía mình. Tôi cảm tạ Thượng đế thấy mọi cái đều xảy ra trình tự đúng như trong glấc mộng. Cuối cùng chiếc xuồng cập bờ và tôi nhìn thấy người lái bằng đồng như cụ già đã tả. Tôi trèo lên xuồng và nhớ đinh ninh là không được kêu tên Thượng đế, tôi cũng chẳng nói câu nào, im lặng ngồi xuống và người lái bằng đồng bắt đầu chèo đưa chiếc xuồng ra xa quả núi. Nó chèo liên tục đến ngày thứ chín thì tôi trông thấy những hòn đảo quen thuộc làm cho tôi vui mừng thấy sắp thoát hiểm nghèo. Mừng vui quá độ đã làm tôi quên phắt điều cấm kỵ. Tôi kêu lên: Tạ ơn Thượng đế? Vinh quang thuộc về Người!
Chưa dứt lời thì chiếc xuồng chìm nghỉm luôn xuống sâu cùng với người lái bằng đồng, còn tôi thì chới với trên mặt nước. Tôi bơi bơi cho tới cuối ngày, nhằm hướng đất liền mà tôi thấy gần nhất. Một đêm tối mù tối mịt nối tiếp và, tôi chẳng rõ lúc này ở vào chỗ nào mà cứ bơi bừa. Sức yếu dần, tôi bắt đầu thất vọng thấy mình khó thoát chết thì gió bỗng nổi mạnh, một làn sóng cao như một ngọn núi hất tôi lên một bãi cát rồi rút đi và để tôi nằm lại đó. Tôi vội vàng nhổm đậy chạy nhanh vào phía đất ìiền sợ một làn sóng khác lại chồm tới mang tôi đi. Việc làm đầu tiên là cởi áo quần ra, vắt khô nước rồi trải ra phơí trên mặt cát hãy còn hơi nóng của ban ngày.
Ngày hôm sau, mặt trờĩ chẳng mấy chốc đã làm nốt việc hong khô kiệt tất cả áo quẩn của tôi. Tôi mặc vào và đi tìm hiểu xem hiện nay mình ở đâu. Mới đi được một quãng đùờng thì đã hiểu la mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ rất trù phú, mọc rất nhều cây ăn quả. Nhưng đồng thời tôi cũng nhận thấy là nó ở rất xa đất liền, điều này ]àm giảm đi nhiều niềm vui là được thoát chết trôi trên biển. Dù sao tôi cũng phó mặc số mệnh mình cho - Thượng đế định đoạt tuỳ ý muốn của Người. Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy một con tàu nhỏ từ đất liền đi ra, giương hết buồm và mũi tàu hướng về hòn đảo tôi đang đứng.
Không còn nghi ngờ gì là nó sẽ cập vào hòn đảo này. Chưa rõ hành khách trên tàu là bạn hay thù, nên tôi thấy là chưa nên xuất đầu lộ diện. Trèo lên một cây cao, cành lá rậm rạp, ở đó tôi có thể quan sát thấy những gì trên tàu. Con tàu tới đỗ trong eo nhỏ và có độ mười tên nô lệ bước xuống mang theo một cái xẻng và những dụng cụ đào đất khác. Chúng đi tới giữa đảo và tôi nhìn thấy chúng dừng lại đào sới một lát. Nhìn hành động của chúng hình như chúng lật lên một cái cửa nắp. Rồi chúng quay lại nơi tàu đỗ khiêng xuống nhiều đồ đạc rồi thụt xuống. Tôi hiểu ra là ở chỗ đó có một hầm ngầm. Tôi nhìn thấy chúng đi một lần nữa về tàu và một lát sau xuống cùng với một ông già, ông này dắt theo một thiếu niên khoảng mười bốn, mười lăm tuổi rất đẹp trai. Tất cả đều thụt xuống hầm chỗ cái cửa nắp đã mở và khi lên họ hạ cửa nắp xuống, đắp đất lên rồi đi về phía cái eo nhỏ, nơi tàu thả neo, tôi nhận thấy là không có cậu thanh niên trong bọn họ. Từ đó tôi kết luận là chàng trai này đã ở lại dưới hầm ngầm, điều làm tôi hết sức kinh ngạc.
Ông già và các nô lệ bước lên tàu và giương buồm đi theo hướng về đất liền. Khi con tàu đã đi khuất, tôi từ trên cây leo xuống và lập tức đi tới chỗ họ vừa
đào bới. Đến lượt tôi cũng vục tay bới đất cho tới lúc đụng vào một tấm đá vuông khoảng hai ba bộ, tôi lật lên và thấy nó che lấp lối xuống của một cầu thang cũng bằng đá. Tôi bước vào bậc thang đi xuống và thấy mình đang ở một gian phòng rộng trong đó có một thảm chùi chân và một chiếc sập trên trải một tấm thảm khác và những gối tựa bọc vải đẹp. Chàng trai ngồi trên sập tay cầm chiếc quạt. Tôi nhận thấy tất cả những thứ đó dưới ánh sáng của hai cây nến và bên cạnh chàng trai còn có nhiều trái cây và những bình hoa.
Chàng trai giật mình hoảng hốt khi nhìn thấy tôi. Nhưng để cho chàng ta yên tâm, tôi vừa đi vào vừa nói:
Dù cậu là ai chăng nữa thì cũng xin đừng sợ. Một ông vua và một hoàng tử như tôi đây không thể có bất cứ một sự xúc phạm nào đối với cậu. Trái lại, số phận may mắn của cậu đã khiến tôi có mặt tại đây để đưa cậu ra khỏi nấm mồ này vì hình như người ta đã đem chôn sống cậu vì những lý do gì tôi không rõ. Nhưng điều làm tôi băn khoăn và thấy khó lòng chấp nhận được (vì tôi đã được mục kích tất cả những gì xảy ra từ lúc có người tới đảo này) là dường như cậu đã để cho họ chôn sống cậu tại đây mà không có sự chống đối nào...”.
Scheherazade kể tới đây thì ngừng lại và hoàng đế thì đứng lên băn khoăn không biết vì sao mà chàng thiếu niên này lại bị bỏ đưới hầm trên một hòn đảo hoang. Ông nhủ thầm sẽ nghe tiếp đêm sau cho rõ.

***

Dinarzade, khi thấy tới giờ, bèn gọi hoàng hậu:
- Chị ơi, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.
Scheherazade không để em phải nhắc lại, kể tiếp như sau:
“Chàng thiếu niên - Tu sĩ thứ ba tiếp - nghe nói vậy thì yên tâm và tươi cười mời tôi ngồi xuống cạnh mình. Chàng ta nói ngay.
- Thưa hoàng tử, tôi sẽ nói để ngài rõ, ngài sẽ phải lấy làm ngạc nhiên về sự đặc biệt khác thường của nó. Nguyên cha tôi là một nhà buôn vàng ngọc trở nên rất giàu có nhờ vào sức lao động và tháo vát khéo tay trong nghề nghiệp. Người có nhiều nô lệ, và những người giúp việc thường có những chuyến đi biển trên những chiếc tàu của cha tôi để giữ mối liên lạc với nhiều triều đình mà cha tôi cung cấp những đồ châu báu mà họ cần.
Kết hôn đã lâu mà chưa có con, một lần trong giấc mộng người được biết là sẽ có một con trai nhưng người con này đoản mệnh nên khi thức giấc người vô cùng buồn bã. Ít ngày sau đó, mẹ tôi báo cho người biết là bà đã có mang vào thời gian mà cảm thấy cái thai đậu lại rơi đúng vào ngày ông nằm mộng. Sau chín tháng bà sinh ra tôi, cả nhà hết sức vui mừng hoan hỉ.
Cha tôi có mặt trong ngày tôi ra đời, đã đi xem bói chiêm tinh. Các ông thầy bảo: “Con trai ông sống khoẻ mạnh đến tuổi mười lăm, nhưng tới lúc đó sẽ gặp tai hoạ khó lòng thoát khỏi. Qua được nạn này thì sẽ thọ lâu. Cũng vào lúc đó - Các thầy nói thêm - tượng kị sĩ bằng đồng trên đỉnh núi nam châm sẽ bị hoàng tử Agib, con quốc vương Cassib, bắn nhào xuống biển và các vì sao chỉ rõ là năm chục ngày sau đó, con trai ông bị hoàng tử Agib giết chết.
Vì lời tiên đoán đó phù hợp với giấc mộng của cha tơi nên ông vô cùng buồn bã. Dù vậy ông vẫn không hề lơ là trong việc giáo dục tôi cho đến nay, năm tôi tròn mười lăm tuổi. Hôm qua người được biết là kị sĩ bằng đồng đã bị hoàng tử Agib bắn nhào xuống biển đã được mười ngày. Tin ấy làm người rơi không biết bao nhiêu nước mắt và hoảng hốt đến mức mọi người không còn ai nhận ra ông nữa.
Dựa trên những lời tiên đoán của các thầy chiêm tinh ông tìm cách đánh lừa ngôi sao bản mệnh của tôi để giữ lấy mạng sống cho tôi. Ông đã đề phòng cho xây dựng nơi ở này rất lâu rồi để làm chỗ cho tôi ẩn nấp trong khoảng thời gian năm mươi ngày kể từ khi pho tượng trên núi nam châm bị lật đổ. Cũng vì vậy khl biết tin pho tượng đó bị lật đổ đã được mười ngày thì ông vội vàng mang tôi tôi đẩy cho xuống hầm kín ẩn náu và hẹn là trong bốn chục ngày nữa ông sẽ đến đón tôi về. Còn về phần tôi – Chàng trai nói thêm - tôi tràn đầy hy vọng và không tin là hoàng tử Agib lại tới cái đảo hoang này tìm tôi trong hầm kín. Đó, đó là tất cả câu chuyện tôi muốn nói cùng ngài.
Trong khi người con trai nhà buôn châu ngọc kể chuyện về mình, tôi giễu thầm các nhà chiêm tinh đã có những lời tiên đoán vô cùng lạc lõng. Vì vậy nghe xong câu chuyện tôi sôi nôi bảo cậu ta: “chàng trai thân mến, hãy tin vào lượng khoan hồng của Thượng đế và chẳng nên sợ hãi gì hết. Hãy coi như đây là một món nợ phải trả và kể từ lúc này cậu đã trang trải xong. Tôi lấy làm hài lòng, là sau khi làm đắm xuồng đã tới đây để bảo vệ cậu chống lại những kẻ muốn làm hại tới cuộc sống của cậu. Tôi sẽ không bỏ cậu trong suốt thời gian bấn chục ngày còn lại mà những lời đoán bậy của các tay chiêm tinh làm cho cậu lo lắng. Trong thời gian đó tôi sẽ giúp cậu tất cả những việc gì tôi có thể làm. Sau đó, tôi sẽ lợi dụng thời cơ để trở về đất liền, cùng lên tàu với cậu với sự đồng ý của than phụ cậu và cậu. Và khi về ,tới vương quốc của tôi, tôi sẽ không quên ơn và sẽ cố gắng thể hiện sự biết ơn của tôi thật xứng đáng.
Những lời nói của tôi làm cho cậu ta yên tâm và tin cậy. Tôi tránh không nói mình chính là Agib làm cho cậu ta sợ hãi và để cho cậu ta không nghi ngờ bất cứ một điều gì nên tôi còn rất thận trọng trong lời nói và cử chỉ. Chuyện trò với nhau về nhiều vấn đề mãi tới khuya, tôi nhận thấy chàng trai này thật thông minh. Chúng tôi cùng ăn với nhau những thức ăn đã được đự trữ trong hầm. Thức ăn nhiều không những đùng thừa trong suốt bốn chục ngày mà ngoài tôi là khách ra còn có thể ehu cấp cho nhiều người khác nữa. Sau bữa ăn, chúng tôi tiếp tục chuyện trò một lát nữa rồi mới đi ngủ.
Sáng hôm sau, thức đậy, tới mang đến một chậu nước cho cậu ta rửa mặt rồi tôi sửa soạn nấu nướng và đến bữa thì dọn ra cùng ăn. Sau bữa ăn, tôi bày ra một trò chơi gì đấy không những để chơi trong ngày mà còn cả cho những ngày tiếp sau nữa. Bữa chiều tôi cũng làm như thế. Chúng tôi ăn, chuyện trò rồi đi ngủ cũng như ngày hôm trước.
Thời gian đã làm cho chúng tôi mỗi lúc lại thân nhau hơn. Tôi nhận thấy là cậu ta rất quí mến tôi và về phía tôi, một tình cảm đặc biệt đã khiến tôi coi cậu ta như một người ruột thịt. Tôi thường nghĩ thầm trong bụng: bọn thầy bói bảo với cha cậu ta là con ông sẽ bị giết bởi bàn tay của tôi thì đúng là bọn lừa bịp. Không sao có thể xảy ra chuyện tôi lại phạm vào một hành động tội ác như vậy được. Cuối cùng, thưa bà, chúng tôi đã qua được ba mươi chín ngày êm đềm vui vẻ nhất thế gian ở cái hầm dưới mặt đất đó.
Rồi đến ngày cuối cùng, ngày thứ bốn mươi. Buổi sáng, khi thức đậy, chàng trai trẻ dạt dào một niềm vui không ngăn lại được, nói với tôi: Hoàng tử ơi Ngày thứ bốn mươi tới đây rồi, thế mà tôi chẳng sao cả, tôi không chết. Vô cùng biết ơn Thượng đế và tình bạn tất của ngài. Cha tôi cũng sẽ chẳng bao giờ quên ơn ngài và người sẽ tạo đầy đủ các phương tiện và những tiện nghi cần thiết để giúp ngài trở về quê hương. Trong lúc chờ đợi - Cậu ta nói thêm - Xin ngài làm ơn đưa cho tôi một thùng nước nóng để tôi tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đẹp để tiếp đón cha tôi cho thật đàng hoàng.
Tôi đặt thùng nước trên lò lửa và khi đã đủ độ nóng ấm, tôi trút vào bồn tắm. Chàng trai bước vào, tôi kỳ cọ cho cậu ta. Bước ra khỏi bồn tắm, cậu ta tới nằm nghỉ trên giường mà tôi đã sửa soạn sẵn, tôi đắp mền cho cậu. Nằm và ngủ được một lát, cậu ta bảo tôi: “Hoàng tử ơi, xin làm ơn đem đến cho tôi một quả đưa cùng với đường để tôi ăn cho người tỉnh táo”.
Trong rất nhiều quả đưa còn lại, tôi chọn quả ngon nhất để vào một cái đĩa. Vì nhìn quanh không thấy con dao nào để bổ đưa, tôi hỏi chàng trai là có biết đao để ở đâu không. “Có một con dao nhọn - Chàng ta bảo tôi - ở cái hố tường trên đầu tôi đây này!. Đúng vậy, tôi đã trông thấy con dao nhọn đó nhưng quá hấp tấp để với lấy và khi đã cầm trong tay rồi, chân tôi lại bị vướng trong cái chăn đắp nên đã ngã xuống người cậu ta và mũi dao nhọn đâm vào ngực trúng tim chàng trai làm cậu ta chết ngay.
Trước cảnh tượng đó, tôi kêu rú lên. Tôi đấm mạnh vào đầu, vào mặt, vào ngực mình, tôi xé quần xé áo và lăn lộn dưới đất, đau khổ và hối tiếc không biết ngần nào.
- Chao ôi! - Tôi kêu lên - Chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi là thoát ra ngoài vòng nguy hiểm. Để chống lại, cậu ta đã tìm nơi ẩn lánh và trong lúc ta cũng nghĩ là tai nạn đã qua rồi thế mà... bây gịờ ta lạị trở thành kẻ sát nhân và làm cho lời tiên tri đó trở thành hiệu nghiệm. Nhưng, hỡi đấng tối cao - Tôi giơ hai tay và ngửa mặt lên trời nói thêm - Nếu tôi đúng là thủ phạm giết chàng trai này, thì xin đừng để cho tôi sống nữa.
Scheherazade bắt buộc phải ngừng câu chuyện bi thảm này lại vì thấy trời đã hé sáng. Hoàng đế các xứ Ấn Độ rất xúc động và băn khoăn là sau những chuyện đó thì người tu sĩ ra sao. Ông chưa hạ lệnh cho hành quyết hoàng hậu Scheherazade ngày hôm đó vì chỉ duy có nàng mới giải được cho ông nỗi thắc mắc này.

***

Dinarzade, như thường lệ, đánh thức hoàng hậu:
- Nếu chị không ngủ, em xin chị kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra sau cái chết của chàng thiếu niên ấy.
Scheherazade tức thì kể tiếp như sau:
“Thưa bà - Tu sĩ thứ ba nói với zobéide - Sau bất hạnh xảy ra, tôi sẵn sàng đợi cái chết đến không mảy may sợ hãi. Nhưng điều xấu cũng như điều tất không phải là chúng ta cứ cầu xin là được.
Tuy vậy, lắng sâu suy nghĩ thấy là những giọt nước mắt cũng như nỗi đau lòng cũng không thể làm sống lại chàng trai này và rồi đây hết bốn chục ngày rất có thể tôi bị người cha bắt gặp thì cũng thật lôi thôi nên tôi đi ra khỏi hầm và trèo lên các bậc thang. Tôi hạ tấm đá to chặn lối vào và lấp đất.
Vừa xong, tôi hướng tầm mắt về phía đất liền thì đã trông thấy con tàu đang đi tới để đón chàng trai trẻ. Suy nghĩ xem phải làm gì đây, tôi tự nhủ: “Nếu tôi ra mắt, ông già nhất định sẽ cho bắt giữ và rất có thể bọn nô lệ sẽ giết tôi khi ông trông thấy tình trạng của con trai do chính tôi gây ra. Dù tôi có ra sức biện bạch thế nào chăng nữa thì ông cũng sẽ không tin là tôi vô tội. Tốt hơn hết là mình nên tránh mặt đi còn hơn là đưa thân ra hứng chịu lấy cơn thịnh nộ của ông ta.
Gần cái hầm đó có một cây to mà cành lá rậm rạp có thể che cho tôi được. Tôi trèo lên và chỉ vừa kịp tìm được một chỗ kín đáo thì tôi đã thấy con tàu đó cập vào chỗ đã neo đậu lần đầu.
Ống già cùng đám nô lệ xuống ngay tàu và bước tới phía hầm ngầm với vẻ mặt đượm nhiều niềm hy vọng, nhưng khi thấy mặt đất vừa bị đào xới, họ biến sắc, nhất là ông già. Họ dựng tấm đá lên và bước xuống các bậc thang. Họ cất tiếng gọi tên chàng thiếu niên, không có tiếng đáp. Họ sợ hãi bội phần, họ tìm kiếm và cuối cùng thấy cậu ta nằm thẳng trên giường, với con dao nhọn cắm giữa tim vì tôi đã không có can đảm rút nó ra. Nhìn thấy vậy, họ rú lên đau đớn. Tiếng rú của họ cũng làm lòng tôi quặn thắt. Ông già ngã xuống ngất lịm. Bọn đầy tớ khiêng ông lên khỏi hầm cho thoáng khí và đặt ngay dưới gốc cây trên đó tôi đang nm thở cố thu mình lại. Nhưng dù được chăm sóc tận tình, người cha khốn khổ này vẫn bằn bặt mê man làm cho bọn đầy tớ tưởng ông khó lòng qua khỏi.
Nhưng rồi cuối cùng ông cũng tỉnh lại sau cơn ngất lịm khá lâu. Rồi bọn nô lệ mang thi hài của con trai ông đã được mặc vào những tấm áo quần đẹp nhất. Và sau khi đào xong hố, họ đã từ từ trịnh trọng đặt cậu thiếu niên xuống đó. Ông già, được hai tên đầy tớ đỡ hai bên, mặt chan hoà nước mắt, là người đầu tiên ném một nắm đất xuống huyệt mộ, sau đó bọn đầy tớ đã san lấp đất đầy hố.
Xong việc chôn cất, tất cả những đồ đạc, lương thực đưới hầm đều được lấy lên đưa tất cả lên tàu. Ông già không còn đủ sức bước đi nữa, được đặt nằm lên cáng rồi tất cả lên tàu kéo buồm rời đảo trở về đất liền. Chỉ một thoáng sau, con tàu đã xa khỏi tầm mắt tôi”.
Ánh sáng ban ngày đã chiếu vào phòng ngự của Hoàng đế đất nước Ấn Độ buộc Scheherazade ngừng lời. Schahriar cũng đứng lên như mọi khi và cũng vẫn cùng một lý do như đêm trước, ông vẫn để hoàng hậu còn được sống và ở lại cùng với Dinarzade.

***

Hôm sau trước khi trời sáng, Dinarzade bảo chị:
- Chị yêu quí của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em nghe nốt chuyện của tu sĩ khổ hạnh thứ ba đi .
- Thế này em nhé - Scheherazade nói - Em vẫn phải nhớ là vị hoàng tử này vẫn đang kể cho Zobéide và cả các bạn của ành ta nghe chuyện mình. Anh ta kể tiếp như sau:
“Sau khi con tàu mang ông già và bọn đầy tớ của ông đi khuất, còn một mình tôi trên hòn đảo. Đêm, tôi ngủ trong hầm vẫn để ngỏ và ban ngày tôi đi dạo quanh hòn đảo và khi mỏi chân thì tìm chỗ thuận tiện để nghỉ ngơi cho đỡ mệt.
Tôi kéo dài cuộc sống buồn nản như thế khoảng một tháng trời. Vào những ngày cuối, tôi thấy là nước biển rút đi khá nhiều và hòn đảo thì lớn ra hơn trước, đường như đất liền tiến lại gần. Quả thật là mặt biển xuống thấp đến mức chỉ còn một quãng ngắn ngập nước ngăn cách giữa tôi và đất liền. Tôi lội qua, nước biển chỉ tới ngang bắp chân. Tôi bước đi thật lâu trên cát đến mệt lử người. Cuối cùng tôi đặt bước trên một vùng đất rắn chắc hơn và thấy mình đã rất xa biển. Bỗng nhìn thấy phía trước mặt một đám lửa lớn làm tôi hết sức vui mừng. Mình sẽ gặp một ai đó - tôi nhủ thầm - vì không thể là tự nhiên lại có đám lửa đó. Nhưng đi tới gần thì mới vỡ lẽ ra là cái đám màu đỏ mà tôi ngỡ là lửa thì lại là một toà lâu đài bằng đồng đỏ mà ánh sáng mặt trời chiếu vào làm cho ai từ đằng xa nhìn dễ bị nhầm là một đám cháy.
Tôi dừng lại và ngồi xuống bên cạnh toà lâu đài đó chẳng phải là vì muốn ngắm nhìn một kiến trúc tuyệt vời mà chỉ vì muốn ngồi nghỉ để lấy lại sức vì đã quá mệt nhọc, rã rời cả chân tay. Chưa kịp suy nghĩ gì về toà lâu đài mỹ lệ này thì tôi chợt nhìn thấy mười thanh niên chững chạc đường như đi đạo về. Nhưng điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là tất cả đều chột bên mắt phảl. Họ đi theo một ông già cao to có dáng điệu đáng kính.
“Tôi hết sức kinh ngạc sao lại gặp một lúc nhiều người chột đến thế mà lại cùng chột một bên mắt như nhau. Trong lúc tôi đoán già đoán non xem vì sao lại như vậy thì họ đi đến gần và tỏ ra mừng rỡ được thấy tôi. Sau những lời thăm hỏi chúc tụng đầu tiên, họ hỏi tôi vì sao lại đến đây. Tôi trả lời là câu chuyện của tôi khá dài và nếu họ chịu khó ngồi xuống thì sẽ kể cho nghe. Họ cùng ngồi xuống và tôi kể tất cả chuyện của tôi từ lúc tôi rời khỏi vương quốc cho tới lúc này. Câu chuyện làm họ ngạc nhiên hết sức.
Sau khi câu chuyện kết thúc, những nhà quí phái trẻ này mời tôi cùng vào lâu đài với họ. Tôi nhận lời. Chúng tôi đi qua rất nhiều phòng: phòng ngoài, phòng đợi, phòng trong, văn phòng... tất cả đều được bầy biện những đồ đạc lịch sự và rất sạch sẽ. Cuối cùng chúng tôi đi vào một phòng khách lớn trong đó kê theo vòng tròn mười chiếc bệ nhỏ màu xanh vừa dùng để ngồi, để nằm nghỉ ngơi ban ngày vừa để ngủ vào ban đêm. Ở giữa cái vòng tròn đó là một chiếc bệ thứ mười một cùng màu nhưng kê thấp hơn trên đó ông già mà tôi đã nhắc đến ngồi chễm chệ, còn mười người trẻ tuổi llgồi trên mười chiếc bệ kia.
Vì mỗi chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một người nên một chàng trẻ tuổi bảo tôi: - Bạn hãy ngồi vào tấm thảm ở giữa kia và không được hỏi han bất cứ điều gì liên quan tới chúng tôi, cả nguyên nhân vì sao chúng tôi đều bị chột bên mắt phải. Bạn hãy bằng lòng chỉ nhìn xem thôi và chớ nên để trí tò mò của mình đi quá xa.
Ông già không ngồi lâu. Ông đứng đậy và đi ra ngoài. Một lát sau, trở vào mang theo bữa ăn tối cho mười chàng trẻ tuổi, mỗi người đều ăn riêng phần của mình. Tôi cũng được chia một phần và ăn một mình như những người khác. Và cuối bữa thì cũng ông già đó đưa cho mỗi người một chén rượu.
Câu chuyện của tôi đối với họ kỳ lạ đến mức họ bắt tôi kể lại từ đầu bữa ăn và sau đó bàn luận rôm rả cho tới khuya. Một trong các chàng trai cho mọi người biết là đêm đã khuya và bảo ông già:
- Ông thấy đó, đã đến giờ đi ngủ thế mà ông chẳng đưa cho chúng tôi những gì cần thiết để chúng tôi làm tròn nhiệm vụ.
Nghe nói thế, ông già đứng lên và đi vào một căn buồng, đội trên đầu lần lượt mười chiếc chậu, cái nào cũng phủ vải xanh, mang ra đặt trước mặt mỗi chàng cùng một cây đuốc.
Họ mở nắp chậu trong đó có tro, than bột và nhọ nồi. Họ trộn lẫn ba thứ đó với nhau rồi bắt đầu chà sát và bôi lên mặt trông lem luốc đến phát khiếp lên. Sau khi bôi đen mặt mũi như thế rồi, họ cất tiếng khóc dùng tay đấm vào đầu vào ngực và không ngừng kêu: “Đây là kết quả của sự lười nhác và truỵ lạc của chúng ta?”.
Họ cứ làm như thế hầu như hết cả đêm. Rồi cuối cùng họ cũng dừng lại và ông già mang nước sạch đến cho họ rửa mặt mũi chân tay. Họ cũng cởi bỏ cả quần áo đã đen bẩn, mặc quần áo khác. Trông họ lúc này lại như trước chứ không phải là họ vừa làm những việc kỳ cục mà tôi đã được chứng kiến.
Thưa bà, xin bà hãy xét xem sự bực bội của tôi suốt thời gian đó. Hàng ngàn lân tôi đã toan phá vỡ sự câm nín mà những chàng trai đã áp đặt cho mình để hởi cho ra lẽ. Và tôi không sao mà nhắm mắt được trong quãng đêm còn lại.
Ngày hôm sau, mọi người thức dậy, ra ngoài hít thở không khí, tôi bảo họ:
- Thưa các ngài, tôi xin nói với các ngài là tôi phản bác luật lệ mà các ngài đề ra cho tôi chiều hôm qua. Tôi không sao mà tuân theo được. Các ngài đều là người khôn ngoan và thông minh rất mực, tôi biết rõ như vậy. Thế nhưng tôi lại thấy các ngài có những hành động mà ngoài những kẻ mất trí ra thì không ai làm như vậy. Dù cho tai hoạ nào đến với tôi chăng nữa cũng không ngăn được tôi hỏi các ngài vì sao lại tự mình bôi lem mặt mũi bằng tro, than và nhọ nồi.
Rồi vì sao mà tất cả các ngài đều chỉ còn một con mắt. Tất là phải có một nguyên nhân đặc biệt nào đó chứ. Vì vậy tôi xin các ngài hãy thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi, cho tôi được rõ mọi sự.
Trước những van nài khẩn thiết như thế, họ chẳng nói chẳng rằng, quá lắm họ chỉ bảo đó là những cái chẳng liên quan gì tới tôi cả, tôi có biết cũng chẳng có lợi ích gì vậy thì cứ nên ở yên thôi.
Ban ngày chúng tôi trao đổi chuyện nọ chuyện kia chẳng đâu vào đâu cả nhưng khi tối đến, sau khi ăn uống riêng rẽ, ông già lại mang những chiếc chậu màu xanh ra, các chàng trai lại tự bôi lên mặt mũi mình cho đen đủi nhem nhuốc, rồi khóc lóc, rồi tự đấm vào mình rồi kêu lên: “Đây là kết quả của sự lười nhác và sự ăn chơi trác táng của chúng ta?”. Ngày hôm sau và những ngày tiếp theo họ cũng vẫn làm như thế.
Cuối cùng không sao ngăn nổi trí tò mò, tôi nghiêm chỉnh đề nghị họ hoặc là nói rõ cho tôi biết hoặc là chỉ đường cho tôi trở về cố hương vì tôi không thể ở lâu hơn với họ nữa khi mà đêm nào cũng phải chứng kiến cái cảnh tượng hết sức kỳ lạ mà không hiểu rõ nguyên nhân vì sao lại thế.
Một trong các chàng trai thay mặt cho cả bọn bảo tôi:
- Xin đừng ngạc nhiên về thái độ của chúng tôi đối với ngài, nếu cho đến lúc này chúng tôi không chịu nhượng bộ với những lời cầu xin năn nỉ của ngài. Đó chẳng qua đơn thuần chỉ vì tình bạn đối với ngài mà thôi. Chúng tôi muốn tránh cho ngài cái tình trạng đáng buồn như chúng tôi mà ngài đã thấy. Nếu ngài thật muốn giống như số phận khốn khổ như chúng tôi thì cứ nói, chúng tôi sẽ đáp ứng yêu cầu của ngài.
Tôi bảo họ là tôi sẵn sàng hứng chịu mọi hậu quả.
- Một lần nữa - Vẫn chàng đó bảo - Chúng tôi khuyên ngài là nên kiềm chế bớt tính tò mò của ngài lại. Nó sẽ làm cho ngài mất đi con mắt phải đó. - Cũng chẳng sao – Tôi nói - Tôi xin tuyên bố với các ngài là nếu tai hoạ đó xảy ra cho tôi, các ngài sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm và đó là đo chính tôi gây nên.
Chàng này còn cho tôi biết là khi tôi đã bị mất một mắt thì sẽ không còn được ở cùng với họ giả dụ là tôi có ý định đó vì số lượng đã đủ không thể thêm nữa. Tôi bảo họ là được ở cùng với họ đối với tôi là một điều mong ước, nhưng nếu cần thiết thì tôi cũng sẵn sàng phục tùng vì với bất cứ giá nào, tôi cũng mong họ đáp ứng cho điều tôi đòi hỏi.
Mười chàng trai thấy quyết định của tôi là dứt khoát liền bắt một con cừu giết chết, lột da, đưa cho tôi con dao mà họ đã dùng và bảo tôi:
Ngài hãy cầm lấy con đao này, nó sẽ giúp ích cho ngài trong trường hợp mà chúng tôi sẽ nói cho ngài biết sau. Bây giờ ngài hãy nằm vào trong tấm da cừu này để chúng tôi khâu kín lại. Rồi chúng tôi sẽ rút đi để lại mình ngài ở đây. Lúc đó một con chim to lớn khác thường mà người ta gọi là đại bàng sẽ xuất hiện trong không trung. Nó tưởng ngài là một con cừu sẽ đâm bổ xuống cắp lấy ngài và bay lên tận chín tầng mây. Nhưng xin chớ sợ, nó sẽ lại sà xuống mặt đất và đặt ngài xuống đỉnh một ngọn núi. Khi chạm đất, ngài hãy dùng con dao này rạch tấm da cừu mà chui ra. Con đại bàng trông thấy ngài sẽ hoảng sợ và bay đi mất, để ngài được tự do. Chớ có dừng lại đó mà phải đi, đi cho tới lúc đặt chân trước một lâu đài đồ sộ bao bọc bằng toàn những tấm vàng, những viên ngọc bích khổng lồ và nhiều thứ đá quí nguyên chất khác. Ngài tới cửa lâu đài và bước vào trong vì cửa luôn luôn để ngỏ. Tất cả chúng tôi ở đây cũng đều đã ở lâu đài đó. Tôi sẽ không nói với ngài là chúng tôi đã trông thấy gì và những gì đã xảy ra với chúng tôi tại đó. Ngài sẽ tự tìm hiểu lấy. Điều mà chúng tôi có thể nói với ngài là chúng tôi mỗi người đã phải trả giá bằng con mắt phải của mình, và cái hình phạt mà ngài đã chứng kiến là một việc bắt buộc phải làm vì chúng tôi đã ở cái lâu đài đó. Chuyện riêng của mỗi người chúng tôi chứa đầy những chi tiết phiêu lưu kỳ lạ mà người ta có thể viết nên một cuốn sách dày, nhưng lúc này chúng tôi không thể nói gì với ngài nhiều hơn”.
Kể đến đây, Scheherazade ngừng lời và nói với Hoàng đế đất nước Ấn Độ:
- Vì em gái thiếp hôm nay đánh thức thiếp dậy sớm hơn mọi khi, kể dài sợ phiền thánh thượng, nhưng kìa trời đã sáng đúng lúc buộc thiếp phải ngừng. Tính hiếu kỳ của hoàng đế Schahriar đã thắng lời thề độc của chính ông.

***

Dinarzade đêm nay không dậy sớm như đêm trước. Tuy vậy nàng vẫn gọi chị trước trời sáng:
- Nếu chị không ngủ nữa thì chị kể nốt chuyện người tu sĩ thứ ba đi.
Scheherazade kể tiếp như sau : vẫn là người tu sĩ khổ hạnh nói với Zobéide:
- Thưa bà, một trong mười chàng trai chột mắt đã nói như thế với tôi mà tôi vừa kể bà nghe. Thế là tôi chui vào tấm da cừu, cầm theo con dao họ đã đưa. Và sau khi họ đã khâu kín tấm da có tôi ở bên trong, họ để tôi nằm lạĩ đó và rút về phòng khách. Con đại bàng lớn mà họ nói trước, chẳng lâu la gì đã bay tới, sà thẳng vào tôi, dùng móng quắp tội lên như quắp một con cừu và mang lên đỉnh một qua núi.
Khi cảm thấy mình đã nảm trên mặt đất, tôi không quên dùng con dao rạch tấm đa, chui la trước mặt con đại bàng khi nhìn thấy tôi nó vội vàng vỗ cánh bay đi mất. Con đại bàng này là một con chim có bộ lông trắng to lớn khủng khiếp. Cứ sức ấy thì nó có thể tha như chơi một con voi ở dưới đồng bằng đưa lên núi cao để xả thịt.
Nóng lòng muốn đi ngay tới lâu đài, không để mất thì giờ, tôi rảo bước và chỉ trong nửa ngày đã tới. Tôi có thể nói là dưới mắt tôi, toà lâu đài này còn lộng lẫy hơn nhiều như đã nghe tả.
Cổng mở, tôi đi vào một cái sân vuông rất rộng xung quanh có chín mươi chín cửa ra vào bằng gỗ đàn hương và trầm hương và một cửa bằng vàng không kể những cửa dẫn vào các cầu thang tráng lệ đưa lên những căn buồng phía trên và còn nhiều cánh cửa khác nữa mà tôi không nhìn thấy. Một trăm cửa ra vào mà tôi nói ở trên mở thong ra các khu vườn hoặc những kho tàng chứa đầy của cải hoặc các nơi san sát những thứ đồ lạ mắt.
Nhìn thấy trước mặt có một cánh cửa mở, tôi đi vào. Đó là một phòng khách rộng đã ngồi sẵn ở trong đó bốn lnươi thiếu phụ với sắc đẹp lộng lẫy mà ngay cả sự tưởng tượng cũng khó vượt qua. Họ ăn vận thật sang trọng. Vừa nhìn thấy tôi bước vào, họ đều nhất loạt đứng dậy và chẳng đợi tôi chào hỏi chúc tụng, họ tỏ về hất sức mừng rỡ, bảo tôi:
- Chàng trai tôn quí, xin chúc mừng, xin chúc mừng! Và một thiếu phụ thay mặt cho tất cả nói:
- Đã lâu rồi, chúng em chờ đợi một chàng trai hào hoa như chàng. Dáng điệu của chàng đã nói cho chúng em thấy là chàng có đầy đủ những đức tính mà chúng em mong ước và chúng em hy vọng rằng chàng không cho sự có mặt của chúng em là khó chịu và chẳng xứng với chàng.
Sau rất nhiều lần thoái thác, tôi đành phải ngồi vào chỗ bị ép buộc, chỗ cao hơn một chút so với chỗ ngồi của họ. Khi tôi tỏ ra vẻ miễn cưỡng thì họ bảo:
Đấy chính là chỗ của chàng, lúc này chàng là lãnh chúa, là ông chủ, là quan toà của chúng em. Và chúng em là nô lệ của chàng, sẵn sàng tuân theo những gì chàng ra lệnh.
Không có gì trên đời này, thưa bà, làm cho tôi ngạc nhiên hơn là thái độ nhiệt tình và hăng hái của những thiếu phụ xinh đẹp này, sẵn sàng phục vụ, đáp ứng tất cả những gì tôi yêu cầu. Một nàng đem nước nóng đến rửa chân cho tôi. Một nàng khác đội nước thơm lên hai bàn tay tôi. Các nàng này đem tới cho tôi quần áo mới để tôi thay, các nàng kia cho tôi ăn lót dạ, và các nàng còn lại thì tiến đến cốc cầm tay sẵn sàng rót cho tôi một thứ rượu tuyệt ngon. Tất cả công việc này được tiến hành nhịp nhàng, với một trật tự phối hợp một cách khéo léo và với phong cách làm tôi say mê. Tôi uống, tôi ăn... Sau đó tất cả xúm quanh tôi, đòi tôi,thuật lại chuyến đi của mình. Tôi kể chi tiết tất cả những việc xảy ra cho họ nghe và câu chuyện kéo đài mãi tới chập tối”.
Scheherazade ngừng lại ở đoạn này. Em nàng hỏi vì sao. Thế em không thấy trời sáng rồi ư, hoàng hậu đáp. Tại sao không gọi chị dậy sớm hơn? Hoàng đế đoán là người tu sĩ đến lâu đài có bốn chục thiếu phụ tuyệt đẹp như vậy chắc là hứa hẹn sẽ có nhiều chuyện xảy ra đáng được chú ý. Ông chẳng muốn tự tước cái thú được nghe tiếp của mình nên lại lui ngày xử hoàng hậu thêm nữa.

***

So với đêm trước thì đêm nay Dinarzade không được nhanh nhẩu bằng. Hầu như trời đã tờ mờ sáng khi nàng nói với hoàng hậu:
- Chị thân yêu của em, nếu chị không còn ngủ thì xin chị nói cho em biết có gì đã xảy ra ở cái lâu đài tráng lệ mà chị đã dừng lại đêm qua đó.
- Chị sẽ nói ngay cho em biết đây - Scheherazade đáp rồi quay sang nói với hoàng đế - Tâu hoàng thượng, thế rồi người tu sĩ tiếp tục kể như thế này:
“Khi tôi đã kể câu chuyện của mình cho bốn mươi thiếu phụ nghe xong, một vài nàng ngồi gần tôi còn nán lại để cùng tôi trao đổi thêm, trong khi đó thì những người kia, thấy đêm đã xuống, bèn đứng lên đi tìm nến thắp. Họ mang tới rất nhiều nến, thắp lên sáng trưng chẳng kém ánh sáng ban ngày, nhưng các nàng đã sắp đặt bày biện thật cân xứng đẹp mắt.
Những thiếu phụ khác bày lên bàn những trái cây khô, những loại mứt và các đồ uống. Các thứ rượu uống bày đầy trong tủ. Một số các nàng xuất hiện với các nhạc cụ trong tay. Khi tất cả đã chuẩn bị xong, các nàng mời tôi ngồi vào bàn và họ cũng cùng ngồi xuống. Chúng tôi ngồi cùng nhau khá lâu. Những nàng có nhiệm vụ chơi đàn và những nàng phải hoà giọng ca của mình theo nhạc đều đứng lên và hình thành một đàn đồng ca thật quyến rũ. Những nàng khác bắt đầu một điệu vũ từng đôi một cầm tay nhau nhảy, hết đôi nọ đến đôi kia, yểu điệu và duyên đáng vô cùng.
Quá nửa đêm, cuộc vui ngừng lại. Một trong các thiếu phụ cất tiếng, bảo tôi:
- Chàng đã mệt vì đoạn đường đi hôm nay, đã đến lúc chàng cần phải nghỉ ngơi. Buồng riêng của chàng đã được sửa soạn, nhưng trước khi về đó chàng hãy chọn cơ nào trong bọn thiếp mà chàng thấy thích hơn cả. Chàng hãy đưa cô ấy về ngủ cùng chàng.
Tôi đáp là sẽ không làm việc chọn lựa đó theo lời đề nghị vì tôi thấy tất cả các nàng đều đẹp, đều thông minh, đều xứng đáng với sự tôn trọng và ý thức phục vụ của tôi. Tôi không muốn mắc vào khuyết điểm bất lịch sự nếu bảo thích người nọ hơn người kia.
Cũng thiếu phụ đã nói với tôi lại bảo:
- Chúng em rất tin ở sự thẳng thắn của chàng và chúng em thấy rõ là chàng sợ chúng em sẽ sinh lòng ghen tuông với nhau nên giữ ý. Nhưng xin chàng đừng ngại: chúng em đã cùng nhau thoả thuận là hạnh phúc của cô nào được chàng chọn không làm cho chúng em ghen tuông chút nào, vì hằng đêm lần lượt chúng em đều được hưởng hạnh phúc đó. Cứ bốn chục ngày là đến lượt và lại bắt đầu lượt mới. Vậy chàng hãy cứ tự do lựa chọn đi, chớ nên để mất thời gian cần cho sự nghỉ ngơi của chàng.
Tôi đành phải nhượng bộ và giơ tay ra cho nàng đã thay mặt tất cả chị em trao đổi với tôi, nàng cũng đưa tay cho tôi và chúng tôi được dẫn tới một căn phòng lộng lẫy. Người ta để chúng tôi chỉ còn hai người với nhau, còn các thiếu phụ khác đều về phòng riêng của mình...”.
- Nhưng trời lại đã sáng mất rồi, tâu bệ hạ - Scheherazade nói với hoàng đế - và xin Người hãy cho phép thiếp để lại tu sĩ vôi nàng thiếu phụ cửa chàng ở trong căn phòng riêng của họ.
Schahriar lặng thinh nhưng ông đứng lên tự nhủ: phải công nhận là câu chuyện tuyệt hay, ta sẽ mắc sai lầm to nhất trong thiên hạ nếu không để chút thì giờ nghe nốt cho đến cuối.

***

Dinarzade, tàn đêm hôm sau, không quên bảo chị:
- Chị ơi? Nếu chị không muốn ngủ nữa, thì em xin chị kể nốt câu chuyện kỳ thú về người tu sĩ thứ ba cho em nghe đi?
- Chị xin vui lòng - Scheherazade đáp - Và đây là lời của vị hoàng tử đó kể tiếp chuyện mình:
“Sáng hồm sau, chỉ vừa mới mặc xong quần áo thì ba mươi chín thiếu phụ kia đã kéo đến phòng tôi, tất cả đều trang điểm khác hẳn ngày hôm trước. Các nàng chúc tội một ngày tốt đẹp và hỏi han tôi về sức khoẻ. Rồi các nàng đưa tôi vào buồng tắm, tự tay kỳ cọ cho tôi và mặc dù ngoài ý muốn của tôi, các nàng vẫn giúp tôi mọi việc cần thiết. Các nàng mặc cho tôi một bộ quần áo khác còn đẹp hơn cả bộ hôm qua.
Suốt ngày hầu như chúng tôi chỉ ngồi ở bàn ăn và khi tới giờ đi ngủ, các nàng lại bảo tôi chọn người để qua đêm. Thưa bà, để bà khỏi nhàm chán vì cứ phải nghe nhắc đi nhắc lại cùng một việc đó, tôi xin nói tóm tắt là suốt một năm tròn tôi sống với bốn mươi thiếu phụ và lần lượt mỗi đêm tôi ngủ với một người. Và suốt cả thời gian đó, cuộc sống đầy hoan lạc đó không hề bị bất cứ một sự buồn phiền nhỏ nhặt nào làm cho gián đoạn.
Cuối năm đó (không gì làm tôi bất ngờ hơn), bốn mươi thiếu phụ đó đáng lẽ đến với tôi vui vẻ như thường ngày, hỏi thăm sức khoẻ... thì một buổi sáng vào phòng tôi, nước mắt chan hoà. Họ lần lượt đến ôm hôn tôi và nói: Vĩnh biệt hoàng tử yêu quí, vĩnh biệt? Chúng em buộc phải xa chàng thôi”.
Nước mắt của các nàng làm tôi xốn xang. Tôi yêu cầu họ cho biết căn nguyên nỗi buồn của họ và sự ly biệt mà họ vừa nói. Tôi nói thêm:
- Nhân danh Thượng đế, các cô em xinh đẹp của tôỉ, hãy cho tôi biết là có thể làm gì để có thể an ủi và giúp ích được các cô em bây giờ?
Đáng lẽ trả lời rõ ràng thì các nàng lại nói:
- Thượng đế chứng giám! Thà là chúng em. chưa hề quen biết chàng! Nhiều người trước chàng cũng đã có dịp tới thăm hỏi chúng em nhưng không một ai có được sự duyên dáng, dịu dàng, trẻ trung vui vẻ và tư cách như chàng. Chúng em chẳng biết rồi đây sẽ phải sống ra sao khi thiếu chàng.
Nói xong câu đó, các nàng lại khóc thảm thiết:
- Các cô nàng đáng yêu của tôi - Tôi nói - Tôi xin các nàng đừng làm cho tôi sầu não hơn nữa, hãy nói ngay cho tôi biết nguyên nhân nỗi đau lòng của các nàng.
- Than ôi! - Các nàng bảo - Còn có điều gì khác làm cho chúng em đau lòng là phải xa chàng nữa đâu? Có thể chúng em chẳng còn bao giờ được thấy chàng nữa? Tuy vậy nếu chàng muốn và vì chuyện này mà tự chủ được bản thân thì không phải là không thể lại gặp được nhau.
- Các nàng? - Tôi lại nói - Tôi chẳng hiểu các nàng muốn nói gì. Xin hãy nói rõ ra xem nào.
- Vậy thì - Một nàng nói - Để làm vừa lòng chàng, em nói cho chàng biết chúng em đều là công chúa, con gái vua. Chúng em cùng nhau sống chung ở đây trong cảnh lạc thú mà chàng thấy đó, nhưng cứ mỗi năm là chúng em phải bắt buộc vắng mặt bốn mươi ngày cho những bổn phận cần thiết không thể nói ra được. Sau đó chúng em sẽ lại trở về đây. Hôm qua là ngày hết năm, hôm nay chúng em phải từ biệt chàng. Vì vậy đó là nguyên nhân nỗi đau buồn của chúng em. Trước khi ra đi, chúng em sẽ để lại cho chàng tất cả những chìa khoá? đặc biệt là chìa khoá cửa của trăm gian phòng mà chàng sẽ thấy trong đó tất cả những thứ hay, lạ khả dĩ có thể thoả mãn óc hiếu kỳ và làm dịu đi nỗi buồn cô đơn của chàng trong thời gian chúng em vắng mặt. Nhưng vì điều tất cho chàng và vì lợi ích riêng của chúng em, xin chàng chớ có đụng tới và mở cái cánh cửa bằng vàng của một phòng đặc biệt trong số một trăm phòng kia. Nếu chàng mà mở ra thì chẳng. bao giờ chúng ta cò thấy lại nhau nữa và chính nỗi lo đó lại càng làm chúng em đau khổ. Chúng em mong là chàng sẽ làm theo lời chúng em căn dặn. Nó quan hệ tới sự an bình, đến hạnh phúc của cuộc sống, chàng hãy thận trọng, nếu chàng để cho tính tò mò thóc mách lấn át thì đó là chàng đã mắc một sai lầm lớn. Chúng em khuyên chàng chớ mắc vào sai lầm đó và để cho chúng em nuôi hy vọàg là sẽ được thấy lại chàng tại đây trong vòng bơn mươi ngày nữa. Chúng em có thể mang theo chìa khoá của cái cửa bằng vàng đó, nhưng sẽ là một sự xúc phạm đối với một hoàng tử đàng hoàng như chàng, là đã nghi ngờ tính kín đáo và sự kiềm chế bản thân của chàng”.
Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng nhìn thấy trời đã sáng. Hoàng đế, tò mò muốn biết là người tu sĩ đó làm gì khi chỉ còn một mình trong lâu đài sau khi bốn mươi thiếu phụ đã ra đi nên tự hẹn đến đêm sau chắc sẽ được làm sáng tỏ.

***

Cô gái hảo tâm Dinarzade thức giấc dậy khá lâu trước khi trời sáng, gọi hoàng hậu:
- Chị ơi, nếu chị không ngủ nứa thì chị nên kể tiếp cho hoàng đế, lãnh chúa của chúng ta nghe câu chuyện mà chị đã bắt đầu đi!
Scheherazade ngoảnh về phía Schahrlar nói:
- Tâu hoàng thượng, Người đã biết là người tu sĩ vẫn kể chuyện mình cho Zobéide nghe. Anh ta kể tiếp như thế này:
“Thưa bà, lời dặn dò của những nàng công chúa xinh đẹp này thực sự làm tôi đâu lòng. Tôi bày tỏ với các nàng là sự vắng mặt của các nàng làm tôi buồn nhớ vô hạn. Tôi hết sức cảm ớn về những lời dặn dò chu đáo. Tôi hứa với họ là sẽ nghe theo và hết sức cố gắng làm những việc khó khăn hơn để có hạnh phúc được sống những ngày còn lại cùng những người đàn bà hiếm có như các nàng. Cuộc chia tay diễn ra đầy lưu luyến. Tôi lần lượt ôm hôn họ. Rồi các nàng ra đi, còn một mình tôi ở lại lâu đài.
Niềm lạc thú trong cuộc sống chung, những bữa tiệc thịnh soạn, các buổi hoà nhạc, những trò vui chơi làm tôi bận rộn suốt cả năm khiến tôi chẳng còn thời gian cũng như chẳng có một chút ý muốn nào xem những kỳ quan có thể đầy đẫy trong cái lâu đài huyền ảo này. Tôi cũng chẳng mảy may chú ý gì đến tất cả những đồ vật đẹp tuyệt vời dưới mắt tôi hàng ngày vì còn mải mê say đắm trước nhan sắc của các thiếu phụ, được nhìn thấy họ chỉ duy nhất quan tâm tới việc làm cho tôi vui thích. Tôi buồn đến nẫu ruột khi họ ra đi và, tuy sự vắng mặt của họ chỉ trong vòng bốn chục ngày, mà tôi tháy như mình phải sống không có các nàng hàng thế kỷ.
Tôi tự hứa với mình là sẽ không quên lời dặn dò quan trọng của họ là không bao giờ được mở cái cánh cửa bằng vàng. Và dường như chỉ cần thế, tôi được phép thoả mãn trí tò mò ở những cánh cửa kia. Tôi cầm lấy chiếc chìa khoá thứ nhất đã được sắp xếp thứ tự.
Tôi mở cánh cửa thứ nhất và đi vào một khu vườn cây ăn quả mà tôi tưởng là trong toàn vũ trụ không có một vườn quả nào so sánh nổi. Tôi cũng không nghĩ là vườn thiên đàng mà đạo giáo chúng ta hứa hẹn với những tín đồ sau khi chết liệu có hơn được thế này không. Tính đối xứng, vẻ sạch sẽ, cách bố trí tuyệt vờl các cây trồng, sự phong phú và sự đa dạng của hàng ngàn loại quả lạ, tươi tốt, đẹp đẽ tất cả làm tôi ngợp mắt. Tôi cũng chẳng được phép bỏ qua để lưu ý với bà, thưa bà, là khu vườn tuyệt diệu này được tưới tắm một cách rất khác thường. Những rãnh nước đứợc đào khéo léo và cân đoí đem nước thật đầy đủ tới rễ các cây đang cần trổ lá non và trổ hoa; những rãnh nước khác thì đưa lượng nước vừa đủ tới gốc những cây đang bắt đầu ra quả; những rãnh khác thì đưa ít nước hơn tới những gốc cây mà quả đã lớn; những rãnh khác chỉ tưới vừa đủ cho những cây mà quả chỉ còn chờ hái xuống thôi. Và những trái cây này cũng to hơn rất nhiều lần so với những quả thường có trong các khu vườn của chúng ta. Còn những mương nước khác dẫn nước cho những cây mà quả đã chín thì chỉ cần vừa đủ độ ẩm để giữ nguyên chất lượng cho quả chưa kịp hái xuống mà thôi.
Tôi ngắm nhìn không biết chán một nơi có phong cảnh đẹp tuyệt vời như thế và không còn muốn rời đi nữa nếu không thấy thoáng qua trong đầu là còn rất nhiều điều kỳ thú mà mình chưa được nhìn thấy. Đi ra khỏi vườn, trong đầu óc đầy những điều kỳ diệu, tôi đóng cửa thứ nhất lại và mở cánh cửa tiếp theo.
Thay cho một vườn cây ăn quả là một vườn trồng hoa, cũng chẳng kém phần đặc biệt về loại vườn này. Vườn gồm có một khoảnh đất rộng được tướí nước không phải theo cách như bên vườn cây ăn quả nhưng công phu hơn nhiều để mỗi loại hoa nhận được nước vừa đủ cho sự sinh trưởng của mình. Hoa hồng, hoa nhài, hoa tím, hoa thuỷ tiên, hoa dạ lài, hoa mẫu đơn, hoa uất kim cương, hoa mao hương, hoa cẩm chướng, hoa huệ và vô vàn những thứ hoa khác mà nếu ở nơi khác thì chỉ nở theo mùa, nhưng ở đây lại cùng lúc nở rộ muôn hồng nghìn tía. Thật không ở đâu sảng khoái bằng ở khu vườn mà không khí thấm đẫm hương thơm này.
Tôi mở cánh cửa thứ ba, đó là một nhà nuôi chim rất rộng. Nền nhà lát đá hoa cẩm thạch đủ các màu sắc, vào loại đá quý nhất và hiếm nhất. Lồng chim bằng gỗ đàn hương và trầm hương. Những chiếc lồng rộng lớn đó chứa vô số những chim hoạ mi, chim kim oanh, chim bạch yến, chim sơa ca và các loại chim khác có tiếng hót thật du dương mà tôi chưa từng thấy người nào nói trong đời. Những chiếc bình đựng hạt và nước uống cho chim đều được làm bằng đá hoa vân và mã não vào loại quí nhất.
Nhà nuôi chim này vô cùng sạch sẽ. Cứ nhìn vào qui mô của nó, tôi ước lượng là phải có không dưới một trăm con ngườì thì mới bảo quản giữ gìn được tinh tươm như vậy. Thế nhưng chẳng thấy có một bóng người nào xuất hiện, cũng như trong các khu vườn mà tôi đã vào thăm không hề có một ngọn cỏ dại, một sự thừa thãi nhỏ nào làm chướng mắt.
Mặt trời đã lặn, tôi trở ra, tai còn vang vang những tiếng hót của muôn loài chim lúc này đang tìm chỡ đỗ thuận tiện nhất để nghỉ đêm. Tôi về phòng riêng và định bụng là sẽ lần lượt mở những cánh cửa khác vào những ngày sau trừ cánh cửa bằng vàng thứ một trăm.
Ngày hôm sau, tôi không quên đi đến mở cánh cửa thứ tư. Nếu những gì mà tôi nhìn thấy ngày hôm trước đã gây cho tôi bao sự ngạc nhiên, thì những gì tôi thấy luc này làm tôi mê mẩn. Tôi đặt chân trong một cái sân rộng, quây xung quanh là một toà nhà với kiến trúc tuyết diệu mà tôi chẳng tả ra đây làm gì để tránh sự dài dòng.
Toà nhà này có bốn chục cửa, mỗi cửa mở đi vào một kho tàng và trong số kho tàng đó có những kho giá trị hơn cả sự giàu có của những vương quốc lớn nhất. Kho thứ nhất chứa hàng núi ngọc trai những viên ngọc quí nhất ngoài mọi sức tưởng tượng, đều to bằng những quả trứng chim bồ câu. Trong kho thứ haí là những viên kim cương, ngọc hồng và ngọc tía. Trong kho thứ ba gồm toàn ngọc bích. Kho thứ tư: vàng thỏi; kho thứ năm: tiền đồng; kho thứ sáu: bạc nén. Hai kho tiếp theo: tiền các loại. Các kho khác chứa ngọc tía, ngọc xanh, ngọc vàng, ngọc mắt mèo, ngọc lam, ngọc vân và tất cả nhũng loại đá quí khác mà ta không biết, rồi mã não, vân thạch và san hô: San hô ở đây có cả một kho đầy không chỉ là cành san hô mà là những cây san hô nguyên vẹn.
Đầy kinh ngạc và khâm phục, sau khi xem tất cả những của cải quý báu đó, tôi thất lên:
- Chà, tất cả các kho tàng của tất cả các quốc gia trên trái đất này nếu được tập họp lại một nơi cũng không thể bằng được những của cải này. Hạnh phúc của ta thật là vô bờ được sở hữu tất cả các kho báu này cùng với các nàng công chúa vô cùng khả ái!
Tôi không ngừng lại, thưa bà, để kể chi tiết tất cả những vật quý hiếm mà tôi thực mục sở thị những ngày tiếp sau. Chỉ nói để bà hay là tôi đã mất không dưới ba mươi chín ngày để mở hết chín mươi chín cánh cửa, để nhìn ngắm tất cả những gì bày ra trước mắt và không còn đủ lời để trầm trồ khâm phục. Duy chỉ còn cánh cửa thứ một trăm thì tôi đã bị ngăn cấm...”.
Ánh sáng ban ngày chiếu rọi vào hậu cung của hoàng đế Ấn Độ đã làm Scheherazade nín lặng. Những câu chuyện này đã làm cho Schahriar vô cùng thích thú nên chẳng có ý nào không muốn nghe tiếp vào hôm sau. Vị quốc vương này đứng lên trong ý nghĩ đó.

***

Dinarzade cũng nôn nóng chẳng kém gì . Schahriar trong việc muốn biết có gì kỳ lạ bên trong cánh cửa thứ một trăm đã được khoá kín nên thức giấc và cất tiếng gọi hoàng hậu rất sớm:
- Chi ơi, nếu chị không ngủ nũa, xin chị kể nốt câu chuyện kỳ lạ của người tu sĩ thử ba đi.
- Anh ta đã kể tiếp như sau - Scheherazade nói.
“Đang là ngày thứ -bốn mươi, tính từ ngày các nàng công chúa yêu kiều duyên dáng ra đi. Nếu ngày này tôi làm chủ được mình như cần pllải có thì tôi đã là một người sung sướng nhất trongtất cả các người đàn ông trên thế gian này chứ đâu phải là một người khổ sở nhất như bây giờ. Ngày mai các nàng sẽ về tới nơi và niềm vui được thấy lại các nàng lẽ ra phải là cái hãm có hĩệu quả tính tò mò của tôi mới phải, nhưng bởi sự yếu đuối mà tôi không bao giờ ngừng hối hận, tôi đã đầu hàng dưới sự quyến rũ của quỷ sứ nó không cho tôi được yên ổn chút nào cho đến khi tôi tự dấn thân vào con đường khổ ải bắt buộc phải trải qua.
Tôi mở cái cánh cửa tai hoạ mà tôi đã hứa là sẽ không mở. Mới đợm chân bước vào thì một mùi thơm khá dễ chịu nhưng không hợp với tạng người mình đã làm tôi ngã và ngất xỉu. Nhưng rồi tôi tỉnh lại và đáng lẽ tuân theo lời cảnh bảo đó mà đóng cửa lại, từ bỏ mãi mãi cái ý muốn thoả mãn trí tò mò thì tôi lại bước vào. Chờ một lát cho cái mùi hương lạ đó nhạt dần đi, tôl thấy trong người trở lại bình thường.
Đây là một nơi rộng rãi, lợp mái vòm và trên sàn rải rác những củ nghệ. Nhiều cây đèn bằng vàng khối với những thỏi nến đang cháy nồng mùi trầm và xạ hương. Ánh sáng này được bổ sung thêm bằng những chiếc đèn đầu, có nhiều mùi hương khác nhau, bằng vàng và bạc.
Trong số rất nhiều đồ vật thu hút sự chú ý, tôi nhìn thấy một con ngựa màu đen, đẹp và được chế tạo một cách rất tinh xảo ít có trên đời. Tôi đến gần để ngắm thật kỹ: yên ngựa và đây cương ngựa cũng bằng vàng chạm trổ công phu, máng ăn của nó đặt bên cạnh chứa lúa mạch và vừng một bên, bên kia là nước hoa hồng. Tôi cầm đây cương kéo nó ra ngoài để ngắm cho rõ hơn. Tôi nhảy lên lưng và thúc cho nó tiến lên. Vì thấy nó không nhúc nhích, tôi dùng chiếc roi đã nhặt được trong cái chuồng ngựa tráng lệ đó, quật vào mông nó một cái. Tức thì nó hí lên một tiếng khủng khiếp rồi giương đôi cánh, mà tôi không nhận thấy, bay vút lên khoảng không. Tôi chỉ còn cách giữ cương cho thật chặt và mặc dù sợ hãi hết hồn, tôi vẫn không sao cả. Nó hạ thấp đần xuống và đỗ trên sân thượng một toà lâu đài rồi không cho tôi kịp tụt xuống nó rung mình thật mạnh làm tôi ngã bật ra phía sau, và chót đuôi nó chọc thẳng vào mắt bên phải của tôi.
“Đó, vì sao mà tôi thành chột mắt và tôi bỗng nhớ lại lời báo trước của mười chàng trai. Con ngựa tiếp tục giương cánh bay lên mất hút. Tôi nhổm đậy vô cùng đau xót vì tai hoạ mà tự mình đã chuốc lấy. Tôi bước đi. Trên sân thượng, bàn tay bịt lấy con mắt vừa bị chọc thủng đau nhức nhối. Tôi đi xuống và thấy mình đang ở trong một phòng khách quen thuộc vì nhận thấy có mười chiếc bệ bày thành vòng tròn, một chiếc đặt chính giữa thấp hơn một chút. Đây đúng là lâu đài nơi mà tôi đã bị con đại bàng quắp đi trong bộ da cừu.
Mười chàng trai không có mặt trong phòng khách. Tôi ngồi chờ họ và chẳng mấy chốc họ đã đi vào sau ông già. Họ không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy tôi và việc tôi bị chột mắt phải.
Chúng tôi lấy làm tiếc - Họ bảo tôi - là không thể chúc mừng sự trở về của ngài như cách chúng tôi hằng mong ước. Nhưng chúng tôi đâu phải là những người gây nên nỗi bất hạnh của ngài.
- Tôi sẽ rất sai lầm - Tôi đáp - nếu đổ tội cho các ngài về chuyện đó. Đó là tự tôi chuốc lấy thôi. Tôi xin nhận tất cả lỗi lầm về mình.
- Nếu câu “đồng bệnh tương liên” là đúng - Họ lại nói - Thì gương của chúng tôi đây cũng có thể góp một phần an ủi ngài. Tất cả những gì xảy ra với ngài thì chúng tôi cũng đã từng nếm qua. Chúng tôi đã tận hưởng tất cả những lạc thú có ở trên đời suốt một năm tròn, và có lẽ cũng vẫn tiếp tục được hưởng hạnh phúc nếu chúng tôi không dại dột mở cánh cửa bằng vàng trong khi các nàng công chúa đi vắng. Ngài cũng chẳng khôn ngoan gì hơn chúng tôi và ngài cũng đã nhận được sự trừng phạt chẳng khác gì chúng tôi. Chúng tôi rất muốn giữ ngài lại đây để cùng hảnh xác như chúng tôi đang làm chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Nhưng chúng tôi cũng đã từng nói với ngài có nhiều lý do đã ngăn cấm không cho nhận ngài vào nhóm được. Vậy thì ngài hãy đi đi, đi tởí tận triều đình Bagdad? ở đó ngài sẽ thấy ai là người quyết định số phận của ngài.
Họ chỉ vẽ cho tôi đường phải đi, và thế là tôi từ biệt họ.
Dọc đường di, tôi đã cạo râu tóc; lông mày và khoác áo tu sĩ khổ hạnh đạo Hồi. Tôi đi rất lâu. Cuối cùng thì ngày hôm nay đã tới thành phố này vào lúc chập tối. Tôi gặp ở cổng thành người tu si này, đồng đạo của tôi. Cả ba người đều hết sức ngạc nhiên thấy cùng bị chột bên mắt phải. Nhưng chúng tôi chưa có thời gian để hỏi han nhau về cái tai nạn chung đó. Thưa bà, chúng tôi chỉ còn đủ thời gian để đến đây nài xin sự giúp đỡ và đã được bà gia ân một cách thật hào hiệp.
Tu sĩ khổ hạnh thứ ba đã kể xong chuyện mình, Zobéide bảo anh và cả hai người tu sĩ kia:
- Các ngài hãy đi đi, cả ba ngài đều được tự do, muốn đi đâu tuỳ ý
Nhưng một trong ba người nói:
- Thưa bà, xin miễn thứ cho chúng tôi vì tính tò mò, hãy để cho chúng tôi được nghe chuyện của các ngài kia, họ còn chừa được nói.
Người thiếu phụ bèn quay sang phía hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour mà nàng chưa biết là những người như thế nào, bảo họ:
- Bây giờ đến lượt các ngài kể chuyện mình cho tôi nghe. Hãy kể đi?
Tể tướng Giafar vẫn là người phát ngôn, lải trả lờị Zobéide: .
- Thưa bà, để vâng theo lời bà, chúng tôi chỉ xin nhắc lại điều mà chúng tôi đã nói trước khi vào quý xá. Chúng tôi ông nói tiếp - là những thương nhân ở Mossoul đến Bagdad để thương lượng mua bán hàng. Hiện nay hang hoá của chúng tôi còn để ở khọ một trang trại mà chúng tôi tạm trú. Ngày hôm nay chúng tôi đã tiệc tùng với rất nhiều đồng nghiệp tại một nhà buôn ở thành phố. Ông này sau khi chiêu đãi chúng tôi thật thịnh soạn, đã cho gọi một đoàn vũ nữ và vũ công cùng với các ca sĩ và nhạc công tôi giúp vui. Những tiếng ồn do chúng tôi gây ra đã làm cho lính tuần tra kéo đến bắt giữ nhiều người. May mắn, chúng tôi đã trốn thoát, nhưng vì đêm đã khuya, cổng trang trại đã đóng kín nên chúng tôi chẳng biết về đâu. Tình cờ đi qua phố này, nghe thấy tiếng đàn hát vui chơi trong nhà nên đánh bạo gõ cửa. Đó, thữa bà, chuyện của chúng tôi chỉ có thế xin được thuật lại theo lệnh của bà.
Zobéide nghe xong dường như lưỡng lự chưa biết xử trí thế nào. Các tu sĩ nhận thấy, xin nàng đối xử với ba nhà buôn ở Mossoul cũng có độ lượng như đối với họ.
- Thôi được - Nàng bảo họ - Ta đồng ý. Ta muốn là mọi người đều được đối xử như nhau. Ta tha cho các người nhưng với điều kiện là tất cả phải lập tức ra khỏi nhà này và đi đâu thì tuỳ ý.
Zobéide ra lệnh đó với thái độ tỏ ra bắt mọi người phải tuân theo. Nhà vua, tể tướng, Messoul, ba tu sĩ và anh khuân vác đi ra không một tiếng phàn nàn vì sự có mặt của bảy tên nô lệ vũ trang khiến họ chẳng dám ho he. Khi đã đi ra ngoài và cửa toà nhà đã đóng lại, hoàng đế vẫn chưa để lộ hình tích, bảo những tu sĩ:
- Các ngài là những người lạ và mới tôi thành phố này, bây giờ định đi đâu, trời thì chưa sáng hẳn?
- Thưa ngài - Họ đáp - Đó là điều làm chúng tội lung túng.
- Thế thì hãy theo chúng tôi - Nhà vua tiếp – Chúng tôi sẽ giúp các ngài thoát khỏi khó khăn.
Rồi ông quay sang bảo tể tướng:
- Ngươi hãy đưa họ về nhà ngươi và sáng mai dẫn họ đến chỗ ta. Ta muốn cho chép lại những câu chuyện của họ. Những chụyện đó đáng được ghi vào biên niên triều đại ta.
Tể tướng Giafar dẫn theo mình ba tu sĩ. Anh khuân vác thì đi về nhà. Còn hoàng đế có Mesrour hộ giá trở về hoàng cung. Ông đi nằm nhưng không sao nhắm được mắt, đầu ỏc còn bị bao nhiêu những chuyện kỳ lạ mắt nhìn thấy, tai nghe thấy chi phối. Ông băn khoăn nhất không rõ Zobéide là người như thế nào, vì sao mà nàng lại hành hạ đã man hai con chó mực cái và vì sao mà Amine lại có bộ ngực đầy sẹo. Trời sáng rõ rồi mà đầu óc ông vẫn bận rộn vì những ý nghĩ đó. Ông đứng lên và đi ra thiết triều, ngồi lên ngai.
Tể tướng tới sau một lát và chúc tụng nhà vua như thường lệ. Hoàng đế bảo:
- Tể tướng này, công việc cần phải giải quyết hôm nay không có gì cấp bách lắm mà việc ba thiếu phụ và hai con chó mực cái còn gấp hơn nhiều. Ta không thể nào ăn ngon ngủ yên khi chưa được biết rõ tất cả bao nhiêu chuyện làm ta sửng sốt. Nhà ngươi hãy đi triệu tất cả các thiếu phụ ấy và cả các tu sĩ khổ hạnh nữa tới đây cho ta. Đi đi, và nhớ là ta nóng lòng chờ đợi nhà ngươi trở về đấy.
Tể tướng biết rất rõ tính tình sôi nổi và nôn nóng của chủ mình nên vội vã chấp hành. Ông tới nhà các thiếu phụ, thẳng thắn trình bày với họ lệnh của hoàng đế triệu họ mà không nói gì tới chuyện gì đã xảy ra tại nhà họ đêm hôm trước.
Các thiếu phụ lấy mạng che mặt và đi cùng với tể tướng, ông này tạt qua nhà mình và dẫn luôn cả ba tu sĩ cùng đi. Các tu sĩ đã có thời gian để biết rõ là mình vô tình đã được tiếp xúc với hoàng đế.
Tể tướng dẫn cả bọn vào hoàng cung coi như đã làm tròn nhiệm vụ. Hoàng đế rất hài lòng về sự mau lẹ này. Để giữ lịch sự trước triều thần có mặt lúc đó, nhà vua đã cho các thiếu phụ đứng sau cửa căn phòng dẫn tới hậu cung và giữ ba tu sĩ lại bên cạnh mình. Vẻ cung kính của ba chàng tỏ ra là họ đã biết mình đang đứng trước mặt ai.
Sau khi các thiếu phụ đã yên vị, hoàng đế ngoảnh về phía họ bảo:
- Thưa các bà, nói để các bà biết là tôi đã cải trang thành thương nhân và được vào nhà các bà tối hôm đó. Chắc các bà lo sợ, cho là vì có điều gì xúc phạm đến ta mà đã được gọi tới đây để bị xử phạt. Nhưng xin cứ yên tâm. Hãy tin rằng ta đã quên tất cả những gì thuộc về quá khứ và còn rất hài lòng về cách xử sự của các bà. Ta ước sao tất cả phụ nữ của thành Bagdad này cũng đều khôn ngoan lịch thiệp như các bà mà ta đã được chứng kiến. Ta luôn luôn nhớ tới thái độ ôn hoà của các bà trước hành vi thiếu lịch sự của chúng ta. Lúc đó ta là thương nhân ở Mossoul, nhưng bây giờ đây ta là Haroun Alraschid, hoàng đế thứ năm của triều đại Abbas quang vinh, đang trị vì thay thế cho đấng tiên tri vĩ đại của chúng ta. Ta triệu các bà tới đây, đơn thuần chỉ muốn biết các bà là ai và cũng để hỏi xem vì sao mà một trong các bà, sau khi hành hạ hai con chó mực cái, lại khóc lóc cùng với chúng. Ta cũng lại còn muốn biết vì sao một bà lại có bộ ngực đầy vết sẹo.
Mặc dù hoàng đế nói những lời trên đây rất rõ rang rành mạch và các thiếu phụ đều nghe chăm chú nhưng tế tướng Giafar, với vẻ thật trịnh trọng vẫn nhắc lại các câu trên cho các bà nghe...”
- Nhưng, tâu hoàng thượng - Scheherazade nói - Trời sáng mất rồi. Nếu hoàng thượng còn muốn nghe tiếp thì Người sẽ lại phải cho thiếp sống đến ngày mai thôi. Hoàng đế gật đầu đồng ý, chắc là Scheherazade sẽ kể cho nghe. chuyện nàng Zobéide mà ông chẳng phải là không muốn nghe.

***

- Chị thân yêu của em - Dinarzade kêu chị lúc sắp tàn đêm - Nếu chị không còn ngủ nữa, thì xin chị nói về Zobéide vì em chắc là bà thiếu phụ này thể nào cũng kể chuyện của mình với nhà vua.
- Đúng vậy em ạ - Scheherazade đáp - Khi nhà vua đã nói cho bà ta yên tâm như vừa rồi thì người thiếu phụ này cũng đáp ứng yêu cầu của nhà vua và trình bày như sau:
 
 
                                                                                    Phần Sau  | Phần Kế Tiếp
                                              Chương 12
                    CHUYỆN KỂ CỦA NÀNG ZOBÉIDE
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Nàng nói - Chuyện tôi kể hầu Người sau đây là một trong các chuyện kỳ lạ nhất chưa ai từng nghe nói. Hai con chó mực cái và tôi vốn là ba chị em cùng một cha mẹ sinh ra. Tôi sẽ kể Người nghe vì cơn cớ gì mà họ lại hoá thành chó.
Hai thiếu phụ ở cùng với tôi và hiện đang có mặt tại đây cũng là chị em của tôi nhưng cùng cha khác mẹ. Cô em mà ngực đầy vết sẹo tên là Amine, cô kia có tên là Safie, còn tôi là ZobéiDe.
Sau khi cha chúng tôi tạ thế, của cải ngườI để lại được chia đều cho mọi người chúng tôi. Sau khi nhận phần của mình, hai cô em này chIa tay nhau và mỗi cô đều về sóng với mẹ đẻ của mình. Hai người chị và tôi ở lại sống với mẹ. Sau đó mẹ chúng tôi qua đời để lại cho chúng tôi mỗi người một nghìn đồng sequins.
Khi mọi người chúng tôi đã nhận đủ phần tài sản của mình thì hai chị tôi (tôI là em út) thành gia thất đi theo chồng và để tôI ở LạI một mình. Sau hôn nhân một thời gian ngắn thì người chồng của chị cả tôi bán đi tất cả gia sản, đồ đạc nhà cửa rồi cả haI vợ chồng sang sinh sống bên châu Phi. Tại đây, người chồng tiêu xài hoang phí, rượu chè trai gái nên chẳng bao lâu mà vốn liếng của anh ta và vốn riêng của chị tôi hết sạch. Cuối Cùng, thấy mình hoàn toàn khánh kiệt, anh ta kiếm cớ ruồng rẫy vợ và đuổi chị đi. Chị tôi trở về Bagdad, trải bao gian nan khổ ải trong một chuyến đi dài, chị về trú ngụ tại nhà tôi trong tình trạng vô cùng đáng thương, làm xót xa đến cả những tấm lòng cứng rắn. Tôi đón nhận chị với tất cả sự yêu thương mà chị có thể chờ đợi ở tôi. Tôi hỏi chị nguyên nhân của hoàn cảnh khốn khổ này. Chị khóc kể cho tôi nghe hạnh kiểm xấu xa của chồng và sự đối xử tàn tệ của hắn đối với chị. Tôi rất xúc động về nỗi bất hạnh của chị và cũng không sao cầm được dòng nước mắt thương cảm. Tôi bảo chị đi tắm rửa, đưa cho chị quần áo của tôi để chị thay và bảo chị: “Chị của em, chị là chị cả, em coi chị như mẹ. Khi chị rời đây đi theo chồng thì với phần tài sản được chia, nhờ ơn Thượng đế, em đã dùng số vốn ít ỏi đó chăn nuôi tằm và đã ăn nên làm ra. Xin chị hãy coi tất cả những gì em có đây như là của chị, chị muốn sử dụng ra sao tuỳ ý.
Trong nhiều tháng liền, chúng tôi sống với nhau thật hoà thuận. Chúng tôi thường luôn luôn trao đổi chuyện trò về người chị thứ hai và rất lấy làm ngạc nhiên là tuyệt nhiên không có một tin tức nào. Thì ra chị ấy cũng lâm vào hoàn cảnh đáng phàn nàn chẳng khác gì chị cả. Chồng của chị cũng đối xử với chị tàn tệ như thế. Và tôi lại đón nhận chị cũng đầy tình thân ái như thế.
Một thời gian sau hai bà chị của tôi, dưới cớ không muốn là gánh nặng cho tôi mãi, tỏ ý muốn tái giá. Tôi trả lời hai chị là nếu họ không có lý do gì ngoài ý cho mình là gánh nặng cho tôi thì xin cứ yên tâm sống cùng tôi, là vốn liếng của tôi cũng đủ chu cấp cho cả ba một cuộc sống chẳng đến nỗi thiếu thốn. Nhưng - tôi nói thêm - em sợ là các chị có ý muốn đi bước nữa. Nếu thực là như thế, thì thú thật là em vô cùng ngạc nhiên. Sau kinh nghiệm mà các chị vừa trải qua trong cuộc hôn nhân chẳng tất đẹp gì, chẳng lẽ các chị còn muốn sa vào lần thứ hai? Các chị cũng chẳng còn lạ gì là tìm được một người đàn ông chân chính bây giờ thật vô cùng khó khăn. Hãy tin em đi, chúng ta hãy tiếp tục cuộc sống chung với nhau như thế này, há chẳng phải là ấm cúng dễ chịu sao!
Tất cả những lời chân tình tôi nói với họ đều hoàn toàn vô ích. Họ đã quyết định lại đi lấy chồng và họ thực hiện quyết định đó. Nhưng, chỉ vài tháng sau họ lại quay về thiết tha xin lỗi là đã không nghe theo lời khuyên của tôi.
- Em là em út của các chị - Họ bảo tôi - Nhưng em khôn ngoan hơn các chị nhiều. Nếu em lại vui lòng đón nhận các chị và coi các chị như những nô lệ của em thì các chị sẽ chẳng bao giờ mắc sai lầm như thế nữa.
- Các chị yêu quý! - Tôi đáp - Kể từ ngày các chị chia tay mới đây, em vẫn một lòng thương yêu, chẳng có gì thay đổi đối với các chị cả. Các chị hãy trở về đây và cùng chung hưởng với nhau những gì mà em sở hữu.
Tôi ôm hôn họ và chúng tôi lại cùng chung sống với nhau như trước đây.
Được một năm, chúng tôi sống trong tình đoàn kết và được Thượng đế phù hộ cho cái vốn liếng nhỏ nhoi của mình phát triển. Tôi nảy ra ý định làm một chuyến đi biển và thử vận may trong buôn bán. Vì vậy tôi và hai chị chuyển đến Balsora mua một con tàu đầy đủ trang thiết bị, chất đầy hàng mà tôi cho chở tới từ Bagdad. Giương buồm và được thuận gió, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã qua Vịnh Persique. Ra khơi, chiếu thẳng sang Ấn Độ và sau hai chục ngày lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi đã nhìn thấy đất liền. Đó là một ngọn núi rất cao, dưới chân núi một thành phố có vẻ ngoài thật trù phú.
Vì đang thuận gió nên chúng tôi cặp bến sớm và thả neo.
Không đủ kiên nhẫn đợi các chị trang điểm và sửa soạn đi theo, tôi xuống tàu một mình và đi thẳng vào thành phố. Tôi thấy một đám đông, người thì ngồi, người thì đứng, mỗi người trong tay đều cầm một cái gậy, tất cả đều có vẻ mặt xấu xí khủng khiếp khiến tôi hoảng sợ. Nhưng nhận thấy tất cả đều im lìm bất động và ngay cả đồng tử mắt cũng không động đậy, tôi vững dạ tiến đến gần hơn và thấy đó là những con người đã hoá đá.
Tôi đi vào trong thành, qua nhiều đường phố mà từng quãng từng quãng lại có những người trong đủ các tư thế nhưng đều bất động vì đã hoá đá. Ở khu vực buôn bán, phần lớn các quán hàng đều đóng cửa, còn trong số ít những quán cửa mở thì những người ở đó cũng đều đã hoá đá. Ngước mắt lên nhìn những ống khói các bếp, không nhìn thấy khói toả, tôi đoán là tất cả những ai ở trong nhà cũng như những người ở bên ngoài đều hoá đá rồi.
Đến trước một công trường lớn ở giữa thành phố, tôi phát hiện ra một cái cổng lớn hai cánh để mở dát những tấm vàng ròng. Phía trước có một tấm rèm lụa rủ xuống và một cái đèn treo ngay phía trên cổng. Sau khi ngắm kỹ toà nhà, tôi không chút nghi ngờ đó là cung điện của một vị quốc vương trị vì xứ sở này. Nhưng vô cùng kinh ngạc là không gặp một sinh vật nào mà tôi thì hy vọng là tại đây có thể thấy một người nào đó. Tôi nâng bức rèm lên và lại càng kinh ngạc khi chỉ nhìn thấy dưới tiền đình một vài người gác cổng hoặc tuần canh đều đã hoá đá, người đứng, kẻ ngồi hoặc nửa nằm nửa ngồi.
Tôi đi qua một cái sân lớn có rất đông người. Những người này thì hình như đang đi, những người kia đang đến và chẳng ai nhúc nhích vì họ đều hoá đá như tất cả những người đã gặp. Tôi đi qua một cái sân thứ hai rồi đến cái sân thứ ba, mọi chỗ đều cô quạnh, im lặng đến rùng rợn.
Tiến tới một cái sân thứ tư, tôi nhìn thấy ngay trước mặt mình một đinh thự lộng lẫy mà các cửa sổ đều đóng các tấm lưới bằng vàng khối. Đoán đó là nơi ở của hoàng hậu, tôi đi vào. Trong một căn phòng thấy rất nhiều hoạn nô da đen đã hoá đá. Bước tiếp đến một căn phòng bài trí lộng lẫy, tôi thấy một bà mệnh phụ cũng đã hoá đá. Tôi biết đó là hoàng hậu vì trên đầu có vương miện bằng vàng và một chuỗi ngọc trai rất tròn và lớn hơn hạt dẻ. Tôi ngắm nghía thật gần và thấy chưa từng nhìn được một thứ nào đẹp hơn.
Tôi ngắm nhìn một lát tất cả những sự giàu có và sang trọng trong căn phòng này nhất là chiếc thảm chùi chân, những tấm gối dựa và chiếc sập trải tấm vải Ấn Độ thêu chỉ vàng với những hình người và vật thêu sợi bạc vô cùng tinh xảo.”
Scheherazade đáng lẽ còn tiếp tục kể nếu không thấy tia sáng bình minh đã len lỏi vào phòng ngủ. Hoàng đế say sưa nghe chuyện. Ông đứng lên tự bảo: ta cần phải biết cái chuyện những con người hoá đá lạ lùng này rồi sẽ đi tới đâu.

***

Dinarzade rất thích thú về đoạn đầu chuyện nàng Zobéide nên đã không quên kêu hoàng hậu trước khi trời sáng:
- Chị ơi? Nếu chị đã thức thì hãy kể tiếp cho em biết là Zobéide còn nhìn thấy những gì trong cái cung điện kỳ lạ mà bà ta đã đi vào.
- Người thiếu phụ này - Scheherazade nói - đã kể tiếp chuyện của mình với hoàng đế như sau:
- Tâu bệ hạ - Nàng kể - Từ phòng hoàng hậu hoá đá, tôi đã qua rất nhiều buồng và các phòng trong cung điện. Các nơi này đều rất sạch sẽ và tráng lệ. Cuối cùng tôi đến một căn phòng to rộng khác thường, ở đó có một bệ bằng vàng khối cao mấy bậc và có đính những viên ngọc bích rất to. Trên bệ đặt một chiếc giường trải gấm viền ngọc trai. Điều làm ngạc nhiên và khâm phục hơn cả là thấy có một luồng sáng chói ngời phóng ra từ phía chiếc giường đó. Tò mò muốn biết rõ sự tình, tôi trèo lên, nghển đầu nhìn thấy trên chiếc ghế đẩu một viên kim cương to bằng trứng đà điểu hoàn mỹ đến mức không thấy một vệt nhỏ nào trên mình nó. Viên kim cương phát sáng làm mắt tôi bị chói loà.
Hai bên đầu giường có hai cây đuốc thắp không rõ để làm.gì. Dù sao trong hoàn cảnh như vậy cũng khiến tôi đoán là có một ai đó sống trong cái cung điện nguy nga tráng lệ này vì những cây đuốc không thể tự nó thắp sang được. Rất nhiều những cái khác thường đã giữ tôi dừng lại ở căn phòng này, chỉ riêng viên kim cương mà tôi vừa nói cũng đã là vô giá.
Cũng vì tất cả các cửa đều để ngỏ hoặc chỉ khép hờ nên tôi đã đi vào những phòng khác cũng đẹp và sang trọng như những phòng tôi đã qua. Tôi đi đến tận các nhà bếp và các kho chứa đồ đầy ắp những của cải và mải chú ý tới tất cả những kỳ quan đó mà quên khuấy cả bản thân mình. Tôi chẳng còn nghĩ gì đến con tàu cũng như các chị mình mà chỉ nghĩ tới làm sao cho thoả trí tò mò. Nhưng đêm đang tới nhắc tôi là đã đến giờ rút ra về. Tôi muốn quay lại con đường qua các khoảng sân mà từ đó tôi đã đi nhưng chẳng phải dễ dàng gì mà tìm lại được. Tôi đi lạc trong các phòng và thấy mình lại vào căn phòng to rộng ở đó có cái bệ cao, cái giường, viên kim cương khổng lồ và những cây đuốc thắp sáng. Tôi quyết định qua đêm ở đây và sáng sớm mai sẽ tìm đường về con tàu của mình. Tôi đặt mình xuống glường không khỏi rùng mình sợ hãi thấy trơ trọi một mình ở một nơi hoang phế như thế này và chắc là vì sự sợ hãl đã làm tôi không sao mà ngủ được.
Vào khoảng nửa đêm bỗng tôi nghe thấy như tiếng một người đàn ông đọc kinh Coran, cũng giống kiểu cách và giọng đọc như chúng ta thường đọc trong đền thờ đạo Hồi của chúng ta. Điều này làm tôi vui mừng hết sức. Tôi lập tức bật dậy cầm lấy một cây đuốc để soi đường. Tôi đi từ phòng này sang phòng khác về phía nghe thấy tiếng nói đó vọng lại. Dừng lại trước cửa một phòng mà tôi thấy không thể nhầm được là tiếng nói phát ra từ trong đó. Tôi đặt cây đuốc xuống đất nhìn qua khe cửa thấy căn phòng như một nơl rao giảng. Đúng vậy, cũng như trong đền thờ của chúng ta, có một cái khám để các tín đồ quay vào cầu nguyện, những ngọn đèn treo thắp sáng và hai chân đèn với những cây nến trắng to cũng đang cháy sáng.
Tôi cũng nhìn thấy một cái thảm nhỏ trải sẵn theo cách như ở chúng ta để đặt mình lên trên và cầu kinh. Một người trẻ tuổi vẻ mặt hiền từ đang ngồi trên tấm thảm, chăm chú đọc quyển kinh Coran đặt trên một chiếc giá nhỏ trước mặt. Nhìn thấy vậy, lòng tràn đầy ngưỡng mộ, tôi tự hỏi trong đầu làm sao lại có thể chỉ còn một mình anh ta sống trong một thành phố mà tất cả mọi người đều đã hoá đá và chẳng còn nghi ngờ gì nữa là trong chuyện này có một cái gì đó kỳ quặc khác thường.
Vì cửa chỉ khép hờ nên tôi đẩy ra, bước vào và đứng thẳng người trước khám, xướng to lời cầu nguyện: “Ngợi ca Thượng đế đã phù hộ cho chúng con được thuận buồm xuôi gió. Xin Người hãy ban phúc lành và che chở cho chúng con như thế cho đến lúc về lại nước nhà. Xin hãy nghe và chấp nhận lời cầu xin của chúng con”.
Chàng thanh niên đưa mắt nhìn tôi nói:
- Thưa quý bà, xin cho biết quý bà là ai và việc gì đã đưa bà tới cái thành phố ảm đạm này. Để đáp lại, tôi sẽ cho bà biết tôi là ai, có gì đã xảy ra với tôi và vì lý do gì mà toàn bộ dân cư thành phố này lại lâm tới tình trạng mà bà đã thấy và vì sao chỉ có riêng một mình tôi đã được an toàn vô sự trong cái cảnh tàn phá khủng khiếp này.
Tôi kể tóm tắt cho chàng ta nghe tôi từ đâu tới, điều gì đã khiến tôi làm cuộc hành trình này và đã may mắn cập bến sau hai chục ngày lênh đênh trên sóng nước như thế nào. Khi kể xong, tôi yêu cầu chàng ta thực hiện lời đâ hứa và cũng nói lên sự xúc động của mình vì cảnh tượng bi thảm của tất cả những nơi tôi đã đi qua.
- Thưa quý bà - Chàng trẻ tuổi nói - Xin hãy kiên nhẫn một chút.
Nói xong, chàng khép cuốn kinh Coran lại, cho vào một cál túi quí và đặt vào trong khám. Tôi lợi dụng khoảnh khắc này để ngắm kỹ chàng trai trẻ và thấy chàng thật đẹp và duyên dáng khiến tôi thấy lòng mình rung động, một tình cảm trước đây chưa từng có. Chàng bảo tôi ngồi bên cạnh mình, và trước khi chàng bắt đầu câu chuyện, tôi không ngăn được để nói với chàng tình cảm mà chàng đã gợi lên cho tôi:
- Hơi chàng trai quý mến và thân thương! Không ai có thể nôn nóng hơn tôi lúc này là đang chờ đợi một lời làm sáng tỏ về biết bao nhiêu sự kiện kỳ lạ đập vào mắt tôi ngay từ bước đầu tiên tôi đi vào thành phố của chàng mà óc hiếu kỳ của tôi chưa được thoả mản. Xin chàng hãy nói đi; hãy cho tôi biết nhờ có phép màu nào mà chỉ duy nhất có chàng còn sống giữa bao nhiêu con người đã chết một cách dị thường”.
Scheherazade đến đoạn này thì ngừng lại và nói với Schahriar:
- Tâu bệ hạ, chắc là Người chưa nhận thấy là trời vừa sáng. Nếu thiếp tiếp tục kể e là mang tiếng lợi dụng sự quá tập trung chú ý của Người.
Hoàng đế đứng lên, quyết định đêm sau sẽ nghe nốt câu chuyện đặc biệt kỳ lạ này.

***

- Chị ơi, nếu chị đã thức giấc - Dinarzade gọi chị trước khi trời sáng ngày hôm sau - thì em xin chị kể tiếp những gì đã xảy ra giữa nàng Zobélde và chàng trai trẻ nàng gặp trong toà cung điện mà chị tả lại là rất đẹp đó.
- Chị sẽ làm vui lòng em ngay đây - Hoàng hậu nói.
“ Zobéide kể tiếp câu chuyện của nàng như sau:
- Thưa bà - Chàng trẻ tuổi đó bảo tôi - Tôi thấy là bà biết rõ đấng Thượng đế chán chính qua lời cầu nguyện vừa rồi. Bà sẽ nghe một chuyện sau đây nó làm rõ sự vĩ đại và quyền lực của Người. Tôi xin nói thành phố này là kinh đô của một quốc gia hùng mạnh mà quốc vương cha tôi mang tên. Vị quốc vương này, cả triều đình của ông, dân cư trong thành phố và tất cả các bầy tôi của ông đều là các đạo sĩ pháp sư, thờ thần lửa và thần Nardoun, cựu vương của những người khổng lồ chống lại Thượng đế.
Mặc dù sinh ra từ cha mẹ theo tà giáo, tôi đã có may mắn là trong thời thơ ấu có gia sư bảo mẫu là một phụ nữ hiền hậu theo đạo Hồi thuộc lòng kinh Coran và thuyết giảng thật là hoàn hảo. Bà thường luôn luôn bảo tôi: “Hoàng tử thân yêu? Chỉ có một đấng Thượng đế chân chính mà thôi. Nhớ là không được thừa nhận và tôn thờ các vị khác”. Bà dạy tôi đọc chữ A-rập và tôi tập đọc ngay ở quyển kinh Coran mà bà đưa cho. Khi tôi bắt đầu hiểu biết, bà giảng giải cho tôi tất cả những điểm hay về mọi mặt trong quyển sách hoàn hảo đó và làm cho tôi thấm nhuần tinh thần đạo Hồi giấu vụng cha tôi và tất cả mọi người. Bà tạ thế, nhưng cũng đã kịp trao cho tôi những kiến thức cần thiết để hoàn toàn tin tưởng vào chân lý của đạo Hồi. Từ khi bà mất, tôi vẫn ghi nhớ được những điều dạy bảo của bà và ghê sợ tà thần Narđoun và các tín đồ tôn thờ thần lửa.
Cách đây ba năm ba tháng, một giọng nói bất thần vang lên khắp thành phố mọi người nghe rõ từng lời: “Hỡi nhân dân, hãy từ bỏ sự phụng thờ Nardoun và thần lửa. Hãy tôn thờ Thượng đế duy nhất bác ái nhân từ”.
Cũng giọng nói đó vang lên suốt ba năm liền, nhưng không một ai cải đạo. Ngày cuối cùng của năm thứ ba vào khoảng ba, bốn giờ sáng, toàn thể dân cư đều hoá đá trong chốc lát, môi người ở một tư thế đúng như lúc đó. Quốc vương cha tôi cùng chung một số phận: ông biến thành đá đen như đã thấy ở một chỗ trong hoàng cung, và hoàng hậu mẹ tôi cũng thế.
Tôi là người duy nhất mà Thượng đế không giáng đòn trừng phạt khủng khiếp. Từ ngày đó tôi tiếp tục phụng sự . Người với tấm lòng nhiệt thành chưa từng thấy, và thưa quý bà xinh đẹp, tôi tin là Người đã phái bà tới đây để an ủi tôi. Tôi xin tỏ lòng vô cùng biết ơn Người vì, xin thú thực với bà là cuộc sống cô đơn này đã làm cho tôi vô cùng buồn nản”.
Tất cả câu chuyện và nhất là những lời nói về cuối này làm tình cảm của tôi đối với chàng càng thêm nồng đậm.
Thưa hoàng tử - Tôi nói với chàng - Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chính đấng Tối cao đã run rủi tôi đến đây để được gặp chàng và để đưa chàng ra khỏi cái chốn đầy tang tóc này. Con tàu đã đưa tôi đến đây cũng đủ để làm cho chàng tin là tôi cũng có chút tiếng tăm ở Bagdad mà tại đó tôi còn có một tài sản khá lớn. Tôi mạo muội xin hiến chàng một chỗ trú chân cho tới khi đức Thống lĩnh các tín đồ, đại diện của đấng tiên tri vĩ đại mà chàng đã biết, nhận ra chàng và ban cho mọi vinh dự mà chàng xứng đáng. Vị quốc vương danh tiếng này ngự ở Bagdad, chẳng mấy chốc sẽ biết chàng tới kinh đô của Người, sẽ cho chàng biết là sẽ chẳng uơng công khi cầu xin sự ủng hộ của Người. Không thể nào mà chàng còn ở lại lâu hơn nữa trong một thành phố mà mọi vật đều làm cho chàng không chịu nổi. Con tàu của tôi sẵn sàng phục vụ chàng và chàng có thể sử dụng nó một cách tự do tuyệt đối.
Hoàng tử nhận lời và chúng tôi bàn bạc với nhau về việc rời đi qua nốt phần đêm còn lại.
Tảng sáng hôm sau, chúng tôi rời cung điện đi ra bến cảng. Các chị tôi, người thuyền trưởng và các nô lệ của tôi đều đang rất lo lắng về tôi. Sau khi giới thiệu các chị tôi với hoàng tử, tôi kể cho các chị lý do vì sao không về được tàu ngày hôm trước, cuộc gặp gỡ hoàng tử trẻ, câu chuyện của chàng và nguyên nhân của tai hoạ cho một thành phố tráng lệ như vậy.
Các thuỷ thủ phải mất nhiều thì giờ để dỡ hàng mà tôi đã mang theo và thay thế bằng hàng chất lên là những thứ quí nhất trong cung điện bằng đá quí, bằng vàng và bằng bạc. Chúng tôi phải để lại những đồ gỗ và vô số những đồ đạc bằng vàng bạc vì không mang đi xuể. Có lẽ cần phải rất nhiều tàu mới chở hết các tài sản có trước mắt.
Sau khi xếp lên tàu những thứ muốn mang theo, chúng tôi lấy thêm thực phẩm và nước ngọt. Về lương thực, thì hãy còn nhiều vì đã tiếp tế ở Balsora. Cuối cùng, chúng tôi giương buồm trong chiều gió thuận đúng như mong ước”.
Kể đến đây, trời vừa hửng sáng. Scheherazade ngừng lại, còn hoàng đế chẳng nói gì, đứng lên. Nhưng ông tự hứa với mình là sẽ nghe đến cuối câu chuyện của Zobéide và chàng hoàng tử trẻ tuổi đó đã được sống sót thật thần kỳ.

***

Vào lúc tàn đêm hôm sau, Dinarzade nóng lòng muốn biết chuyến tàu trở về ra sao, gọi hoàng hậu:
- Chị ơi. Nếu chị đã thức, em xin chị hãy kể nốt chuyện hôm qua. Chị hãy cho em hay là chàng hoàng tử trẻ và Zobéide có thuận buồm xuôi gió về tới Bagdad không.
- Rồi em sẽ rõ thôi, em ạ - Scheherazade nói – Zobéide vẫn nói với hoàng đế, kể tiếp như sau:
“ - Tâu bệ hạ - Zobéide nói - Chàng hoàng tử trẻ, hai chị thiếp và thiếp hằng ngày đàm đạo thật vui vẻ ấm áp. Nhưng, than ôi! Sự đoàn kết hoà thuận của chúng tôi kéo dài chẳng được bao lâu. Những bà chị tỏ ra ghen tức vì nhận thấy giữa hoàng tử và tôi thể hiện có tình cảm đặc biệt với nhau, và một hôm hỏi tôi vẻ ranh mãnh là sẽ làm gì với hoàng tử khi về tới Bagdad. Tôi thấy rõ là đặt ra câu hỏi đó, các bà chị muốn thăm dò tình cảm của tôi. Vì vậy, làm ra vẻ vui đùa, tôi trả lời họ là sẽ lấy chàng hoàng tử làm chồng. Rồi quay về chàng tôi bảo: “Xin hoàng tử hãy đồng ý. Về tới Bagdad em muốn tự hiến mình cho chàng để trở thành nô lệ của chàng, hầu hạ chàng và công nhận chàng là ông chủ tuyệt đối của em”. - “Thưa bà - Hoàng tử đáp Không rõ có phải đây chỉ là một lời đùa vui hay không, nhưng về phía mình? tôi xin tuyên bố rất nghiêm chỉnh trước mặt các bà chị của bà đây, là tôi rất vui lòng nhận sự dâng hiến của bà, không phải để coi bà như một nô tì, nhưng mà là phu nhân của tôi, bà chúa của tôi, và hứa là sẽ không có bất cứ một sự lấn lướt nào trong mọi hành động của mình”. Các chị tôi biến sắc mặt khi nghe những lời trên đây và tôi nhận thấy là từ đó thái độ của họ đối với tôi không còn như trước.
Chúng tôi đã tới vịnh Persique, đang tiến tới gần Balsora, và với gió thuận như lúc này, tôi hy vọng là trong ngày mai sẽ tới bến này. Nhưng trong đêm, lợi đụng lúc tôi ngủ say, các chị tôi đã khiêng tôi lẳng xuống biển. Cả hoàng tử cũng bị cùng số phận và bị chết đuối. Tôi vùng vẫy một hồi trên mặt nước, và may mắn làm sao, đúng ra là như được có phép màu, tôi thấy chân mình chạm đất. Tôi bước vào một khoảng đen ngòm có vẻ như đất liền vì bóng tối dày đặc không sao phân biệt nổi. Quả là tôi đang đặt chân lên một bãi cát và ánh sáng bình minh rạng dần, tôi thấy mình đang ở trên một đảo hoang nhỏ, cách Balsora vào khoảng hai mươi hải lý. Chẳng mấy chốc mà dưới ánh mặt trời, áo quần tôi đã khô kiệt và trong lúc bước đi, tôi nhận thấy trên đảo có rất nhiều thứ quả ăn được và cả nước ngọt. Tôi hy vọng phần nào là có thể bảo tồn được mạng sống của mình.
Đang ngồi nghỉ trong bóng râm, bất thình lình thấy một con rắn có cánh rất to và rất dài đang uốn khúc trườn tới phía tôi, lưỡi thè dài. Đoán là có cái gì đang đe dọa nó, tôi đứng lên và nhìn thấy một con rắn khác to hơn nó đang ngậm lấy đuôi và đang gắng sức để nuốt sống nó. Đáng lẽ phải chạy đi nhưng vì động lòng thương tôi đã đứng lại và táo bạo nhặt một hòn đá to, may mắn ở vừa tầm tay mình lấy hết sức ném trúng đầu con rắn to giết chết nó. Con rắn có cánh, thoát nạn, giương ngay đôi cánh lên và bay vút đi. Tôi nhìn theo mãi nó trên cao như một vật lạ cho đến khi khuất tầm mắt, rồi lại tới nghỉ dưới bóng râm ở một chỗ khác và ngủ thiếp đi.
Khi thức dậy, ngài có thể tưởng tượng được sự ngạc nhiên của tôi tới mức nào khi thấy bên cạnh mình một phụ nữ da đen nét mặt sắc sảo nhưng dịu dàng nắm trong tay một dây xích buộc hai con chó cái cũng cùng màu đen. Tôi ngồi lên và hỏi bà ta là ai? “Ta là - Bà ta đáp - con rắn có cánh mà cô đã giải thoát khỏi kẻ thù hung bạo cách đây không lâu. Ta nghĩ không -có gì tốt bằng hành động mà ta vừa làm để trả cái ơn rất lớn mà cô đã làm cho ta. Ta biết sự phản bội của hai người chị của cô, để trả thù cho cô khi ta đang được tự do nhờ sự cứu giúp hào hiệp của cô, ta đã triệu tập rất nhiều các bạn cũng là tiên như ta, cùng với ta mang toàn bộ hàng hoá trên tàu chuyển về các kho của cô ở Bagdad trước khi đánh đắm tàu. Hai con chó mực cái này là hai người chị của cô mà ta đã cho biến thành đó. Nhưng sự trừng phạt này cũng chưa đủ đâu, ta muốn là cô sẽ còn đối xử với chúng bằng cách mà ta sẽ nói”.
Nói đoạn, bà tiên ôm chặt lấy tôi bằng một bên tay và tay bên kia ôm chặt hai con chó, bay lên không và đưa tất cả về nhà tôi ở Bagdad. Tôi thấy trong kho toàn bộ tài sản mà tàu của tôi đã chất đầy. Trước khi chia tay, bà trao cho tôi hai con chó cái và bảo:
- Nếu cô không muốn bị hoá thành chó cái như các chị cô thì hãy tuân theo lệnh của ta. Nhân danh đấng thần linh cai quản tất cả các sông biển trên mặt đất, ta lệnh cho cô hằng đêm phải đánh cho mỗi người chị của cô một trăm roi để trừng phạt chúng đã phạm tội với bản thân cô và đã làm cho hoàng tử trẻ tuổi đó bị chết đuối.
Tôi bắt buộc phải hứa với bà là sẽ chấp hành lệnh của bà. Và từ đó, tôi đã xử sự, mỗi đêm với bao sự miễn cưỡng bằng cách mà bệ hạ đã chứng kiến. Với những giọt nước mắt tôi khóc sau mỗi trận đánh đòn, tôi muốn tỏ ra với các chị là tôi biết bao đau đớn và bất nhẫn phải làm tròn một bổn phận thật là nghiệt ngã, như vậy tôi đáng được phàn nàn hơn là đáng bị trách móc. Nếu còn có điều gì đó lien quan tới tôi mà bệ hạ còn muốn được biết rõ thì cô em Amine của tôi sẽ hầu bệ hạ bằng chính câu chuyện của cô ấy.
Sau khi nghe hết chuyện của Zobéide, với tấm long mến phục, hoàng đế truyền tể tướng lệnh cho nàng Amine dịu dàng tới để trình bày cho hoàng đế rõ vì sao mà người nàng lại đầy vết sẹo...”
Nhưng, tâu bệ hạ - Tới đây Scheherazade nói - Trời vừa sáng, thiếp chẳng đám giữ Người lại lâu hơn nữa. Schahriar đinh ninh là chuyện mà Scheherazade còn kể tiếp sẽ là chuyện kết thúc cho tất cả những gì đã kể trước - Ông tự nhủ - ta cần phải có được cái thú trọn vẹn. Ông đứng lên và quyết định còn để cho hoàng hậu sống thêm ngày hôm đó.

***

Dinarzade mong muốn một cách say mê được nghe chuyện về Amine. Vì thế, đã thức dậy trước khi trời sáng rất lâu rồi mới đánh thức hoàng hậu.
- Chị thân yêu của em, nếu chị không ngủ nữa thì xin chị cho em biết vì sao mà nàng Amine đáng yêu đó lại có bộ ngực dọc ngang vết sẹo.
- Chị đồng ý - Scheherazade đáp- Và để không mất thì giờ, em sẽ thấy là Amine, hướng về hoàng đế, bắt đầu câu chuyện của nàng ta như sau:
                                                                           
                                                                               Phần Sau  | Phần Kế Tiếp
                                            Chương 13
                         CHUYỆN KỂ CỦA NÀNG AMINE
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Nàng bắt đầu kể - Để không phải lặp lại những điều mà Người đã biết qua câu chuyện của bà chị tôi, tôi xin nói ngay là mẹ tôi sau khi đã mua một căn nhà để ở riêng trong cảnh goá bụa, thì gả tôi, cùng với của hồi môn cha tôi để lại, cho một trong những người thừa kế giàu có nhất thành phố này.
Thành hôn chưa được một năm thì chồng tôi qua đời để lại cho tôi thừa hưởng khoản tài sản, lên tới chín mươi nghìn equins. Riêng lợi tức của khoản tiền này cũng đủ cho tôi chi dùng suốt đời một cách lương thiện. Nhưng qua sáu tháng đầu chịu tang, tôi cho may mười bộ áo quần khác nhau và cùng vào loại sang trọng lộng lẫy, giá mỗi bộ tới một ngàn sequins. Tôi bắt đầu trưng diện các bộ quần áo ấy vào dịp đầu năm.
Một hôm, tôi ở nhà một mình lo các việc trong nhà thì được báo là có một bà nào đó muốn gặp. Tôi ra lệnh cho đưa vào. Đó là một bà rất già. Bà ta hôn đất chào tôi và nói với tôi ở tư thế quỳ:
- Thưa quý bà, xin bà thứ lỗi cho là đã dám mạo muội tới làm phiền bà. Niềm tin vào lòng nhân hậu của bà đã làm cho tôi mạnh dạn. Thưa bà đáng kính, tôi xin nói là tôi có một đứa con gái mồ côi cha phải lấy chồng ngày hôm nay, mà con gái tôi và tôi đều là người xa lạ không một chút quen biết với ai trong thành phố này. Điều đó làm chúng tôi bối rối vì chúng tôi muốn cho bên gia đình rất đông người sẽ là thông gia của mình thấy chúng tôi không phải là những người bần hàn mà cũng có vốn liếng. Vì vậy nên, thưa quý bà nhân hậu, nếu bà có thể tới tham dự lễ cưới của con gái tôi thì chúng tôi sẽ vô cùng đội ơn. Các bà quê tôi sẽ không còn coi chúng tôi là những kẻ cùng khổ khi thấy một con người cao sang như bà đã hạ cố cho chúng tôi một vinh hạnh lớn lao. Nhưng nếu bà khước từ lời cầu xin của tôi, thì than ôi! Chúng tôi sẽ vô cùng tủi khổ, vì chẳng còn biết nhờ cậy vào ai nữa.
Bà già tội nghiệp vừa nói vừa khóc làm tôi cầm long chẳng được, bảo bà:
- Bà má ơi, bà chớ nên quá buồn tủi. Tôi sẵn sàng vui lòng làm theo lời yêu cầu của bà. Bà hãy nói xem tôi phải đi đâu, tôi chỉ cần thời gian để ăn mặc cho gọn gàng một chút.
Bà già nghe vậy tỏ vẻ mừng rỡ, bất ngờ nhanh nhẹn ôm hôn bàn chân tôi làm tôi không kịp ngăn.
- Thưa quý bà nhân hậu - Bà già đứng lên nói - Thượng đế sẽ ban thưởng cho bà vì lòng tốt đối vớí các tôi tớ và sẽ làm cho tám lòng của bà được mãn nguyện cũng như bà đã làm mãn nguyện tấm lòng của chúng tôi. Bây giờ chưa phải phiền đến bà phải vất vả mà bà chỉ cần đến với tôi chiều hôm nay là đủ rồi, và vào giờ nào thì tôi sẽ xin đến rước bà sau. Xin tạm biệt bà, thưa bà - bà già nói them. Hân hạnh sẽ được gặp lại bà.
Bà già vừa đi khỏi, tôi chọn mặc bộ trang phục mình ưng nhất với một chuỗi hạt ngọc trai làm vòng cổ, với nhẫn và hoa tai kim cương đẹp nhất bóng nhất. Tôi có linh cảm cái gì đó sẽ xảy ra với tôi.
Chập tối, bà già trở lại với vẻ hớn hở vui mừng khôn tả. Bà hôn tay tôi và bảo:
- Thưa bà kính yêu, họ hàng con rể tôi là những quý bà tai to mặt lớn ở thành phố này đã tề tựu đông đủ. Bà tới lúc nào cũng được, tôi lúc nào cũng sẵn sàng làm người hướng đạo hầu bà.
Chúng tôi lên đường ngay. Bà ta đi trước, tôi theo sau, cùng với một số đông những nô tì ăn vận sạch sẽ tháp tùng. Chúng tôi dừng lại trong một đường phố rộng rãi, vừa được quét tước và phun nước tưới, trước một cổng lớn có một chiếc đèn lồng chiếu sáng. Trên cổng, tôi đọc được một dòng chữ vàng sau: Đây là nơi trú ngụ vĩnh viễn của nhữug lạc thú và sự hân hoan bất tận. Bà già giơ tay gõ cửa và cửa mở tức thì.
Tôi được dẫn tới cuối sân vào một gian phòng lớn và được một thiếu phụ trẻ đẹp chưa từng thấy ra đón mời. Nàng ta tiến đến trước mặt tôi và sau khi ôm hôn và mời tôi ngồi cạnh nàng trên một chiếc sập có đặt chiếc ngai bằng gỗ quý khảm kim cương, nàng bèn nói với tôi:
- Thưa bà, bà được mời tới đây để dự lễ cưới, nhưng tôi mong bà sẽ thấy đám cưới nay khác hẳn những đám cưới mà bà hình dung. Tôi có một ông anh khôi ngô tuấn tú và hoàn hảo về các mặt hơn tất cả mọi đấng nam nhi. Anh ấy quá say mê cái chân dung được nghe người ta tả về sắc đẹp của bà đến mức thấy số phận của mình hoàn toàn bị phụ thuộc vào bà. Anh ấy sẽ vô cùng đau khổ nếu không được bà đoái thương. Anh ấy biết địa vị của bà trong xã hội và tôi có thể đoan chắc với bà là địa vị của anh ấy cũng chẳng đến nỗi không xứng trong sự kết hợp này. Thưa bà, nếu những lời cầu xln của tôi có một chút nào tác dụng thì tôi xin góp thêm vào lời của anh tôi và mong bà chẳng nỡ khước từ mà chấp nhận lời cầu hôn của anh ấy được đón rước bà làm vợ.
Từ ngày chồng mất, tôi chưa từng có ý nghĩ tái giá, nhưng không đủ sức để khước từ một chuyện tốt đẹp như vậy. Tôi chỉ biết ngầm tỏ vẻ ưng thuận bằng sự im lặng kèm theo sắc ửng hồng hiện trên mặt. Thiếu phụ trẻ vỗ tay: cánh cửa một căn phòng bật mở và từ đó bước ra một thanh niên phong thái chững chạc và thật duyên dáng làm cho tôi thấy mình thực là may mắn đã chinh phục được một chàng traỉ quá điều mong ước. Chàng ngồi xuống cạnh tôi và qua câu chuyện trao đổi tôi càng thấy giá trị của chàng còn vượt hơn cả những lời giới thiệu của thiếu phụ với tôi.
Khi nhận thấy là chúng tôi đã cùng ưng nhau, nàng vỗ tay lần nữa. Một pháp quan bước vào, lập tờ hôn thú, ký vào đó và bắt cả bốn người làm chứng mà ông ta đem theo cùng ký vào. Điều cam kết duy nhất mà chú rể đòi hỏi ở tôi là ngoài anh ta ra thì tôi không được gặp gỡ, chuyện trò với bất cứ một người đàn ông nào. Anh ta hứa với tôi lả ngoài điều kiện đó ra thì tôi hoàn toàn có thể hài lòng anh tạ về mọi mặt. Cuộc hôn nhân của chúng tôi được ký kết và kết thúc theo cách đó. Như vậy tôi hoá ra là vai trò chính trong lễ cưới mà tôi lại là người khách duy nhất được mời.
Một tháng sau kể từ ngày hôn lễ, cần một thứ vải may mặc, tôi xin phép chồng tôi ra phố để mua sắm. Chàng đồng ý, tôi đem theo bà già mà tôi đã nói đến ở trên là người trong nhà cùng với hai nô tì của tôi nữa.
Khi chúng tôi đến phố của những người buôn bán, bà già bảo tôi: “Bà chủ tốt bụng của tôi ơi! Vì bà muốn mua một mảnh vải lụa, tôi sẽ dẫn bà tới một ngưởi bán hàng trẻ tuổi mà tôi quen biết. Anh ta có đủ các mặt hàng, bà sẽ thấy ở đó thứ bà cần mà chẳng ở đâu có cả. Chẳng phải đi hết cửa hàng nọ đến cửa hàng kia cho mệt”. Tôi để cho bà già dẫn đi và vào một cửa hàng của một người trẻ tuổi khá điển trai. Tôi ngồi xuống và bảo bà gìa nói với anh ta cho xem những tấm lụa đẹp nhất trong cửa hàng. Bà già cứ muốn tôi tự đặt ra yêu cầu đó nhưng tôi bảo bà là một trong những điều cam kết trong hôn nhân của tôi là ngoài chồng tôi ra thì không được nói năng gì với bất cứ người đàn ông nào. Vì vậy nên tôi không được làm trái điều đó.
Người chủ cửa hàng đưa ra cho tôi xem nhiều tấm vải có một tấm tôi thích hơn tất cả và cho hỏi giá tiền bao nhiêu. Hắn nói với bà già: “Dù bằng vàng bằng bạc tôi cũng không bán nhưng tôi sẽ biếu không nếu nàng ấy cho tôi hôn mọt cái vào má”. Tôi bảo bà già trả lời hắn thật là quá táo bạo mà dám đề nghị như vậy. Nhưng đáng lẽ phải tuân lệnh tôi thì bà già lại bảo là đề xuất của người bán hàng cũng có gì là to tát và quan trọng lắm đâu: không phải nói năng gì mà chỉ có việc giơ má ra thôi, thế là xong. Tôi rất muốn có mảnh lụa đó mà đã nhẹ dạ nghe theo lời khuyên của bà già. Bà ta cùng những nô tì của tôi đứng che phía trước để không ai nhìn thấy và tôi lật mạng che mặt lên nhưng thay cho cái hôn thì tên bán hàng lại cắn má tôi tới chảy máu.
Bị đau và quá kinh ngạc, tôi ngã lăn xuống bất tỉnh. Khá lâu ở trong tình trạng bất tỉnh đủ thời gian để cho tên chủ đóng cửa hàng và chạy trốn. Khi tỉnh lại, tôi thấy má mình đẫm máu. Bà già và các nô tì của tôi đã cẩn thận che mạng kín cả khuôn mặt cho tôi để mọi người chạy tới không nhận biết được gì và cho là tôi chỉ bị một cơn suy nhược thôi.”
Scheherazade kể đến đây, thấy trời hửng sáng nên ngừng lại. Hoàng đế thấy chuyện vừa nghe quả là kỳ lạ, đứng lên và tự hứa sẽ phải nghe tiếp cho thoả trí tò mò.

***

Tàn đêm hôm sau, Dinarzade thức giấc, gọi hoàng hậu:
- Chị ơi? Nếu chị không còn ngủ nữa thì xin chị kể nốt cho em nghe chuyện nàng Amine đi!
- Thiếu phụ đó kể tiếp như thế này – Scheherazade nói:
“Bà già đi theo tôi - Nàng kể tiếp - hết sức lo lắng về chuyện vừa xảy ra, cố gắng trấn an tôi:
- Thưa bà chủ tốt bụng, già này xin bà tha lỗi cho vì đã gây nên tai hoạ này. Già đưa bà chủ tới cửa hàng này vì người bán hàng là người đồng hương và không ngờ hắn ta lại làm nên chuyện động trời như thế. Xin bà chớ nên quá lo buồn, không nên để mất thời gian nữa, hãy cùng nhau về nhà, già sẽ đưa cho bà chủ thuốc sẽ chữa bà khỏi trong vòng ba ngày không còn để lại dấu vết gì.
Đợt ngất đi đã làm tôi yếu sức đến mức không đi được. Tuy vẫn về được tới nhà, nhưng tôi lại ngất đi vì quá suy nhược khi bước vào buồng ngủ. Nhưng bà già đã mang thuốc đến cho tôi, tôi tỉnh lại và lên giường nằm.
Đêm xuống, chồng tôi về. Chàng nhận thấy đầu tô; trùm kín, hỏi tôi làm sao. Tôi trả lời chàng là bị đau đầu và hy vọng là chàng chỉ hỏi thế thôi. Nhưng chàng đã đưa ngọn nến đến gần xem và nhìn thấy vết thương ở má tôi.
- Vì sao có vết thương này?- Chàng hỏi tôi.
Mặc dù tội của tôi chẳng lấy gì làm nặng nề cho lắm, tôi cũng không dám nói lên sự thật. Tôi cho là thú nhận sự việc đó với một người chồng có vẻ như là một cái gì đó thiếu phần tế nhị. Tôi bảo chàng là lúc đi mua mảnh lụa để dùng và đã được chàng cho phép, một người gánh củi đi quá gần trong một đường phố hẹp, đã vô ý để một cành củi chạm vào làm sầy da mặt, có việc nhỏ thế thôi
Chồng tôi đùng đùng nổi giận:
- Hành động đó - Chàng nói - cần phải bị trừng phạt. Ta sẽ ra lệnh pháp quan ngày mai bắt giữ lại tất cả bọn kiếm củi đem xử giảo hết. Lo sợ mình là nguyên nhân cái chết của bao nhiêu người vô tội, tôi bảo chàng:
- Chàng ạ, em sẽ rất chạnh lòng khi để sự bất công to lớn đó xảy ra. Em xin chàng đừng phạm phải. Em sẽ không bao gịờ đáng được tha thứ nếu gây ra sự bất hạnh này.
- Vậy thì nàng hãy thành thật nói cho ta rõ – Chàng bảo - Ta phải nghĩ như thế nào về vết thương của nàng?
Tôi lại bảo chàng là do sự vô ý của một anh bán chổi cưỡi trên lưng lừa đi phía sau tôi. Anh này ngoảnh mặt sang phía khác nên con lừa không được điều khiển đã hích vào tôi làm tôi ngã, má đập vào mảnh kính.
- Nếu đúng như vậy - Chồng tôi nói ngay - thì ngày mai ngay lúc mặt trời chưa mọc thì tể tướng Glafar sẽ được biết sự hỗn xược này. Ông ta sẽ cho tất cả những người bán chổi xuống suối vàng...
- Ôi, nhân danh Thượng đế - Tôi ngắt lời chàng – Em xin chàng hãy khoan thứ cho họ. Họ không phải là thủ phạm.
- Thế là thế nào, thưa bà - Chàng nói - Ta phải tin sao đây? Bà hãy nói đi. Ta muốn chính miệng bà phải nói ra sự thật.
- Chàng ạ - Tôi đáp - Em bị chóng mặt quay cuồng và bị ngã. Có thế thôi mà.
Nghe đến đây, chồng tôi không còn kiên nhẫn được nữa, chàng thét lên:
- A, mất bao nhiêu là thời gian để nghe những lời quanh co dối trá!
Nói đoạn, chàng vỗ tay, ba tên nô lệ đi vào.
- Hãy lôi nó ra khỏi giường - Chàng bảo chúng - Nọc nó ra giữa phòng cho ta.
Lũ nô lệ tuân lệnh chàng, một đứa giữ đầu, một đứa giữ hai chân tôi. Chàng ra lệnh cho tên thứ ba đi lấy kiếm. Và khi tên này mang kiếm tới, chàng bảo nó: “Mày chém đi. Chặt nó ra làm hai và ném xuống sông Tigre để làm mồi cho cá rỉa. Đó là hình phạt ta dành cho những người mà ta đã hết lòng thương yêu nhưng lại phản bội ta.
Thấy tên nô lệ còn lưỡng lự, chàng bảo:
- Chém đi, cái gì làm cho mày do dự, mày còn chờ cái gì nữa?
- Thưa bà - Tên nô lệ lúc bấy giờ bảo tôi - Bà đang chạm vào giây phút cuối cùng của- cuộc sống, bà thử xem xem còn muốn trối trăng điều gì trước khi chết không.
Tôi xin được nói một điều. Được chấp nhận, tôi ngửng đầu lên, nhìn chồng tôi âu yếm:
- Than ôi? - Tôi bảo chàng - Sao em lại phải đến nỗi này! Sao em lại phải chết giữa những ngày hạnh phúc nhất đời này...
Tôi muốn nói tiếp nhưng nghẹn lời, nước mắt rơi tầm tã. Chồng tôi chẳng chút mủi lòng, ngược lại còn cất lời trách mắng thậm tệ. Biết nói thêm cũng chỉ là vô ích, tôi chuyển sang cầu khẩn nhưng chàng vẫn khăng khăng một mực và lệnh cho tên nô lệ thi hành nhiệm vụ. Giữa lúc đó, bà già vốn là bà vú nuôi chồng tôi đi vào, gieo thình cạnh chân chàng và cố làm cho chàng nguôi cơn giận dữ:
- Con trai ơi - Bà nói - Để trả công ơn ta nuôi dưỡng, ta xin con hãy tha thứ cho nàng. Con hãy nhớ câu “sát nhân giả tử”, kẻ giết người sẽ bị người giết lại còn sẽ làm bại hoại danh tiếng của mình và sự mến mộ của mọi người đối với mình. Trách sao mà người ta chẳng sẽ đồn đại về một cơn gíận dữ tới mức đổ máu này.
Bà nói những câu trên đầy vẻ xúc động kèm theo những giọt nước mắt nóng hổi gây nên một ấn tượng mạnh mẽ đối với chồng tôi.
Vậy thì - Chàng nói với bà vú nuôi mình - Vì nể vú, ta cho nó sống nhưng ta muốn nó phải mang theo dấu tích trên người làm nó luôn nhớ lại tội lỗi của mình.
Nói xong, một tên nô lệ, theo lệnh chàng, dang thẳng cánh quất vào hai bên sườn và trên ngực tôi bằng một cái roi có nhiều đoạn gấp khúc làm tôi nứt da toác thịt. Tôi ngất lịm không còn biết gì nữa. Sau đấy, chàng bắt bọn nô lệ, tay sai cho sự điên giận của chàng, quẳng tôi vào một ngôi nhà, ở đó bà già vú nuôi chàng đã chăm sóc tôi thật chu đáo. Tôi nằm liệt giường suốt bốn tháng trời. Cuối cùng tôi khỏi, nhưng những vết sẹo mà bệ hạ nhìn thấy hôm qua do sự sơ ý của tôi, thì vẫn còn lại tới giờ. Khi tôi đã bước đi được và ra bên ngoài được, tôi muốn trở lại nhà chồng trước, nhưng thấy chỉ còn một bãi đất trống không. Người chồng thứ hai của tôi, trong cơn thịnh nộ quá đáng không những đã phá đổ mà còn san bằng cả dãy phố mà trên đó có ngôi nhà của tôi. Bạo lực đó quả thật là chưa từng có, nhưng tôi biết thưa kiện ai? Kẻ gây ra chuyện này đã tìm cách giấu mặt giấu tên, tôi làm sáo biết được rõ. Mà cho dù tôi có biết hắn là ai chăng nữa thì há tôi cũng đã chẳng thừa biết là cách xử sự với tôi như vậy được bắt nguồn từ một quyền uy tuyệt đối đó hay sao? Vậy thì tôi còn có dám thưa kiện nữa không?
Hoang mang, khốn đốn, mất trắng tay tất cả, tôi tới xin nương nhờ chị Zobéide thân yêu của tôi mà bệ hạ vừa nghe chị ấy kể về mình hầu Người đó.
Và tôi đã kể hết cho chị nghe về hoạn nạn của tôi. Chị vui vẻ đón nhận tôi với tấm lòng nhân hậu vơn có của mình và động viên tôi hãy kiên nhẫn chịu đựng
- Đời là thế đó - Chị Zobéide bảo - Thông thường nó tước đoạt của ta của cải hoặc bạn bè hoặc những người ta yêu quý và luôn luôn là tất cả cùng một lúc, và để chứng minh cho điều chị vừa nói, chị kể cho tôi nghe cái chết của vị hoàng tử trẻ do sự ghen tuông của hai người chị ruột của chị. Chị còn cho tôi biết vì sao mà hai người chị này lại hoá thành chó. Cuối cùng, sau khi tỏ rõ tình thân mật đậm đà với tôi, chị giới thiệu cô em út cũng đã đến với chị sau khi mẹ chúng tôi tạ thế.
Thế là, tạ ơn Thượng đế, cả ba chị em chúng tôi được đoàn tụ, cùng nhau quyết định là sẽ chẳng bao giờ sống xa nhau nữa. Chúng tôi cùng sống với nhau một cuộc sống êm đềm từ rất lâu rồi. Và vì là người chịu trách nhiệm việc chi tiêu trong nhà, nên tôi thường lấy làm thích thú được tự mình đi mua sắm các thứ. Hôm qua đi mua hàng, tôi đã thuê một người khuân vác để vận chuyển các thứ mua. Thấy anh là một người thông minh, vui tính nên chúng tôi đã đồng ý giữ lại để cùng nhau vui chơi giải trí. Ba tu sĩ khổ hạnh cũng bất ngờ tới vào lúc màn đêm vừa buông và xin chúng tôi cho trọ tới sáng. Chúng tôi tiếp nhận họ với một điều kiện mà họ chấp nhận và sau khi mời họ ngồi vào bàn ăn, họ vui vẻ hiến cho chúng tôi một bản hoà ca theo kiểu của họ thì giữa lúc đó lại có tlếng gõ cửa. Đó là ba thương nhân ở Mossoul vớl dáng vẻ thật hiền lành cũng xin chúng tôi được tạm tá túc như ba chàng tu sĩ. Chúng tôi cũng đồng ý tiếp nhận họ với cùng một điều kiện. Nhưng rồi họ đều như nhau, chẳng ai muốn tôn trọng điều kiện đó cả. Tuy nhiên mặc đù chúng tôi có đủ tư cách và có toàn quyền để trừng trị họ, nhưng chỉ giới hạn ở việc bắt họ lần lượt kể chuyện của mình, và chỉ trả thù họ một cách nhẹ nhàng là mời họ ra khỏi nhà, không cho trọ lại qua đêm như họ đã yêu cầu.
Hoàng đế Haroun Alraschid rất hài lòng được hiểu rõ những gì muốn biết và công khai tỏ lòng khâm phục thích thú đối với những chuyện vừa được nghe kể...”
- Nhưng, tâu bệ hạ - đến đây Scheherazade nói - Mặt trời đã bắt đầu nhô lên không còn cho phép thiếp được kể tiếp vì sao mà giải phép được cho hai con chó mực cái để trở lại thành người.
schahriar, đoán là tối hôm sau hoàng hậu sẽ kết thúc chuyện năm thiếu phụ với ba tu sĩ khổ hạnh. Ông đứng lên và lại để cho Scheherazade sống đến ngày mai.

***

Trước trời sáng, Dinarzade gọi chị:
- Chị ơi! Nhân danh Thượng đế, nếu chị không còn ngủ nữa thì xin hãy kể cho em nghe làm thế nào mà hai con chó mực lại có thể trở về hình hài cũ và còn ba người tu sĩ khổ hạnh thì ra sao.
- Cứ yên tâm - Scheherazade nói- ,Chị sẽ thoả mãn trí tò mò của em ngay bây giờ đây.
Rồi ngoảnh về Schahriar, nàng kể tiếp như sau:
“ Tâu bệ hạ, sau khi đã được thoả mãn óc hiếu kỳ, hoàng đế muốn tỏ rõ quyền uy và lòng độ lượng đối với các hoàng tử tu sĩ và sự hào hiệp đối với ba thiếu phụ. Không cần qua sự trung gian của tể tướng, ông tự mình nói với Zobéide:
- Thưa bà, vị tiên nữ lúc đầu dưới dạng con rắn và áp đặt cho bà một luật lệ rất hà khắc, có cho bà biết chỗ ở của mình không và có hứa sẽ gặp lại bà và giải phép cho hai con chớ để trở lại làm người không?
- Thưa đáng Thơng lĩnh các tín đồ - Zobéide đáp – Tôi đã quên không nói lại vớì hoàng thượng là tiên nữ có đặt vào tay tôi một bọc tóc nhỏ, nói là sẽ có ngày tôi phải cần tới lúc ấy, chỉ cần lấy ra hai sợi tóc, dùng lửa đất cháy thì bà ấy sẽ lập tức có mặt dù đang ở phía bên kia rặng núi Caucase.
- Thế cái bọc tóc đó - Hoàng đế hỏi - Hiện giờ ở đâu?
Zobéide bèn móc từ chiếc túi luôn đeo bên người, lấy cái bọc có mớ tóc ra, khẽ hé rèm che đưa Người xem.
- Vậy thì - Hoàng đế bảo - Chúng ta hãy triệu bà tiên tới đây. Không lúc nào hợp hơn lúc này vì ta muốn thế.
Zobéide nhất trí, lửa được mang tới và Zobéide đặt lên trên cả bọc tóc. Tức thì cả cung điện rung chuyển, bà tiên hiện lên trước mặt Hoàng đế dướI dạng một người đàn bà ăn vận rất đẹp.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đố - Bà nói với nhà vua - Người thấy đó, tôi đang sẵn sàng nhận lệnh của Người. Người thiếu phụ vừa gọi tôi theo lệnh của bệ hạ đã từng cứu mạng tôi. Để trả ơn đó tôi đã trả thù hộ nàng về tội bất nhân bất nghĩa của hai người chị nàng và biến họ thành chó. Nhưng nếu hoàng thượng muốn thì tôi sẽ trả lại cho chúng cái hình dạng tự nhiên như trước đây.
- Hỡi tiên nữ xinh đẹp - Hoàng đế nói - Ta thật không có gì vui hơn, hãy cho chúng cái ơn đó đi, sau đó ta sẽ tìm cách an ủi chúng là đã phải chịu đựng một cuộc sống thật khổ nhục. Nhưng trước hết ta cũng xin bà hãy ra tay cứu giúp người thiếu phụ đã bị người chồng hành hạ một cách thật dũ dằn. Vì bà không hiểu mọi sự nên chắc bà không thể không biết việc này: bà hãy vui lòng cho biết rõ cái tên man rợ không những đã đối xử với vợ tàn bạo như vậy mà lại còn tước đoạt một cách hết sức bất công tất cả tài sản của nàng. Ta lấy làm ngạc nhiên là một hành động tối vô nhân đạo, tối bất công như vậy nó xúc phạm tới uy danh ta mà ta lại không hề hay biết.
- Để bệ hạ được mãn ý - Tiên nữ nói - Tôi sẽ cho hai con chó này trở lại nguyên hình, sẽ chữa cho người thiếu phụ này khỏi hẳn các vết sẹo coi như nàng chưa bao giờ bị đánh đập và cuối cùng tôi sẽ cho bệ hạ rõ kẻ nào đã hành hạ nàng như vậy.
Hoàng đế sai người đi dắt hai con chó ở nhà Zobéide tới Tiên nữ bảo lấy cho bà một chén nước đầy. Bà lầm bầm khấn khứa trên chén nước những câu gì đó chẳng ai nghe được rồi rẩy nước trong chén lên người Amine và hai con chó. Tất cả các vết sẹo trên người Amine mất hết, và hai con chó cái biến thành hai thiếu phụ đẹp lộng lẫy. Rồi bà tiên nói với hoàng đế.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, bây giờ xin tiết lộ với bệ hạ cái người chồng đã man giấu tên kia mà bệ hạ muốn biết: người đó rất thân cận với bệ hạ vì đó là hoàng tử Amin, con trai cả của Người, anh ruột của hoàng tử Mamoun, con trai thứ của Người. Nghe tiếng đồn về sắc đẹp hiếm có của người thiếu phụ, hoàng tử Amin phải lòng mê mệt đã tìm mọi cách lôi kéo nàng về nhà và cưới nàng. Về trận đòn chàng ta sai đánh nàng, về phương diện nào đó, có thể được phần nào tha thứ. Người đàn bà vợ chàng có phần quá đễ đãi và những lời đưa ra biện bạch có thể làm người ta cho là nàng đã phạm tội nặng hơn là thực tế. Đó là tất cả những gì tôi có thể tâu trình để bệ hạ được giải toả mọi thắc mắc.
Nói xong, tiên nữ cúi chào hoàng đế và biến mất:
Hoàng đế vô cùng khâm phục và hài lòng về tất cả những biến đổi vừa qua nhờ có sự can thiệp của mình, liền có những hành động mà người ta còn nhắc đến mãi. Đầu tiên, ông cho gọi hoàng tử Amin, con trai cả của ông tới, bảo cho chàng rõ là ông đã biết cuộc hôn nhân bí mật của chàng và nói cho con trai biết nguyên nhân thực về vết thương ở má nàng. Hoàng tử không đợi vua cha phán bảo, chàng đón nhận nàng ngay.
Hoàng đế tuyên bố tiếp là sẽ cưới Zobéide làm vợ và gợi ý cho ba chị em kia của nàng lấy ba chàng tu sĩ làm chồng, được các chàng ưng thuận ngay với sự biết ơn sâu sắc. Hoàng đế ban cho mỗi người một lâu đài tráng lệ ở thành phố Bagdad, cất nhắc họ lên các chức vị cao sang trong nước và cho họ được tham dự vào các công việc triều chính. Đệ nhất pháp quan thành Bagdad được triệu tới cùng với những người làm chứng lập các giấy giá thú, và vị hoàng đế danh tiếng Haroun Alraschid mang lại hạnh phúc cho bao nhiêu người từng trải qua nhiều khổ ải, được mọi người ca ngợi và chúc tụng.
Trời chưa sáng thì Scheherazade kết thúc câu chuyện đã biết bao lần phải bỏ đở giữa chừng. Vậy là lúc này có thể bắt đầu một chuyện khác. Nàng hướng về hoàng đế và nói:
                                                                               
                                                                                    Phần Sau  | Phần Kế Tiếp
                                           Chương 14
                                     BA QUẢ TÁO
âu hoàng đế, thiếp đã có vinh dự một lần được kể với Người chuyến vi hành của hoàng đế Haroun Alraschid ra khỏi kinh thành vào một đêm trước. Thiếp xin kể hầu hoàng đế một chuyến vi hành khác của vị hoàng đế này.
Một hôm, nhà vua báo cho tể tướng Giafar phải có mặt ở cung điện vào tối hôm sau:
- Tể tướng à - Nhà vua bảo - Ta muốn đi một vòng xung quanh thành phố để nghe ngóng xem dư luận nhân dân ra sao và nhất là để biết xem họ có điều gì không được hài lòng với những pháp quan của ta không. Nếu thấy có những lời kêu ca phàn nàn, thì lập tức ta sẽ cách chức chúng và thay thế bằng những người khác có đầy đủ tài đức để làm tròn trách nhiệm. Ngược lại nếu có những pháp quan được dân chúng ca ngợi thì ta sẽ có những sự nhìn nhận xứng đáng.
Tể tướng tới cung điện đúng giờ quy định cùng với Mesrour, tổng thái giàm. Cả ba người cải trang để không ai nhận biết và cùng ra khỏi cung điện.
Họ đi qua nhiều công trường ,nhiều chợ và khi đi vào một đường phố nhỏ, họ nhìn thấy dưới ánh trăng một ông lão có bộ râu trắng bạc, thân hình cao, trên đầu đội một tấm lưới đánh cá, một tay cắp bên sườn chiếc rổ bằng lá dừa, một tay chống gậy.
Trông bề ngoài thì lão già này chẳng phải là ngườI giàu có - Hoàng đế nói - Chúng ta hãy tiếp cận lão và hỏI lão tình hình làm ăn ra sao.
- Này ông già - Tể tướng hỏi - Nhà ngươi là ai vậy?
- Thưa các ngài - Ông già đáp - Tôì là người đánh cá nhưng là người nghèo khổ nhất trong cái nghề này. Tôi từ nhà ra đi từ sớm, nhưng cho đến giờ vẫn chưa được một con cá nhỏ nào. Tôi có vợ và các con nhỏ, không biết lấy gì mà nuôi cả nhà đây!
Hoàng đế, động lòng thương hại bảo lão:
- Liệu nhà ngươi có can đảm quay lại chỗ cũ quăng lưới một lần nữa không? Chúng ta sẽ cho nhà ngươi một trăm đồng sequins đổi lấy bất cứ cái gì nhà ngươi kéo lên được .
Nghe vậy, lão đánh cá quên hết mệt nhọc trong ngày, cùng vớI hoàng đế, tể tướng Giafar và Mesrour quay lạI sông Tigre, lòng thầm nhủ: “Các ngài này có vẻ là những người lương thiện, đứng đắn chẳng lẽ lại nuốt lời. Chỉ cần một phần trăm của số tiền đó đối với ta cũng đã là quá nhiều rồi”.
Họ đến bờ sông Tigre. Lão đánh cá buông lưới rồi kéo lên được một chiếc hòm đóng kín khá nặng. Hoàng đế tức thì bảo tể tướng đếm đưa cho lão đủ một trăm đồng sequins và cho lão về. Mesrour theo lệnh hoàng đế vác chiếc hòm lên vai. Hoàng đế nôn nóng muốn biết xem trong hòm chứa gì, vội vã quay về hoàng cung. Hòm được mở ra, người ta thấy một cái túi to đan bằng lá dừa, miệng túi được khâu lại bằng một sợi len đỏ. Để hoàng đế khỏi sốt ruột, chẳng ai muốn tỉ mỉ gỡ dần sợi len đó mà dùng dao sắc cắt đi cho mau. Họ lôi ra khỏi túi một cái bọc bằng vải thô buộc dây thừng. Cởi sợi thừng và mở cái bọc, họ kinh hãi trông thấy thân thể bị chặt ra làm nhiều mảnh của một phụ nữ trẻ da trắng như tuyết đọng.”
Scheherazade tới đây, nhận thấy trời đã sáng nên ngừng lời. Đêm hôm sau nàng kể tiếp:

***

“- Tâu hoàng đế, hẳn là Người cũng đã hình dung là vị hoàng đế đã kinh ngạc như thế nào trước cái cảnh tượng ghê rợn đó: Nhưng từ kính ngạc ông chuyển sang gỉận dữ, ném cho tể tướng một cái nhìn toé lửa: “A, quân khốn kiếp - Ông kêu lên - Phải chăng đó là cách nhà ngươi cai trị và nắm được mọi hành động của dân chúng? Người ta đã ngang nhiên phạm tội sát nhân ngay tại kinh đô của ta, người ta đã ném những thần dân của ta xuống sông Tigre để họ đòi trả hận ta trong ngày phán xử cuối cùng? Nếu nhà ngươi không mau tìm ra được kẻ sát nhân để trả thù cho người phụ nữ này thì ta thề có Thượng đế với tên thánh của Người là ta sẽ treo cổ ngươi, ngươi và cả bốn chục người họ hàng thân tộc nhà ngươi.
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Tể tướng tâu -Xin hoàng đế cho thần thời gian để tiến hành cuộc điều tra.
- Ta cho ngươi ba ngày - Hoàng đế bảo - Ngươi hãy suy nghĩ kỹ.
Tể tướng Giafar lui về, lòng hết sức hoang mang: “Chao ôi! - Ông thầm than - Trong một thành phố rộng mông mênh và dân cư đông đúc như Bagdad này, làm sao mà ta khui lên được một tên giết người, có thể nó phạm tội ác này không người chứng kiến, và có thể nó đã cao chạy xa bay rồi cũng nên. Một kẻ nào khác ta thì có thể vào trong nhà giam lôi một tên tội phạm khốn khổ nào đó ra và xử tội chết để làm hài lòng hoàng đế, nhưng ta thì không thể làm cái điều trái lương tâm ấy được. Ta thà chết còn hơn là cứu sống mình bằng cách đó! .
Ông lệnh cho các quan hành pháp và toà án dưới quyền làm một cuộc săn lùng hung thủ. Họ tung người của họ và cả chính họ vào cuộc săn lùng này. Nhưng rồi tất cả những nỗ lực của họ đều vô ích. Dù khẩn trương và mẫn cán tới đâu chăng nữa thì họ cũng không sao phát hiện được kẻ gây ra vụ án mạng: Tể tướng thấy là nếu không có sự giúp dập của trời thì mạng ông thật khó toàn.
Quả nhiên, ngày thứ ba đã tới, một lính cặn vệ tớI nhà viên đại thần đáng thương này bắt đi theo y. Tể tướng cúi đầu chịu lệnh. Hoàng đế hỏi thủ phạm đâu.
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Ông tâu vua giọng đầy nước mắt - Không tìm thấy một người nào cung cấp cho thần bất cứ một tin tức gì cả.
Hoàng đế nổi giận lôi đình, nặng lời quở mắng rồi ra lệnh treo cổ tể tướng cùng với bốn chục người họ hàng thân thích của ông trước cổng hoàng cung.
Trong khi những người thừa hành bận rộn trong việc dựng các giá treo cổ và cho người đi bắt bốn chục người trong họ tể tướng thì viên quan truyền tin theo lệnh hoàng đế đi rao tin này trong khắp các khu vực trong thành phố. Những ai muốn chứng kiến hình phạt xử giảo tể tướng Giafar cùng với bốn chục thân nhân tể tướng thì tới ngay công trường ngay phía trước hoàng cung!”.
Khi mọi việc đã sẵn sàng, viên quan thi hành án cùng với đám rất đông lính cận vệ điều tể tướng cùng với bốn chục thân nhân của ông ra đặt mỗi người đứng dưới một cái giá gỗ dành cho họ, quàng vào cổ mỗi người vòng dây thừng dùng để kéo họ lên lửng lơ khỏi mặt đất. Dân chúng kéo tới kín đặc cả công trường, nhìn cảnh đau lòng không sao cầm được nước mắt vì tể tướng Giafar và những thân nhân của vị quan thanh liêm, trung thực này đối với họ vô cùng thân thiết và đáng kính.
Không có gì có thể ngăn cản được việc thi hành lệnh bất di bất dịch của vị hoàng đế nghiệt ngã này. Mạng sống của những con người nhân hậu nhất kinh thành này đang như treo trên sợi tóc thì một chàng trai rất khôi ngô tuấn tú và ăn vận lịch sự rẽ đám đông, đi tới tận chỗ tể tướng đầu triều đang đứng chờ treo cổ, và sau khi kính trọng hôn tay ông, chàng nói:
- Thưa ngài tể tướng tôn quý, người đứng đầu các đại thần trong triều, nơi nương tựa của dân nghèo, ngài không phải là thủ phạm mà cần phải có mặt tại đây. Xin ngài hãy lui bước và để cho tôi đền mạng cho người thiếu phụ đã bị ném xuống sông Tigre. Chính tôi là kẻ đã giết nàng và xứng đáng phải bị trừng phạt.
Mặc dù những lời thú tội trên đây đã làm cho tể tướng hết sức vui mừng, nhưng ông không khỏi cảm thấy thương hại chàng trai mà khuôn mặt đáng ra phải có vẻ hung hãn thì lại là một cái gì đó dịu dàng quyến rũ. Ông đang sắp sửa trả lời chàng trai thì lại có một người to lớn đã đứng tuổi cũng rẽ đám đông bước tới và nói với tể tướng:
- Xin ngài đừng tin những gì chàng trai này nói. Không có ai ngoài tôi ra là người đã giết người thiếu phụ đã tìm thấy ở trong hòm ấy. Sự trừng phạt phải giáng xuống chỉ một mình tôi thôi. Nhân danh Thượng đế, tôi tha thiết xin chớ trừng phạt kẻ vô tội.
- Thưa ngài - Chàng thanh niên nói với tể tướng - Tôi xin thề là chính tôi đã có hành động độc ác đó và không có một người nào đồng loã.
- Con trai của ta ạ - Ông già cắt ngang - Chẳng qua là vì tuyệt vọng bất mãn với số phận mà anh tới đây để nói thế. Còn ta, ta đã sống trên đời này quá lâu rồi, cần phảI rời bỏ thôi. Hãy để ta chết thay anh. Thưa ngài - Ông nói tiếp với tể tướng- Tôi xin nhắc lại là chính tôi mới là kẻ giết người. Hãy xử tôi, chớ nên chần chừ nữa.
Lơi thú nhận của ông già và chàng trai buộc tể tướng Giafar phải đưa cả hai tới trước hoàng đế dưới sự cho phép rất dễ dàng vui vẻ của viên chỉ huy pháp trường.
Khi đã tới trước hoàng đế, tể tướng hôn mặt đất bảy lần và tấu trình:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, thần đưa ông già và chàng trai này tới bệ kiến hoàng thượng. Cả hai người đều nhận mình là thủ phạm đã sát hại người phụ nữ đó.
Thế là hoàng đế hỏI các bị can ai trong hai người đã tàn sát người thiếu phụ quá dã man và ném xác xuống sông Tigre như vậy. Chàng trai một mực nhận chính là mình, nhưng ông già thì nói ngược lại. Hoàng đế bảo tể tướng:
- Đưa cả hai đi xử giảo.
- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Nhưng chỉ có một sát nhân. Thật bất công nếu bắt cả hai cùng chết.
Nghe vậy, chàng trai lại nói:
- Thề có Thượng đế đã nâng trời lên cao như hiện nay, chính tôi là người đã giết người phụ nữ đó, chính tôi đã chặt bà ta ra nhiều khúc và ném xuống sông Tigre cách đây bốn hôm . Tôi sẽ không được ở bên phía những người quang minh chính đại trong ngày phán xử cuối cùng, nếu điều tôi nói đây là giả dối. Tôi mới đúng là ngườI đáng chịu hình phạt.
Hoàng đế ngạc nhiên về lời thề đó và ông tin, hơn nữa ông già cũng không phản bác. Vì vậy, ngoảnh về chàng trai, ông bảo:
- Quân khốn kiếp! Vì cớ gì mà mi lại phạm vào một tội ác kinh khủng như vậy? Và nguyên nhân nào đã thúc đẩy mi tới đây nộp mình?
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Chàng trai đáp - Nếu có thể ghi chép lại những gì xảy ra giữa người đàn bà này và tôi thì thiết nghĩ đó cũng là một chuyện giúp ích rất nhiều cho những người đàn ông trên đời này.
- Vậy mi hãy kể cho ta nghe đi - Hoàng đế bảo - Ta ra lệnh cho mi đó. Chàng trai tuân theo và bắt đầu kể chuyện mình bằng lời lẽ như sau...”
Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng buộc phải để lại đêm hôm sau.

***

Schahriar nhắc nhở hoàng hậu và hỏi nàng là chàng trai đó kể gì với hoàng đế Haroun Alraschid.
- Tâu hoàng thượng - Scheherazade đáp - Chàng ta cất tiếng và kể như thế này:
                                                                       
                                                                                    Phần Sau  | Phần Kế Tiếp

                                                  Chương 15
                  NGƯỜI THIẾU PHỤ BỊ SÁT HẠI VÀ NGƯỜI CHỒNG NÀNG
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ biết cho rằng người thiếu phụ bị sát hại đó chính là vợ tôi, con gái ông già mà Người đã biết đó lại là chú ruột tôi. Khi nàng mới có mười hai tuổi thì ông đã gả cho tôi làm vợ và đến nay là mười một năm đã qua. Tôi có với nàng ba con trai hiện nay còn sống cả. Và cứ công bằng mà nói thì nàng chưa từng bao giờ làm cho tôi phải bực mình cáu giận. Nàng khôn ngoan, có đức hạnh và luôn chú ý chiều chuộng tôi. Về phía mình, tôi yêu nàng thực lòng, chiều theo tất cả các ý muốn của nàng, chưa bao giờ cấm đoán một điều gì.
Cách đây khoảng hai tháng, nàng ngã bệnh. Tôi hết lòng chăm sóc, không ngần ngại bất cứ việc gì cố sao để làm cho nàng mau lành bệnh. Được một tháng bệnh thuyên giảm, sửc khoẻ khá lên dần nàng muốn đi ra nhà tắm. Trước khi ra khỏi nhà, nàng bảo tôi: “Anh họ của em ơi! (nàng thường thân mật gọi tôi thế) Em muốn ăn táo quá đi mất, em sẽ cực kỳ vui thích nếu anh tìm được cho em vài quả. Em đã thèm ăn táo lắm rồi, thú thật với anh là em thèm tới mức là nếu không sớm được ăn thì em sợ là sức khoẻ em súy sụp mất. “ Rất vui lòng thôi - Tôi trả lời nàng - Anh sẽ cố gắng hết sức để chiều em.”
Ngay tức thì, tôi đi lùng tìm khắp các chợ, khắp các cửa hàng để mua ít quả táo, nhưng không thấy dù chỉ một quả, dù tôi đã sẵn sàng trả tiền cho mỗi quả một đồng sequin. Tôi trở về nhà rất buồn vì mất công toi. Về phần vợ tôi, khi đi tắm về không thấy có táo, nàng buồn rầu trằn trọc suốt đêm không ngủ. Sáng hôm sau tôi dậy sớm đi thăm khắp các vườn cây nhưng kết quả cũng chẳng hơn gì hôm trước. Tôi chỉ gặp được một người làm vườn có tuổi bảo tôi là dù có mất bao nhiêu công sức đi tìm thì cũng chẳng đâu có táo lúc này trừ trường hợp ở vườn ngự uyển của đức vua ở Balsora.
Tôi vốn rất yêu vợ và chiều chuộng nàng hết mức, không muốn để nàng phải phật ý vì bất cứ một điều gì nên tôi đã mặc vào mình bộ y phục đi đường và sau khi nói cho nàng biết ý định của mình, tôi lên đường đi Balsora. Tôi đi rất khẩn trương nên chỉ trong vòng nửa tháng đã có mặt tại nhà. Tôi mang về ba quả táo giá mỗi quả là một đồng sequin. Trong vườn chỉ có ngần ấy quả và ông làm vườn nhất định không để cho tôi rẻ hơn. Vợ tôi rất hài lòng nhận ba quả táo và đặt chúng ngay bên cạnh mình. Tuy nhiên nàng vẫn còn ốm và tôi chẳng biết dùng thuốc gì để chữa khỏi bệnh cho nàng.
Sau cuộc đi của tôi ít ngày, một hôm ngồi trong cửa hàng ở nơi công cộng bán đủ các loại vải lụa đẹp, tôi nhìn thấy một nô lệ da đen cao to mặt mũi dữ dằn, tay cầm một quả táo mà tôi nhận đích xác đó là quả táo mà tôi mang về từ Balsora. Không thể nhầm được vì tôi biết là ở Balsora cũng như ở các vườn quả các vùng lân cận không có một quả táo nào. Tôi gọi người nô lệ:
- Này anh bạn, làm ơn cho tôi biết, anh đã lấy được quả táo này ở đâu vậy?
- Đó là Anh ta cười đáp - tặng vật của tình nhân tôi. Hôm nay đến thăm, tôi thấy nàng hơi ốm: Có ba quả táo để bên cạnh, tôi hỏi nàng mua được ở đâu, nàng trả lời tôi đó là của người chồng tốt bụng của nàng kiếm được mang về cho nàng sau một chuyến đi tới nửa tháng trời. Chúng tôi cùng nhau ăn một bữa nhẹ, và khi chia tay, tôi đã cầm một quả mang theo.
Những lời trên đây của người nô lệ da đen làm tôi điên tiết. Tôi rời khỏi chỗ ngồi, đóng cửa hàng lại và chạy về nhà, vào trong buồng vợ. Đầu tiên tôi nhìn chỗ để những quả táo, chỉ thấy hai quả, tôi hỏi quả thứ ba đâu. Lúc này vợ tôi mới nguảnh đầu nhìn vào chỗ để táo, thấy còn có hai quả, lạnh lùng bảo tôi:
- Anh họ ơi? Em chẳng biết ra sao cả.
Nghe nàng đáp thế, tôi cho ngay là người nô lệ kìa đã nói đúng. Một cơn ghen tuông như bão tố nổi lên, tôi rút dao vẫn cài ở thắt lưng, đâm một nhát trúng tim con khốn nạn. Rồi tôi cắt đầu, chặt ngườI nàng ra mấy khúc, cho vào cái túi gấp và sau khi khâu miệng túi bằng một sợi len đỏ, tôi nhét cái túi vào một chiếc hòm gỗ, đợi trời tối, vác lên vai và quẳng xuống sông Tigre.
Hai đứa con của tôi đều đã đi ngủ, đứa con lớn đã đi đâu ra khỏi nhà. Khi tôi về thì thấy nó đang ngồi tựa cửa và khóc nức nở. Tôi hỏi vì sao nó khóc. Nó nói:
- Cha ơi, sáng nay con lấy trộm của mẹ một quả táo mà cha đã mang về đó. Con vẫn chưa ăn vì mải chơi với một lũ bạn thì giữa lúc đó một người nô lệ cao lớn đi qua đã giật mất quả táo trong tay con rồi bước rảo đi. Con đuổi theo đòi lại và nói với hắn là mẹ ốm, cha đã phải đi lùng tìm suốt nửa tháng mới mua về cho mẹ được ba quả táo. Nhưng vô ích, hắn vẫn không chịu trả và vì con vẫn đi theo để lớn tiếng đòi, hắn quay lại đánh con rồi gié chân chạy, luồn qua các ngõ hẻm mất hút. Từ lúc đó con đi lang thang ra ngoài thành phố chờ cha về để xin cha đừng nói gì với mẹ kẻo mẹ lại ốm thêm thì khổ.
Nói xong, con tôi lại ôm mặt khóc nức nở.
Những lời kể của con làm tôi bàng hoàng đau đớn không sao tả xiết. Tôi đã phạm tội ghê gớm, hối hận nhưng đã quá muộn. Tôi đã mù quáng tin vào những lời bịa đặt của tên nô lệ khốn kiếp, nó đã dựa vào lời con tôi để dựng lên một câu chuyện hoang đường tai hại mà tôi đã cho là thật. Chú tôi, có mặt tại đây khi đến thăm con gái đã biết được chuyện đau lòng này. Tôi không giấu ông tí gì và không đợi ông lên án, tôi đã tự kết tội mình là một tên sát nhân tồi tệ nhất trong thiên hạ.
Thế nhưng, đáng lẽ phải đánh mắng xỉ vả tôi đến nơi đến chốn, một việc tất nhiên và hợp lý, thì ông lại cùng tôi chia sẻ nỗi đau, suốt ba ngày tôi và ông cùng khóc ròng. Ông, vì mất người con gái mà ông yêu thương nhất mực; tôi vì mất một người vợ yêu quí mà tôi đã tự tay mình sát hại một cách vô cùng hung ác chỉ vì nhẹ dạ cả tin vào một tên nô lệ dối trá khốn kiếp.
Bẩm đấng Thống lĩnh các tín đồ, đó là tất cả sự thật mà Người đòi hỏi tôi phải thổ lộ. Lúc này, Người đã rõ nhũng hoàn cảnh đã đẩy tôi tới chỗ phạm tội ác, xin Người hãy ra lệnh trừng phạt. Dù cho hình phạt kia có nặng nề khắc nghiệp tới đâu, tôi cũng chẳng dám kêu ca nửa tiếng và còn thấy là hãy còn quá nhẹ.
Nghe lọt tất cả câu chuyện, hoàng đế vô cùng sửng sốt”
Scheherazade, kể tới đây thấy trời đã hửng sáng bèn ngừng lời. Nhưng đêm sau, nàng lại kể tiếp:

***

Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị hoàng đế này cực kỳ kinh ngạc về những điều chàng trai vừa kể. Nhưng ông là một vị vua công minh nên thấy chàng đáng được thương xót hơn là phải đối xử như một tội phạm nên phán rằng:
- Hành động của chàng trai này đáng được khoan dung trước Thượng đế và đáng được đại xá trước loài người. Tên nô lệ độc ác kia là nguyên nhân chính của vụ án sát nhân này. Nó là tên duy nhất cần phải trừng phạt. Vì vậy Ông ngoảnh về phía tể tướng nói - Ta cho nhà ngươi ba ngày để tìm ra nó. Nếu nhà ngươi, trong thời hạn đó mà không lôi được cổ nó về đây thì ta sẽ treo cổ ngươi thay nó.
Viên tể tướng khốn khổ tưởng là đã thoát nạn, nào ngờ lại phải nhận cái lệnh mớI oái oăm này của hoàng đế. Nhưng vì không dám cãi lại một ông vua mà ông đã biết rõ tính tình, nên chỉ còn cách là lảng đi và trở về nhà nước mắt rơi lã chã, chắc mẩm là còn sống được ba ngày nữa thôi. Tin chắc là không sao có thể tìm thấy được tên nô lệ đó nên ông chẳng mảy may nghĩ tới việc lùng tìm. Ông nghĩ bụng: “Làm sao mà phân biệt nổi trong thành Bagdad này có đến hàng ngàn vạn nô lệ da đen, để chỉ được đích danh một tên là thủ phạm. Trừ phi có Thượng đế ra tay giúp đỡ như Người đã giúp cho khám phá ra kẻ sát nhân vừa rồi, còn thì chẳng gì có thể cứu được ta lúc này”.
Hai ngày đầu ông cùng với gia đình thở than khóc lóc, rên rỉ về sự hà khắc của hoàng đế. Ngày thứ ba tới, ông chuẩn bị sẵn sàng chết một cách cứng cỏi như một ông quan công minh, liêm khiết chẳng hề có một điều gì đáng trách dù hết sức nhỏ nhặt. Ông cho vời các pháp quan và nhân chứng tới đông ký vào di chúc trước mặt họ. Sau đó ông ôm hôn vợ và các con nói lời vĩnh biệt. Toàn thể gia đình ông than khóc om sòm. Thật không có một cảnh tượng nào đáng xúc động hơn.
Cuối cùng, một viên quan cảnh vệ hoàng cung đi tới cho biết là hoàng đế sốt ruội vì chẳng có tin tức gì về ông cũng chẳng có tin tức gì về tên nô lệ da đen mà Người đã lệnh cho ông truy tìm. Viên quan đó nói thêm:
- Tôi được lệnh tới mờI ngài vào cung bệ kiến.
Ngài tể tướng đau khổ sửa soạn mũ áo để đi theo viên quan. Nhưng vừa định bước ra cửa thì người nhà đưa tới cô con gái út của ông chừng năm, sáu tuổi, để ông được nhìn thấy lần cuối cùng.
Vì rất mực yêu thương cô con gái út bé bỏng này nên ông xin viên quan cảnh vệ được nán lại một lát. Rồi ông tới gần con gái, ôm lấy cô bé và hôn đi hôn lại. Khi ôm hôn, ông cảm thấy con gái có cái gì cồm cộm ở ngực, lại toả ra mùi thơm, ông hỏi:
Con gái yêu quí của cha, con có cái gì ở ngực thế?
- Cha yêu quí của con - Cô bé đáp - Đó là một quả táo trên đó có viết tên hoàng đế, lãnh chúa và là ông chủ của chúng ta. Rihan, nô lệ của nhà ta đã bán cho con hai đồng equin đấy.
Nghe nói đến quả táo và nô lệ, tể tướng Giafar kêu lên ngạc nhiên pha lẫn vui mừng, lập tức thò tay vào ngực áo con lôi ra một quả táo. Ông cho gọi người nô lệ, không ở xa đó mấy, và khi tên này đã đứng trước mặt, ông hỏi:
- Marand, mày lấy quả táo này ở đâu?
- Thưa ngài - Tên nô lệ đáp - Tôi thề là không lấy trộm quả táo này ở nhà ngài cũng như ở trong vườn của đấng Thống lĩnh các tín đồ. Ngày hôm nọ, khi tôi đl qua một đường phố có ba bốn đứa trẻ đang chơi đùa, thấy trong tay một đứa có quả táo tôi đã giật lấy mang đi. Đứa bé chạy theo tôi nói quả táo không phải của nó nhưng là của mẹ nó đang ốm, là cha nó phải đi rất xa mới mua được ba quả mang về cho mẹ nó đỡ cơn thẻm. Đây là một quả nó lày vụng mẹ. Nó van xin tôi trả lại cho nó, nhưng tôi không nghe, mang về nhà và bán cho bé tiểu thư nhà ngài lấy hai đồng equin. Đó là tất cả sự thật tôi xin trình ngài rõ.
Tể tướng Giafar không sao có thể tưởng tượng được là sự dối trá của một tên nô lệ lại là nguyên nhân của cái chết thảm khốc của một người đàn bà vô tội và gần hầu như cả là nguyên nhân cái chết của chính mình nữa. Ông dẫn tên nô lệ theo và khi đứng trước hoàng đế ông kể lại cho nhà vua nghe chi tiết tất cả những gì tên nô lệ đã trình bày và do tình cờ ra sao mà ông khám phá ra tội phạm.
Không có gì có thể đánh giá được sự ngạc nhiên của hoàng đế. Ông không sao ngăn được một tràng cười ròn rã. Cuối cùng, lấy lại vẻ nghiêm trang, ông bảo tể tướng là vì nô lệ của tể tướng đã gây nên một vụ lộn xộn thật là kỳ cục vậy nó xứng đáng phải chịu một hình phạt để làm gương.
- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Thần chẳng dám phủ nhận. Nhưng tội ác của nó không phải là không thể dung xá. Thần biết một chuyện còn kỳ thú hơn về một tể tướng xứ Caue tên là Noureddin Ali và Bedreddin Hassan ở Balsora. Vì bệ hạ cũng rất muốn nghe những chuyện tương tự, thần xin sẵn sàng kể hầu Người với điều kiện là nếu Người thấy hay lạ hơn câu chuyện này thì xin Người gia ân tha cho tên nô lệ của thần.
- Ta cũng muốn vậy - Hoàng đế nói - Nhưng sợ nhà ngươi phiêu lưu, ta không tin là sẽ cứu được tên nô lệ của ngươi vì câu chuyện về những quả táo thật vô cùng kỳ lạ.
Tể tướng Giafar hắng giọng bắt đầu câu chuyện như sau:
                                                                                        Phần Sau  | Phần Kế Tiếp

                                        Chương 16
       NOUREDDIN-ALI-VÀ-BEDREDDIN-HASSAN
 
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, ngày xưa ở đất nước Ai-cập có một vị hoàng đế chí công, chí đức và rất hùng mạnh khiến cho các lân bang đều nể vì sợ hãi. Ông yêu thương dân nghèo và chở che cho các nhà thông thái mà ông đưa lên giữ những trọng trách trong triều đình. Tể tướng của hoàng đế là một người sắc sảo, khôn ngoan, thận trọng, thông thạo thư pháp và tất cả các môn khoa học. Vị trọng thần này có hai con trai khôi ngô tuấn tú và đều có nhiều nét giống cha. Người anh tên là Schemseddin Mohammed và người em là Noureddin Ali. Đặc biệt người, em có nhiều đức tính mà bao người thèm muốn. Tể tướng, cha của hai chàng đã mất, nhà vua mời cả hai anh em về triều và phong cho cả hai chức vị tể tướng thường.
- Ta vô cùng thương cảm - Người bảo hai người - Về sự mất mát mà các con đang phải chịu đựng. Ta cũng thương tiếc cha con không kém gì các con. Để thể hiện tình cảm đó, và ta biết là các con luôn sống bên nhau đoàn kết yêu thương nhau nên ta phong cho các con cũng một tước vị. Các con hãy noi theo gương sáng của cha các con.
Hai tể tướng mới cảm tạ tấm lòng nhân ái 1của hoàng đế, trở về nhà, chăm nom phần mộ của cha. Một tháng sau, họ xuất hành lần đầu, và tham dự triều chính lần thứ nhất, và từ đó trở đi họ đều đều có mặt trong những buổi thiết triều. Mỗi lần hoàng đế đi săn, một trong hai anh em được đi hộ giá, và lần lượt thay phiên nhau để hưởng vinh dự đó.
Một hôm, sau bữa cơm chiều, hai anh em trò chuyện bàn bạc với nhau nhiều vấn đề linh tinh. Đó là trước cái buổi mà người anh được cùng hoàng đế đi săn. Chàng trai trẻ bảo em:
Em này, cả hai chúng ta đều chưa thành hôn và chúng ta sống cùng nhau thật là hoà thuận, anh chợt có một ý: chúng ta hãy cùng cưới một ngày, lấy hai chị em mà chúng ta sẽ chọn lựa trong một gia đình nào đó phù hợp với chúng ta. Em nghĩ sao về cái ý tưởng đó?
- Em thấy - Noureddin Ali đáp - Thật rất xứng vớI tình thân đã gắn bó chúng ta. Anh ạ, không gì hay hơn ý tưởng đó. Về phần em, em sẵn sàng tuân theo anh.
- Ồ, chưa phải là tất cả đâu – Schemseđdin Mohammed nói tiếp - Trí tưởng tượng còn đi xa hơn kla: giả dụ là những người vợ của chúng ta đều mang thai ngay trong đêm đầu tiên của ngày cưới và sau đó các nàng cùng lâm bồn một ngày, vợ em sinh con trai và vợ anh sinh con gái thì khi chúng đến tuổi trưởng thành, chúng ta sẽ cho chúng thành vợ thành chồng.
- Ôl? Cái đó thì - Noureddin Ali kêu lên - Phải thú thực là dự kiến đó thật tuyệt vời? Cuộc hôn nhân đó làm anh em ta càng thêm gắn bó mật thiết, em hết sức tán thành. Nhưng, anh ơi - Chàng nói thêm - Nếu trường hợp có cuộc hôn nhân đó, thì anh có định là con trai em phải có một khoản hồi môn cho con gái anh không?
- Cái đó là tất nhiên rồi - Người anh nói - Anh chắc chắn là, ngoài những thủ tục thường tình của việc lập giá thú thì chú chắc là không quên trao cho đúng tên nó ít nhất là ba nghìn đồng sequin, ba mảnh đất màu mỡ kèm với ba nô lệ.
- Em làm sao mà đồng ý như vậy được . Người em phản bác - Phải chăng chúng ta chẳng phải là anh em ruột thịt và là bạn đồng liêu, cùng một chức sắc như nhau? Vả lại cả anh và em, phải chăng chúng ta không biết thế nào là sai, thế nào là đúng? Con trai bao giờ cũng phải quý hơn con gái chứ? Chính anh phải chi một khoản hồi môn lớn cho con gái mình mới đúng chứ? Cứ như em thấy thì anh là một con người chuyên lợi dụng trên lưng vốn người khác.
Dù là Noureddin Ali vừa nói vừa cười, nhưng ngườI anh, có tính cố chấp, coi như bị xúc phạm:
- Thật bất hạnh cho con trai chú - Người anh giận dữ nói. Chú lại dám đánh giá nó cao hơn con gái tôi ư? Tôi thật ngạc nhiên là chú dám bạo gan cho là con trai chú xứng với con gái tôi đấy. Phải nói là chú mất trí mới dám sánh ngang với tôi mà nói chúng ta là đồng liêu. Hãy nghe đây, quân bạo phổi, sau lời lẽ hỗn xược đó, tôi chẳng bao giờ gả con gái tôi cho con trai chú, dù chú có cho nó bao nhiêu của cải đi nữa.
Cuộc cãi vã đáng buồn cười này xảy ra giữa hai anh em về cuộc hôn nhân của hai đứa con chưa sinh đã đưa sự việc đi xa hơn. Schemseddin Mohammed tức giận đến mức đe doạ:
- Nếu ngày mai không phải đi theo hộ giá hoàng đế thì tôi đã cho chú biết tay. Nhưng khi trở về tôi sẽ cho chú biết một người em mà ăn nói láo xược vớI anh mình như chú đó thì sẽ phải ra sao.
Nói xong, anh ta rút về phòng riêng, và người em cũng về phòng mình.
Schemseddin Mohammed sáng hôm sau dậy sớm vào hoàng cung và từ đó đi ra cùng hoàng đế theo đường phía trên thành Caire, hướng Kim tự tháp. Còn Nouređdin Ali trằn trọc cả đêm không ngủ và sau khi cân nhắc kỹ thấy khó có thể sống lâu dài cùng người anh đã đối xử với mình quá hách dịch, cao ngạo. Chàng phác trong đầu một quyết định, cho sửa soạn một con la khoẻ mạnh, mang theo tiền, đồ châu ngọc quý và một ít lương thực và sau khi bảo người nhà là đi du lich khoảng vài ba ngày và muốn đi một mình thôi. Thế là chàng lên đường.
Khi đã ở bên ngoài thành Caire, chàng đi xuyên qua sa mạc tới vùng Arabie. Nhưng con la của chàng đã gục chết giũa đường, chàng bắt buộc phải đi bộ. May thay, có một người làm nhiệm vụ giao thông liên lạc đi Balsora cho đi cùng, được ngồi trên ngựa phía sau anh ta. Tới Balsora, cám ơn người bạn tốt bụng, Noureddin Ali xuống ngựa rồl đi dọc theo các phố tìm chỗ nghỉ chân. Giữa lúc đó, chàng trông thấy một quan chức cùng với đoàn tuỳ tùng rất đông đi tới. Dân chúng hai bên đường đều tỏ vẻ cung kính, dạt ra hai bên cho đoàn người đi qua. Noureddin cũng dừng lại như mọi người và biết đó là tể tướng của quốc vương Balsora đi thị sát trong thành phố để, với sự có mặt của mình, động viên dân chúng giữ gìn trật tự an ninh.
Vị đại thần này, vô tình liếc mắt nhìn chàng trai thấy khuôn mặt chàng thật dễ coi, ông ta nhìn chàng đầy thiện cảm. Và vì ông đi thị sát gần chàng, thấy là người vận y phục đi đường nên dừng lại hỏi chàng là ai và từ đâu đến.
- Thứa ngài - Noureddin Ali đáp- Tôi là người đất nước Ai-cập, sinh tại Caire, xa rời xứ sở vì có chuyện xích mích với một người trong dòng họ. Tôi đã quyết định là sẽ đi chu du khắp thiên hạ và thà chết ở đâu đó còn hơn là phải trở về.
Tể tướng là một ông già đáng kính, nghe chàng thanh niên nói thế, bảo chàng:
Con trai của ta ạ. Con hãy nên gạt bỏ cái ý định đó đi. Ở thế gian này chỉ toàn là khổ ải mà thôi và con có biết là sẽ có bao nhiêu nỗi nhọc nhằn mà con sẽ phải hứng chịu khi đi lang thang như thế không? Thôi, con hãy đi theo ta, có thể ta sẽ làm cho con quên di cái nguyên nhân đã buộc eon phải rời bỏ quê hương.
Noureddin Ali đi theo tể tướng Balsora, ông này, qua chuyện trò thấy chàng trai có nhiều đức tính thật tốt đẹp nên đã đem lòng yêu mến. Một hôm, trong đàm đạo riêng, ông bảo chàng:
Con trai ơi, như con thấy đấy, ta đã quá già rồi, chắc chả còn sống được bao lâu nữa. Trời cho ta một người con gái duy nhất mà sắc đẹp của nó cũng chẳng kém vẻ khôi ngô của con. Con ta lúc này đang ở tuổi gả chồng. Rất nhiều các đại thần trong triều này đã ngấp nghé hỏi cho con trai họ, nhung ta chưa đồng ý nhận lờI với ai cả. Còn với con, ta yêu quý con và thật xứng đáng để kết thân hơn tất cả bao đám khác, nên ta sẵn sàng nhận con là con rể của ta. Nếu con vui vẻ nhận lời thì ta sẽ tâu với hoàng đế để Người biết rõ và ta sẽ xin vớI Người cho con được nối nghiệp ta làm tể tướng ở vương quốc Balsora này. Đồng thời, vì tuổi già của ta cần có sự nghỉ ngơi an dưỡng, nên không những ta để lại cho con toàn bộ tài sản mà cả quyền hạn trong việc cai trị và xử lý các công vụ của vương quốc.
Vị tể tướng Balsora đầy lòng khoan dung nhân hậu chưa dứt lời thì Noureddin Ali đã vội sụp quỳ xuống bên chân ông, tỏ vẻ mừng vui và hàm ân sâu sắc, sẵn sàng làm tất cả những gì để làm cho vị tể tướng già nua tuổi tác này đặc biệt hài lòng. Thế là ông cho triệu tập tất cả những quan chức chủ yếu trong dinh tể tướng lại, ra lệnh cho họ trang hoàng gian đại sảnh và làm đại tiệc. Rồi ông đưa giấy mời tới tất cả các đại thần trong triều và các thân hào trong thành phố hạ cố tới dinh. Khi đã tề tựu đông đủ và vì ông đã biết rõ nhân thân của Noureddin Ali nên thấy tới lúc này là phù hợp để cho mọi người rõ sự việc, để khỏi có sự phật lòng của những người trước đây ông đã từ chối việc kết thân. Ông nói với tất cả:
- Thưa các ngài, tôi lấy làm sung sướng và hài lòng được nói với các ngài một việc mà tôi đã giữ kín đến tận hôm nay. Tôi có một người em trai là tể tướng của đất nước Ai-cập cũng như tôi có vinh hạnh được làm tể tướng vương quốc này. Chú em của tôi chỉ có một con trai và không muốn thành hôn tại triều đình Ai-cập và chú ấy gửi cháu đến chỗ tôi cưới con gái tôi để hai ngành họ càng thêm mật thiết. Người con trai, con của chú em, cháu của tôi mà tôi nhận làm con rể là chàng trai mà các ngài thấy đây, tôi xin trân trọng giới thiệu với các quý ngài. Tôi mong là các ngài rủ lòng thương cháu và vui lòng dự tiệc cưới của các cháu mà tôi đã quyết định tổ chức hôm nay.
Không một ai trong số các quan chức thấy việc chọn cháu ruột của mình làm con rể so với các đám khác muốn dạm hỏi là không chính đáng nên tất cả đều đồng thanh chúc mừng cuộc hôn nhân này. Họ đều vui lòng đứng ra làm chứng cho hôn lễ và chúc cho tể tướng được Thượng đế phù hộ cho trường thọ để được nhìn thấy kết quả của cuộc hôn phối đẹp đẽ và hạnh phúc này .
Đến đây, Scheherazade thấy trời hửng sáng nên ngừng lại và kể tiếp vào đêm sau:

***

- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện đang bỏ dở cho hoàng đế nghe:
“ Các quan chức tập hợp tại dinh tể tướng Balsora tỏ vẻ hết sức vui mừng về cuộc hôn nhân của con gái ông với Noureddin Ali. Tất cả, sau đó, ngồi vào bàn, ăn uống, chuyện trò rất lâu. Xong bữa, họ dùng đến các thứ mứt và hoa quả mà theo tục lệ mỗi người đều được lấy phần ít nhiều tuỳ thích để mang về nhà. Các pháp quan đi vào với giấy tờ giá thú trong tay. Các nhà chức trách chính yếu lần lượt ký vào rồi sau đó tất cả đều bái biệt ra về.
Khi chỉ còn người trong nhà, tể tướng trao trách nhiệm cho những gia nhân đã được chỉ định, đưa chú rể đi tắm rửa, ở đó Noureddin Ali được thay toàn bộ áo quần mới sạch đẹp cùng với nhiều thứ cần dùng khác. Chàng trở lại gặp tể tướng trong bộ y phục sang trọng thơm tho làm cho ông bố vợ hết sức vui vẻ khi nhìn thấy khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của chàng rể mới. Ông bảo chàng ngồi xuống cạnh mình rồi bảo:
- Con đã cho ta biết con là ai, địa vị của con ở triều đình Ai Cập; con cũng đã nói cho ta biết vì mâu thuẫn vớI anh ruột mình mà con phải rời xa đất nước, ta xin con hãy tâm sự với ta trọn vẹn cho ta biết nguyên nhân mà anh em con cãi lộn. Bây giờ con hãy hoàn toàn tin tưởng và đừng nên giấu ta điều gì hết.
Noureddin Ali kể lại cho ông nghe tất cả chi tiết của sự bất đồng giữa hai anh em. Ngài tể tướng không sao nhịn được cười khi nghe xong câu chuyện.
- Đó thật là - Ông nói - một chuyện kỳ lạ nhất trên đời này! Có thể thế được không hả con, là cuộc tranh cãi đi đến quyết liệt chỉ vì một cuộc hôn nhân tưởng tượng? Ta thấy bất bình là con bất hoà với anh con chỉ vì một chuyện ba láp không đâu vào đâu cả. Tuy nhiên ta cũng thấy là anh con có chỗ sai là đã quá tự ái không cho là con chỉ nói đùa vui mà gán cho con tội hỗn xược. Mặt khác ta cũng phải cảm tạ ông trời là cũng vì có sự bất đồng giữa hai anh em mà ta được một người con rể như con. Nhưng mà - Ông già nói tiếp - đêm đã khuya rồI đấy con nên đi nghỉ thôi. Đi đi, con trai ta, vợ con đang chờ con đấy. Ngày mai ta sẽ đưa con đến bệ kiến hoàng đế Ta tin rằng Người sẽ tiếp con một cách mà cả hai ta đều thấy hài lòng.
Noureddin Ali tạm biệt bố vợ để về phòng riêng với vợ. Có một điều đặc biệt - Tể tướng Giafar nói tiếp - là , cũng vào ngày cuộc hôn lễ của Noureddin Ali diễn ra ở Balsora thì Schemseddin Mohammed, người anh đang đi săn với hoàng đế Ai Cập và chỉ trở về sau một tháng vì nhà vua quá say mê với cuộc săn nên cũng vắng mặt trong triều suốt thời gian đó. Khi trở về chàng đến ngay nhà Noureddin Ali và rất ngạc nhiên khi biết em chàng lấy cớ là đi du lịch vài ba ngày, cưỡi một con la đi trùng với ngày đi săn của hoàng đế, và từ ngày đó biệt tăm. Chàng cũng không ngờ là những lời nói quá cay nghiệt của mình lại là nguyên nhân làm cho em chàng xa lánh. Chàng phái một giao liên qua Damas và tới tận Alep, nhưng lúc này Noureddin đang ở Balsora thì làm sao mà tìm được. Khi người giao liên thất bại trở về, Schemseddin Mohammed dự định phái hắn đi tiếp tìm ở những nơi khác nhưng trong lúc chờ đợi, chàng quyết định hãy cưới vợ đã. Chàng lấy con gái của một trong các trọng thần uy danh nhất thành phố Caire và tổ chức cùng một ngày với người em lấy con gái tể tướng Balsora.
Nhưng chưa phải đã hết – Giafar kể tiếp - Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, đây là chuyện còn lạ hơn: Chín tháng sau, vợ Schemseddin Mohammed đẻ con gái ở Caire và cũng cùng ngày đó vợ Noureddin cho ra đời ở Balsora một đứa con trai đặt tên là Bedreddin Hassan. Tể tướng Balsora tổ chức ăn mừng linh đình đón cậu cháu ngoại. Rồi, để tỏ lòng mến yêu chàng rể quí, ông vào cung bệ kiến hoàng đế, thiết tha cầu xin Người gia ân mưa móc cho Noureddin Ali được nối nghiệp mình để ông nói - trước khi nhắm mắt ông được thấy con rể là tể tướng thay chỗ của mình.
Hoàng đế đã lấy làm hài lòng hôm thấy chàng tôi bệ kiến sau hôn ìễ, sau đó lại được nghe nhiều lời tốt đẹp về chàng nên đã chuẩn y lời cầu xin của vị trọng thần với tất cả sự tán thưởng đáng mong ước. Nhà vua cho chàng mặc ngay triều phục tể tướng trước mặt Người.
Sự hân hoan của ông bố vợ càng được nhân lên bội phần khi ngày hôm sau ông thấy chàng rể của ông chủ toạ một cuộc họp thay ông và điều hành tất cả sự vụ của một tể tướng. Noureddin Ali thông thạo công việc như tất cả cuộc đời của chàng đã từng làm chức trách đó. Sau này chàng tiếp tục về sau này, tham dự các cuộc họp mà vì tật bệnh của tuổi già không cho phép bố vợ tới được. Vị tể tướng già nhân hậu này qua đời bốn năm sau ngày cưới con gái, mãn nguyện là có người nối dõi làm vẻ vang cho cả dòng họ.
Noureddin Ali đã tổ chức tang lễ cho bố vợ thật trang trọng với tất cả tình thương yêu và lòng tri ân sâu sắc. Chẳng mấy chốc mà cậu con trai Bedreddin Hassan được tròn bảy tuổi. Chàng trao con vào bàn tay dạy đỗ của một ông thầy đức hạnh giỏi giang cho cậu con vào khuôn phép xứng đáng với dòng dõi xuất thân của mình. Chàng đã thấy trong đứa bé này một trí thông minh lanh lợi sắc sảo có thể tiếp thu được tất cả những điều dạy bảo”.
Scheherazade định kể tiếp nhưng thấy trời đã hửng sáng, nàng bèn dừng lại. Đêm sau, nàng kể tiếp, với hoàng đế quốc gia Ấn Độ như sau:

***

- Tâu bệ hạ, - tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện cho vị hoàng đế nghe:
Hai năm sau - Ông nói - Bebreddine Hassan được ông thầy dạy cho đọc thạo, đã thuộc lòng quyển kinh Coran. Noureddin Ali, cha cậu, mời những ông thầy khác huấn luyện cho cậu cho đến năm mười hai tuổi thì Bebreddine Hassan đã học hết chữ của các thầy. Lúc này khuôn mặt của cậu đã định hình khiến cho người nào nhìn thấy đều đem lòng ái mộ và khâm phục.
Mãi tới lúc này, Noureddin Ali chỉ nghĩ một điều là động viên cho con dùi mài kinh sử chứ chưa cho xuất đầu lộ diện ngoài xã hội. Ông đưa cậu tới cung điện là để cho cậu có vinh dự được bái kiến hoàng đế mà ông đã được Người chiếu cố có phần ưu ái. Những bậc đại quan gặp cậu trên đường phố đều rất ngưỡng mộ vẻ đẹp trai của cậu thường thốt lên lời kinh ngạc và chúc tụng cậu hết lời.
Vì cha cậu có dự định là bồi dưỡng cho cậu có đầy đủ năng lực để một ngày kia sẽ thay thế ông, nên không ngẩn ngại bắt cậu đi sâu vào những sự vụ thật khó để cậu làm quen sớm với những công vụ nặng nề. Ông không nề hà bất cứ một việc gì để có thể làm cho cậu con trai vô cùng yêu quí của mình tiến bộ mau chóng và khi ông bắt đầu được hưởng thành quả của bao công lao khó nhọc thì bất ngờ ông bị bạo bệnh và cảm thấy là cái ngày gần đất xa trời của ông chẳng còn bao lâu nữa. Vì vậy, cũng chẳng còn gì phải ân hận, ông quyết định phải xa rời cõi thế như một tín đồ Hồi giáo thực thụ. Trong cái thời khắc quí báu này ông không quên con trai Bebreddin yêu quí của mình. Ông cho gọi chàng đến và dặn dò:
- Con của cha? Con thấy rõ là ở thế gian này chặng ai tránh khỏi cái chết. Chỉ có thế giới bên kia, nơi mà cha sắp đi sang, là vĩnh cửu. Ngay từ bây giờ con phải bắt đầu đặt mình vào việc dàn xếp như cha lúc này. Con hãy sửa soạn để bước qua đoạn đường này trong lòng không chút nuối tiếc và lương tâm yên ổn vì đã làm tròn trách nhiệm của một tín đồ Hồi giáo cũng như một công đân hoàn toàn lương thiện. Về mặt tôn giáo, qua các thầy và các sách vở, con đã được hiểu biết đầy đủ, về đạo làm người, để làm một con người chính trực. Cha sẽ cho con biết một số lời răn dạy mà con nên cố gắng mang ra thực hành. Vì điều tối cần thiết là tự mình phải biết mình và con sẽ chẳng làm được điều đó khi chưa biết rõ cha là ai thì đây cha sẽ cho con biết.
“Cha được sinh ra ở Ai Cập - Ông nói tiếp . Cha của cha tức là ông nội con là tể tướng của hoàng đế vương quốc. Bản thân cha cũng có vinh dự là một trong những tể tướng của đấng quốc vương này cùng với người anh, bác của con mà cha chắc là còn sống và có tên là Schemseddin Mohammed. Cha buộc phải chia tay với bác của con và tới vương quốc này mà ở đây cha đã đạt tới cương vị mà cha còn giữ đến bây giờ. Nhưng con sẽ nắm được rõ hơn tất cả những sự kiện này trong một quyển vở mà cha sẽ trao cho con đây. Đồng thời, Noureddin Ali lấy quyển vở tự tay ông viết mà ông luôn mang theo bên người đưa cho Bebreddin Hassan:
- Con hãy cầm lấy - Ông bảo con - Và những lúc rỗI rãi con hãy đem ra đọc, con sẽ thấy trong đó, bao sự kiện khác, ngoài ngày cha thành hôn và ngày con ra đời. Đó là những cảnh ngộ nó có thể giúp ích cho con sau này nên con cần luôn trân trọng giữ gìn.
Bebreddin Hassan, vô cùng xúc động thấy cha ở trạng thái yếu mệt, mủi lòng vì những lời khuyên nhủ, cầm lấy quyển vở mà nước mắt chan hoà. Chàng hứa vớI cha là luôn luôn ghi nhớ những lời dạy bảo.
Giữa lúc đó, Noureddin Ali bị một cơn suy nhược đã tưởng ông sắp thở hơi thở cuối cùng. Nhưng rồi ông lại hồi lại và nhẹ nhàng bảo con:
- Con của cha? - Ông nói - Phương châm cuộc sống thứ nhất mà cha truyền đạt cho con là không được nhẹ dạ cả tin. Để cỏ một cuộc sống vững chắc bảo đảm, hãy đặt niềm tin hoàn toàn vào bản thân mình và tránh mọi sự liên hệ dễ dãi.
Phương châm thứ hai là không được sử dụng bạo lực với bất kỳ ai vì trong trường hợp này, tất cả mọi người sẽ nổi dậy chống lại con. Con phải coi thiên hạ như một ngườI chủ nợ mà con phải luôn ôn nhã, thông cảm và độ lượng. Phương châm thứ ba là không mở miệng trước những lời nhục mạ. Có một câu phương ngôn hay cần nhớ là:
Người ta sẽ thoát hiểm khi biết giữ im lặng . Đặc biệt là trong hoàn cảnh này con phải đem ra thực hành. Chắc con cũng đã biết là về chủ đề này một trong số nhà thơ của chúng ta đã nói: sự im lặng là một thứ trang sức và bảo vệ sinh mệnh, chớ nên như một cơn mưa giông phá hoại tất cả khi mở miệng. Người ta không bao giờ phải hối hận khi im lặng, ngược lại luôn phải buồn phiền tức giận vì đã phát ngôn thiếu suy nghĩ chín chắn.
Phương châm thứ tư là không uống rượu. Rượu là nguyên nhân của mọi thói xấu.
Phương châm thứ năm là tiết kiệm tiền của. Nếu con không hoang phí, nó sẽ tránh cho con mọi sự khó khăn. Tuy nhiên cũng chớ nên quá bủn xỉn keo kiệt. Chi tiêu phù hợp và đúng lúc, ngang bằng với khả năng của mình, con sẽ có nhiều bạn thân, nhưng nếu ngược lại con giàu có nứt đố đổ vách nhưng tiêu sài hoang phí, ném tiền qua cửa sổ thì mọi người sẽ xa lánh và bỏ rơi con đó.
Noureddin Ali đến tận phút cuối cùng của cuộc sống, không ngừng khuyên con những điều hay điều tốt. Khi ông nhắm mắt xuôi tay, đám tang của ông thật trang trọng và đông đúc... .
Scheherazade kể đến đây thì trời hửng sáng. Nàng ngừng nói và dành đoạn tiếp vào đêm sau.

***

Hoàng hậu vương quốc Ấn Độ được cô em Dinarzade đánh thức đúng giờ thường lệ, nàng cất tiếng và nói với Schahriar:
Tâu hoàng thượng, vị hoàng đế này say sưa nghe tể tướng Giafar kể tiếp câu chuyện:
Thế là Noureddin Ali được an táng trọng thể phù hợp với cương vị của ông. Bebreddin Hassan của Balsora, người ta gọi thế vì chàng được sinh ra ở thành phố này, đau thương vô hạn vì đã mất một người cha thân yêu. Theo tục lệ thì cứ tang trong một tháng nhưng chàng đã ở tại nhà khóc than suốt hai tháng liền chẳng đi đến đâu và cũng chẳng tới triều để làm nhiệm vụ bầy tôi đối với quốc vương Balsora. Nhà vua rất bất bình về sụ trễ nải của chàng và coi đó là biểu hiện của sự coi thường triều đình và cả bản thân ông nên không nén khỏi tức giận. Trong cơn giận dữ lôi đình, nhà vua cho gọi tể tướng đầu triều mới tới, vì ông đã chọn người thay khi hay tin Noureddin Ali mất, ra lệnh cho ông này tới nhà cố tể tướng tịch biên toàn bộ gia sản, đất đai, đồ đạc... không để lại cho Hassan một chút gì mà còn ra lệnh bắt giữ cả chàng nữa.
Ngài tể tướng mới cùng với rất đông quân cận vệ hoàng cung, các pháp quan và các quan chức khác rầm rộ kéo đi thực hành sứ mệnh. May thay, một trong những nô lệ của Bebreddin Hassan tình cờ có mặt trong đám đông nghe thấy được ý đồ của tể tướng đã chạy nhanh đến trước và báo tin đó với chủ. Y thấy Hassan ngồi dưới tiền đình ngôi rthà, buồn rầu ảo não nhớ thương cha. Y chạy vào thở hổn hển ôm lấy chân chàng và sau khi đặt môi hôn vào gấu áo chàng, y bảo:
- Ngài hãy trốn ngay đi! Phải trốn nhanh!
- Có chuyện gì vậy? - Hassan ngẩng đầu lên hỏi - Ngươi đem tới cho ta tin gì nào?
- Thưa ngài - Y đáp - không nên để mất thì giờ nữa. Hoàng đế đang trong cơn thịnh nộ khủng khiếp đối với ngài và cho người tới tịch biên toàn bộ những gì ngài đang có và còn bắt giữ ngài nữa.
Lời mách bảo của tên nô lệ trung thành và rất yêu quí chủ đã khiến chàng hết sức sững sờ.
- Thế ta không thể - Chàng nói - có chút thời gian nào để vào nhà cầm theo một ít tiền và vài thứ đồ châu ngọc nữa ư? .
Không thể được, thưa ngài - Người nô lệ nói - viên tể tướng sẽ có mặt tại đây trong một lát nữa thôi. Ngài hãy đi ngay, trốn mau đi.
Bebreddin Hassan vội vã đứng lên, xỏ chân vào đôi dép, lật một vạt áo lên che đầu và mặt rồi lẩn nhanh ra bên ngoài không cần biết phải đi về hướng nào để thoát khỏi mối hiểm nguy đang đe doạ. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là mau chóng thoát ra khỏi thành phố. Chàng chạy một mạch tới nghia trang công cộng và vì đêm đã tới gần, chàng quyết định là sẽ trú thân ở nhà mồ của cha qua đêm. Đó là một công trình kiến trúc vẻ ngoài đồ sộ có mái vòm mà Noureddin Ali hồi sinh thời đã cho xây dựng. Nhưng giữa đường đi tới nhà mồ, chàng gặp một người Do Thái rất giàu có làm nghề buôn bán và cho vay lãi. Ông ta từ một nơi có công việc cần giải quyết và lúc này đang trên đường trở về thành phố.
Người Do Thái này nhận ra Bebreddin, dừng bước và chào chàng rất lễ độ..”
Đến đây, trời vừa sáng, Scheherallade dừng lại và kể tiếp vào đêm sau:

***

- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị hoàng đế đó rất chăm chú nghe tể tướng Glafar kể tiếp như sau:
Người Do Thái có tên là Isaac, sau khi chào Bebreddin Hassan và hôn tay chàng, nói:
- Thưa ngài, xin mạo muội được hỏi ngài còn đi đâu vào giờ này, hình như lại đi một mình và tâm trạng khá xúc động? Có việc gì đã làm ngài buồn phiền chăng? Phải - Bebreddin đáp - Vừa rồi trong giấc ngủ ta thấy cha ta hiện về. Người nhìn ta trừng trừng, có vẻ đang rất giận dữ vì điều gì đó. Ta giật mình thức dậy rất lo sợ, nên vội chạy tới đây để cầu nguyện trên nấm mồ của ngưòi.
- Thưa ngài - Người Do Thái không biết lý do vì sao Hassan rời thành phố nói tiếp - Ngài cố tể tướng và cũng là lãnh chúa trong tâm tưởng của tôi, đã chất đầy hàng hoá lên rất nhiều con tàu hiện nay đang còn ở ngoài khơi. Những tàu hàng hoá này đều thuộc quyền sở hữu của ngài. Vì vậy xin ngài cho phép tôi được độc quyền thầu lại. Tôi có đủ tiền để mua lại tất cả số hàng đó. Nếu ngài đồng ý thì tôi sẽ nhận chuyến tàu đầu tiên sắp cập bến an toàn và sẽ đưa ngay ngài khoản một ngàn đồng sequin. Tiền tôi có mang theo đây và sẵn sàng ứng trước.
Bebreddin Hassan, trong tình trạng lúc đó, bị đuổi khỏi nhà, bị lột tất cả những gì có ở trên đời, nhìn nhận đề xuất của người Do Thái như là một ân huệ của trời. Chàng đã nhận lời với sự mừng vui hiếm có.
- Thưa ngài - Người Do Thái hỏi chàng - Vậy là ngài đồng ý để cho tôi chuyến hàng thứ nhất trên, một trong những tàu của ngài sắp cập bến với giá một nghìn đồng sequin chứ?
Vâng, tôi bán cho ông chuyến hàng đó với giá một nghìn đồng sequin - Bebreddin Hassan đáp - Đó là một vấn đề đã thoả thuận.
Tức thì, nhà buôn Do Thái đặt vào tay chàng một túi tiền một nghìn đồng sequin và đề nghị chàng đếm lại. Nhưng Bebreddin nói không cần vì tin vào sự trung thực của ông ta.
- Nếu vậy thì - Nhà buôn Do Thái nói - Xin ngài viết cho một chữ về việc mua bán vừa xong của chúng ta.
Nói đoạn ông ta rút từ thắt lưng ra một cái bàn viết, một que tre đã vót để làm cây viết, đưa cho chàng một mẩu giấy lấy trong cái cặp giấy viết thư và trong khi ông ta cầm lọ mực, Bebreddin viết những chữ sau vào mẩu giấy:
“Giấy chứng nhận: Bebreddin Hassan ở Balsora đã bán cho nhà buôn Do Thái Isaac cả lô hàng trên con tàu thứ nhất cập bến này lấy khoản tiền một nghìn đồng sequin đã nhận đủ - Ký tên: Bebreddin Hassan ở Balsora .
Viết xong chàng trao cho người Do Thái, ông này kẹp vào cặp giấy và xin cáo lui. Trong khi Isaac đi theo con đường dẫn vào thành phố thì Bebreddin Hassan tiếp tục đi tới phần mộ cha là Noureddin Ali. Tới nơi, chàng quỳ xuống mặt gục sát đất, mắt đẫm lệ, miệng than nỗi khổ của mình:
- Than ôi! - Chàng rên rỉ - Bebreddin bất hạnh, mày sẽ ra sao đây? Mày tìm đâu ra một chỗ ẩn thân để tránh tên vua bất minh đang ngược đãi hành hạ mày? PhảI chăng sầu não vì mất một người cha yêu quí thế là chưa đủ sao? Phải chăng số mệnh còn bắt ta phải chịu một tai hoạ mới sau buồn đau nuối tiếc này?
Chàng trầm ngâm rất lâu trong trạng thái này. Nhưng cuối cùng chàng đứng lên tựa đầu mình vào bia mộ cha cảm nỗi đau lại dội lên cuồn cuộn mạnh hơn trước..Chàng không ngừng thở dài kêu than cho tới khi kiệt sức rồi rời đầu mình khỏi tấm bia chàng nằm duỗi dài trên vỉa hè và lim đi.
Tâm hồn phiêu diêu được một lát thì một vị thần linh thường tới ẩn trong nghĩa trang này vào ban ngày, đêm đêm thường bay đi thăm thú các nơi theo thói quen, bất ngờ ngài nhìn thấy một chàng trai trong hầm mộ của Nouređdin Ali, bèn bước vào. Vì chàng trai nằm ngửa nên vị thần sửng sốt, mắt hoa lên vì vẻ khôi ngô tuấn tú của chàng... .
Mặt trời nhô lên không cho phép Scheherazade kể tiếp câu chuyện trong đêm nay. Nhưng đêm sau, vào giờ thường lệ, nàng tiếp tục kể:

***

“- Khi vị thần đó - Tể tướng Giafar nói tiếp chăm chú nhìn ngắm Bebreddin Hassan, và tự bảo: Cứ nhìn vào cái vẻ đẹp của sinh linh này, thì có thể đây là một thiên thần của địa đàng mà Thượng đế phái xuống để làm cho cả thế gian này bốc lửa vì nó .
Cuối cùng, sau khi đã nhìn kỹ, vị thần bay lên rất cao trong không trung, tình cờ gặp một tiên nữ. Cả hai chào nhau, rồi vị thần nói: Xin bà vui lòng cùng tôi đỗ xuơng nghĩa trang, nơi tôi trú ngụ, tôi sẽ chỉ cho bà xem một vẻ đẹp hiếm có mà chắc bà sẽ phải tấm tắc khâm phục cũng như tôi vậy .
Bà tiên đồng ý và chỉ một thoáng, họ đã ở bên trong hầm mộ.
- Thế nào, thưa bà - Vị thần chỉ vào Bebreddin Hassan - Bà đã bao giờ thấy một thanh niên khôi ngô tuấn tú và đẹp hơn người này chưa?
Bà tiên chú ý ngắm nhìn Bebreddin rồi quay sang vị thần linh:
- Tôi thú thực - Bà nói - là nó thật đẹp. Nhưng tôi cũng thấy vừa rồi ở Calre, cái này còn tuyệt diệu hơn, nếu ông muốn nghe tôi sẽ kể cho nghe. Nếu vậy thì bà làm tôi thật thích thú đấy.
- Nhưng xin ông hãy biết cho rằng tôi chỉ thấy, từ xa thôi nhé. Chắc ông đã rõ là hoàng đế Ai Cập có một tể tướng tên là Schemseddin Mohammed, ông này có một người con gái khoảng hai mươi xuân. Đó là một cô gái đẹp nhất và hoàn hảo nhất mà chưa từng có một người nào nghe nói. Hoàng đế nghe tiếng đồn về cô gái, cho triệu tể tướng cha cô tới và bảo ông:
- Ta nghe nói nhà ngươi có một người con gái đến tuổi lấy chồng, ta muốn cưới cô đó, liệu nhà ngươi có đồng ý gả cho ta không?
Tể tướng bất ngờ về lời cầu hôn đó, bối rối một chút, nhưng không bị loá mắt. Nếu phải là những ai đó khác thì đã mừng rơn mà vội vã nhận lời, nhưng ông thì lại trả lờI rất ôn tồn nhưng kiên quyết:
Tâu bệ hạ, tôi tự xét là không xứng đáng được bệ hạ chiếu cố, và xin Người rộng lượng tha thứ cho nếu tôi không thể làm vui lòng Người được. Chắc bệ hạ cũng đã biết tôi có một em trai là Noureddin Ali cũng như tôi, có vinh dự được là một trong các tể tướng của Người. Anh em chúng tôi đã có sự xích mích và đó là nguyên nhân về sự bất ngờ mất tích của chú ấy và từ đó tôi chẳng được có tin tức gì cách đây bốn hôm, tôi có nghe thấy tin là chú ấy đã mất ở Balsora trên cương vị là tể tướng của vương quốc đất nước đó. Em tôi để lại một con trai. Trước đây chúng tôi đã cùng nhau cam kết là sẽ gả con cho nhau. Tôi chắc là em tôi chết trong ý muốn là tỉến hành cuộc hôn nhân đó. Vì vậy về phía mình, tôi muốn giữ trọn lời hứa và thiết tha xin hoàng thượng cho phép làm việc đó. Triều đình ta có rất nhiều các đại thần cũng có con gái như tôi và NgườI chẳng thiếu nơi để gia ân mưa móc.
Hoàng đế Ai Cập tức gịận đến cùng cực tể tướng Schemseddin Mohammed... . Scheherazade ngừng lời vì ánh sáng ban mai đã lấp ló sau mành. Đêm hôm sau, nàng lại tiếp ngọn nguồn câu chuyện, nói với hoàng đế Ấn Độ, vẫn là lời của tể tướng Giafar kể với hoàng đế Haroun Alraschid
 
                                                                                   Phần Sau  | Phần Kế Tiếp
                                          Chương 17
                           CHÀNG-BEDREDDIN
 
Hoàng đế Ai Cập, bị bẽ mặt vì sự từ chối và sự táo bạo cả gan của Schemseddin Mohammed, không sao kìm nén được giận dữ, bảo viên tể tướng của mình:
- Có phải nhà ngươi đáp lại lượng cả của ta đã hạ mình đến mức kết thân với ngươi như thế không? Ta sẽ phải báo thù về việc nhà ngươi đã dám so sánh ta với một kẻ khác và ta nguyền cho con gái nhà ngươi chỉ có thằng chồng không ngoài một tên nô lệ xấu xí nhất trong tất cả nô lệ của ta.
Nói xong, hoàng đế tàn nhẫn đuổi tể tướng ra ngoài. Ông này đi về nhà đầy vẻ sượng sùng và thấy vô cùng khổ nhục.
Cũng ngay hôm đó, nhà vua cho gọi một trong những tên giám mã của mình tới. Tên này gù cả lưng, cả ngực và xấu tới mức ma chê quỉ hờn. Sau khi lệnh cho Schemseddin Mohammed phải chấp nhận cho con gái mình kết hôn với tên nô lệ ghê tởm này, hoàng đế cho lập tờ giá thú và bắt mọi người ký kết trước mặt mình. Tất cả công việc sửa soạn cho đám cưới kỳ cục này đã hoàn tất nhanh chóng. Trong lúc tôi nói đây thì tất cả các nô lệ của các quan chức trong triều đình Ai Cập đều tề tựu trước cửa một nhà tắm, mỗi đứa một ngọn đuốc cầm trong tay. Chúng chờ cho đến lúc tên giám mã gù tắm rửa xong, đi ra thì đưa rước đến nhà cô dâu. Ở đó nàng cũng đã trang điểm xong xuôi. Trong lúc mà tôi rời thành Caire, thì những thị nữ đã tập trung lại, chuẩn bị đưa cô dâu, với tất cả những đồ trang trí cho đêm tân hôn, tới phòng mà ở đó nàng phải đợi tiếp đón thằng gù. Tôi đã nhìn thấy nàng và cam đoan với ông là không ai được trông thấy nàng mà không bị hút hồn.
Khi bà tiên ngừng lời, vị thần linh bảo:
- Dù bà có ca ngợi thế nào chăng nữa thì tôi cũng không tin là nhan sắc của cô gái đó lại có thể vượt được vẻ đẹp khả ái của chàng trai này.
- Tôi chẳng muốn cãi nhau với ông làm gì - Bà tiên bảo - Nhưng tôi cũng phải công nhận là anh ta xứng đáng được kết hôn với cô gái duyên dáng mà người ta ép gả cho anh gù đấy. Tôi thấy là chúng ta sẽ làm được một việc rất hay, rất xứng đáng với chúng ta là, chống lại sự bất công của hoàng đế Ai Cập. Chúng ta cho chàng trai này thế chỗ của tên nô lệ kia.
- Bà nói phải đấy - Vị thần hào hứng nói - Bà có biết không, tôi rất tán thành cái ý kiến chợt nảy ra đó của bà. Tôi đồng ý việc làm chệch hướng sự trả thù của hoàng đế Ai Cập đi, an ủi một người cha sầu khổ, trả về cho con gái ông ta cái hạnh phúc đang tưởng là sự bất hạnh. Tôi có đầy đủ khả năng để thực hiện kế hoạch này và tin rằng bà cũng không chút nào tiếc sức. Tôi xin nhận việc chuyển cậu ta về thành Caire mà không làm cho thức giấc, còn bà muốn để cậu ta ở đâu tuỳ ý khi chúng ta bắt đầu thi hành công việc.
Sau khi tiên nữ và thần linh bàn bạc xong tất cả những gì cần làm, vị thần linh nhẹ nhàng xốc Bebređdin, bay vút lên tầng không nhanh như gió và đặt chàng nằm trước cửa một công sở, bên cạnh nhà tắm mà thằng gù sắp đi ra với cả một tốp đông nô lệ đang đứng đợi.
Bebreddin Hassan lúc này thức giấc, vô cùng ngạc nhiên là thấy mình ở giữa một thành phố xa lạ. Chàng muốn kêu lên để hỏi xem mình ở đâu, nhưng vị thần đập khẽ lên vai chàng và bảo không được lên tiếng. Rồi ông đưa cho chàng một cây đuốc và bảo:
- Hãy xen vào đám đông mà anh trông thấy túm tụm ở trước cửa nhà tắm kia và cùng đi với họ cho tới lúc vào một phòng mà ở đó đang tổ chức hôn lễ. Chú rể là một người gù mà anh dễ dàng nhận thấy. Anh hãy đứng vào bên phải y và đi vào phòng, từ lúc này anh phải luôn thò tay vào túi tiền đầy đồng sequin ở trước ngực đó phân phát cho những nhạc công, những vũ nữ và vũ công đang dạo nhạc và nhảy múa. Khi đã vào hẳn trong phòng, chớ quên phân phát tiền cho cả các nữ nô lệ đang xúm quanh cô dâu khi họ đến gần anh. Hãy làm tất cả những gì ta bảo với sự nhanh trí lanh lẹ tháo vát của mình, chớ tỏ ra ngạc nhiên về bất cứ cái gì, không sợ bất cứ ai, vì anh đang được một sức mạnh siêu nhiên hỗ trợ.
Chàng thanh niên Bebreddin, nhẩm thuộc lòng tất cả những gì phải làm rồi tiến lại gần cửa nhà tắm. Việc đầu tiên là châm đuốc vào cây đuốc đang cháy của một tên nô lệ, rồi đứng lẫn vào bọn chúng làm như mình thuộc về một lãnh chúa nào đó ở thành Caire, bước đi cùng với chúng theo sau anh gù vừa ra khỏi nhà tắm trèo lên lưng một con ngựa trong chuồng ngựa của hoàng đế.
Ánh sáng ngày đã bừng lên làm Scheherazade lặng im và đêm sau nàng lại kể tiếp:

***

Tâu hoàng thượng - Nàng nói - Tể tướng Giafar vẫn kể tiếp câu chuyện đó với hoàng đế Haroun Alraschld.
Bebreddin đi bên cạnh những nhạc công, vũ công và vũ nữ ngay phía trước anh chàng gù, thỉnh thoảng lại thò tay vào túi lấy ra hàng nắm đồng sequin phân phát cho họ. Vì anh làm cái việc hào phóng này với thái độ thật nhũn nhặn và dáng điệu vui tươi nên tất cả mọi ngườI nhận quà đều liếc nhìn anh và khi thấy rõ mặt thì không muốn rời mắt nhìn nơi khác nữa vì họ thấy anh thật điển trai ít có.
Đã tới cổng dinh tể tướng Schemseddin Mohammed, bác ruột của Bebreddin Hassan. Ông này chắc không sao ngờ được là cháu mình lại ở đây, gần ông như vậy. Những lính cận vệ, để ngăn cản tình trạng lộn xộn có thể xảy ra, đã chặn tất cả những nô lệ tay cầm đuốc lại không cho vào trong. Chúng đẩy cả Bebreddin Hassan lùi lại. Nhưng những nhạc công đã bước chân qua bậc cửa đang mở dừng lại phản đối. Họ bảo họ sẽ không đi vào nếu không để cho chàng trai này vào cùng với họ. Họ bảo:
- Chàng trai này không phải cùng trong bọn nô lệ, cứ nhìn anh ta thì biết. Chắc đó là một người khách lạ trẻ tuổi, tò mò muốn biết ở thành phố đám cưới được tổ chức ra sao mà thôi.
Vừa nói họ vừa kéo anh đứng vào giữa và cùng đi vào chẳng thèm đếm xỉa đến bọn lính. Họ giật lấy cây đuốc của anh đưa cho một người đầu tiên vừa từ trong nhà đi ra và sau khi đưa anh vào phòng, họ đặt anh đứng vào bên tay phải anh chàng gù đang ngồi trên một cái ngai được trang trí rất đẹp bên cạnh chiếc ngai của cô dâu con gái tể tướng.
Cô dâu được trang sức lộng lẫy nhưng mặt buồn rười rượi, một nỗi buồn chết chóc mà người ta không khó đoán ra được nguyên nhân khi nhìn thấy bên cạnh nàng một người chồng rất dị dạng, khó có thể nói đến chuyện yêu đương. Hai chiếc ngai của đôi vợ chồng khập khiễng này đặt chính giữa một chiếc sập to. Các bà mệnh phụ của triều đình và của thành phố ngồi hai bên, thấp hơn tuỳ theo thứ bậc, tất cả đều ăn vận sang trọng và lộng lẫy trông vô cùng ngoạn mục. Mỗi bà cầm trong tay một cây nến to đang cháy sáng.
Khi họ nhìn thấy Bebreddin Hassan bước vào, tất cả đều thì thào thán phục, nhìn ngắm vóc dáng thân hình chàng, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của chàng không rời mắt. Khi chàng đặt mình ngồi xuống, thì không phải là một người mà hầu như tất cả lần lượt bỏ chỗ ngồi tới gần chàng để nhìn và khi trở về lại chỗ ngồi, không mấy ai là không thấy lòng mình có chút nào rung động. Sự cách biệt khác nhau giữa Bebreddin Hassan và tên giám mã gù có bộ mặt tởm lợm đã gây nên tiếng xì xào trong đám đông:
- Chính là chàng thanh niên đẹp trai này mới đáng là chú rể chứ chẳng phải là cái anh chàng gù bẩn thỉu kia.
- Các bà không dừng lại ở đó mà còn cất tiếng làu bàu chê trách hoàng đế đã dựa vào quyền uy tuyệt đối để làm cuộc hôn phối quái gở giữa cái xấu và cái đẹp này. Họ còn mỉa mai xỉ vả nhiếc móc anh chàng gù làm cho gã hoang mang bối rối khiến cử toạ rất thích thú hò hét đôi khi làm đứt quãng cả giai điệu nhạc đang tấu trong phòng cưới. Cuối cùng, những nhạc công bắt đầu lại bản hợp xướng và những thị nữ chuyên việc thay đổi y phục cho cô dâu đến gần nàng .
Đến đây Scheherazade dừng lại vì thấy trời đã sáng. Đêm sau, nàng tiếp tục câu chuyện đã bề dở đêm hôm trước.

***

Tâu hoàng thượng - Scheherazade nói với hoàng đế Ấn Độ - Chắc là bệ hạ không quên là tể tướng Giafar vẫn đang kể chuyện hầu hoàng đế Haroun Alraschid:
Cứ mỗi một lần - Ông nói tiếp - cô dâu thay đổi y phục, nàng lại rời chỗ ngồi, theo sau là các thị nữ, đi qua mặt anh chàng gù mà chẳng thèm nhìn nó mà lại tới trước mặt Bedreddin Hassan để cho anh nhìn những đồ trang sức mới. Thế là Bedreddin Hassan, nhớ lời dặn dò của vị thần, không quên cho tay vào tui tiền, móc ra hết nắm này đến nắm khác những đồng sequin phân phát cho các thị nữ tuỳ tùng cô dâu. Anh cũng không quên những nhạc công và vũ công, ném rào rào cho họ. Thật là thích thú nhìn thấy họ xô đẩy nhau để cúi xuống nhặt những đồng tiền lăn lóc trên sàn nhà. Họ nhìn anh vẻ cảm ơn và làm dấu hiệu là họ muốn cô dâu trẻ kia thuộc về anh chứ không phải thuộc về anh chàng gù kia. Những bà mệnh phụ và các thị nữ xung quanh cô dâu cũng nói ra miệng với anh như vậy chẳng cần biết là gã gù kia có nghe được hay không. Và họ còn làm hàng ngàn trò nghịch ngợm chế giễu, làm cả cử toạ vui thích.
Khi lễ thay y phục nhiều lần đã kết thúc, những nhạc công ngừng chơi và vừa lút ra ngoài vừa ra hiệu cho Bedreddin Hassan cứ ở lại. Các bà cũng làm vậy và rút ra sau họ với tất cả những người không phải là người trong nhà. Cô dâu đi vào một căn buồng, có các thị nữ theo vào để hầu nàng cởi bỏ y phục. Lúc đó ở lại trong phòng chỉ còn người giám mã gù, Bedreddin Hassan và một vài đầy tớ. Anh chàng gù, vô cùng tức giận Bedreddin đã ám y suốt buổi, lườm chàng nói:
- Và còn mày, còn chờ gì nữa? Vì sao mày không rút đi như những người khác? Cút đi!
Bedreddin thấy chẳng có một cớ gì để ở lại đó, nên thấy thật lúng túng cũng vội bước ra. Nhưng chưa ra khỏi tiền sảnh thì cả vị thần và bà tiên ở đâu nhô ra chặn chàng lại:
- Này, anh đi đâu vậy? - Vị thần hỏi - Hãy ở lại? Tên gù không còn ở trong phòng nữa đâu, nó đã ra ngoài vì có việc gì đó. Anh hãy trở lại và lẻn vào buồng cô dâu. Khi chỉ còn anh và nàng, anh hãy mạnh dạn nói anh mới là chồng của nàng, chẳng qua đức vua đưa tên gù ra chỉ để làm trò vui mà thôi. Và để cho tên này nguôi nguôi đi, anh bảo sửa soạn cho nó một đĩa kem thật ngon trong chuồng ngựa ấy. Sau đó hãy nói với nàng tất cả những gì phù hợp đến trong đầu anh để trấn an nàng. Làm tất cả những cái đó đối với anh hiện nay chẳng có gì là khó, còn nàng thì sẽ vui thích vì đã bị lừa một cách thật dễ chịu. Tuy vậy chúng ta sẽ phải lệnh cho tên gù không được vào ngăn trở anh qua đêm với nàng vì đó là vợ anh chứ không phải là vợ hắn.
Trong khi vị thần khuyến khích động viên Bedreddin và dạy cho chàng phải làm gì, anh chàng gù đúng là đã ra khỏi phòng cưới. Vì vị thần linh đã vào, biến thành một con mèo đen gào lên thật khủng khiếp. Gã gù vỗ tay xuỵt đuổi, nhưng con mèo không những không chạy đi mà còn đứng dựng lên mắt toé tia lửa đỏ ngang nhiên nhìn gã và lại còn gào to hơn trước đồng thời phình to lên bằng con lừa con. Gã gù kinh hoàng kêu cứu nhưng sợ quá hàm cứng lại chỉ há mồm mà không ra tiếng. Không để cho y hoàn hồn, vị thần hoá thành một con trâu mộng và dưới lất con vật đó, nói thành tiếng: Tên gù đê mạt kia? làm cho y càng kinh hoảng bội phần. Gã nằm lăn xuống sàn, đưa vạt áo lên che đầu che mặt để khỏi phải trông thấy con vật ghê gớm đó. Gã cất tiếng run run:
- Bẩm đại vương, chúa tể của loài trâu, ngài muốn gì ở tôi?
- Vô phúc cho mi- Vị thần bảo- Mi dám bạo gan cưới người tình của ta ư?
- Ôi! Bẩm đại vương - Gã gù vội thưa - Cầu xin ngài đại xá; chẳng qua là vì tôi quá ngu dốt cho nên mới phạm tội với ngài. Tôi đâu có biết là người phụ nữ này lại có nhân tình là một ngài trâu. Xin ngài cứ ra lệnh, tôi thề là sẵn sàng tuân phục ngài.
- Mi sẽ phải chết - Vị thần nói - Nếu mi ra khỏi đây hoặc mi không câm miệng cho đến khi mặt trời lên. Nếu mi mở miệng nói ra chỉ một tiếng thôi ta sẽ đập nát đầu mi. Sáng ra, ta sẽ cho phép mi rời khỏi nhà này, nhưng phải chạy đi thật mau không được ngoái đầu lại, nếu mi còn cả gan quay lại thì sẽ mất mạng đó .
Nói xong câu cuối này, vị thần hiện thành người, nắm lấy hai bàn chân gã gù, dựng ngược y lên, đầu chạm đất, để người sát dính vào tường.
- Nếu mi nhúc nhích - Ông nói thêm - trước khi mặt trời lên, như ta đã nói, ta sẽ tóm lấy cẳng mi, quật mi vào tường này cho đầu mi vỡ thành nghìn mảnh.
Ta quay lại với Bedreddin Hassan, chàng được vị thần khuyến khích động viên và được sự có mặt của bà tiên khích lệ, chàng trở lại phòng cưới và lẻn vào buồng cô dâu, ngồi chờ thắng lợi của kế hoạch. Một lát sau cô dâu đi vào do một bà già vẻ phúc hậu dắt tay đưa dẫn. Bà dừng lại trước cửa buồng, khuyến khích người chồng làm tất nhiệm vụ của mình, chẳng nhìn xem đó là gã gù hay một người nào khác. Rồi sau đó bà khép cửa lại và nhẹ nhàng rút lui.
Người vợ trẻ cực kỳ kinh ngạc chờ nhìn thấy gã gù thì lại là Bedreddin Hassan đi tới ra mắt nàng với cử chỉ duyên dáng lịch thiệp nhất trần đời.
- Ồ này, anh bạn! - Nàng hỏi chàng - Giờ này mà anh hãy còn ở đây kia à? Chắc hẳn anh là bạn của chồng tôi.
- Không phải đâu, thưa tiểu thư- Bedreddin đáp – Tôi là người khác hẳn với gã gù mạt hạng kia.
- Nhưng - Nàng nói - Nói vậy chẳng phải là anh đã bêu xấu chồng tôi ư?
- Hắn, chồng nàng! Thưa tiểu thư, nàng lại có thể đinh ninh như thế sao? Chớ có lầm lẫn nữa. Nhan sắc tuyệt vời không thể đem hi sinh cho một kẻ đáng khinh bỉ nhất trần đời như thế được. Chính tôi đây, thưa tlểu thư, là người hạnh phúc được dành chó nhan sắc đó. Đức hoàng đế đã muốn gây một trận cười vui với tể tướng cha nàng nên đã dàn dựng ra màn kịch này. Chính Người đã chọn tôi là người chồng đích thực của nàng. Nàng chắc là đã nhận thấy các bà mệnh phụ, các nhạc công, vũ nữ, các thị nữ và tất cả gia nhân của nàng đều vô cùng thích thú tham dự vào vở hài kịch này. Chúng tôi đã tống cổ gã gù đi và lúc này hắn đang nhồm nhoàm đĩa mứt kem ngon lành trong chuồng ngựa và nàng có thể chắc chắn là hắn chẳng còn bao giờ xuất hiện trước đôi mắt đẹp của nàng nữa.
Nghe thấy thế, con gái tể tướng, như dở sống dở chết khi bước vào phòng hôn phối, lúc này rạng rỡ mặt mày, vẻ vui tươi đột khởi càng làm cho sắc đẹp lộng lẫy thêm khiến Bedreddin sững sờ say đắm.
- Thật thiếp không chờ đợi - Nàng nói - một sự bất ngờ vô cùng dễ chịu như thế này. Thế mà thiếp đã cho mình sẽ bị đầy đoạ suốt đời. Hạnh phúc của thiếp lại càng được tăng lên gấp bội khi thiếp được có chàng, một người vô cùng xứng đáng với tâm tình trìu mến của thiếp.
Nói xong, nàng tự mình cởi bỏ y phục và lên giường nằm. Về phía Bedreddin Hassan, sung sướng thấy mình được sở hữu một con người biết bao duyên dáng yêu kiều, cũng nhanh chóng trút bỏ áo quần. Chàng vắt chúng lên thành ghế, trùm lên trên túi tiền mà người Do thái trao cho, hầu như hãy còn đầy dù đã nhiều lần móc ra để phân phát cho những người có mặt trong hôn lễ. Chàng cũng bỏ cả khăn đội đầu để đội chiếc mũ ngủ mà người ta đã chuẩn bị cho gã gù. Chàng lên giường chỉ với một áo lót và chiếc quần đùi”. Bình minh buộc Scheherazade ngừng kể. Đêm sau, được đánh thức vào giờ thường ìệ, nàng nhớ lại đoạn bỏ dở đêm trước rồi tiếp tục kể:....

***

Khi cặp người yêu đã bên nhau ngủ say - tể tướng Giafar kể tiếp - vị thần tới gặp tiên nữ, nói với bà là đã đến lúc hoàn tất công việc đã được bắt đầu và được dẫn đắt đến lúc này thật là hoàn hảo.
- Chúng ta đừng để cho ánh sáng ban ngày sắp ló ra rồi làm lộ công việc - Ông nói - Bà hãy đi bê cậu thanh niên lên, đừng làm cho cậu ta tỉnh thức. Bà tiên đi vào buồng đôi tân hôn đang ngủ rất say, nhẹ nhàng nhấc Bedreddin Hassan lên vẫn để cậu ta y nguyên như lúc đó nghĩa là vẫn chỉ có áo lót và quần đùi. Bà tiên cùng với vị thần mang chàng bay rất nhanh tới cổng thành Damas đất nước Syrle, đúng lúc các giáo sĩ đang cất to tiếng gọi dân chúng thức dậy để cầu kinh buổi sáng. Bà tiên nhẹ nhàng đặt Bedreddin xuống nền gạch cạnh cổng thành rồi cùng với vị thần bỏ đi.
Lúc các cổng thành bắt đầu mở, dân chúng đã tập trung rất đông để chờ ra ngoài, cực kỳ kinh ngạc khi nhìn thấy Bedreddin nằm trên nền đất chỉ có áo lót và quần đùi trên người. Một người nói: Chắc là anh ta vội vàng ra khỏi nhà nhân tình nên chẳng còn thời gian mặc áo quần ngoài”. Một người khác bảo: Hãy thử xem, vì sao mà hắn lại nằm tênh hênh ra đây? Hẳn là vui nhậu nhẹt với bạn bè đến gần trọn đêm, chắc là đi ra ngoài để làm cái việc cần rồi vì say quá, đáng lẽ trở vào thì lại đi ra đây và cơn buồn ngủ chợt đến thế là nằm luôn ra thôi . Rồi người này người khác đoán thế nọ thế kia nhưng chẳng ai biết rõ được chính xác vì sao chàng ta lại ở đó. Một làn gió nhẹ thổi lật vạt áo trước để mọi người nhìn thấy cả một mảng ngực trắng trẻo mịn màng. Tất cả đều kinh ngạc trước cái phần cơ thể rất đẹp và cân đối đó liền kêu lên thán phục làm chàng trai thức giấc. Chàng cũng ngạc nhiên không kém họ, thấy mình nằm trước cổng một thành phố chưa bao giờ đặt chân tới và cả một đám đông người vây quanh chăm chú ngắm nhìn mình.
- Các ông ơi - Chàng nói vớỉ họ- Xin làm ơn cho biết tôi đang ở đâu và các ông muốn gì ở tôi vậy?
Một người trong bọn họ cất tiếng đáp:
- Này chàng trai, cửa thành vừa mở, chúng tôi đi ra thì thấy anh đang nằm ở đó. Thấy lạ chúng tôi dừng bước lại xem. Có phải là anh đã ngủ suốt đêm tại đây? Và anh có biết đây là một trong các cổng của thành phố Damas không?
- Cổng thành Damas! - Bedreddin thốt lên - Các ông định trêu tôi hay sao đấy. Lúc lên giường ngủ, tôi ở thành phố Caire kia mà.
Nghe thấy chàng nói thế, một vài người động lòng thương cảm nói thật đáng tiếc là một thanh niên tuấn tú như vậy mà lại bị loạn trí, rồi bỏ đi.
- Con của ta ơi! - Một ông già vẻ hiền lành nói – Con không thấy là sáng nay con đang ở Damas thì tối qua con ở Caire sao được? Thật quá vô lý!
- Đúng là như vậy cụ ạ - Bedreddin cãi - và con xin thề là suốt ngày hôm qua con còn ở Balsora kia.
Vừa dứt lời, tất cả mọi người đều cười rộ lên và kêu to: Một thằng điên1 Đúng là một thằng điên?
Một vài người tỏ vẻ thương tiếc cho sự trẻ trung của chàng và một người đứng tuổi trong bọn bảo anh:
- Con của ta ơi! Chắc là con loạn trí rồi. Con chẳng nghĩ gì khi nói cả. Con thử nghĩ xem có thể được không khi ban ngày thì ở Balsora, tối ngủ ở Calre và sáng hôm sau đã ở Damas rồi? Hẳn là con chưa được tỉnh táo đâu, con hãy cố nhớ lại đi?
- Những điều tôi vừa nói - Bedreddin lại nói - đều hoàn toàn là sự thật. Tối hôm qua tôi cưới vợ ở tại thành phố Caire.
Tất cả mọi người đã cất tiếng cười lúc nãy lại cười rộ lên khi nghe chàng nói câu vừa rồi.
- Hãy cẩn thận đấy - Vẫn người đàn ông đứng tuổi bảo chàng - Đúng là cậu nằm mơ thôi và ảo ảnh còn đọng lại trong óc đó.
- Tôi biết rõ những gì tôi nói - Chàng cãi – Chính ông hãy thử nghĩ xem: trong chiêm bao làm sao tôi lạI tới Caire được mà rõ ràng là tôi ở đó. Lần lượt bảy lần người ta dẫn đến trước mặt người vợ của tôi bảy lần thay đổi trang phục và cũng ở đó tôi nhìn thấy gã gù ghê tởm mà người ta định đưa đến cho nàng làm chồng. Xin hãy cho tôi biết là áo dài, khăn đội đầu và cả túi tiền của tôi ở đâu rồi?
Mặc dù chàng cố gắng nói cho họ biết tất cả những cái đó đều là có thật, nhưng mọi người nghe chỉ cười làm cho chàng cũng hoang mang đến mức không biết nghĩ như thế nào về mọi chuyện xảy ra với mình .
Ánh mặt trời bắt đầu chiếu sáng ngự phòng của Schahrlar làm Scheherazade im bặt. Và đêm sau nàng kể tiếp như thế này:

***

- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Sau khi Bedredđin cứ khăng khăng là những gì chàng nói đều thật, chàng đứng lên để đi vào thành phố. Mọi người đi theo sau kêu to: Một thằng điên! Một thằng điên! Thế là các cửa sổ, cửa ra vào các nhà mở toang ra và những cái đầu nhìn, ngó. Một số nhập với bọn người vây quanh Bedreddin và cũng la lên như họ: Một thằng điên mà chẳng hiểu chuyện gì. Bedredđin lúng túng không biết xoay sở ra sao thì vừa đi đến trước một cửa hàng bánh kẹo, anh bèn bước vào trong để tránh bọn người đi theo anh la ó.
Người chủ cửa hàng bánh kẹo này vốn là trùm của một đám lưu manh chuyên trấn lột khách đi đường nhưng từ khi đến lập nghiệp ở Damas, y chưa gây tai tiếng gì và cũng tỏ ra chẳng sợ một ai biết gốc tích của y. Vì vậy chỉ một cái lừ mắt của y, là cả đám đông đi theo Bedreddin vội vàng tản đi. Chủ cửa hàng bánh kẹo khi thấy chẳng còn ai quấy rầy nữa bèn quay sang hỏi Bedreddin chàng là ai, tới Damas có việc gì. Bedreddin không giấu anh ta về xuất thân, về cái chết của tể tướng cha mình. Chàng nói tiếp là bằng cách nào anh rời Balsora, và không rõ vì sao đang nằm ngủ gục bên mồ cha khi thức dậy thì lại thấy mình ở Caire, ở đây chàng đã kết hôn với một thiếu nũ rất đẹp. Cuối cùng chàng thấy vô cùng ngạc nhiên thấy sáng nay mình ở Damas. Tất cả những chuyện kỳ lạ này chàng đã suy nghĩ mãi mà không sao hiểu được.
- Chuyện của cậu đúng là rất lạ kỳ - Bác hàng bánh kẹo bảo chàng - Nhưng nên nghe theo lời khuyên của tôi là chớ nên hở ra cho bất cứ ai biết tất cả những gì cậu vừa kể với tôi đó Cậu hãy kiên nhẫn chờ đợi vận may sẽ tới. Cậu có thể ở lại đây với tôi tới lúc đó và vì tôi không có con, tôi sẵn sàng nhận cậu làm con nuôi nếu cậu đồng ý. Sau khi đã là con của tôi rồi thì cậu thả sức đi lại trong thành phố, không sợ kẻ nào xúc phạm nữa.
Dù là việc nhận con nuôi bác hàng bánh kẹo cũng chẳng lấy gì làm vinh hạnh đối với con trai một tể tướng, nhưng với tình thế lúc này thì có lẽ đây là biện pháp tốt hơn cả nên anh đã vui vẻ nhận lời bác hàng bánh kẹo tốt bụng. Ông này cho anh ăn mặc tử tế, chọn người làm chứng và tuyên bố trước nhà chức trách là nhận chàng làm con nuôi. Bedreddin từ lúc này ở cùng cha nuôi dưới cái tên ngắn gọn là Hassan và bắt đầu tập làm các loại bánh ngọt.
Trong thời gian tất cả những chuyện này diễn ra ở Damas, thì tiểu thư con gái của Schemseddin Mohammed ở Caire thức giấc, không thấy Bedreddin nằm cạnh thì cho là chàng dậy có việc gì đó và vì không muốn làm đứt giấc ngủ của nàng mà dậy thật nhẹ nhàng. Nàng ngồi chờ và thấy tể tướng Schemseddin Mohammed, cha nàng đi vào, rất xúc động vì tưởng hoàng đế Ai Cập đã làm nhục mình nên đến để cùng con khóc than cho số phận hẩm hiu. Nàng hôn tay cha và đón tiếp ông với vẻ rất hài lòng khiến ông sửng sốt vì trái hẳn với điều ông chờ đợi là phải thấy con gái chan hoà nước mắt và đau lòng cũng như ông.
- Quân khốn kiếp? - Ông giận dữ mắng con - Mày còn phởn phơ được như thế ư? Sau một sự hi sinh gớm ghiếc vừa phải chịu đựng mà mày còn phấn khởi vui tươi vậy sao?...
Scheherazade tới đây thì ngừng kể vì,đã rạng sáng. Đêm sau, nàng kể tiếp và nói với hoàng Đế Ấn Độ như sau:

***

- Tâu hoàng thượng, đây vẫn là tể tướng Giafar tiếp tục câu chuyện về Bedreddin Hassan:
“Khi cô dâu mới - Ông kể - thấy cha mắng vì đã tỏ ra sung sướng khi thấy ông tới, nàng nói:
Thưa cha, xin cha đừng mắng con một cách bất công như vậy, không phải là con đã lấy cái gã gù mà con ghét như đất đổ đi, cái tên quỉ sứ đó làm chồng đâu. Tất cả mọi người đều làm cho gã bẽ bàng mà phải trốn đi đâu không rõ và thay thế vào đó là một chàng trai tuyệt vời, người chồng đích thực của con.
- Con kể với cha chuyện hoang đường gì vậy? - Tể tướng đột ngột ngắt lời con - Sao? Gã gù, đêm qua không ngủ với con ư?
- Không, thưa cha - Nàng đáp - Con chẳng ngủ cùng ai ngoài chàng trai mà con vừa nói đó. Chàng có đôi mắt to và đôi mày rậm đen nhánh.
Nghe nói vậy, tể tướng không nhịn được, nổi giận lôi đình.
- A? Quân độc ác! - Ông bảo nàng - Mày muốn cha phát điên lên vì những điều mày ,vừa nói đó ư?
- Chính cha, cha ơi? - Nàng nói- Chính cha làm con phát điên lên vì tính hoài nghi của cha thì có.
- Vậy là không có chuyện - Tể tướng dịu giọng – cái thằng gù đó...
- Ôi cha! Hãy để cái thằng gù đó lại đi? - Nàng vộI vã ngắt lời - Mồ cha cái thằng gù? Sao cứ phải nghe nói đến nó mãi thế? Con xin nhắc lại với cha một lần nữa - Nàng thêm - Con chưa từng qua đêm với nó mà với người chồng yêu quí mà con đã nói với cha rồi. Chàng có lẽ sắp về đấy .
Schemseddin Mohammed bước ra khỏi buồng đi tìm nhưng không thấy ai mà lại vô cùng kinh ngạc gặp anh chàng gù, đầu chạm đất, chân chổng lên cao, ở nguyên tư thế mà vị thần đã đặt y giáp bức tường.
- Cái này là thế nào đây? - Ông hỏi y - Ái đã làm anh trong tình trạng này?
Anh chàng gù nhận ra tể tướng, đáp:
- A! A! Thế ra là ngài đã muốn gả cho tôi làm vợ cô tình nhân của một ông trâu, người yêu của một hung thần? Tôi chẳng phải ngu ngốc đâu, ngài lừa tôi sao được?
schehérazade kể tới đây thì nhìn thấy ánh sáng ban mai lọt qua khe cửa, không thể kể thêm được nữa. Đêm sau, nàng kể tíếp. câu chuyện chàng Bedređđln Hassan và nói với hoàng đế Ấn Độ:

***

- Tâu bệ hạ, tể tướng đầu triều Giafar tiểp tục kể: “Schemseddin Mohammed cho là gã gù hoảng loạn mà nói bậy bạ, liền bảo:
- Nhà ngươi hãy hạ chân xuống, ra khỏi đây đi!
- Tôi chẳng dám đâu - Gã gù nói - Nếu mặt trời chưa lên. Ngài có biết không, tối qua ở đây, một con mèo đen xuất hiện trước mặt tôi, bỗng chốc nó vụt to lên bằng con trâu. Tôi không quên lời ông ấy nói đâu. Vì vậy ngài cứ đi mà làm việc của ngài, hãy để mặc tôi ở đây.
Tể tướng, đáng lẽ đi ra thì lại nắm lấy hai chân gã gù bắt y đứng lên. Gã này ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi phòng không dám ngoảnh đầu lại. Y tới cung điện bệ kiến hoàng đế Ai Cập, làm cho nhà vua cười đến vỡ bụng khi nghe y kể chuyện y bị vị thần đối xử như thế nào.
Schemseddin Mohammed quay trở lại buồng con gái, càng kinh ngạc và càng hoang mang về những gì ông thấy và càng muốn hiểu rõ.
- Này, con gái của cha - Ông bảo nàng - Con không thể nói rõ hơn về cái chuyện nó làm cho cha chẳng còn hiểu ra sao nữa ư?
- Cha ơi - Nàng đáp - Con không sao có thể nói gì cho cha rõ hơn tất cả những gì con đã kể với cha. Nhưng mà đây - Nàng thêm - là quần áo của chồng con mà chàng vắt trên lưng ghế đó. Có thể chúng sẽ làm cho cha rõ hơn điều gì chăng.
Nói rồi, nàng đưa cho ông cái khăn đội đầu của Bedreddin. Ông cầm lấy và xem xét kỹ từ trong ra ngoài.
- Cha thấy như - Ông nói - là khăn đội đầu của một tể tướng, kiểu ở Mossoul.
Nhưng còn thấy có một cái gì cồm cộm giữa quãng vải lót, ông bảo đưa chiếc kéo và sau khi bật những đường chỉ khậu, ông thấy một xếp giấy gấp. Đó là quyển vở mà Noureddin Ali trao cho Bedreddin, con trai ông, trước khi nhắm mắt mà chàng giấu vào đó để được bảo vệ chu đáo. Tể tướng mở quyển vở và nhận thấy chữ viết của Noureddin Ali, em trai ông. Ông đọc dòng tiêu đề: Đề cho con trai tôi Bedreddin Hassan . Chưa kịp nghĩ ngợi gì cả thì con gái ông lại đặt vào tay ông túi tiền mà nàng thấy để dưới đống áo quần. Ông cũng mở ra xem và thấy đầy những đồng sequin, và như tôi đã nói là mặc dù Bedreddin Hassan rất hào phóng, móc ra từng vốc phân phát cho mọi người nhưng túi vẫn đầy, đó là nhờ vào sự chăm sóc của vị thần linh và bà tiên. Tể tướng đọc trên tờ nhãn của túi tiền: “Một ngàn đồng sequin của người Do Thái Isaac . Và bên dưới: Trao cho Bedreddin Hassan để mua cả chuyến hàng trên con tàu thứ nhất cập bến trong cả đoàn tàu thuộc về Noureddin Ali, người cha anh đã quá cố Vừa đọc xong tờ nhãn, tể tướng kêu to lên một tiếng và ngất lịm.”
Schehẹrazade muốn kể tiếp nhưng trời sáng mất rồi. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên nhủ thầm: nhất định phải nghe hết câu chuyện này.

***

Đêm sau, Scheherazade tiếp tục câụ chuyện, nói vớI Schahrlar:
“- Tâu bệ hạ, tể tướng Schemseddin Mohammed được con gái và các thị nữ mà nàng cho gọi tới săn sóc tích cực đã hồi tỉnh. Ông bảo con:
- Con gái của cha. Con đừng lấy làm ngạc nhiên vì sao cha lại ngất đi như vậy. Làm sao mà cha lại không quá xúc động được khi nguyên nhân của nó là một sự việc xảy ra khó mà tưởng tượng được. Người chồng đã qua đêm cùng với con là em họ con đó, là con trai của Noureddin Ali, em trai cha. Khoản tiền một nghìn đồng sequin thấy trong cái túi này làm cha nhớ tới sự xích mích của mình với người em thân thiết này. Chắc đó là món quà hồi môn chú ấy tặng con. Cảm tạ Thượng đế về mọi sự, đặc biệt là sự kiện thần kỳ này làm tỏ rõ uy lực của Người.
Rồi ông nhìn ngắm chữ viết của người em và hôn nhiều lần, nước mắt giàn giụa.
- Làm sao mà thấy được chính Noùreddin tại đây - Ông lẩm bẩm - cũng như thấy những nét chữ này đã làm lòng ta sướng vui khôn tả, để được cùng với chú ấy nối lại tình thân.
Ông đọc kỹ quyển vở từ đầu đến cuối và thấy ngày tháng người em tới Balsora, về lễ cưới của em và về ngày sinh của Bedreddin Hassan và sau khi đối chiếu với ngày tháng lễ cưới của ông và ngày sinh của con gái ông ở Caire thấy sự trùng khớp thật lạ kỳ và nghĩ tới việc cháu mình đã trở thành con rể, ông thấy vô cùng sảng khoái. Ông cầm quyển vở và nhãn đính ở túi tiền đem đệ trình hoàng đế và được hoàn toàn tha thứ cho sự việc đã qua. Hoàng đế còn thấy vô cùng đẹp ý khi nghe kể từ đầu chí cuối câu chuyện ly kỳ đẹp đẽ này và đã cho ghi lại để truyền cho hậu thế.
Tuy vậy, tể tướng Schemseddin Mohammed không hiểu vì sao cháu ông lại biến mất. Ông luôn hy vọng là sẽ được thấy chàng vào bất cứ lúc nào và kiên nhẫn trông chờ để được ôm hôn chàng. Sau bảy ngày chờ đợi không kết quả, ông cho đi tìm khắp thành Caire, nhưng cũng chẳng được tin tức gì, dù đã không tiếc công tiếc của. Ông vô cùng lo lắng.
Đó, đúng là một sự kiện quá mức lạ kỳ? - Ông tự nhủ - Chưa bao giờ có một ai từng thấy như vậy.
Trong sự hoài nghi là không biết có gì xảy ra tiếp nữa, ông cẩn thận ghi lại tất những gì đã thấy: tình hình nhà cửa lúc đó, hôn lễ đã được tiến hành như thế nào, phòng tổ chức hôn lễ và buồng cô dâu, con gái ông đã bày biện ra sao. Ông cũng xếp chiếc khăn đội đầu túi đựng tiền và những quần áo Bedreddin để lại vào một gói và cho vào hòm đóng khoá lại cẩn thận... .
Hoàng hậu Scheherazade buộc phải dừng lại vì thấy trời hửng sáng. Cuối đêm sau, nàng kể tiếp câu chuyện bằng những lời lẽ sau:

***

“- Tâu bệ hạ, tể tướng Giafar vẫn tiếp tục nói vớI hoàng đế.
- Sau ít ngày - Ông nói - tiểu thư con gái tể tướng Schemseddin Mohammed thấy mình đã mang thai và chín tháng sau nàng sinh được một con trai. Một vú nuôi, nhiều nô tì và những nô lệ khác đã hết lòng chăm sóc, cậu bé được ông ngoại đặt tên cho là Agib.
Khi cậu bé Agib được bảy tuổi, tể tướng Schemseddin Mohammed đáng lẽ cho cháu học tại nhà thì lại gửi đến trường cho một ông thầy giỏi có tiếng dạy dỗ. Hai nô lệ có nhiệm vụ đưa đón cậu bé hàng ngày. Agib chơi với các bạn, tất cả đều ở tầng lớp dưới so với cậu nên chúng nể sợ, đến cả thầy giáo cũng có phần nuông chiều cậu ta hơn cả các học trò khác. Sự chiều chuộng mù quáng này đã làm hại Agib. Cậu ta trở thành tự kiêu tự đại, ngạo xược. Cậu ta muốn tất cả các bạn phải phục tùng nhường nhịn cậu chứ cậu chẳng bao giờ chịu nhường nhịn các bạn. Lúc nào, chỗ nào cậu cũng muốn chơi trội và nếu có một bạn nào đó cả gan làm ngược lại ý kiến cậu hoặc chống lại thì cậu ta không tiếc lời mắng chửi thậm chí đi đến chỗ đấm đá. Cuối cùng cậu ta trở thành một cái gai không chịu nổi của tất cả các bạn học. Họ thưa mách lên thầy. Lúc đầu, thầy khuyên họ hãy cố kiên nhẫn, nhưng khi thấy là làm như vậy thì Agib chỉ càng thêm kiêu căng hỗn xược và chính thầy cũng quá mệt mỏi vì những trò quá quắt của ngườI học trò đặc biệt này gây nên...
Một hôm ông bảo đám học trò đến mách:
- Các con ạ, thầy thấy rõ Agib là một đứa bé kiêu căng hỗn xược, thầy muốn bày cho các con một cách để làm cho nó nhụt đi để không dám quấy rầy các con nữa. Thầy còn tin là nó sẽ chẳng còn dám tới trường nữa kia. Ngày mai, khi nó tới, các con hãy rủ nó chơi một trò chơi tập thể. Tất cả hãy quây quanh nó và một đứa trong bọn sẽ nói to lên như thế này: Chúng ta hãy cùng chơi với nhau một trò vui nhưng ai muốn chơi phải nói tên mình, tên bố mẹ. Ai không làm như thế thì coi như là con hoang và chúng ta không cho chơi cùng . Thầy giáo cho chúng biết là làm như thế Agib bị hoang mang lúng túng sẽ phải chừa thói kiêu căng hách dịch. Cả bọn đi về nhà, mừng vui hớn hở.
Ngày hôm sau, khi tất cả đã tụ tập, bọn chúng không quên làm theo lời dặn của thầy. Chúng quây tròn lấy Agib và một đứa cất tiếng: Chúng ta cùng chơi một trò vui, nhưng với điều kiện là ai không nói được tên mình, tên bố và mẹ mình thì không được chơi . Tất cả đều đồng ý, cả Agib cũng vậy. Thế là lần lượt chúng khai trôi chảy. Đến lượt Agib, cậu này nói: Tôi tên Agib, mẹ có tên Diễm Kiều và cha là tể tướng Schemseddin Mohammed . Tất cả bọn trẻ kêu to: Agib, cậu nói gì vậy? Đó không phải là tên cha cậu mà là tên ông ngoại cậu chứ!”.
- Cầu cho Thượng đế bắt chúng mày câm miệng? - Agib tức giận quát lên - Chúng mày dám nói là tể tướng Schemseddin Mohammed không phải là cha ta ư?
Bạn học trò càng cười lớn bảo cậu:
Không, không phải, đó chỉ là ông ngoại cậu thôi. Cậu không được chơi cùng chúng tôi, và cũng không được đến gần chúng tôi đấy!
Nói xong, bọn chúng vừa tản ra xa vừa chế nhạo cậu và cùng nhau cười ran ran. Agib bật khóc, thấy quá nhục nhã.
Ông thầy nghe thấy tất cả, bước vào bảo Agib:
Agib, con hãy còn chưa biết tể tướng Schemseddin Mohammed không phải là cha con ư? Ông là ông ngoại con, là cha đẻ ra mẹ Diễm Kiều của con đó. Cũng như con, chúng ta đều chưa biết tên cha con mà chỉ biết là hoàng đế muốn gả mẹ con cho một giám mã gù lưng, nhưng một vị thần linh đã ngủ với mẹ con. Chuyện đó đối với con chẳng hay ho gì, vì vậy con nên học tập cách đối xử với các bạn bớt phần kiêu căng hợm hĩnh như từ trước tới nay đi .
Kể đến đây thấy trời hửng sáng nên Scheherazade ngừng lời. Đêm sau nàng lại kể tiếp và nói với hoàng đế Ãn Độ như sau:

***

“- Tâu bệ hạ, cậu bé Agib, tự ái về sựđùa nhạo trêu chọc của chúng bạn nên đột ngột bỏ học về nhà vừa đi vừa khóc. Trước hết cậu ta về chỗ mẹ, nàng Diễm Kiều hốt hoảng vì trông thấy con quá phiền não như vậy bèn vội hỏI căn nguyên. Cậu bé chỉ đáp lại được bằng những tiếng nức nở đứt đoạn và rất nhiều lần gặng hỏi, cậu ta mới nói rõ được nỗi đau buồn nhục nhã của mình với mẹ. Khi đã kể xong đầu đuôi câu chuyện, cậu hỏi mẹ:
Nhân danh Thượng đế, mẹ hãy cho con biết ai là cha con?
- Con ơi - Nàng đáp - Cha con là tể tướng Schemseddin Mohammed, ngày nào chẳng ôm hôn con.
- Mẹ không nói thật với con, đấy không phải là cha con mà là cha của mẹ. Nhưng mà con kia, cha con là ai, con là con của người cha nào?
Câu hỏi của con làm nàng Diễm Kiều nhớ lại cái đêm tân hôn và tiếp sau đó là cả một thời gian dài cô đơn như một quả phụ. Nàng rơi lệ, đau xót và đắng cay nuối tiếc một người chồng vô cùng dễ thương là Bedreddin.
Trong lúc hai mẹ con đang cùng nhau than khóc thì tể tướng Schemseddin bước vào hỏi nguyên nhân sự đau buồn của họ. Nàng Diễm Kíều nói rõ và kể cho ông nghe sự sỉ nhục mà Agib đã phải hứng chịu ở trường học. Câu chụyện làm cho tể tướng vô cùng xúc động rơi nước mắt và nhận định là tất cả mọi người đều có thể vì vậy mà đánh giá làm phương hại tới danh dự của cả gia đình. Ông thở dài thất vọng. Với ý nghĩ buồn đau đó, ông vào cung xin yết kiến hoàng đế và sau khi phủ phục xuống bên chân nhà vua, ông khẩn cầu xin hoàng đế gia ân cho phép ông được đi du hành một chuyến về các tỉnh miền Đông và đặc biệt là tới Balsora để tìm tung tích con rể Bedreddin Hassan của ông. Ông cũng trình bày với hoàng đế là ông không sao chịu đựng được tiếng đồn trong thành phố là một vị thần linh đã ngủ với con gái Diễm Kíều của ông. Hoàng đế thông cảm với nỗi băn khoăn bứt rứt của tể tướng, tán thành ý định của ông và chuẩn y cho ông được hành động. Nhà vua còn lo gửi một thông điệp tới tất cả các tỉnh thành và các quốc gia những nơi có thể Bedreddin tạm thời ẩn lánh bằng những lời lẽ khẩn thiết là xin vui lòng để cho tể tướng được đưa chànng hồi hương.
Schemseddin Mohammed không còn đủ lời để cảm tạ cho xứng đáng với ân đức của hoàng đế đối với mình. Ồng chỉ còn biết quì lạy một lần nữa trước mặt Người, nhưng những dòng lệ chảy chan hoà cũng đã đủ nói lên lòng biết ơn sâu sắc của mình. Cuối cùng ông bái biệt hoàng đế và chúc Người luôn được mọi sự bình yên và thịnh vượng.
Khi về tới nhà, ông chỉ còn nghĩ đến việc chuẩn bị sắp xếp mọi thứ cho chuyến đi. Chỉ trong vòng bốn hôm, mọi việc đã hoàn tất. Ông lên đường, mang theo cả Diễm Kiều và cháu ngoại Agib.”
Scheherazade kể tới đây thì trời hửng sáng, nàng ngừng lời. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên rất hài lòng với câu chuyện kể của hoàng hậu và quyết định sẽ phải nghe tiếp câu chuyện này. Scheherazade đồng ý sẽ thoả mãn ý thích của Người vào đêm sau. Và nàng kể tiếp như thế này:

***

- Tâu bệ hạ, tể tướng Giafar vẫn đang nói với hoàng đế Haroun Alraschid: Schemseddin Mohammed cùng con gái Diễm Kiều và cháu ngoại Agib trên đường đi Damas. Họ đi liền mười chín ngày không nghỉ lại một nơi nào, nhưng đến ngày thứ hai mươi, tới một đồng cỏ rất đẹp không xa thành phố Damas mấy, họ đặt chân xuống đất và dựng lều trên bờ một con sông chảy ngang qua thành phố và làm nơi này thành một nơi nghỉ tuyệt vời.
Tể tưông Schemseddin Mohammed tuyên bố sẽ dừng lại đây hai ngày và ngày thứ ba sẽ tiếp tục lên đường. Ông cho phép đoàn tuỳ tùng được đi dạo chơi thành phố Damas. Họ đều triệt để lợi dụng sự rộng rãi này của chủ nhân. Người này thì vì tò mò muốn biết rõ một thành phố mà nhiều người ca ngợi, người khác thì muốn vào đấy để bán những thứ hàng mang theo từ Ai Cập hoặc để mua những vải vóc và những thứ quí hiếm của xứ sở này. Diễm Kiều muốn cho con trai Agib vui thích được đi dạo chơi trong thành phố nổi tiếng này, lệnh cho tên hoạn nô da đen có nhiệm vụ chăm sóc cậu bé, dẫn cậu đi và hết sức chăm lo bảo vệ để không xảy ra tai nạn gì với cậu.
Agib, ăn mặc thật đẹp đi với người hoạn nô trong tay cầm một chiếc gậy to. Vừa mới bước vào địa phận thành phố, Agib vốn đẹp như thiên thần đã làm cho tất cả mọI người chăm chú nhìn. Một số ra khỏi nhà để được nhìn cậu cho gần, một số thò đầu ra ngoài cửa sổ, và những người đi đường thì dừng lại để nhìn nhưng như chưa thoả lại còn kéo theo sau để được nhìn ngắm lâu hơn. Không một người nào chiêm ngưỡng cậu mà không tỏ lời khen chúc người cha và người mẹ đã cho ra đời một đứa bé tuyệt vời như vậy. Vô tình, tên hoạn nô và Agib đi qua cửa hàng bánh kẹo Bedreddin Hassan vì thấy rất đông người tụ tập ở đó nên hai người phải dừng bước.
Người bán hàng bánh kẹo nhận nuôi Bedreddin đã chết cách đây mấy năm, để lại cửa hàng và tất cả của cải cho người thừa kế. Bedreddin trở thành ông chủ cửa hàng và làm bánh kẹo rất ngon, nổi tiếng trong toàn thành phố Damas. Thấy bao nhiêu người tập hợp trước cửa hàng đều chăm chú nhìn Agib và người hoạn nô da đen, chàng cũng đưa mắt nhìn... .
Scheherazade thôi kể vì trời đã sáng và Schahriar thì đứng lên rất hồi hộp không biết có gì sẽ xảy ra giữa Agib Và Bedređdin. Hoàng hậu sẽ làm cho hoàng đế giải toả nỗi sất ruột vào lúc tàn đêm hôm sau. Nàng tiếp tục kể:

***

“Bedreddin Hassan - Tể tướng Giafar tiếp tục - đặc biệt đưa mắt nhìn Agib, lập tức thấy vô cùng xúc động không rõ vì sao. Chàng không bị choáng váng như mọI người vì vẻ đẹp rực rỡ của cậu bé. Sự bối rối và xốn xang trong lòng chàng có một nguyên cớ khác mà chàng không biết. Đó là sức mạnh của huyết thống đã tác động lên người cha dịu hiền đa cảm này. Chàng ngừng công việc, đến gần Agib và nói với cậu bé vẻ quyến luyến: Thiên thần bé nhỏ, cậu đã chiếm được hồn tôi rồi đấy. Mời cậu hạ cố vào trong cửa hàng tôi và nếm một cái gì đó do tôi làm, để tôi được thoả thích nhìn ngắm cậu .
Chàng thốt ra những câu trên đầy tình yêu thương âu yếm đến mức mắt lệ rưng rưng làm cậu bé Agib rất cảm động quay sang người hoạn nô:
- Bác này - Cậu bảo hắn - có vẻ mặt hiền hậu và nói với ta sao mà dịu dàng âu yếm, ta khó có thể từ chối lờI mời của bác ấy. Chúng ta hãy vào trong cửa hàng và nếm chút bánh kẹo của bác cho bác ấy vui lòng.
- A? Thật vậy ư? - Tên nô lệ bảo cậu - Con trai một tể tướng như cậu mà lại vào cửa hàng người bán bánh kẹo để ăn bánh thì thật là đẹp mặt đấy! Không được đâu cậu ơi.
- Ôi? Lãnh chúa nhỏ của tôi - Bedreddin Hassan kêu lên - Thật là ác nghiệt mà người ta lại trao cậu cho một người trông nom đối xử với cậu quá khắt khe như vậy.
Rồi chàng bảo người hoạn nô:
- Anh bạn ạ, chớ nên ngăn cấm vị lãnh chúa trẻ này cho tôi cái vinh hạnh mà tôi cầu xin. Chẳng nên làm tôi phải bẽ bàng như vậy. Hãy cho tôi niềm vui là được tiếp cậu chủ nhỏ của bạn và cả bạn nữa trong nhà tôi để xem là anh bạn vốn đen bên ngoài như hạt đẻ, có cũng trở thành trắng như cái nhân bên trong của nó không. Anh bạn nên biết rằng - Chàng nói tiếp - tôi biết bí quyết có thể biến đen thành trắng đấy.
Nghe vậy, người hoạn nô bật cười và hỏi chàng bí quyết ấy như thế nào.
- Rồi tôi sẽ bầy cho anh bạn - Chàng đáp. Rồi ứng khẩu chàng đọc những câu thơ ca ngợi những hoạn nô da đen nói là nhờ có họ mà danh dự các vua chúa và tất cả các vĩ nhân đều được bảo đảm vững chắc. Người hoạn nô rất khoái khi nghe những câu thơ đó và ngừng việc khăng khăng từ chối lời mời của Bedreddin Hassan, để cho Agib vào trong cửa hàng và cả y cũng đi vào theo.
Bedreddin Hassan cực kỳ vui sướng đạt được điều mong muốn, tiếp tục công việc bỏ dở của mình.
- Tôi đang làm - Chàng nói - bánh nhân kem, cậu phải nếm thử bánh này. Tôi chắc chắn là cậu sẽ thấy ngon tuyệt vì bà mẹ của tôi đã dạy tôi làm thứ bánh này mà bà làm hết sức khéo và ngon hết chỗ nói. Tất cả mọi nơi trong thành phố đều đến đây chỉ để buôn một thứ bánh này thôi.
Dứt lời, chàng lấy trong lò ra một chiếc bánh nhân kem, rắc lên những hạt lựu và đường rồi đưa cho Agib. Cậu bé ăn và tấm tắc khen ngon. Người hoạn nô da đen được Bedreddin đưa cho một chiếc, ăn và cũng cùng một lời nhận xét.
Trong khi hai người mải nếm bánh, Bedreddin chăm chú ngắm nhìn Agib và tưởng ra mình có thể cũng có một đứa con trai như thế với người vợ dịu hiền và yêu kiều đã sớm phải chia tay một cách lạ lùng và ác nghiệt. Ý nghĩ này làm mắt chàng rớm lệ. Chàng chuẩn bị hỏi cậu bé Agib về mục đích của chuyến đi Damas của gia đình cậu nhưng cậu bé này không có thời gian để thoả mãn tính hiếu kỳ của chàng vì người hoạn nô đã thúc cậu ăn xong mau để còn về dưới lều của người ông ngoại. Bedreddin đưa mắt nhìn theo luyến tiếc, nhưng rồi nghĩ sao chàng lại vội đóng cửa hàng lại rồi lật đật bước theo sau .
Scheherazade kể đến đây thấy trời đã sáng bèn thôi kể tiếp. Schahriar đứng lên quyết định sẽ nghe cho hết câu chuyện và để cho hoàng hậu sống tới lúc đó.

***

Đêm hôm sau, trước lúc trời sáng, Dinarzade đánh thức chị và nàng kể tiếp như sau:
“ Bedreddin Hassan - Tể tướng Giafar kể tiếp - vậy là chạy theo sau Agib với người hoạn nô và đuổi kịp trước khi họ tới cổng thành. Người hoạn nô thấy chàng đi theo thì rất ngạc nhiên:
Ồ cái bác này - Y giận dữ bảo- Bác muốn gì nào?
- Bạn tốt ơi - Bedreddin vội đáp- Tôi phải ra ngoài thành phố có chút việc. Xuýt nữa quên là tôi còn có việc phải trao đổi với bạn hàng ngoài thành phố.
Câu trả lời này không đủ thuyết phục tay hoạn nô, hắn ngoảnh sang bảo Agib:
- Đó, tôi bị lôi vào chuyện này là vì cậu đó. Tôi đã tường trước là sẽ phải hối hận về sự dễ dãi của mình mà. Cậu đã cứ muốn vào cửa hàng của ông này, tôi đã ngốc nghếch chiều cậu.
Có thể đúng là - Agib nói - bác ấy có việc phải ra ngoài thành phố, và những con đường đi là của cả mọI người kia mà.
Họ tiếp tục bước đi không ngoảnh lại phía sau cho đến lúc về tới gần những chiếc lều của tể tướng, họ mới quay lại nhìn xem Bedreddin còn có đi theo nữa không. Agib nhận thấy bác thợ làm bánh cách mình có hai bước chân. khuôn mặt lúc thì đỏ tía lúc lại tái xanh như đang bị xúc động mạnh. Cậu sợ tể tướng ông ngoại có thể biết chuyện cậu đã vào cửa hàng của người bán bánh kẹo và ăn uống ở trong đó. Vì thế nên cậu cúi xuống lượm một hòn đá khá to ngay cạnh chân, đang tay ném trúng giữa trán người chủ hiệu bánh làm máu chảy nhễ nhại đầy mặt. Sau đó cậu gié chân chạy mau chui vào trong lều với người hoạn nô.
Bedreddin quay lại con đường đi vào thành phố, tay nâng cái tạp đề trước ngực đưa lên lau máu trên mặt. Ta mắc sai lầm - Chàng tự bảo - đã bỏ nhà đi theo làm phiền cậu bé này. Sở dĩ cậu ta xử sự như vậy vì tưởng là ta có âm mưu gì làm hại cậu ta thôi .
Về đến nhà, chàng cho băng bó vết thương và tự an ủI là tai hoạ này chẳng có gì đáng kể, trên đời này còn có những người khốn khổ hơn mình nhiều.
Mặt trời nhô lên bắt hoàng hậu Ấn Độ yên lặng. Schahriar đứng lên thương hại Bedreddin và nóng lòng muốn biết đoạn tiếp của câu chuyện.

***

Cuối đêm sau, Scheherazade nói với hoàng đế Ấn Độ: Tâu bệ hạ, tể tướng Giafar kể tiếp chuyện Bedreddin Hassan như sau:
Bedreddin tiếp tục làm nghề bánh kẹo ở Damas. Ông bác của chàng, Schemseddin Mohammed nghỉ lại ba ngày ở gần Damas rồi lại tiếp tục đi. Ông thẳng đường đến Emesse và từ đó đi tới Hamah, rồi tới Halep, nghỉ lại ở đây hai hôm. Từ Halep ông qua sông Euphrate, đi sâu vào Mésopotamie và sau khi đi xuyên qua Mardin, Mossoul, Sengial, Diarbekir và nhiều thành phố khác, cuối cùng tớI Balsora, ở đây ông xin bệ kiến đức vua. Ông được đón tiếp long trọng vì hoàng đế biết ông là tể tướng Schemseddin Mohammed, và hỏi lý do vì sao tới Balsora.
- Tâu bệ hạ - Tể tướng đáp - Tôi tới đây để được biết tin tức con trai của em tôi là Noureddin Ali, người đã có vinh dự được phục vụ bệ hạ.
Noureddin Ali đã tạ thế lâu rồi- Hoàng đế nói – Còn về chuyện ông ta, tất cả những gì có thể nói với ngài là sau hai tháng cha chết, cậu ta đột nhiên biến mất, từ đó chẳng ai nhìn thấy dù tôi đã cho đi tìm khắp chốn. Nhưng còn mẹ cậu ta là con gái của một trong những tể tướng của tôi, hiện còn sống.
Schemseddin Mohammed xin ông cho phép được tới thăm và đưa bà về Ai Cập. Được nhà vua y chuẩn, ông chẳng muốn để đến ngày mai mà hỏi nơi ở của bà và tới ngay, cùng với cả con gái mình và thằng cháu ngoại.
Người vợ goá của Noureddin Ali vẫn ở tại dinh thất mà trước đây chồng nàng đã ở cho đến ngày mất. Đó là một toà dinh thự rất đẹp được xây dựng vững chắc và trang trí nhữưg cột đá cẩm thạch, nhưng Schemseddin chẳng ngừng lại lâu để ngắm. Tới nơi, ông hôn cánh cửa trên đó có tấm đá hoa cương khắc bằng chữ vàng tên của người em. Ông đòi được gặp người em dâu và bọn đầy tớ đã chỉ cho ông tới một cái chòi nhỏ có mái hình vòm đứng ở giữa một cái sân rộng. Người mẹ hiền thục này thường tới cái chòi được xây dựng tượng trưng cho nấm mồ của Bedreddin Hassan mà bà tưởng đã chết, sau một thời gian chờ đợi hoài không thấy. Bà thường ở đây một phần lớn thời gian trong ngày và đêm. Lúc này bà đang nhớ con, đầm đìa nước mắt, Schemseddin Mohammed bước vào và thấy bà như đang quằn quại trong nỗi đau đứt ruột.
Ông cất tiếng chào mừng và sau khi xin bà hãy nén đau thương lau nước mắt, ông cho biết ông có vinh dự được là người anh chồng của bà và nói rõ nguyên nhân khiến ông từ Caire ra đi để đến Balsora.
Đến đây, trời vừa hửng sáng, nên Scheherazade đành ngừng lại để cuối đêm sau kể tiếp.

***

Schemseddin Mohammed - Tể tướng Giafar kể tiếp - sau khi kể cho em dâu biết tất cả những gì đã xảy ra ở Caire trong đêm tân hôn của con gái ông, kể tới chuyện phát hiện ra quyển vở giấu trong cái khăn đội đầu của Beđreddin làm ông vô cùng sửng sốt, ông giới thiệu Agib và con gái Diễm Kiều của ông với người em dâu.
Khi người vợ goá của Noureddin Ali, trước đây như một người chán chường tất cả mọi thứ trên đời, hiểu được qua những lời người anh chồng vừa nói là con trai yêu quý của mình có thể còn đang sống, bèn đứng dậy ôm hôn thắm thiết Diễm Kiều và cậu bé Agib mà bà nhận thấy có những nét của Bedreddin nên lại dạt dào nước mắt nhưng là những giọt nước mắt khác hẳn lâu nay từng rỏ xuống. Bà không ngừng ôm hôn cậu bé và cậu này tiếp nhận những cử chỉ âu yếm đó với tất cả tấm lòng hân hoan của mình.
- Cô em đâu của anh! - Schemseddin Mohammed nói - Đã tới lúc cô hãy chấm đứt nỗi tiếc thương và hãy lau khô nước mắt, sẵn sàng cùng chúng tôi trở về Ai-cập. Quốc vương Balsora đã cho phép tôi mang cô đi theo và tôi tin là cô vui lòng đồng ý. Tôi hy vọng là cuối cùng chúng ta sẽ gặp được con cô, cháu của tôi và nếu việc này xảy đến thì chuyện của nó, của cô, của con gái tôi và của tôi nữa đáng được ghi lại để truyền cho hậu thế.
Người vợ goá của Noureddin Ali nghe lời anh chồng nói vậy cũng thấy vui lòng và ngay từ lúc đó cho người nhà sửa soạn các thứ cho cuộc đi. Trong thời gian này, Schemseddin Mohammed xin bệ kiến lần thứ hai để từ biệt nhà vua và được ban thưởng nhiều vinh dự kèm theo một tặng phẩm lớn cho ông và một tặng phẩm khác quý hơn gửi cho hoàng đế Ai-cập. Ông cùng mọi người rời Balsora, thẳng đường về Damas.
Khi tới gần thành phố này, ông cho dựng lều gần chiếc cổng thành sẽ phải đi vào và nói sẽ ở lại đó ba hôm để cho cả đoàn nghỉ ngơi và để tìm mua những thứ gì hiếm quý xứng đáng làm lễ vật dâng lên hoàng đế Ai-cập.
Trong lúc ông bận bịu tự mình chọn lựa những thứ lụa là đẹp mà những nhà buôn có tiếng mang tới tận khu lều, Agib bảo người hoạn nô da đen chuyên chăm sóc mình, đưa cậu đi dạo trong thành phố, để xem các thứ chưa có thời gian xem kỹ khi đi qua và cũng muốn biết người hàng bánh kẹo đã bị ném đá bây giờ ra sao rồi. Người hoạn nô bằng lòng đi vào thành phố với cậu, sau khi được phép của bà Diễm Kiều mẹ cậu.
Hai người đi vào thành phố Damas bằng cổng Thiên Đường, cổng gần khu lều trại của tể tướng Schemseddin Mohammed nhất. Họ đi qua các công trường lớn, các khu chợ có mái lợp ở đó có nhiều hàng hoá quý và nhìn thấy một Thánh đường Hồi giáo ở đó các tín đồ tụ họp vào buổi trưa và buổi chiều để cầu nguyện. Rồi họ ,đi tới trước cửa hàng của Bedreddin, thấy bác ta đang mải mê làm bánh nhân kem.
- Xin chào bác - Agib nói - Bác hãy nhìn và có nhớ là đã từng thấy tôi không?
Bedreddĩn ngửng đầu lên nhìn và nhận ra ngay (lình cảm thần kỳ của tình phụ tử!), chàng cảm thấy xốn xang cũng như lần thứ nhất khi nhìn thấy cậu ta. Chàng lúng túng và đáng lẽ trả lời thì lại đứng trơ như pho tượng một hồi lâu không nói nên lời. Rồi, như hồi tỉnh lại, chàng nói:
- Ôi, lãnh chúa bé nhỏ của tôi! Xin làm ơn cho tôi vinh dự được mời cậu vào nhà một lần nữa cùng với tuỳ tùng của cậu. Mời cậu nếm một chiếc bánh nhân kem này. Và xin cậu tha lỗi cho tôi đã làm phiền cậu là đã đi theo cậu ra ngoài thành phố lần trước. Tôi không làm chủ được mình, không biết là đang làm gì nữa, như cứ bị cuốn theo không sao cưỡng nổi một sức mạnh thật là êm dịu.
Scheherazade tới đây không kể nữa vì thấy trời đã hửng sáng. Hôm sau nàng lại kể tiếp như thế này.

***

“- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Tể tướng Giafar kế tiếp:
Agib ngạc nhiên nghe Bedreddin nói vậy bèn bảo:
- Đã có sự quá mức thân thiết cho một tình bạn mà bác thể hiện với tôi đấy và tôi chẳng muốn vào nhà nếu bác không hứa là sẽ không đi theo khi tôi ra khỏi đây. Nếu bác hứa và giữ được lời đã hứa thì tôi sẽ lại đến thăm bác vào ngày mai nữa vì tể tướng ông tôi còn bận đi tìm mua quý vật để dâng lên hoàng đế Ai-cập.
- Lãnh chúa bé nhỏ của tôi - Bedreddin Hassan nói - Tôi sẽ làm tất cả những gì cậu ra lệnh.
Được lời hứa như vậy, Agib và hoạn nô bước vào trong cửa hàng.
Bedreddin tức thì mang ra cho mỗi người một chiếc bánh nhân kem ngon chẳng kém gì lần trước.
- Bác hãy vào đây - Agib bảo chàng - Và hãy ngồi xuống cạnh tôi, ăn cùng chúng tôi đi.
Bedreddin ngồi xuống và muốn ôm hôn cậu để tỏ vẻ mừng rỡ được ngồi bên cạnh nhưng cậu đẩy ra và bảo:
- Bác hãy ngồi yên đi, tình bạn của bác quá nồng nhiệt đấy. Bác hãy bằng lòng nhìn và nói chuyện với tôi là đủ rồi.
Bedreddin đành phải nghe theo và hát mấy câu ngẫu hứng ca ngợi cậu bé. Bác không ăn bánh mà chỉ chăm chú phục vụ khách. Khi hai người ăn xong, chàng đưa cho họ một chiếc khăn tràng bong để lau tay. Rồi chàng đưa cho mỗi người một cốc kem nước đá:
- Cậu uống đi, đó là kem ướp hoa hồng, thứ nước uống tuyệt vời nhất trong thành phố này, cậu không thấy ở đâu ngon bằng đâu.
Hai thầy tớ uống cạn không còn một giọt.
Agib và người chẳm sóc mình no nê thoả mãn, tỏ lời cám ơn sự tiếp đãi của bác hàng bánh kẹo, đứng lên ra về vội vàng vì ngày đã hơi muộn. Họ đi tới các lều trại, trước hết về lều các bà. Bà nội của Agib rất vui khi thấy cậu và vì trong đầu luôn mang hình ảnh con trai Bedreddin nên bà không cầm được nước mắt lúc ôm hôn cháu.
- Ôi, cháu của bà! - Bà bảo Agib- Niềm vui của bà sẽ trọn vẹn nếu được ôm hôn Bedreddin Hassan cha cháu cũng như ôm hôn cháu đây.
Rồi bà ngồi vào bàn ăn tối, để cháu ngồi sát cạnh mình, hỏi cậu nhiều về chuyến đi và đưa cho cậu một miếng bánh nhân kem bà tự làm và bảo là bánh rất ngon, ngon hơn cả bánh của những người làm bánh chuyên nghề. Bà đưa cả bánh cho người hoạn nô, nhưng cả hai đều ăn no ăn chán ở nhà Bedreddin rồi nên chẳng lấy gì làm thích lắm.
Ánh sáng ban ngày đã làm Scheherazade dừng lại. Nhưng cuối đêm sau, nàng lại kể tiếp:

***

“Agib cầm chiếc bánh chỉ cắn một miếng nhỏ đã đặt xuống, nói là vì không hợp khẩu vị và Schabahn, đó là tên người hoạn nô cũng làm như thế. Bà vợ goá của Noureddin Ali thấy buồn vì cháu của bà xem ra thì không thích bánh của bà làm.
- Sao vậy, cháu của bà - Bà nói - Cháu chán cái công trình của bà lắm ư? Cháu nên biết là không một ai trên thế gian này có thể làm được loại bánh nhân kem ngon như thế, ngoại trừ cha cháu là Bedreddin Hassan mà bà đã dạy cho cách làm thứ bánh gia truyền này thôi.
- Ôi! Bà yêu quý của cháu ơi? - Agib kêu lên - Bà cho phép cháu nói với bà là bánh của bà làm cũng chẳng hơn gì bánh của một người chủ cửa hàng bánh kẹo trong thành phố. Có khi bánh của bác này còn ngon hơn kia. Chúng cháu vừa được ăn bao nhiêu là bánh nhân kem của nhà bác ấy. Quả thực là ngon hơn bánh của bà.
Nghe cháu nóo thế, người bà liếc nhìn hoạn nô:
- Sao hả Schabahn - Bà giận dữ hỏi - Nhà ngươi trông nom cháu ta như thế đó? Ai cho phép nhà ngươi được đẫn cậu vào ăn uống như một kẻ ăn xin trong nhà những ngườI bán bánh kẹo?
- Thưa bà - Hoạn nô đáp - Đúng là chúng con có chuyện trò một lát với một người làm bánh kẹo, nhưng chúng con không ăn uống gì ở nhà ông ta.
- Xin bà tha lỗi cho cháu - Agib ngắt lời - Chúng con đã vào trong cửa hàng của bác ấy và đã ăn một chiếc bánh nhân kem.
Bà quả phụ càng giận dữ hơn, bật đứng dậy chạy tới lều Schemseddin Mohammed mách tội tên hoạn nô. Tể tướng bản tính nóng nảy tới ngay lều của người em dâu mắng tên hoạn nô:
- Tên khốn kiếp này, mi lại dám cả gan lợi dụng lòng tin của ta đối với mi như thế sao?
Dù cậu bé Agib đã nhận sự thật, nhưng Schabahn sợ tội vẫn khăng khăng từ chối, nói trái lại với Agib.
- Ông ơi! - Ágib nói với Schemseddin Mohammed - Cháu xin nói lại đúng là chúng đã ăn mỗi người một cái bánh lớn, sau đó lại còn uống nước kem ướp hoa hồng nữa.
- Nào, nào, tên nô lệ hư đốn này? - Tể tướng ngoảnh nhìn tên hoạn nô thét lên - Mi vẫn chưa chịu nhận là cả cậu và mi có vào nhà một người làm bánh và có ăn uấng ở đó sao?
Schabahn vẫn trơ trẽn thề sống thề chết là không phải như vậy.
- Mi là một tên dối trá - Tể tướng bảo y -Ta tin cháu ta hơn mi. Tuy nhiên ta cũng sẽ cho là mi nói thật nếu ngay bây giờ mi ăn hết cả chiếc bánh nhân kem đặt trên bàn kia.
Schabahn, mặc đù no đến tận cổ rồi vẫn cố gắng để vượt qua sự thử thách này. Hắn cầm lấy một miếng bánh đưa lên miệng nhưng vì đã quá no nên không sao nuết nổi. Thế nhưng vẫn tiếp tục nói dối là vì ngày hôm trước ăn quá nhiều rồi nên bây giờ chán không muốn ăn. Tể tướng, rất bực mình với tất cả những lời nói dối quanh của tên hoạn nô và đinh ninh y là thủ phạm nên bắt y nằm sấp xuống đất và cho đánh đòn. Tên khốn khổ này đau quá chịu không nổi đành nói thật:
- Vâng, đúng là chúng con có ăn bánh nhân kem ở nhà người làm bánh kẹo, và ngon gấp trăm lần cái bánh ở trên bàn kia.
Bà quả phụ cho là tên hoạn nô này đã tức bà và muốn làm cho bà tự ái nên đã khen lấy khen để bánh của người chủ hàng bánh kẹo. Vì vậy bà bảo y:
- Ta không tin là bánh nhân kem của người thợ làm bánh đó lại có thể ngon hơn bánh của ta làm được. Ta muốn làm cho rõ sự thật này. Mày biết ông ta ở đâu, hãy tới ngay đó mua một chiếc bánh nhân kem của ông ta mang về đây cho ta.
Nói rồi bà đưa tiền cho y và giục y đi ngay.
Đến cửa hàng của Bedreddin, y bảo:
- Bác hàng bánh này, tiền đây, bác hãy bán cho tôi một chiếc bánh nhân kem, một bà ở nơi tôi muốn nếm thử.
Vừa có một mẻ bánh mới ra lò còn nóng nguyên, Bedreddin chọn một chiếc trông đẹp nhất đưa cho y.
- Hãy cầm lấy chiếc này - Chàng bảo tên hoạn nô - Tôi bảo đảm là ngon tuyệt. Tôi có thể nói với anh thật chắc chắn là không có ai trên đời này có thể làm được những chiếc bánh như vậy, trừ mẹ tôi ra mà có thể bà vẫn còn sống.
Schabahn ba chân bấn cẳng chạy về khu lều vớI chiếc bánh nhân kem trong tay. Y đưa cho bà quả phụ, bà vội vàng đón lấy bẻ một miếng định đưa lên miệng. Nhưng chưa kịp ăn thì bà đã kêu to lên một tiếng rồi ngã lăn bất tỉnh. Schemseddin có mặt ở đấy lúc đó cực kỳ kinh ngạc vì chuyện xảy ra. Ông tự mình vẩy nước lạnh lên mặt người em dâu và vội vã cho cấp cứu. Khi vừa hồi tỉnh, bà đã kêu to:
- Đúng là con trai tôi, con Bedreddin yêu quý của tôi đã làm cái bánh này đây.
Ánh sáng ban ngày chiếu rọi làm Scheherazade ngừng lời. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên cầu nguyện và đi thiết triều. Đêm hôm sau, hoàng hậu kể tiếp chuyện Bedreddin Hassan như thế này:

***

“Khi tể tướng Schemseddin Mohammed nghe thấy người em dâu nói là người làm ra cái bánh nhân kem mà hoạn nô vừa đưa về này chính là Bedreddin Hassan thì ông thấy vui mừng khôn xiết. Nhưng suy nghĩ lại thì thấy sự vui mừng này chưa thật có căn cứ vững chắc và rất có thể sự liên hệ của người vợ goá của Noureddin là sai, ông bảo:
- Nhưng thím ạ, làm sao mà thím lại có thể nghĩ như vậy? Trên đời này thiếu gì người làm được bánh nhân kem như những chiếc bánh của con trai thím?
Em công nhận điều đó, nhưng cách làm đặc biệt này thì ngoài con trai em ra chắc không ai biết được, nhất định nó là người làm ra cái bánh này. Chúng ta hãy vui lên – Bà phấn khởi nói thêm - Thế là cuối cùng chúng ta đã thấy người đã bao lâu kiếm tìm và mong mỏi.
- Thím ơi! - Tể tướng bảo - Hãy tử từ, tôi xin thím đừng quá nôn nóng. Chúng ta sẽ biết rõ sự thật sớm thôi. Hãy cho đi mời người bán hàng bánh tới đây. Nếu anh ta đúng là Bedreddin Hassan thì con gái tôi và thím sẽ nhận ra ngay. Nhưng cả hai phải nấp vào chỗ kín, nhìn được anh ta nhưng không để anh ta nhìn thấy mình. Vì tôi không muốn sự nhận biết nhau này xảy ra ở Damas. Tôi có ý định là sẽ để dành khi tới Caire, ở đó, tôi sẽ cho bố trí một cuộc vui thật bất ngờ và lý thú.
Nói xong ông để các người phụ nữ ở lại lều của họ, còn ông thì đi về lều của mình. Vừa về tới nơi, ông bèn cho gọi năm chục gia nhân tới và bảo họ:
Các ngươi, mỗi đứa cầm lấy một chiếc gậy và đi theo Schahban, nó sẽ đưa các ngươi tới nhà một người bán bánh kẹo trong thành phố. Tới nơi, các ngươi sẽ đập phá tất cả các thứ trong cửa hàng của hắn. Nếu hắn hỏi vì sao lại đến gây ra vụ lộn xộn này thì các ngươi hỏi lại có phải chính hắn là người làm bánh mà người ta vừa đến lấy một chiếc ở cửa hàng hắn không. Nếu hắn bảo là đúng thế thì bắt hắn ngay, trói hắn lại và đưa về đây cho ta. Nhưng các ngươi phải nhớ là không được đánh cũng như không được làm hắn đau một chút nào. Thôi đi đi mau lên, chớ để mất nhiều thời gian?
Lệnh tể tướng được chấp hành mau chóng. Những gia nhân của ông, tay cầm gậy đi theo người hoạn nô da đen cấp tốc đi tới nhà Bedreddin Hassan. Ở đó bọn chúng đập vỡ tan vụn nào là bát đĩa, xoong nồi, bàn ghế và tất cả vật dụng chúng nhìn thấy và đổ tràn ra nhà tất cả những cốc kem ướp lạnh những vại mứt kẹo. Bedreddin vô cùng kinh ngạc trước cảnh tượng ngổn ngang đó, run giọng hỏi họ:
- Này, các anh vì sao lại đối xử với tôi như vậy? Vì sao thế? Tôi đã làm gì nào?
- Có phải đúng là anh - Bọn chúng hỏi lại - đã làm chiếc bánh nhân kem mà anh đã bán cho người hoạn nô này không?
Phải, đúng là tôi đó - Chàng đáp - Bánh đó làm sao? Tôi đố ai có thể làm được ngon hơn thế.
Chẳng nói lại một câu, chúng tiếp tục phá phách, cả lò nướng bánh cũng bị chúng dùng gậy đập cho đổ sụp.
Nghe tiếng ồn ào huyên náo, các nhà xung quanh đổ tới, kinh ngạc thấy tới hàng mấy chục người mang gậy gộc tới đập phá cửa hàng của Bedreddin, bất bình hỏi bọn chúng nguyên nhân của bạo lực đó và cả Bedredđin cũng hỏi lại chúng một lần nữa.
- Các người hãy cho tôi biết tôi mắc tội gì mà lại tới phá phách nhà cửa của tôl như vậy?
- Phải chăng đúng là anh - Chúng đáp - đã làm nên cái bánh nhân kem bán cho người hoạn nô này?
- Phải, phải, đúng là tôi - Anh đáp - và tôi vẫn giữ lời đảm bảo là bánh rất ngon. Tôi không đáng bị đối xử bất công như thế này.
Bọn chúng không thèm nghe chàng nói mà tóm ngay lấy chàng, lật khăn trên đầu chàng xuống làm dây trói chàng giật cánh khuỷu ra sau lưng, dùng sức lôi chàng ra khỏi cửa hàng và dẫn đi.
Dân chúng tập trung quanh đó tỏ vẻ bất bình, đứng về phía Bedreddin định ào lên phản đối bọn người của Schemseddin Mohammed nhưng giữa lúc đó thì quân độI của viên thủ hiến thành phố kéo tới gạt dân chúng ra để cho bọn gia nhân lôi Bedreddin đi. Sở dĩ có tình trạng như vậy vì trước đó Schemseddin Mohammed đã tới gặp viên thủ hiến Damas nói rõ sự thể và nhờ ông ta giúp một tay để công việc được xuôn xẻ. Thế là Bedreddin bị dẫn đi mặc cho chàng kêu la thảm thiết .
Scheherazađe không kể tiếp được nữa vì trời đã sáng. Nhưng đêm sau, nàng lại tiếp tục và nói với hoàng đế Ãn Độ:

***

“- Tâu hoàng thượng, tể tướng Giafar tiếp tục kể với vị hoàng đế như sau: Bedređdin Hassan, trên đường đi nhiều lần hỏi những người áp giải chàng là người ta đã thấy gì trong cái bánh nhân kem của chàng nhưng chẳng ai nói gì cả. Rồi khi tới khu lều trại, họ bắt chàng chờ mãi đến khi Schemseddin Mohammed từ chỗ viên thủ hiến Damas trở về.
Tể tướng hỏi ngay tin tức người làm bánh. Chàng liền được dẫn đến gặp ông.
- Thưa ngài - Bedreddin mắt rưng rưng lệ hỏi tể tướng - Xin làm ơn cho biết tôi đã xúc phạm gì tới ngài?
- A! Tên khốn kiếp! - Tể tướng đáp - Có phải chính mi đã làm chiếc bánh nhân kem mà tên hoạn nô đã mang về đây cho ta không?
- Vâng, chính là tôi - Bedreddin nói - Làm chiếc bánh đó thì tôi đã mắc tội gì?
- Ta sẽ trừng phạt mi thích đáng. Mi sẽ phải trả giá bằng sinh mạng của mình vì đã làm ra một chiếc bánh thật tồi tệ.
- Ôi? Thượng đế cao minh! Tôi nghe thấy gì đây nhỉ! Phải chăng làm một chiếc bánh nhân kem tồi tệ mà đáng tội chết sao?
- Phải - Tể tướng đáp - Và nhà ngươi đừng mong gì ở ta một sự đối xử khác thế.
Trong khi hai người đối thoại thì hai thím cháu nấp sau cánh cửa chú ý quan sát Bedreddin và dù đã rất lâu ngày không được nhìn thấy, chẳng mấy khó khăn mà họ đã nhận ra chính là con, chính là chồng của họ. Nỗi vui mừng quá lớn đã làm cho hai thím cháu ngất xỉu. Khi tỉnh lại, họ muốn nhào ngay ra ôm lấy cổ chàng trai Bedreddin. Nhưng nhớ lại lời đã hứa với tể tướng không nên xuất hiện vội, họ đành nén lại những cử chỉ yêu thương tự nhiên nhất của con người.
Vì Schemseddin Mohammed quyết định nhổ trại và lên đường ngay đêm đó, nên ông lệnh cho hạ lều và chuẩn bị các xe cộ để khởi hành. Còn về Bedreddin, ông cho chàng vào trong một chiếc hòm kín và đặt lên lưng một con lạc đà. Công việc chuẩn bị xong, cả đoàn người lại lên đường. Họ đi suốt phần đêm còn lại của hôm đó và cả ngày hôm sau không ngơi nghỉ. Khi màn đêm bắt đầu buông xuống họ mới dừng lại. Họ mở cho Bedreddin ra khỏi hòm ở xa chỗ mẹ và vợ chàng. Suốt cuộc hành trình kéo dài hai chục hôm, chàng đều được chăm sóc như thế.
Tới gần Caire, tể tướng Schemseddin Mohammed cho dừng lại, ra lệnh dẫn Bedreddin tới và trước mặt chàng ông bảo một người thợ mộc vừa được gọi đến:
- Nhà ngươi đi tìm gỗ và dựng ngay cho ta một cái cọc.
- Ấy, thưa ngài - Bedreddin lo ngại hỏi - Ngài định làm gì với cái cọc đó?
- Để trói mi vào đó - Tể tướng bảo - Và đưa đi diễu khắp các phố để mọi người được thấy một người thợ làm bánh tồi như mi đã làm những chiếc bánh nhân kem mà không có hồ tiêu.
Nghe nói thế, Bedreddin Hassan kêu to bằng một giọng đầy vẻ trào phúng: Ôi! Thừợng đế vĩ đại, té ra chỉ vì không cho hồ tiêu vào bánh nhân kem mà người ta bắt tôi phải chết một cách độc ác và ô nhục đến thế này ư? . Cái giọng phẫn nộ nhưng hài hước của chàng khiến cho tể tướng cũng khó có thể cố giữ được vẻ nghiêm trang! .
Kể xong đoạn này, Scheherazade thấy trời đã sáng nên ngừng kể tiếp. Schahriar đứng lên cười thật hả hê về nỗi lo sợ của Bedreddin và rất tò mò muốn biết rồi sau đó ra sao. Và hoàng hậu, trước sáng hôm sau, thoả mãn ý muốn của hoàng đế.

***

“- Tâu hoàng thượng, mặ c dù luôn luôn có thái độ thật nghiêm nghị, hoàng đế Haroun Alraschid cũng không sao nhịn được cười khi tể tướng Giafar kể với ông là Schemseddin Mohammed doạ giết Bedreddin về tội đã không cho hồ tiêu vào cái bánh nhân kem bán cho Schaban.
- Thế nào đây! - Bedreddin nói - Người ta đã phá phách toàn bộ nhà cửa đồ đạc của tôi, nhốt tôi vào hòm và cuối cùng định trói tôi vào một cái cọc đem đi diễu phố... Và tất cả chỉ vì tôi quên bỏ hồ tiêu vào chiếc bánh nhân kem! Ôi? Thượng đế vĩ đại? Từ xưa tới nay có ai là người đã nghe thấy được một cơ sự như thế này không? Có phải đây là hành động của những tín đồ Hồi giáo, những con ngườI nhân từ khoan hậu, những con người công minh chính trực, chỉ chuyên làm tất cả những gì thuộc về thiện tâm, thiện ý.
Nói xong chàng nức nở khóc, rồi lại than vãn: Không, không có ai lại bị đối xử một cách bất công và cay nghiệt như vậy. Sao lại có thể cắt đi cuộc sống của một người chỉ vì quên cho hồ tiêu vào chiếc bánh nhân kem? Những cái bánh nhân kem chết tiệt? Cũng như cái giờ mà tôi được sinh ra cũng là cái giờ chết tiệt? Cầu xin Thượng đế cho tôi được chết ngay trong lúc này! .
Chàng Beđređđin sầu khổ không ngừng than vãn và khi người ta đem cọc và đinh tới để đóng chàng vào đấy thì chàng lại kêu to lên trước cái cảnh khủng khiếp này:
- Ối trời? Người sao nỡ để cho tôi chết một cách nhục nhã và bi thảm như vậy? Và vì tội gì kia chứ? Không phảI là vì giết người cướp của, cũng không phải vì phản đạo mà chỉ vì không cho hồ tiêu vào một cái bánh nhân kem.
Vì đêm cũng đã về khuya, tể tướng Schemseddin Mohammed lại sai nhất Bedreddin vào hòm và bảo chàng:
- Mi hãy ở trong đó đến ngày mai. Chưa hết ngày thì ta đã bắt người phải chết rồi đó.
Họ lại đặt cái hòm nhất chàng lên lưng con lạc đà đã chở chàng từ Damas, đồng thời chất các thứ lên những lạc đà khác, tể tướng lên ngựa đi sau con lạc đà chở cháu ông và tất cả đoàn đi vào trong thành phò. Sau khi đi qua nhiều đường phố vắng vẻ vì tất cả mọi người đều ở trong nhà, ông về tới dinh, ở đó ông cho hạ chiếc hòm xuống nhưng chỉ được mở khi có lệnh của ông.
Trong lúc người nhà rỡ các thứ trên những lạc đà khác thì ông kéo riêng bà mẹ Bedreddin Hassan và cô con gái ông ra một nơi và bảo con gái:
Đội ơn Thượng đế? Người đã run rủi cho ta gặp được em dâu và chồng con! Con còn nhớ cách bài trí của phòng tân hôn hồi đó chứ. Con hãy về sắp xếp lại giống như cái đêm đầu tiên ấy đi. Nếu có chỗ nào ngờ ngợ, cha có thể giúp con để bổ sung theo bản viết của cha đã ghi lại hiện vẫn còn giữ đây. Về phía cha, cha sẽ ra lệnh cho gia nhân làm những gì còn lại.
Diễm Kiều vui sướng đi làm ngay những gì cha nàng vừa dặn. Còn cha nàng cũng bắt đầu cho sắp xếp, bố trí lại tất cả các thứ theo đúng trật tự như hồi Bedreddin Hassan ở đó cùng với gã gù giám mã của hoàng đế Ai Cập. Ông giở bản viết đã ghi từ hồí đó ra đọc để cho bọn đầy tớ lần lượt đặt từng chiếc bàn chiếc ghế vào vị trí cũ từng thứ theo sự miêu tả của bản ghi. Chiếc ngai cũng không bị bỏ quên và cả những cây nến thắp cũng thế. Khi trong phòng tất cả đã được sắp xếp như trước đây, tể tướng vào trong buồng con gái để đặt quần áo và túi tiền của Bedreddin vào chỗ cũ. Xong việc ông bảo Diễm Kiều:
Bây giờ con hãy cởi bỏ áo quần ngoài và nằm xuống khi Bedreddin vào buồng con sẽ cất tiếng kêu ca về việc anh ta ra ngoài lâu và bảo là rất ngạc nhiên khi thức giấc không thấy anh ta nằm bên cạnh. Rồi giục anh ta lên giường ngủ tiếp và sáng mai con hãy kể lại cho mẹ chồng con và cha nghe những gì đã xảy ra giữa con với hắn đêm đó. Chắc là chúng ta sẽ được nghe một câu chuyện thật thú vị đó.
Rồi ông đi ra khỏi buồng để con gái được tự do.
scheherazade muốn kể cho xong câu chuyện nhưng đành phải gác lại vì trời đã sáng.

***

Tàn đêm hôm sau, hoàng đế Ấn Độ nóng lòng muốn biết câu chuyện về Bedreddin kết thúc ra sao nên tự mình đánh thức Scheherazade dậy và bảo nàng kể tiếp. Vậy là hoàng hậu lại bắt đầu kể như sau:
Schemseddin Mohammed - Tể tướng Giafar nói với hoàng đế - bắt tất cả bọn gia nhân đi ra khỏi phòng, chỉ để lại hai ba đứa. Ông bảo chúng cho Bedreddin ra khỏi hòm và để chàng vẫn cứ áo lót quần đùi như thế, đưa vào phòng này, để chàng một mình tại đó và đóng cửa lao.
Bedreddin dù hết sức đau khổ nhưng vẫn ngủ li bì suốt thời gian đó, đến nỗi khi bọn đầy tớ kéo chàng ra khỏI cái hòm chàng vẫn không thức giấc. Chúng khênh đặt chàng vào trong phòng cưới ngày xưa và đóng cửa lại.
Khi thức dậy thấy có mỗi mình, chàng ngỡ ngàng đưa mắt nhìn quanh và tất cả các đồ vật trông thấy như đưa chàng về ký ức của đêm tân hôn, chàng ngạc nhiên nhận thấy đây đúng là căn phòng chàng đã nhìn thấy tên giám mã gù. Sự ngạc nhiên càng tăng lên gấp bội khi khẽ khàng chàng tiến đến cửa buồng để ngỏ, nhìn vào trong thấy bộ áo quần của mình vẫn vắt trên lưng ghế đúng cái chỗ chàng nhớ là đã để trong đêm tân hôn. Ôi Thượng đế lòng lành? - Chàng giụi mắt thốt lên - Tôi đang ngủ hay đang thức đây? .
Diễm Kiều quan sát chàng, sau phút khoan khoái vì sự ngỡ ngàng của chàng, nàng đột ngột kéo tấm màn che giường, thò đầu ra, dịu dàng nói:
- Chàng yêu quí, chàng làm gì bên cửa đó? Vào ngủ tiếp với em đi. Chàng ra ngoài lâu quá đấy. Em thật ngạc nhiên khi thức dậy không thấy chàng nằm cạnh.
Bedreddin Hassan biến sắc mặt khi nhận ra người thiếu phụ đang nói với chàng chính là cô gái yêu kiều duyên dáng mà chàng nhớ là đã cùng chàng ân ái. Chàng bước vào trong buồng nhưng đáng lẽ đi tới bên giường mà suốt trong mười năm nay không lúc nào hình ảnh này không tái hiện trong trí nhớ, nhưng chàng không sao tưởng tượng nổi là tất cả những cái đó mới chỉ xảy ra trong một đêm, chàng lại bước tới chiếc ghế vắt áo quần và túi tiền chứa đầy đồng sequin. Chàng ngắm nghía thật kỹ những thứ này và lẩm bẩm: “Ôi! Thượng đế tối cao sống mãi! Tôi không sao mà hiểu được tất cả những cái này!”
Người thiếu phụ, rất vui thích thấy chàng băn khoăn bối rối, lại giục chàng: “Một lần nữa, em xin chàng hãy về giường ngủ tiếp đi! Chàng còn mải làm gì nữa đấy? .
Nghe vậy, chàng tiến lại phía nàng Diễm Kiều:
- Xin nàng cho biết - Chàng nói- là tôi ở đây cùng nàng đã lâu chưa?
- Câu hỏi làm em ngạc nhiên đấy - Nàng đáp - Chẳng phải là chàng vừa dậy lúc nãy đây thôi ư? Sao chàng lại đãng trí thế.
- Nàng ơi! Tôi không sao có thể yên tâm được. Đúng là, tôi còn nhớ, đã ở đây cùng nàng. Nhưng tôi cũng nhớ là đã suốt mười năm tôi sống ở Damas. Nếu thực là đã cùng nàng ngủ với nhau đêm hôm nay thì làm sao tôi lại ,có thể sống xa nàng quá lâu như vậy. Đó là hai điều đối nghịch. Xin nàng làm ơn cho biết là tôi phải nghĩ như thế nào đây. Phải chăng cuộc hôn nhân của tôi với nàng chỉ là một ảo tưởng hoặc sự đi vắng mười năm của tôi chỉ là một giấc chiêm bao.
- Vâng, chàng ạ - Diễm Kiều nói - Đúng là chàng chiêm bao là đã từng sống chục năm tại Damas.
Vậy thì không có gì có thể thich thú hơn – Bedreddin cười và nói to - Tôi bảo đảm với nàng là giấc chiêm bao này rất thú vị. Nàng hãy tưởng tượng là đột nhiên tôi thấy mình nằm ở cửa thành Damas trên mình chỉ có áo lót và quần đùi cũng như lúc này. Tôi đã đi vào thành phố trong sự la ó của dân chúng vừa đi theo vừa chửi rủa tôi. Rồi tôi trốn vào nhà một người bán bánh kẹo. Bác này nhận tôi làm con nuôi, dạy nghề cho tôi và khi chết, bác để lại toàn bộ tài sản cho tôi. Sau khi bác ấy mất, tôi làm chủ cửa hàng bánh kẹo. Rồi, nàng ạ, còn biết bao sự việc đã xảy ra với tôi, kể lại thì rất dài. Tất cả những gì tôi có thể nói với nàng lúc này là tỉnh dậy ở đây thật không phải là dở đối với tôi vì nếu không thì tôi đã bị người ta đóng đinh vào cột gỗ rôi.
- Nhưng vì sao kia - Diễm Kiều giả đò ngạc nhiên - Sao người ta lại đối xử với chàng độc ác như vậy? Hay là chàng đã phạm một tội gì ghê gớm?
- Không phải đâu - Bedreddin nói - Đó là vì một chuyện thật lố bịch và tức cười nhất thế gian. Tội của tôỉ chỉ là vì đã bán một chiếc bánh nhân kem không có hồ tiêu.
- Ôi! Nếu vậy thì - Diễm Kiều vừa nói vừa cười nức nở - phải công nhận là người ta đã kết tội chàng một cách bất công ghê gớm.
- Ồ, nàng ạ - Chàng nói thêm - Như thế chưa phải là đã hết. Cũng vì cái bánh nhân kem thiếu hồ tiêu chết tiệt đó mà người ta phá phách tan tành cả cửa hàng của tôi, trói tôi lại, nhốt tôi vào trong một cái hòm mà đến lúc này tôi vẫn còn cảm thấy chật chội ngột ngạt không thở được nữa. Rồi người ta còn gọi một người thợ mộc đến dựng một cái giá để treo cổ tôi lên nữa. Nhưng nhờ ơn Thượng đế tất cả những cái đó đều xảy ra trong một giấc chiêm bao!”.
Đến đoạn này, thấy trời sáng nên Scheherazade ngừng lại. Schahriar không nén được cười khi thấy Bedreddin lẫn lộn giữa thực và mộng. Ông bảo thật là tức cười và chắc là sáng hôm sau tể tướng Schemseddin Mohammed và bà em dâu sẽ được một mẻ cười vỡ bụng.
- Tâu bệ hạ, đó là điều mà thiếp sẽ có vinh dự được kể Người nghe vào đêm sau, nếu Người vui lòng để cho thiếp còn được sống.
Hoàng đế Ấn Độ đứng lên không nói gì nhưng trong thâm tâm thì không có ý gì khác điều đó.

***

Scheherazade thức giấc trước khi trời sáng, kể tiếp:
- Tâu bệ hạ, Bedreddin đêm đó trằn trọc, thỉnh thoảng lại thức giấc tự hỏi không biết là mình tỉnh hay mê. Chàng hoài nghi hạnh phúc của mình và để cho chắc chắn, chàng kéo màn che ra và đưa mắt nhìn khắp gian buồng. Anh tự nhủ: Ta không nhầm, đây đúng là buồng mà ta đã bước vào thay cho gã gù và ta đã ngủ với cô nàng xinh đẹp dành cho gã .
Ánh sáng ban ngày chiếu rọi, chưa giúp chàng xua tan được nỗi lo lắng băn khoăn thì tể tướng Schemseddin Mohammed, ông bác của chàng đi tới gõ cửa và hầu như bước ngay vào để chào và chúc chàng buổi sáng tốt lành.
Bedreddin Hassan cực kỳ ngạc nhiên thấy bất ngờ xuất hiện một người đàn ông mà chàng biết rất rõ nhưng không còn cái vẻ “mặt sắt đen sì đã tuyên án tử hình chàng nữa.
- A! Vậy chính là ông - Chàng kêu lên - Ông đã đối xử với tôi thật tàn nhẫn và xử tôi tội chết mà lúc này tôi vẫn còn kinh hoàng chỉ vì một chiếc bánh nhân kem không có hồ tiêu.
Tể tướng nhoẻn miệng cười và để giải toả cho chàng nỗi băn khoăn thắc mắc, ông kể cho chàng nghe vì sao chàng được một vị thần can thiệp, vì qua lời gã gù ông có thể đoán được phần nào sự cố, chàng đã đến nhà và cưới con gái ông thế chỗ cho tên giám mã gù của hoàng đế. Rồi ông cho chàng biết là do quyển vở viết chính bằng tay Noureddin Ali để lại mà ông phát hiện ra chàng chính là cháu của ông và vì thế ông đã đi tới Balsora để tìm chàng... - Cháu thân yêu - Ông nói thêm và âu yếm ôm hôn chàng - Hãy thứ lỗi cho bác đã làm cho cháu buồn khổ từ lúc nhận ra cháu. Bác muốn đưa cháu về trước khi để cho cháu biết rõ hạnh phúc của mình, làm cho cháu càng thấy sung sướng bội phần sau khi đã trải qua nhiều khổ ải. Hãy để cho tất cả những buồn đau của cháu lắng xuống trong niềm vui được thấy trở về với bao người yêu thương và trìu mến. Trong lúc cháu chỉnh tề lại y phục, ta sẽ đi báo tin cho mẹ cháu đang nóng lòng ôm hôn cháu, ta cũng sẽ đưa con trai cháu mà cháu đã gặp ở Damas tới. Đứa con trai mà cháu đã đem lòng yêu thương lưu luyến tuy chưa hề biết đó là con ruột của mình.
Chẳng có ngôn từ nào đủ mạnh để tả lại niềm vui cực độ của Beđreddin khi chàng nhìn thấy mẹ và Agib, con trai chàng. Ba nhân vật này không ngửng ôm riết lấy nhau mà hôn hít bộc lộ tình ruột thịt đậm đà trong những cử chỉ yêu thương tột độ. Người mẹ kể với chàng nỗi buồn đau xa cách và những giọt nước mắt bao năm không cạn. Cậu bé Agib, chẳng còn trốn chạy như ở Damas nữa mà chủ động đón nhận những cử chỉ âu yếm của cha một cách vô cùng dễ thương. Bedreddin Hassan chia sẻ tình cảm giữa hai người mình yêu thương rất mực tưởng như làn sóng yêu thương trìu mến dù có dâng cao tới đâu cũng chưa đủ.
Trong khi những sự việc trên đây diễn ra tại nhà Schemseddin Mohammed thì vị tể tướng này đi vào hoàng cung trình báo với hoàng đế kết quả khả quan của chuyến đi. Hoàng đế rất hài lòng khi được nghe kể lại câu chuyện hết sức hay và lạ này, ra lệnh cho ghi lại để lưu giữ trong văn khố của vương quốc.
Khi Schemseddin Mohammed trở lại dinh tể tướng, ông liền cho mở đại tiệc, ngồi cùng ăn uống với cả gia đình và suốt ngày hôm đó là một ngày hội vui chưa từng thấy .
Tể tướng Giafar kể xong câu chuyện về Bedreddin Hassan rồi nói với hoàng đế Haroun Alraschid:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, đó là tất cả câu chuyện tôi đã kể hầu Người nghe. Vậy ý của Người thế nào đối với lời cầu xin của tôi.
Hoàng đế thấy câu chuyện thật hay thật lạ nên đã không lưỡng lự đại xá cho người nô lệ Rahan và để an ủi chàng trai đau khổ vì vô tình mà sát hại người vợ yêu quí của mình, nhà vua đem một trong những nô lệ xinh đẹp của mình gả cho chàng, lại ban nhiều của cải và chăm sóc chàng đến cuối đời... .
- Nhưng, tâu bệ hạ - Scheherazade nói khi thấy trời đã hửng sáng - dù câu chuyện thiếp vừa kể thuộc về loại chuyện rất hay, làm bệ hạ thích thú đấy. Nhưng thiếp còn biết một chuyện khác hay hơn nhiều. Nếu bệ hạ muốn nghe đêm mai, thiếp đảm bảo là Người sẽ thấy vô cùng hấp dẫn. Schahriar yên lặng đứng lên, do dự không biết phải làm gì đây. Hoàng hậu thật thông minh - Ông nghĩ - Nàng kể những câu chuyện thật là dài và hay, và khi nàng đã bắt đầu kể thì thật khó mà không muốn nghe tiếp. Không biết là ta có nên xử nàng ngày hôm nay chưa? Nhưng không, chẳng vội gì. Câu chuyện nàng vừa khoe ra đó chắc hẳn là còn hay hơn tất cả các chuyện nàng đã kể cho ta nghe đến bây giờ. Ta chẳng nên tự tước đi của mình cái thú được nghe nàng kể. Đợi nàng kể xong cho ta nghe chuyện này rồi ta sẽ cho lệnh xử nàng.
                                                                                          Phần Sau  | Phần Kế Tiếp
                                              Chương 18
THIÊN TÌNH SỬ CỦA CAMARALZAMAN, HOÀNG TỬ ĐẢO NHỮNG ĐỨA CON CỦA KHALÉDAN VÀ CÔNG CHÚA                                                                          TRUNG-QUỐC,NÀNG-BADDURE
 
- Tâu bệ hạ, cách bờ biển Ba Tư khoảng hai chục ngày chèo thuyền, ngoài khơi có một hòn đảo có tên là đảo Những Đứa Con Của Khalédan. Đảo này gồm có nhiều tỉnh lớn, tất cả đều phồn vinh vì có những thành phố đông đúc thịnh vượng, làm thành một vương quốc hùng mạnh. Ngày xưa, trị vì hòn đảo này là quốc vương Schahzaman có bốn vợ đều là chính thất, đều là công chúa con vua và sáu chục phi tần.
Schahzaman tự cho mình là một quân vương hạnh phúc nhất trên trái đất này với sự yên bình và thịnh vượng của triều đại ông. Chỉ có một điều làm hạnh phúc của ông chưa trọn vẹn là đã luống tuổi mà chưa có con để nối dõi dù ông rất nhiều vợ. Ông không biết đổ cái lỗi vô sinh đó vì đâu và trong niềm sầu muộn đó, ông coi như thật là đại bất hạnh nếu một khi nằm xuống mà chẳng có người trong huyết thống để nối ngôi báu. Đã rất lâu ông giấu kín nỗì niềm xé ruột dằn vặt ông. Càng đau buồn ông lại càng cố giữ kín không để lộ ra với bất cứ ai. Cuối cùng, không thể lặng im được nữa, một hôm ông tâm sự với tể tướng và sau khi than thân trách phận một cách cay đắng ông hỏi tể tướng xem liệu có phương sách gì để cứu vãn được tình thế ấy không. Vị đại thần khôn ngoan đó nói:
- Nếu điều bệ hạ hỏi nó tuỳ thuộc vào những luật lệ thông thường về sự từng trải của con người thì Người sẽ được thoả mãn ngay thôi, nhưng xin thú thực là kinh nghiệm và kiến thức của tôi không đủ để đáp ứng đòi hỏI của bệ hạ. Chỉ có Thượng đế mới có thể ra tay phù trợ được thôi. Sống giữa giàu sang vàng lụa, ta thường luôn luôn quên Người nên Người đôi khi cũng gây cho ta chuyện buồn phiền đây đó để ta phải nghĩ tới và thừa nhận quyền lực tối cao của Người, thấy là những điều ta cầu mong chỉ còn duy nhất trông đợi ở Người. Bệ hạ có những thần dân chuyên làm nghề phụng thờ Thượng đế, phụng sự Người và sống khổ hạnh vì tin yêu Người. Ý kiến của tôi là bệ hạ nên góp phần công đức và khuyến khích động viên họ cùng với bệ hạ nguyện cầu. Có thể trong đám đông những người tu hành đó, có một người nào đó khá thuần khiết và được Thượng đế ưu ái vì vậy lời khẩn eầu được Người chấp nhận đáp ứng được điều mong ước của bệ hạ chăng.
Quốc vương Schahzaman đánh giá cao lời khuyên đó và hết lòng cảm ơn tể tướng của ông. Ông sai đem nhiều của cải hiến cho các cộng đồng những người tu hành, tổ chức một bữa tiệc lớn và nói với họ nguyện vọng của mình để họ báo cho tất cả các đạo sĩ dưới quyền.
Chẳng bao lâu Schahzaman được thoả nguyện: một trong những người vợ của ông mang thai và sau chín tháng cho ra đời một trai. Để tạ ơn này, ông lại cho gửi tớI các nhà thờ Hồi giáo nhiều lễ vật đáng giá và đồng thời tổ chức ăn mừng ngày sinh hoàng tử không những ở kinh đô mà ở tất cả mọi nơi trong phạm vi vương quốc. Các cuộc vui kéo dài suốt một tuần lễ. Người ta đưa hoàng tử đến cho ông ngay từ lúc mới sinh, ông thấy đứa bé thật xinh đẹp nên đặt tên cho cậu là Camaralzaman, mặt trăng của thế kỷ.
Hoàng tử Camaralzaman được nuôi dưỡng thật chu đáo. Vừa tuổi đến trường, cha cậu đã cử một thái phó hiền đức và nhiều thầy giáo giỏi để trông nom dạy đỗ cậu. Những ông thầy có tiếng này thấy cậu thông minh, lanh lợi, đễ bảo và có đủ khả năng tiếp thụ tất cả những kiến thức giảng dạy không những về đạo đức, phong tục mà còn tất cả những điều cần hiểu biết của một hoàng tử. Nhiều tuổi hơn một chút nữa, học các môn võ nghệ cậu đều tiếp thu nhanh chóng với một sự thành thạo tinh thông tuyệt vời làm mọi người đều thán phục nhất là hoàng đế, cha cậu.
Khi hoàng tử chớm tuổi mười lăm, hoàng đế vốn có một tình thương yêu con rất đằm thắm và tình yêu thương đó luôn được thể hiện bằng mọi cách. Ông muốn biểu lộ nó một cách thật đặc biệt và huy hoàng đó là thoái vị để nhường ngôi báu cho chàng. Ông trao đổi ý đó với tể tướng và nói thêm:
- Ta sợ là con ta sẽ làm mất đi, trong sự nhàn hạ cái năng khiếu trời cho cũng như bao thành công thu lượm được trong học tập rèn luyện. Vì cũng đã đến tuổi để nghĩ đến sự nghỉ ngơi rồi nên ta quyết định nhường ngôi cho hoàng tử, lui về sống nốt nhũng ngày còn lại với sự hài lòng được nhìn thấy con ta trị vì đất nước. Ta cần phảI nghỉ ngơi sau bao năm khó nhọc cầm quyền.
Tể tướng không muốn nêu ra tất cả những lý do thuyết phục ông khoan thực hiện quyết định nhường ngôi, ngược lại, ông muốn đi sâu vào khía cạnh tình cảm:
- Tâu bệ hạ, hoàng tử hãy còn quá trẻ để đảm đương một gánh nặng là cai trị một quốc gia hùng mạnh. Bệ hạ sợ chàng có thể bị hư hỏng vì cuộc sống nhàn rỗi với nhiều lý do, nhưng để phòng ngừa, sao bệ hạ không xét đến việc lấy vợ sớm cho chàng? Hôn nhân sẽ ràng buộc và ngăn cản một hoàng tử trẻ rơi vào cuộc sống chơi bời phóng túng. Cộng với việc cưới vợ, bệ hạ cho chàng tham dự trong những buổi họp hội đồng để chàng làm quen dần với công việc của triều đình rồi sau đó khi nào thấy chàng có đầy đủ khả năng theo chính kinh nghiệm của bệ hạ thì đó là lúc bệ hạ truyền ngôi báu cho chàng.
Schahzaman thấy lời khuyên của tể tướng đầu triều vô cùng hợp lý nên sáu khi ông này lui, nhà vua bèn cho gọi hoàng tử Camaralzaman tới.
Hoàng tử thường lui tới thăm cha vào những giờ giấc đã định trước, chẳng mấy khi phải vời tới. Nên lần này chàng ngạc nhiện thấy lệnh cha gọi. Đáng lẽ thấy thoải mái như mọi khi thì lần này chàng chào cha thật trịnh trọng và cúi đầu trước mặt ông.
Hoàng đế nhận thấy sự gò bó của hoàng tử bèn ôn tồn bảo chàng:
- Con có biết cha cho đòi con tới đây có việc gì không?
- Tâu phụ hoàng - Chàng khiêm tốn đáp - Chỉ có Thượng đế mới thấu hiểu mọi sự thôi. Con rất vui lòng được biết ý phụ vương.
- Ta cho gọi con tới - Hoàng đế nói - để bảo cho con hay là ta muốn cưới vợ cho con. Con thấy sao?
Hoàng tử Camaralzaman rất không vui khi nghe cha nói thế. Chàng sửng sốt đến mức toát cả mồ hôi và không biết trả lời ra sao cả. Sau một lát im lặng, chàng-nói:
- Tâu hoàng thượng, xin Người thứ lỗi cho con đã lặng người đi khi nghe thấy lời Người tuyên bố. Con không chờ đợi điều đó vì con còn quá trẻ. Con cũng không rõ có bao giờ con bị hôn nhân trói buộc không vì đàn bà không những chỉ gây nhiều điều phiền toái mà con hiểu rất rõ, họ lại còn là những người gian xảo, độc ác và đối trá như trong nhiều sách của các tác giả con đã đọc. Có thể là ý kiến của con chẳng phải là cố định như vậy nhưng con cảm thấy là cần phải có thời gian trước khi tự mình dứt khoát làm được điều mà hoàng thượng đòi hỏi.”
Scheherazade muốn kể tiếp nhưng nhìn thấy hoàng đế Ản Độ đã nhận ra trời đã sáng rời giường bước xuống nên nàng ngừng lại. Đêm sau, nàng vẫn kể tiếp câu chuyện này:

***

- Tâu bệ hạ, lời hoàng tử trình bày làm cho hoàng đế cha chàng cực kỳ buồn bã. Vị quốc vương này thực sự đau lòng khi thấy chàng có một sự chán ghét ghê gớm về hôn phối. Tuy vậy ông không muốn kết chàng phạm tội bất tuân cũng như không muốn dùng uy quyền cha chú đối vớI chàng. Ông chỉ khẽ bảo con:
- Cha chẳng muốn ép buộc con, để cho con có thời gian suy nghĩ và thấy rằng một hoàng tử như cón sinh ra là để trị vì một quốc gia lớn thì trước hết phải nghĩ đến chuyện cần có người nối dõi. Tự cho mình niềm vui ấy, con cũng sẽ làm cha vui vì được thấy mình sống lại trong con và trong cả những đứa cháu mà con sinh hạ.
Schahzaman không nói gì thêm nữa với hoàng tử Camaralzaman. Ông cho chàng tham dự trong các buổi họp cơ mật quốc gia và tìm mọi cách để làm chàng vừa lòng. Một năm sau, ông gọi riêng chàng ra và bảo:
- Thế nào, con trai ta? Con có nhớ là phải suy nghĩ về ý muốn của cha về việc cưới vợ mà cha đã nói với con năm ngoái không? Líệu con vẫn cứ khước từ không cho cha được vui lòng với sự vâng lời của con, và để cho cha chết đi mà không được biết niềm vui đó sao?
Hoàng tử có vẻ như đỡ sửng sốt so với lần đầu và không do dự lâu trả lời thật dứt khoát như sau:
- Thưa phụ hoàng, con, không quên việc đó, nhưng sau khi đã cân nhắc kỹ con càng kiên định là sẽ sống độc thân, không để hôn nhân trói buộc. Quả thật, những nỗi khổ vô biên do đàn bà gây ra trong tất cả các thời đại trên trần thế mà con biết rõ trong sử sách và những điều được nghe thấy hàng ngày về những sự tinh ma quỉ quái của họ, là những lý do đã làm cho con quyết tâm là sống suốt đời không có liên quan gì với họ. Vậy phụ vương hãy tha tội nếu con mạo muội dám xin Người là từ nay không đả động gì đến việc cưới xin nữa .
Chàng dừng lại ở đây và đột ngột rời hoàng đế cha chàng không đợi ông nói gì khác nữa.
Tất cả những ông vua khác chắc là khó kìm được cơn giận dữ lôi đình sau những lời lẽ táo bạo trên đây của hoàng tử và sẽ chẳng quên làm cho chàng phải hối tiếc. Nhưng vua Schahzaman rất thương yêu con, muốn dùng lời lẽ dịu dàng trước khi phải cưỡng bức. Ông cho tể tướng biết nỗi buồn phiền mới của ông do hoàng tử Camaralzaman vừa gây ra:
- Ta đã theo lời khuyên của nhà ngươi - Ông nói với tể tướng - Nhưng Camaralzaman lại càng xa lánh chuyện hôn nhân hơn cả lần trước và hoàng tử lại còn trình bày với ta bằng những lời lẽ thật táo bạo khiến ta phải hết sức kiềm chế mới không nổi giận. Những người cha hết sức nhiệt thành cũng như ta đối với hoàng tử đúng là những người dạo đột tự tước của mình đi sự yên tĩnh nghỉ ngơi. Nhà ngươi bảo ta làm sao bây giờ để khiến được cái tên cứng đầu cứng cổ đó tuân Phục ý chí của ta?
- Tâu bệ hạ - Tể tướng nói - Với lòng kiên nhẫn, người ta đạt được vô số thành công trong việc làm. Có thể là sự việc này không phải thuộc bản chất có thể thành công theo con đường đó. Cũng chẳng có gì đáng trách là bệ hạ đã có phần nào muốn đẩy nhanh sự việc. Xin Người xét xem có thể cho thêm hoàng tử thời hạn một năm nữa để suy nghĩ. Nếu trong khoảng thời gian này, hoàng tử biết đến bổn phận thì niềm vui của hoàng thượng sẽ lớn hơn là dùng quyền lực của người cha để ép buộc chàng. Nếu, ngược lại chàng vẫn một mực khăng khăng chối từ thì, khi một năm đã trôi qua, bệ hạ sẽ tuyên bố trước cả triều thần là vì lợi ích quốc gia, hoàng tử phải cưới vợ. Không thể tin được là trước cả một tập thể nổi tiếng mà bệ hạ được tôn trọng bằng sự có mặt của mình, hoàng tử lại đám tỏ ra thái độ bất kính.
Hoàng đế, vô cùng khát khao được thấy hoàng tử, con trai mình mau lấy vợ, thì từng ngày đối với ông cũng dài bằng cả năm, huống chi phải lui thời hạn một năm nữa, ông thấy thật vô cùng sốt ruột. Nhưng cũng đành phảI theo lời khuyên có lý lẽ rất thuyết phục của tể tướng, không thể bác bỏ được.
Ánh sáng ngày đã bắt đầu ló rạng buộc Scheherazade đến chỗ này phải ngừng lời. Nàng tiếp tục câu chuyện vào đêm sau và nói với hoàng đế Schahriar:

***

- Tâu bệ hạ, sau khi tể tướng đã lui hoàng đế Schahzaman đi tới tư thất của bà thân mẫu hoàng tử Camaralzaman mà ông đã nhiều lần bàn với bà cưới vợ cho con trai. Ông buồn bã kể cho bà nghe chuyện chàng từ chối lần thứ hai một cách bướng bỉnh làm ông đau lòng nhưng ông vẫn phải rộng lượng với chàng vì lời khuyên của tể tướng.
- Hậu ạ - Ông bảo bà - Ta biết là con nó tin bà hơn là ta. Bà nói thì nó đễ dàng vâng theo hơn. Vậy bà hãy để một chút thời gian nghiêm chỉnh và thân mật bảo cho nó biết nếu cứ cứng đầu cứng cổ như thế thì ta buộc phải cứng rắn dù rất không muốn và nó sẽ phải hối tiếc vì đã không tuân phục cha nó.
Fatime, đó là tên của bà mẹ Camaralzaman, gặp hoàng tử, con bà lần thứ nhất, bảo cho chàng biết là bà được tin việc chối từ cưới vợ của chàng với hoàng đế bà biết bao lo sợ là việc đó đã làm cho hoàng đế vô cùng tức giận.
- Thưa mẹ - Camaralzaman nói - Xin mẹ đừng khơi dậy nỗi đau của con về việc đó nữa. Con rất sợ, là đang trong tâm trạng buồn chán có thể con sẽ có gì thất lễ với mẹ thì thật đáng tiếc đấy.
Fatime, qua lời nói của con, biết là vết thương còn quá mới, vì vậy lần này không nói gì thêm nữa. Lâu lâu về sau, Fatime tìm được dịp nói với chàng cũng về vấn đề trên, hy vọng là chàng để tai nghe.
- Con ơi? - Bà nói - Mẹ xin con hãy nói cho mẹ hay,nếu điều này không gây cho con phiền bực; vì những nguyên cớ gì mà con lại thù ghét vấn đề hôn nhân làm vậy. Nếu con chỉ cho đàn bà là ranh ma, ác độc và không có gì khác ngoài các tính xấu đó nữa thì lý do quả là rất yếu ớt và còn không hợp lý nữa. Mẹ chẳng muốn bênh vực cho những người đàn bà độc ác. Có rất nhiều người như vậy, mẹ công nhận. Nhưng thật bất công nếu đi vơ đũa cả nắm vì không phải tất cả đàn bà đều độc ác. Trong những sách con đọc, con thấy một số những người nào đó đúng thật là đã gây ra nhiều sự lộn xộn lớn, chính mẹ cũng không hề muốn tha thứ cho họ. Nhưng sao con chẳng chú ý là có biết bao nhiêu ông vua, bao nhiêu hoàng đế và cả các hoàng tử khác nữa mà sự độc đoán, dã man tàn bạo độc ác khiến mọi người kinh hãi ghê tởm. Họ đã được nêu lên trong sử sách mà mẹ cũng như con đã đọc. Nếu so sánh thì cứ một người đàn bà cũng phải có tới một ngàn những đàn ông dã man tàn bạo. Và những người đàn bà ngoan nết, lương thiện thật là bất hạnh phải sánh đôi với những tên điên khùng đó. Con tưởng là họ sung sướng lắm sao?
- Thưa mẹ - Camaralzaman nói - Con không nghi ngờ gì là có rất nhiều những người đàn bà khôn ngoan, đức hạnh, tử tế, dịu dàng và sống thật lương thiện. Cầu Thượng đế cho tất cả bọn họ đều giống như mẹ của con? Điều làm con bất bình là một người đàn ông cứ bắt buộc phải làm một cuộc lựa chọn người định lấy làm vợ chẳng lấy gì làm chắc chắn bảo đảm hay nói một cách khác là chẳng được tự do làm theo ý mình.
Giả dụ là con quyết định đi vào cuộc hôn nhân như cha con từng nóng lòng mong mỏi, thì Người sẽ cho con một người vợ như thế nào đây? Chắc hẳn là một công chúa mà cha nhắm cho con, con một vị vua nước lân bang nào đó, và nhà vua ấy chắc hẳn lấy làm vinh dự được cho con gái về làm dâu nhà ta. Dù đẹp, dù xấu thì con cũng phải lấy. Con muốn người vợ con phải đẹp, không có một công chúa nào sánh bằng, nhưng có ai bảo đảm cho về trí tuệ, về tính tình cô ta có dễ chịu, đáng yêu, niềm nở, nhã nhặn không? Về tiếp xúc nói năng trò chuyện có biết nói những câu chuyện đứng đắn tế nhị không hay toàn là chuyện áo quần, cách ăn mặc chưng điện, chuyện tô điểm trang sức và hàng ngàn chuyện vớ vẩn khác khiến bất cứ người đàn ông đứng đắn nào cũng phải đem lòng thương hại. Tóm lạI là có ai bảo đảm cho con cưới được một cô gái không kiêu căng, hách dịch, không hợm hĩnh khinh bạc, không làm cho một quốc gia khánh kiệt vì những khoản tiêu sài nông nổi về áo quần, về đồ châu ngọc, về trang sức và những thứ phù phiếm điên loạn và lạc điệu?
Như mẹ thấy đấy, thưa mẹ, chỉ riêng một mục ấy thôi đã có vô vàn những điểm yếu khiến con hoàn toàn chán ghét hôn nhân. Mà dù cho nàng công chúa đó có hoàn hảo và toàn vẹn đến đâu, không có điểm nào đáng chê trách đi nữa thì con hãy còn vô số lý do mạnh hơn để giữ vững sự suy nghĩ cũng như quyết định của mình.
- Sao? Con của mẹ - Fatime nói- Con còn có những lý đo khác ngoài những lý do con vừa nói ư! Mẹ thấy là chỉ bằng một lời thôi, mẹ có thể làm con cạn lý.
- Xin mẹ cứ nói, thưa mẹ - Hoàng tử bướng bỉnh - Biết đâu con có thể bác lại được ý kiến đó của mẹ.
- Con ạ, mẹ muốn nói là - Fatime bảo - Đối với một hoàng tử, nếu bất hạnh lấy phải một công chúa giống như con vừa mô tả đó, thì có khó gì đâu trong việc phế bỏ và ra sắc chỉ ngăn cấm nàng để khỏi làm cho quốc gia khánh kiệt.
- Ôi? Mẹ ơi - hoàng tử Camaralzaman nói - Thế mẹ không thấy là thật nhục nhã cho một hoàng tử đã buộc phải đi tới hành động cực đoan đó? Vì vinh quang và sự thanh thản của mình, chớ nên dấn thân vào việc đó, như thế có phải hơn không?
- Nhưng con ơi? - Fatime lại nói - Theo cách con suy nghĩ, mẹ thấy rằng con muốn mình là một ông vua cuốI cùng của dòng họ đã từng trị vì trong vinh quang và hiển hách tại vương quốc đảo Những Đứa Con Của Khalédan .
- Thưa mẹ - Hoàng tử Camaralzaman đáp – Con chẳng cầu mong được sống lâu hơn đức vua cha con. Nếu chẳng may mà con chết trước Người thì cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên vì chuyện con chết trước cha phải đâu là hiếm có. Nhưng bao giờ cũng được tôn vinh cho cả một triểu đại nếu ông vua cuối cùng của thế hệ đó tỏ ra xứng đáng, và con thì đang cố gắng hết sức mình để xứng đáng với các đấng tiên vương và các vị khai sáng ra triều đai.
Từ hôm ấy, hoàng hậu Fatime còn có nhiều cuộc chuyện trò như vậy với hoàng tử Camaralzaman và cố tìm ra chỗ yếu của chàng để nhổ tận gốc sự ghét bỏ của chàng đối với hôn nhân. Nhưng lần nào cũng bị chàng bẻ lại lý lẽ của bà bằng những lý do khác làm bà không biết đáp lại ra sao cả. Chàng cứ trơ như đá vững như đồng không gì lay chuyển nổi.
Một năm nữa lại trôi qua, trong nỗi buồn phiền của hoàng đế Schahzaman, hoàng tử Camaralzaman chưa có một biểu hiện nào thay đổi quan điểm của mình. Một hôm, trong một buổi thiết triều long trọng có mặt đông đủ tể tướng, các thượng thư, các đại thần và các tướng lĩnh, hoàng đế bảo hoàng tử:
- Đã từ lâu ta từng cho con biết ý muốn thiết tha của ta là được thấy con thành gia thất và chờ đợi với sự ân cần của một người cha đòi hỏi một điều không gì hợp lý hơn. Con đã nhiều phen cưỡng lại khiến ta không sao kiên nhẫn được nữa. Trước triều đình, hôm nay ta lại nêu lên vấn đề này. Không còn là vì tuân theo ý của một người cha mà con chẳng dám chối từ, nhưng đây là vì quyền lợi của đất nước bắt buộc và tất cả vị đại thần ở đây yêu cầu cùng với cha. Vậy thì con sẽ nói sao đây, để theo đó, cha còn định liệu.
Hoàng tử Camaralzaman đáp lại với thái độ khá sỗ sàng hoặc nói cách khác là với thái độ bực bội khiến Hoàng đế bị bẽ mặt trước cả triều thần đã không kìm được sự giận dữ chính đáng:
- Sao! Đứa con mất gốc kia? Mày dám nói năng láo xược như vậy trước hoàng đế cha mày như thế ư?
Ông bèn lập tức lệnh cho lính cấm vệ bắt giữ và đưa chàng nhốt vào một cái tháp cổ đã bỏ hoang từ lâu. Chàng bị giam trong đó với một chiếc giường, một vài bàn ghế, một số quyển sách và chỉ có một tên người hầu.
Camaralzaman, hài lòng vì được tự do trò chuyện vớI những cuốn sách, nhìn buồng giam bằng con mắt lạnh lùng. Buổi chiều, chàng tắm rửa, cầu nguyện và sau khi đọc xong một vài chương trong quyển kinh Coran cũng với vẻ bình thản như đang ở tư thất của mình trong hậu cung hoàng đế cha chàng, chàng nằm xuống ngủ, cây đèn vẫn thắp sáng để bên cạnh giường.
Trong tháp cổ đó có một cái giếng, nơi ẩn náu ban ngày của một tiên nữ tên là Maimoun, con gái của Damriat, là vua hoặc người cầm đầu một nhóm các vị thần. Lúc đó vào khoảng nửa đêm, tiên nữ Maimoun nhẹ nhàng nhẩy lên khỏi giếng, đi thăm thú trần gian cho thoả trí tò mò. Tiên nữ rất ngạc nhiên thấy ánh lửa trong buồng hoàng tử Camaralzaman. Nàng bước qua người hầu nằm ngủ cạnh cửa để vào trong, đi đến gần chiếc giường mà vẻ lộng lẫy làm nàng chú ý. Nàng càng ngạc nhiên hơn khi thấy có người nằm ngủ trên đó. Nửa khúốn mặt hoàng tử Camaralzaman bị một góc chăn che lấp, tiên nữ khẽ nâng lên một chút và sững sờ nhìn thấy một chàng trai trẻ đẹp chưa từng thấy trên khắp mọi nơi trên trái đất mà nàng đã đi qua.
“Ôi? Thật là rực rỡ? - Nàng nhủ thầm - Hoặc nói một cách khác là đôi mắt kia nếu mở ra nữa thì vẻ đẹp sẽ chói lọi đến lnức nào? Nhưng vì cớ gì mà đang ở địa vị cao sang, chàng lại bị đối xử như vậy? . Vì tiên nữ cũng đã biết sự thể của chàng nhưng chưa thực cặn kẽ lắm.
Maimoun ngắm hoàng tử Camaralzaman không chán mắt, sau khi hôn vào hai bên má và giữa trán mà không làm chàng thức giấc, nàng bay vút lên không. Nàng đang bay cao tít lưng chừng trời thì bỗng nghe thấy tiếng đập cánh, nên vội theo hướng đó bay tới. Khi đến gần thì nàng thấy tiếng vỗ cánh là do một vị thần gây ra, đó là một trong các thần linh chống đối lại Thượng đế. Vị thần có tên Danhasch, con của Schamhourasch, khiếp hãi nhận ra Maimoun, vì hắn biết là bản lĩnh của nàng hơn hắn nhiều. Hắn muốn tránh cuộc tao ngộ này nhưng vì đã quá gần nên không kịp chỉ còn cách hoặc giao đấu hoặc qui hàng.
Danhasch vội đề nghị với giọng nhũn nhặn:
- Nàng Maimoun hùng mạnh! Nhân danh Thượng đế, nàng hãy thề là không làm hại gì tôi đi! Về phía mình, tôi cũng thề như thế.
- Hung thần? - Maimoun nói - Mi có thể làm gì hại ta nào? Ta không sợ mi nhưng cũng chấp nhận lời cầu xin của mi. Hãy nói ta hay mi vừa ở đâu tớí đây, đã nhìn thấy những gì và đã làm gì đêm nay?
- Tiên nữ xinh đẹp - Dànhasch nói - Nàng đã gặp được tôi thật đúng lúc để được nghe cái gì đó thật kỳ diệu tôi sẽ kể đây...
Hoàng hậu Scheherazađe buộc phải ngừng lời vì ánh sáng ngày đã tù từ chiếu rọi. Đêm hôm sau, nàng kể tiếp như sau:

***

- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Vị thần chống đối Thượng đế nói tiếp với Maimoun:
- Vì nàng đã muốn nghe thì xin nói để nàng biết.là tôi vừa từ nơi địa đầu của Trung Quốc, nơi trông ra những hòn đảo cuối cùng của bán cầu này, về đây... Nhưng nàng hứa là sẽ để cho tôi được tự do đi đâu tuỳ ý sau khi kể xong cho nàng nghe chứ?
- Kể đi, kể đi? Đừng sợ gì cả - Maimoun nói - Mi tưởng ta cũng lừa đảo giống mi, nuốt lời hứa với mi chăng? Chỉ cần nhớ là không được kể sai sự thực, nếu nói láo thì ta sẽ trị mi thích đáng.
Danhasch nghe thế cũng thấy có phần yên tâm, nói:
Thưa tiên nữ thân mến, tôi sẽ kể toàn là sự thật cả thôi, xin nàng hãy lắng nghe: Đất nước Trung Quốc, nơi tôi mới rời đi, là một trong những quốc gia lớn và hùng mạnh nhất trên địa cầu có những hòn đảo cuối cùng của bán cầu này phụ thuộc. Đức vua hiện giờ là Gaiour và ông vua này chỉ có một người con gái duy nhất mà từ thuở khai thiên lập địa tới nay chưa có người nào đẹp bằng. Cả nàng, cả tôi cũng như tất cả các vị thần vị tiên ở bên nàng cũng như ở bên tôi, cũng như tất cả mọi con người tập trung lại cũng không thể tìm ra được những từ những ngữ, những câu văn, những lời nói thật thích hợp, thật sinh động và đủ yếu tố hùng biện để mô tả lên một chân dung từa tựa như con người thực của nàng. Tóc nàng màu nâu và dài thướt tha chấm gót. Trán nàng phẳng lì như một tấm gương hình dạng thật mĩ miều, đôi mắt đen long lanh đầy lửa, mũi nàng không quá dài không quá ngắn, miệng nàng nhỏ và tươi như son, hàm răng nàng như hai hàng ngọc trai trắng bong. Khi động đậy lưỡi để nói, tiếng nàng dịu dàng và êm ái phát ra những lời đầy sự nhanh trí thông minh. Sắc trắng của minh ngọc thạch cũng còn thua cái cổ trắng như ngọc của nàng. Sơ sài vài nét như thế cũng đủ để nàng hiểu là ở trên đời này thật khó để có một sắc đẹp hoàn mỹ như vậy.
Vua cha yêu thương nàng rất mực, và cho nàng cấm cung không cho bất cứ ai được tự do tiếp xúc, ngoài ngườI sau này sẽ cùng nàng kết hôn mà thôi. Để nàng khỏi buồn chán trong cảnh cấm cung như vậy nhà vua đã cho xây bảy cung điện mà xưa nay chưa ai từng nhìn thấy hoặc nghe nói.
Cung điện thứ nhất bằng đá pha lê, cung điện thứ hai bằng đồng, thứ ba bằng thép tinh, thứ tư bằng một loại đồng khác lạ quý hơn cả đồng và thép, thứ năm bằng loại đá thử vàng, thứ sáu bằng bạc và thứ bảy bằng vàng khối. Các cung điện đều được bày biện những đồ đạc lộng lẫy phù hợp với chất liệu xây dựng từng cung điện. Nhà vua không quên là những khu vườn kèm theo mỗi cung điện đều có những thảm cỏ mịn màng hoặc lốm đốm hoa, những vũng nước, những vòi phun, những mương rạch, những thác nước, những lùm cây trải dài xa tít tắp mà tia sáng mặt trời khó lọt qua. Tất cả đều có một trật tự khác nhau ở mỗi một khu vườn. Nhà vua Gaiour tóm lại, tỏ ra cho mọi người thấy là chỉ duy nhất có tình phụ tử mới khiến ông làm một khoản chi tiêu khổng lồ như vậy.
Nghe tiếng đồn về sắc đẹp chim sa cá lặn của công chúa, nhiều quốc vương lân bang đã cử những đoàn sứ thần long trọng đến xin được kết thân. Quốc vương Trung Hoa nghênh tiếp họ như nhau vì ông chỉ muốn gả công chúa cho người nào nàng tự chọn. Và nàng đã khước từ tất cả các đám đã tới cầu hôn. Những sứ thần ra về kém hài lòng về kết quả mong muốn nhưng chẳng có gì phải phàn nàn về sự tiếp đón đầy trang trọng và nhận được nhiều vinh dự ở nhà vua Trung Hoa.
Tâu phụ vương - Công chúa nói với vua cha - NgườI muốn con thành hôn và cho là sẽ làm con sung sướng. Con thấy rõ tấm lòng của cha và vô cùng đội ơn Người, nhưng ngoài việc được ở gần phụ vương, gần những cung điện huy hoàng, gần những khu vườn tuyệt diệu ra thì con tìm đâu được hạnh phúc bây giờ? Con xin thêm là được cha yêu thương, con không bị ép buộc điềư gì cả mà còn được hưởng những vinh dự cũng như cha vậy. Đó là những lợi thế mà con không sao có được ở bất cứ nơi nào trên thế gian này, ở bất cứ người chồng nào mà giả dụ là tự con đồng ý. Những người chồng luôn luôn là muốn làm ông chủ, nhưng con thì lại chẳng muốn ai đè đầu cưỡi cổ mình.
Sau nhiều sứ bộ phải ra về tay không, có một đám tớI từ một vương quốc rất giàu rất mạnh, giàu mạnh hơn tất cả những đám tới từ trước đến nay. Quốc vương Trung Hoa bàn với công chúa, con gái ông và phân tích về lợi ích mọi bề nếu công chúa ưng đám này. Công chúa xin vua cha miễn cho và lại đem những lý do trước đây ra nói. Ông cố ép nhưng không những nàng chẳng chịu mà còn tỏ ra có điều bất kính đối với vua cha mình:
- Tâu phụ vương - Nàng giận dữ nói - Xin đừng nói với con về đám này cũng như tất cả những đám khác nữa. Nếu không, con sẽ đâm vào tim con một nhát dao để giải thoát cho mình khỏi những sự quấy rầy.
Quốc vương Trung Hoa vô cùng phẫn nộ, bảo công chúa:
- Con là một con điên và ta sẽ đối xử với con như một con điên.
Nhà vua hạ lệnh giam nàng vào một trong bảy cung điện và chỉ cho nàng mười nô tì già để hầu hạ và ngày đêm làm bạn. Trong mười người này có một người là vú nuôi của nàng. Rồi, để cho những quốc vương lân bang đã từng phái sứ bộ đến cầu hôn không còn nghĩ tới nàng nữa, ông cừ các đặc phái viên tới để báo cho họ việc xa lánh hôn nhân của công chúa. Và cũng vì ông tin là nàng điên thật nên đồng thời tuyên bố với các nước là nếu có thầy thuốc giỏi có thể chữa khỏi bệnh cho công chúa thì xin mời tới và sẽ gả công chúa cho để đền ơn nếu nàng bình phục.
- Nàng Maimoun xinh đẹp! - Danhasch nói tlếp - Sự việc lúc này đang ở tình trạng đó và tôi không quên đều đều hàng ngày tới ngắm cái vẻ đẹp vô song này. Mặc dù tính tôi ranh ma quỉ quái nhưng sẽ chẳng bao giờ làm gì thương tổn tới nàng. Xin tiên nữ cứ tới nhìn xem, tôi đảm bảo là chẳng phí công đâu. Khi nàng thấy rõ tôi chẳng phải là thằng nói láo thì sẽ phải cảm ơn tôi là đã cho nàng nhìn thấy nàng công chúa thật là một tuyệt thế giai nhân. Tôi sẵn sàng làm người hướng dẫn để phục vụ. Xin nàng cứ ra lệnh.
Thay vì đáp lại lời Danhasch, Maimoun cất tiếng cườI ròn rã hồi lâu và Danhasch ngớ ra không hiểu vì sao. Sau khi cười thoả thuê, nàng bảo:
- Khá lắm? Khá lắm? - Nàng bảo hung thần – Mi muốn làm cho ta tin chuyện đó ư? Ta tưởng là mi sẽ kể với ta cái gì đó thật là lạ lùng, kỳ quái kia hoá ra lại nói với ta về một con bé mắt toét nào đó ư? Hừ, hừ! Mi sẽ nói sao hả hung thần nếu mi được nhìn thấy như ta chàng hoàng tử đẹp trai ta vừa tới thăm hôm nay và ta rất muốn chàng xứng đáng được như vậy. Đó hoàn toàn là chuyện khác đấy mi sẽ phát điên lên cho mà xem.
Nàng Maimounl - Danhasch nói . Liệu có quá mạo muội khi muốn nàng cho biết cái chàng hoàng tử mà nàng nói đó là ai không?
- Mi nên biết là - Maimoun bảo hắn - chuyện cũng na ná như chuyện của nàng công chúa mà mi vừa nói với ta đó Nhà vua cha chàng muốn ép chàng lấy vợ bằng được. Sau nhiều lần bị gây phiền nhiễu, chàng tuyên bố thẳng thừng và đứt khoát không lấy vợ. Đó là nguyên nhân tạI sao mà lúc này ta nói chuyện với mi thì chàng đang bị giam trong một cái tháp cổ mà ở đó cũng là chỗ ở của ta và ta cũng vừa chiêm ngưỡng chàng ở đó.
- Tuyệt đối tôi không muốn nói trái ngược lại vớI nàng - Danhasch nói - nhưng xin nàng hãy cho phép tôi được ngắm chàng hoàng tử của nàng, để thấy rõ là không có người đang sống hay đã chết nào có thể so sánh được vớI nàng công chúa xinh đẹp của tôi.
- Thôi hãy im đi, quân chết tiệt?- Maimoun bác lại - Ta bảo mi một lần nữa là không sao có thể như thế được.
- Tôi chẳng muốn cố tranh cãi với nàng làm gì -Danhasch vẫn không chịu - Muốn biết là tôi nói đúng hay nói sai, chỉ có cách là nàng hãy nhận lời tôi đã đề nghị là tới gặp nàng công chúa của tôi và sau đó nàng hãy chỉ cho tôi thấy hoàng tử của nàng.
- Không cần thiết ta phải nhọc công làm việc đó - Maimoun lại nói - Có một cách khác để ta và mi đều được hài lòng. Đó là mang công chúa của nhà ngươi về đặt vào giường của hoàng tử chỗ ta. Như vậy ta và ngươi cùng dễ dàng nhìn ngắm và so sánh một cách thật kỹ càng và chấm dứt cuộc cãi vã.
Danhasch bằng lòng với giải pháp của tiên nữ và muốn lập tức quay về Trung Quốc. Maimoun ngăn hắn lại:
- Hãy khoan - Nàng bảo hắn - Hãy đến đây, trước hết ta muốn chỉ cho mi cái tháp cổ mà mi phải đem nàng công chúa tới đó.
Họ cùng bay tới tháp cổ, Maimoun chỉ cho hắn thấy rồi bảo hắn:
- Thôi hãy đi đi? Và mang ngay công chúa về đây! Mi sẽ vẫn thấy ta ở đây. Nhưng hãy nghe này, ít ra là mi phải trả cho ta mốt khoản cược nếu chàng hoàng tử của ta đẹp hơn nàng công chúa của mi, và ta cũng phải trả cho ngươi khoản cược nếu nàng công chúa đẹp hơn hoàng tử.
Trời đã sáng rõ, Scheherazade ngùng lời. Nàng tiếp tục câu chuyện vào đêm sau và nói với hoàng Đế Ấn Độ:

***

“- Tâu bệ hạ, Danhasch để tiên nữ lại và vút đi Trung Quốc và quay về rất mau chóng khó tưởng tượng được, mang theo nàng công chúa xinh đẹp đang ngủ li bì. Maimoun đỡ lấy, đem vào trong buồng ngủ của hoàng tử Camaralzaman và đặt lên giường cho nằm cạnh chàng.
Khi hoàng tử và công chúa đã song song nằm bên nhau, một cuộc tranh luận xảy ra giữa tiên nữ và hung thần về chuyện người nào đẹp hơn. Họ cùng ngắm nghía và so sánh thầm. Danhasch phá im lặng trước:
- Nàng đã thấy đó - Y bảo tiên nữ - Cũng như tôi đã nói là công chúa của tôi đẹp hơn hẳn hoàng tử của nàng. Bây giờ na2ng còn nghi ngờ gì nữa không?
- Sao! Nghi ngờ ư? - Maimoun bảo – Đu1ng là ta chưa tin. Hẳn là mi bị đui thì mới thấy công chúa của mi đẹp hơn hoàng tử của ta. Công chúa của mi cũng đẹp, ta công nhận, nhưng chả nên vội vã, phải so sánh hai người với nhau một cách thật vô tư, mi sẽ thấy đúng như lời ta nói.
- Càng so sánh kỹ - Danhasch nói - tôi càng thấy không gì khác điều tôi nghĩ. Tôi đã trông thấy y như lần trông thấy đầu tiên và dù có nhìn lâu hơn thì cũng chẳng có gì thay đổi. Nhưng không sao cả, nàng Maimoun duyên dáng ạ, tôi có thể nhường phần thắng cho nàng đó, nếu nàng muốn.
- Không thể thế được - Maimoun nói - Ta không muốn tên hung thần chết tiệt như mi phải nhường ta. Ta sẽ nhờ một trọng tài làm việc phán xử, nếu mi chối từ thì tức là mi chịu thua.
Danhasch vốn sẵn sàng làm mọi việc để lấy lòng Maimonn nên đồng ý ngay. Maimoun giậm mạnh chân, mặt đất bỗng nứt ra và chui lên là một vị thần xấu xí, gù lưng, chột mắt và thọt chân nữa. Ông có sáu cái sừng mọc trên đầu và tay chân đều có móng mọc dài. Vừa đứng thẳng lên thì đất khép lại, ông nhìn thấy Mạimoun liền quì xuống trước mặt nàng khúm núm hỏi nàng có điều gì truyền dạy.
- Hãy đứng lên, Caschcasch! - Nàng bảo vị thần có tên đó - Ta gọi ông lên để phán xử cho cuộc tranh cãi của ta với tên chết tiệt Danhasch này. Ông hãy liếc mắt nhìn xuống cái giường kia, và không được thiên vị nói cho chúng ta biết, theo ông thì người nào đẹp hơn, chàng trai hay là cô gái.
Caschcasch nhìn hoàng tử và công chúa với vẻ ngạc nhiên và thán phục. Một hồi lâu sau, y nói:
- Thưa bà - Y nói với Maimoun- Xin thú thực là tôi sẽ lừa dối các vị và tự phản lại mình nữa nếu bảo là người này đẹp hơn người kia. Càng ngắm kỹ họ, tôi càng thấy mỗi người một vẻ, chẳng ai thua kém ai. Người này chẳng có một tật nhỏ nào để bảo là phải nhường cho người kia. Nếu muốn biết ai hơn ai kém, theo tôi chỉ còn một cách để làm cho sáng tỏ là: lần lượt đánh thức họ dậy và xin hai vị thoả thuận với nhau là trong hai người đó, người nào tỏ ra yêu đương nồng nhiệt hơn, hối hả hơn và với tình cảm say đắm hơn thì coi như kém đẹp hơn về một mặt nào đó.
Hai người đều thấy lời khuyên của Caschcasch là có thể chấp nhận được. Maimoun liền biến thành một con rệp nhảy lên cổ Camaralzaman đốt đau đến mức làm cho chàng tỉnh đậy và sờ tay lên cổ, nhưng Malmoun đã kịp thời nhảy ra sau và trở lại nguyên hình, tất nhiên là vẫn vô hình như hai vị thần linh đứng đó để xem hoàng tử làm gì.
Lúc rụt tay lại, hoàng tử để tay mình rơi xuống tay công chúa Trung Hoa. Chàng mở mắt và vô cùng kinh ngạc thấy một cô gái nằm cạnh mình, một cô gái xinh đẹp tuyệt trần. Chàng ngóc đầu, chống khuỷu tay lên để nhìn cho kỹ. Vẻ trẻ trung và sắc đẹp quyến rũ của công chúa làm toàn thân chàng nóng ran một ngọn lửa chàng chưa từng cảm thấy mà từ trước tới nay chàng vẫn luôn luôn căm ghét.
Tình yêu xâm chiếm tim chàng mãnh liệt làm chàng thốt kêu lên: Ôi, sao mà xinh đẹp! Sao mà quyến rũ? Trái tim của tôi!? Mảnh hồn của tôi!?. Vừa kêu lên như vậy chàng vừa cúi xuống hôn lên trán lên hai má và lên môi nàng thật nồng nhiệt. Nếu không được Danhasch phù phép cho ngủ thật say thì nhất định nàng đã bị chàng đánh thức rồi.
- Thế nào! Cô nương xinh đẹp của ta? - Hoàng tử nói- Trước những biểu hiện tỏ tình của hoàng tử Camaralzaman như vậy mà nàng không tỉnh giấc ư? Dù nàng là ai chăng nữa thì ta cũng không phải là bất xứng với nàng.
Chàng định cố đánh thức công chúa dậy nhưng dừng lại chợt nghĩ: Phải chăng nàng là người mà hoàng đế cha ta muốn cho ta lấy làm vợ? Nếu vậy thì ông thật sai lầm sao không cho ta thấy nàng trước? Ta đã không phải mang tội bất kính đối với ông vì đã công khai chống đối lại, và ông cũng sẽ không bị mất thể dlện vì ta .
Hoàng tử Camaralzaman thành tâm hối tiếc về khuyết điểm đã mắc phải và lại muốn đánh thức công chúa dậy - Cũng có thể là - Chàng dừng lại tự nhủ - hoàng đế muốn bắt ta quả tang, Người cho đưa công nương xinh đẹp này đến đây để thử xem ta có thực là thù ghét hôn nhân như ta đã nói không. Biết đâu là chính Người đã tự đưa nàng tới đây, biết đâu là Người đang nấp một chỗ kín mà làm cho ta xấu hổ về sự giả dối nguy trang của ta mà Người tưởng vậy. Lỗi lầm này sẽ còn nặng hơn gấp bội so với lỗi lầm thứ nhất. Để đề phòng mọi sự, ta hãy bằng lòng tạm cầm lấy cái nhẫn này để nhớ đến nàng. Đó là một chiếc nhẫn rất đẹp, công chúa đeo ở ngón tay. Chàng khéo léo tháo ra và lấy chiếc nhẫn của mình lồng vào thay thế. Xong; chàng nằm xuống và quay lưng lại chẳng bao lâu đã ngủ say như trước dưới sự phù chú của các vị thần linh.
Thấy hoàng tử Camaralzaman đã ngủ say, Danhasch đến lượt mình cũng biến thành một con rệp bò lên đốt đúng vào phía dưới môi công chúa. Nàng giật mình tỉnh dậy, ngồi lên, mở mắt và vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy một chàng trai nằm cạnh. Từ ngạc nhìn chuyển sang thán phục, từ thán phục chuyển sang dào dạt mừng vui khi thấy người dưới mắt mình là một chàng trai trẻ rất điển trai, rất đáng yêu.
Sao? Có phải chàng mà cha ta bảo ta lấy làm chồng? Ôi! Giá mà ta biết trước? Ta đã chẳng làm cho người phảI giận dữ đối với ta. Ta đã chẳng phải chịu thiệt thòi là mất bao nhiêu lâu mới được một người chồng mà ta hết lòng yêu quý Chàng hãy dậy đi! Hãy dậy đi nào? Giữa đêm tân hôn đầu tiên mà ngủ vùi như thế thì chẳng phù hợp vớI một người chồng?
Nói xong, công chúa nắm lấy cánh tay hoàng tử Camaralzaman lay mạnh. Nhất định chàng sẽ phải thức tỉnh nếu ngay lúc đó, Maimoune không tăng thêm phù chú để chàng ngủ càng thêm li bì. Nàng lay nhiều lần như vậy, thấy chàng vẫn chưa tỉnh, nàng lẩm bẩm:
- Sao vậy! Có gì xảy ra với chàng chăng? Có kẻ tình địch ghen với hạnh phúc của hai chúng ta mà phải cầu cứu tới ma thuật chăng? Không thế thì sao lay mạnh thế mà vẫn chẳng tỉnh?
Nàng cầm lấy tay chàng âu yếm hôn và chợt nhìn thấy chiếc nhẫn ở ngón tay chàng. Sao giống nhẫn của mình vậy, nhưng sao ngón tay mình lại có một chiếc nhẫn khác. Nàng không hiểu làm sao lại có sự đổi chác này, nhưng lại đinh ninh đó là dấu hiệu của cuộc hôn nhân giữa mình và chàng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Muốn đánh thức chàng dậy nhưng thấy uổng công vô ích, vả lại chắc chắn là chàng chẳng thể nào lọt khỏi tay mình, nàng bảo với chàng: - Vì không sao đánh thức chàng dậy được - Nàng nói - Em cũng chẳng muốn làm giấc ngủ của chàng phải đứt quãng làm gì. Thôi, chúng ta gặp nhau sau vậy.
Rồi sau khi đặt một nụ hôn thắm thiết lên má chàng, nàng lại nằm xuống và chẳng mấy chốc lại ngủ tiếp.
Khi Maimoune thấy mình có thể cất tiếng nói mà không làm cho nàng công chúa Trung hoa thức giấc:
- Này! Hung thần chết tiệt kia - Nàng bảo Danhasch - Mi đã nhìn thấy rồi chứ? Mi có công nhận là công chúa của mi không tuyệt bằng hoàng tử của ta không? Thôi ta cũng xí xoá cho mi cái khoản đánh cuộc đó. Lần sau, khi ta đã nói sao thì hãy tin như thế nhé.
Rồi quay lại Caschcasch, nàng bảo:
- Còn ngươi, ta rất cảm ơn. Ngươi hãy cùng vớI Danhasch, xốc nàng công chúa lên và cùng đem nàng trả về giường nàng. Danhasch sẽ hướng dẫn ngươi.
Danhasch và Caschcasch chấp hành lệnh của nàng và Malmoune lại rút vào trong giếng.”
Trời sáng buộc hoàng hậu Scheherazade im tiếng. Hoàng đế Ấn Độ đứng lên và đêm tiếp, hoàng hậu kể cho Người nghe tiếp chuyện đó như sau:
                                                                           
                                                                                    Phần Sau  | Phần Kế Tiếp
                                                 Chương 19
                        HOÀNG-TỬ-CAMARALZAMAN
 
- Tâu bệ hạ - ScheherazaDe nói - Sáng hôm sau, hoàng tử Camaralzaman thức dậy, l1ếc nhìn sang bên cạnh mình xem cô nàng xinh đẹp thấy đêm hôm qua có còn đấy không. Khi không thấy ai cả, chàng nghĩ thầm: Ta đã biết mà, đúng là quốc vương cha ta muốn làm ta bị bất ngờ, may mà ta đã đề phòng .
Chàng định đánh thức tên hầu hãy còn đang ngủ, giục nó đi làm những việc thường ngày và chẳng nói gì vớI nó cả. Tên hầu mang chậu và nước tới. Chàng rửa mặt, lau người và sau khi cầu kinh, chàng cầm lấy một quyển sách và đọc một lúc.
Sau những việc làm thường ngày đó, Camaralzaman gọi tên nô lệ tới:
- Lại đây - Chàng bảo nó - Và cấm không được nói dối. Mày hãy nói cô nương ngủ cùng ta đêm qua đã tới đây bằng cách nào và ai đưa cô ấy tới?
- Thưa hoàng tử - Tên nô lệ hết sức ngạc nhiên đáp - Ngài muốn nói tới cô nương nào vậy?
- Người mà ta đã bảo mày rồi - Hoàng tử nói - Đã đến đây hoặc ai đó đưa tới đây đêm qua và đã nằm bên cạnh ta.
- Thưa hoàng tử - Tên hầu vẻ khổ sở - Con xin thề là chẳng biết một tí gì cả. Cô nương ấy có thể tới đây như thế nào? Con nằm ngay giữa cửa kia mà?
- Mày nói dối, tên vô lại kial - Hoàng tử la lên – Mày âm mưu để làm cho ta phiền não hơn và làm ta phát điên lên.
Nói xong, chàng cho nó một cái tát làm nó ngã ngửa, chàng đạp lên người nó và lấy sợi dây thừng cạnh giếng trói ghì cánh khuỷu nó lại, dòng nó xuống giếng, thả cho ngập đầu nhiều lần và bảo:
- Tao sẽ dìm mày chết đuối nếu mày không nói mau cô nương đó là ai và người nào đưa nàng đến.
Tên nô lệ lúng túng giận dữ, bị ngập nửa người dưới giếng tự nhủ thầm: Đúng là hoàng tử bị mất trí vì quá đau khổ, ta chỉ có thể thoát được bằng cách nói dối thôi .
- Thưa hoàng tử - Vừa khóc mếu hắn vừa nói – Xin hãy để cho con sống, con xin ngài. Con hứa sẽ nói thật.
Hoàng tử kéo nó lên. Vừa khỏi miệng giếng, hắn vừa run vừa nói:
- Thưa hoàng tử, ngài chắc thấy rõ là con làm sao mà bẩm rõ sự việc với ngài trong tình trạng như thế này. Xin hãy cho con đi thay quần áo đã.
- Được, ta cho phép. Đi thay quần áo mau lên mà nhớ là không được giấu ta một điều gì.
Tên nô lệ đi ra sau khi khép cánh cửa buồng hoàng tử. Cứ thế nó chạy thẳng vào hoàng cung. Quốc vương đang trò chuyện với tể tướng phàn nàn không sao ngủ được cả đêm qua vì sự bất tuân và thái độ điên khùng đáng lên án của hoàng tử con ông đã dám chống lại ý chỉ.
Viên quan đại thần này cố gắng an ủi và nói để quốc vương rõ là chính hoàng tử đã buộc Người phải làm như vậy.
- Tâu bệ hạ - Ông nói - Người chẳng nên hối tiếc là đã cho bắt giữ chàng. Cứ kiên nhẫn để chàng bị giam trong một thời gian, tin chắc là rồi đây chàng sẽ từ bỏ cái tính bồng bột của tuổi trẻ và sẽ trở lại ngoan ngoãn nghe theo tất cả những gì quốc vương đòi hỏi ở chàng.
Tể tướng vừa nói tới đó thì tên nô lệ chạy vào:
- Tâu bệ hạ - Hắn nói - Con lấy làm tiếc là phải tới tâu trình hoàng thượng một tin có thể làm Người rất không được vui. Hoàng tử nói là có một cô nương đêm qua đã nằm ngủ với chàng. Rồi hoàng tử làm con như thế này đây. Cái đó rõ ràng chứng tỏ là chàng thực sự mất trí rồi.
Rồi hắn kể lại - chi tiết tất cả những gì hoàng tử Camaralzaman đã nói và đã đối xử quá đáng với hắn như thế nào. Lời lẽ của hắn nghe chắc nịch.
Nhà vua không chờ đợi cái điều phiền muộn mới này, bảo tể tướng:
- Đó, lại thêm một sự kiện đáng buồn nhất, khác hẳn với niềm hy vọng mà nhà ngươi nói với ta vừa rồi. Đi đi, chớ để mất thì giờ nữa, nhà ngươi hãy đi xem sự thể ra sao rồi về báo ta rõ.
Tể tướng tuân lệnh ngay và khi đi vào buồng hoàng tử, ông thấy chàng ngồi rất yên lặng, sách cầm tay đang đọc. Ông chào chàng, ngồi xuống cạnh và bảo:
- Tôi muốn phạt nặng tên hầu của hoàng tử đã tới làm cho hoàng đế cha hoàng tử hoảng sợ vì một tin nó mang về.
- Đó là tin gì vậy - Hoàng tử hỏi- mà làm cho hoàng thượng sợ hãi. Tôi còn có chuyện quan trọng hơn nhiều để hỏi tội tên nô lệ của tôi kia.
- Hoàng tử ạ - Tể tướng nói - Cầu Thượng đế chứng giám cho điều nó nói mong được là sự thật! Trạng thái của hoàng tử mà tôi thấy đây thật chẳng có gì đáng phàn nàn và cầu mong là được như thế mãi. Và điều đó nói lên là không có gì nghiêm trọng cả.
- Có thể là - Hoàng tử nói - nó nói lại chưa đầy đủ những gì xảy ra đâu. Nhân tiện ông tới đây, tôi thấy thật dễ chịu được hỏi một người như ông có thể biết được ngọn ngành. Cái cô nàng đêm qụa đã ngủ cùng tôi, bây giờ ở đâu rồi?
Nghe hỏi thế tể tướng sững sờ, ngơ ngác:
- Thưa hoàng tử - Ông đáp - Xin ngài chớ ngạc nhiên thấy tôi sửng sốt vì câu hỏi của ngài. Liệu có thể thế được không, tôi chưa nói đến một người phụ nữ, mà ngay đến bất cứ một người đàn ông nào trên thế gian này cũng không thể trong ban đêm mà lọt được vào tới chốn này. Phòng chỉ duy nhất một cái cửa, muốn vào thì bắt buộc phải giẫm lên bụng tên nô lệ của ngài. Xin hoàng tử hãy tĩnh trí lại và ngài sẽ thấy là mình đã nằm mơ và giấc mơ đó đã để lại dấu ấn sắc nét trong đầu óc ngài.
- Tôi không muốn nghe ông nói linh tinh nữa – Hoàng tử cao giọng - Tôi muốn biết rõ cái cô nàng đó hiện nay ra sao và ta ở đây, trong một nơi mà ta biết làm mọi ngườI phải tuân lệnh ta.
Nghe lời lẽ cứng rắn này, tể tướng vô cùng bối rối không sao tả được. Ông nghĩ cách thoát ra thế nào cho thật êm. Bằng thái độ thật mềm mỏng, ông khúm núm hỏi hoàng tử xem chính chàng có trông thấy cô nương đó không.
- Có, có chứ - Hoàng tử vội đáp- Chính mắt ta đã nhìn thấy nàng và ta nhận rõ là chính ông đã bố trí để giương bẫy ta. Nàng cũng đã ,khéo léo đóng vai trò mà ông đã cắt đặt là không nói với ta một lời, là giả vờ ngủ say và rút ra ngay sau khi ta ngủ lại. Chắc là ông đã rõ rồi và chắc là nàng cũng chẳng quên kể lại tỉ mỉ với ông.
- Thưa hoàng tử - Tể tướng cãi - Tôi xin thề là tất cả những điều ngài vừa nói đều hoàn toàn không có. Quốc vương cha ngài và tôi không hề đưa cái cô nương mà ngài nói đó tới đây. Xin cho phép tôi được nói một lần nữa là ngài chỉ thấy cô nương đó trong giấc mơ mà thôi.
- Thì ra ông tới đây để giễu cợt ta phải không – Hoàng tử nổi giận nói to - Và lại còn dám nói thẳng vào mặt ta là những điều nói với ông là trong giấc mơ?
Chàng nắm ngay lấy râu tể tướng và giơ tay giơ chân đấm đá mãi cho đến khi mệt lử.
Vị tể tướng khốn khổ đành kiên nhẫn chịu cơn lôi đình của hoàng tử Camaralzaman. Thế là - Ông tự nhủ -ta cũng lại rơi vào hoàn cảnh như tên nô lệ. Thật rất may nếu ta cũng như nó được thoát khỏi cái tai vạ này . Giữa , trận đòn túi bụi, ông kêu lên:
- Hoàng tử ơi, hãy dừng tay một chút, tôi có điều muốn trình bày.
Hoàng tử đấm đá cũng đã mệt, dừng lại cho nói.
- Tôi xin thú thục - Tể tướng giả vờ nói - là cũng có cái gì đó trong những điều ngài nói. Nhưng chắc ngài cũng rõ là nhiệm vụ của một thượng thư là phải thi hành lệnh của hoàng đế, đó là điều tối cần thiết. Nếu được ngài rộng lòng cho phép, tôi sẵn sàng xin đi tâu trình lại với hoàng đế tất cả những gì ngài ra lệnh.
- Ta cho phép ông - Hoàng tử bảo - Đi đi, và tâu với Người là ta muốn cưới cô nương mà Người đã gửi đến hoặc dẫn đến cho ta và ta đã cùng nàng ngủ với nhau đêm qua làm vợ. Mau lên, đi đi và mang về ngay cho ta lời phúc đáp.
Tể tướng cúi đầu xuống thật thấp từ giã chàng và chỉ thấy thực sự thoát nạn khi đã ra bên ngoài tháp cổ và khép lại cánh cửa buồng của hoàng tử.
Tể tướng về bệ kiến Schahzaman với bộ mặt thiểu não làm cho nhà vua cũng thật phiền lòng.
- Thế nào - Quốc vương hỏi - Ngươi thấy tình trạng con ta ra sao?
- Tâu bệ hạ - Tể tướng đáp - Điều mà tên nô lệ tâu trình là hoàn toàn đúng.
Ông kể lại cuộc đối thoại của ông vôi hoàn tử Camaralzaman, sự nổi xung của hoàng tử khi ông bảo là không sao có thể có một cô nương nào đó đến ngủ vớI chàng được, sự đối xử tồi tệ của chàng với ông và sự khôn khéo của ông để thoát khỏi tay chàng.
Hoàng đế Schahzaman càng buồn nẫu ruột vì chuyện tể tướng kể vì ông rất mực yêu thương hoàng tử. Ông muốn tự mình làm rõ sự thật, nên kéo tể tướng đi theo cùng tới ngôi tháp cổ .
- Nhưng, tâu bệ hạ - Đến đây hoàng hậu Scheherazade ngừng lại - Trời đã bắt đầu sáng rõ.
Đêm sau kể tiếp, nàng nói với hoàng Đế Ân Độ:

***

- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman nghênh đón vua cha trong ngôi tháp cổ mà chàng đang bị giam cầm đầy vẻ kính trọng. Nhà vua ngồi và sau khi bảo hoàng tử ngồi xuống cạnh mình, ông hỏi con hết câu nọ đến câu kia được hoàng tử trả lời rất cung kính và khôn ngoan. Thỉnh thoảng ông lại nhìn sang tể tướng như ý muốn nói là mình chẳng thấy có gì là loạn trí ở hoàng tử như tể tướng trình bày cả mà chính tể tướng bị loạn trí thì đúng hơn.
Cuối cùng nhà vua nói với hoàng tử về cái cô nương đó:
- Con trai của ta, con hãy nói cho cha rõ cái cô nàng đã ngủ với con đêm hôm đó như người ta nói là ai vậy?
- Tâu phụ hoàng - Camaralzaman đáp - Con khẩn khoản xin Người đừng làm con buồn rầu thêm nữa về vấn đề mà người ta đã làm cho con khổ quá rồi. Xin Người hãy cho con cưới nàng làm vợ. Sự chán ghét đàn bà mà con đã tỏ với cha từ trước tới nay đã tiêu tan trước cái sắc đẹp trẻ trung đã làm con say đắm. Không khó khăn gì mà con xin thú thực với cha sự yếu đuối của mình. Con sẵn sàng đón nhận nàng từ tay cha với lòng biết ơn vô hạn.
Vua Schahzaman sửng sốt vì câu trả lời của hoàng tử mà ông thấy không còn tỉnh táo khôn ngoan như những lờI chàng nói trước đó.
- Con ơi! - Ông nói - Những lời con nói đã làm cha hết sức ngạc nhiên. Cha xin thề nhân danh ngôi báu mà cha sẽ truyền cho con là cha không biết một chút gì về cái cô nương mà con nói. Cha không tham dự vào việc này nếu quả thật là có người đã tới. Mà làm sao cô ta có thể vào đây được nếu không được sự đồng ý của cha. Dù là tể tướng có nói gì về chuyện đó thì chẳng qua cũng chỉ để làm cho con dịu cơn giận dữ đi thôi. Có thể đó chỉ là một giấc chiêm bao, con nên cẩn thận và tĩnh trí lại đi.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử nói - Con sẽ mãi mãi không xứng đáng với biết bao từ tâm của cha nếu không tin vào những gì cha vừa nói. Nhưng xin Người hãy kiên nhẫn nghe và xét xem những gì con được bầy tỏ với Người sau đây có phải là một giấc chiêm bao không.
Thế rồi hoàng tử Camaralzaman kể lại cho vua cha nghe chàng đã thức dậy như thế nào. Chàng cũng có nới thêm lên một chút về vẻ yêu kiều quyến rũ của cô gái chàng thấy nằm bên cạnh, tình yêu chàng thấy bột khỏi lúc đó và tất cả sự cố gắng vô ích của chàng để đánh thức nàng dậy. Chàng cũng không giấu vua cha điều gì đã khiến chàng thức dậy và ngủ lại sau khi đã trao đổi nhẫn cho nhau. Và khi kết thúc câu chuyện, chàng rút chiếc nhẫn từ ngón tay và đưa cho vua cha.
- Tâu phụ vương - Chàng nói - Nhẫn của con chắc cha chẳng lạ gì vì Người đã nhìn thấy nhiều lần. Sau tất cả những cái đó, con hy vọng là Người sẽ không cho con là mất trí như người ta đã làm cho Người tin như vậy.
Vua Schahzaman thấy những điều mà hoàng tử con ông vừa trình bày là sự thật nên ông chẳng biết nói sao cả. Sự kinh ngạc của ông quá lớn làm ông lặn người đi hồi lâu.
Hoàng tử lợi dụng giây phút đó, tâu thêm:
- Tâu phụ hoàng, tình yêu say đắm mà con cảm thấy với cô nương kiều diễm đó mà con còn lưu giữ hình ảnh quí báu trong tim, đã mãnh liệt tới mức con không sao mà cưỡng lại được nữa. Xin Người rủ lòng thương ban cho con cái hạnh phúc được có nàng.
- Con ạ. Sau khi nghe con trình bày, và sau lúc cha được thấy chiếc nhẫn đó - Vua Schahzaman nói - thì cha không còn nghi ngờ gì về mối tình say đắm của con là không có thật và mối tình đó đã được nảy nở do cô gái mà con thấy. Cầu mong Thượng đế cho tôi được biết nàng, cái cô nương đó. Con sẽ được thoả lòng từ lúc này, và ta sẽ là người cha hạnh phúc nhất thế gian. Nhưng tìm nàng ta ở đâu bây giờ? Làm sao và bằng lối nào mà nàng ta vào được đây mà ta không biết gì, mà không có sự đồng ý của ta? Vì sao nàng ta lại vào đây chỉ để nằm cạnh con, để cho con nhìn sắc đẹp và vẻ mĩ miều của nàng ta và khêu gợi tình yêu của con trong khi nàng ngủ và khi con ngủ thì nàng lại biến đi? Cha không làm sao mà hiểu được cái chuyện rắc rối này. Con ạ, nếu trời đất mà không phù hộ thì nàng đã đẩy chúng ta, cả con và cha xuơng mồ rồi.
Nói xong, ông cầm lấy tay hoàng tử bảo:
- Lại đây, để hai cha con ta cùng buồn khổ với nhau, con thì trong một tình yêu vô vọng còn cha thì vì nhìn thấy con sầu khổ mà vô kế khả thi.
Vua Schahzaman kéo hoàng tử ra khỏi toà tháp cổ đưa về hoàng cung mà ở đây với mối tình tuyệt vọng vì yêu tha thiết một cô nương xa lạ vô danh, chàng phát ốm liệt giường. Nhà vua đóng chặt ngự phòng cùng với con than thở nhiều ngày chẳng ngó ngàng gì đến việc nước.
Tể tướng là người duy nhất được ra vào tự do, một hôm tới bệ kiến để tâu với nhà vua là tất cả triều thần cũng như dân chúng bắt đầu xì xào về việc không thấy vua xuất hiện hàng ngày để xử lý việc quốc gia như thường lệ, ông nói sẽ không chịu trách nhiệm về những lộn xộn có thể xảy ra.
- Xin bệ hạ hãy lưu tâm - Ông nói- Tôi biết rõ ràng là sự có mặt của bệ hạ làm cho hoàng tử đỡ đau khổ và ngược lại sự có mặt của hoàng tử cũng làm cho bệ hạ đỡ buồn phiền, nhưng xin bệ hạ cần phải nghĩ đến việc làm sao cho tất cả không bị đổ vỡ. Xin bệ hạ hãy nghe theo lời tôi cùng hoàng tử chuyển sang lâu đài tại hòn đảo nhỏ, chẳng xa cung điện là bao và chỉ cần thiết triều mỗi tuần hai buổi. Trong khi vì công việc mà Người phải xa hoàng tử thì phong cảnh đẹp, không khí tốt lành và cảnh quan kỳ diệu của hòn đảo sẽ làm cho hoàng tử khuây khoả và dễ dàng chịu đựng được sự vắng mặt ngắn ngủi của Người.
Vua Schahzaman tán thành lời khuyên đó và khi cung điện trên đảo, mà đã lâu ông không lui tới, được bài trí chu đáo, ông cùng hoàng tử chuyển tới đó và chỉ xa chàng mỗi tuần hai lần để thiết triều thôi. Còn hàng ngày thường thường ông qua thời gian bên cạnh chàng để, lúc thì dùng lời nhẹ nhàng an ủi, lúc thì cùng chia nỗi u buồn với chàng.
                                                                                       Phần Sau  | Phần Kế Tiếp

                                          Chương 20
                   NÀNG-CÔNG-CHÚA-TRUNG-HOA
 
Trong khi những chuyện trên xảy ra tại kinh đô của Vua Schahzaman, thì hai vị thần Danhasch và Caschcasch mang công chúa Trung Hoa đặt lại vào giường trong lâu đài mà nhà vua Trung Hoa đã giam nàng.
Sáng hôm sau thức dậy, công chúa Trung Hoa quay sang phải, quay sang trái và khi không nhìn thấy hoàng tử Camaraìzaman bên cạnh, nàng cất tiếng thất thanh gọI các nô tì làm cho chúng vội vàng chạy lại xúm quanh giường nàng. Bà vú nuôi đứng phía đầu giường hỏi nàng cần gì và có gì xảy ra với nàng.
- Hãy nói cho ta biết - Công chúa bảo - Chàng trai mà ta hết lòng yêu thương, đã nằm cạnh ta đêm qua, bây giờ ra sao rồi?
- Thưa công chúa - Bà vú đáp - Chúng tôi chẳng hiểu công chúa nói gì cả. Nàng nói rõ ra xem sao.
- Đó là - Công chúa nói - Một chàng trai khôi ngô tuấn tú và vô cùng đáng yêu, nằm ngủ bên cạnh ta đêm qua mà ta đã vuốt ve chàng đã lâu và làm mọi cách để cho chàng tỉnh dậy, nhưng không kết quả - Ta muốn hỏi các người là chàng đâu rồi.
- Thưa công chúa - Bà vú lại nói - Chắc là nàng muốn đùa cợt với chúng tôi chăng. Mời công chúa dậy đi thôi.
- Ta nói rất nghiêm chỉnh đấy - Công chúa cãi - Và ta muốn biết lúc này chàng ở đâu.
- Nhưng mà, thưa công chúa - Bà vú nhấn mạnh - Công chúa chỉ có một mình khi chúng tôi đưa nàng đi ngủ tối hôm qua và chẳng có ai vào ngủ cùng với công chúa cả. Chúng tôi biết rõ như thế mà.
Công chúa Trung Hoa không dằn mình được nữa. Nàng túm lấy tóc bà vú, vừa tát vừa đấm:
- Mi sẽ phải nói, đồ phù thuỷ già, nếu không ta sẽ đánh chết mi.
Bà vú nuôi cố sức giằng co để thoát khỏi bàn tay của công chúa và một mạch chạy về cung hoàng hậu, mẹ đẻ ra công chúa. Bà mang bộ mặt sưng vù đầm đìa nước mắt bệ kiến hoàng hậu: Hoàng hậu vô cùng kinh ngạc hỏi ai đã đã làm cho vú trong tình trạng tả tơi như vậy.
- Bẩm hoàng hậu. Bà vú tâu - Xin lệnh bà hãy xem công chúa đối xử với tôi như thế này đây. Nàng có lẽ đánh tôi chết nếu tôi không giằng ra trốn thoát.
Rồi bà kể hết đầu đuôi chuyện vì sao mà công chúa nổi trận lôi đình. Hoàng hậu nghe mà thấy vừa ngạc nhiên vừa buồn bã:
- Lệnh bà thấy đó - Bà vú nuôi nói thêm - Công chúa đúng là đã hoàn toàn mất trí rồi. Lệnh bà có thể thấy rõ nếu người bớt chút thời giờ tới thăm nàng.
Hoàng hậu Trung Hoa rất quan tâm tới câu chuyện vừa nghe vì bà rất yêu thương con gái. Bà bắt người vú nuôi phải dẫn bà tới ngay chỗ công chúa.
Hoàng hậu Scheherazade muốn kể tiếp nhưng thấy trời đã bắt đầu sáng. Nàng im tiếng và đêm sau nàng nói với hoàng Đế Ấn Độ:

***

“- Tâu bệ hạ, hoàng hậu Trung Hoa tới cung điện nơi công chúa đang bị cấm cung, ngồi xuống bên cạnh con gái và sau khi hỏi thăm sức khoẻ, bà hỏi nàng nguyên nhân vì sao mà giận dữ đánh đập bà vú nuôi:
- Con gái ạ - Bà bảo - Như thế là không tốt đâu. Công chúa của một quốc gia lớn như con thì không được để cho những gì là thái quá lôi cuốn.
- Thưa mẫu hậu - Công chúa nói- Con thấy rõ là Người cũng tới đây để trêu cợt con. Nhưng con xin nói để cho mẫu hậu rõ là con sẽ chẳng thấy thanh thản chừng nào mà con không được kết hôn cùng chàng hiệp sĩ đáng yêu đã cùng nằm với con đêm qua. Chắc mẫu hậu phải biết rõ là chàng ở đâu. Con xin người cho chàng trở lại đây.
- Con gái ới - Hoàng hậu nói - Con làm ta ngạc nhiên. Ta chẳng hiểu là con nói gì cả.
Công chúa chẳng còn giữ lễ độ gì nữa.
- Thưa lệnh bà - Nàng nói - Đức vua cha con và lệnh bà mẹ của con, đã hành tội con để con lấy chồng khi con không muốn. Bây giờ ý muốn đó đã đến, và con nhất định người chồng của con phải là chàng hiệp sĩ mà con đã nói với mẹ, nếu không con sẽ tự sát.
Hoàng hậu nhẹ nhàng bảo con:
- Con gái của mẹ, con cũng biết rất rõ là chỉ có một mình con ở đây và không có bất cứ một người nam giới nào vào đây được
Nhưng, đáng lẽ lắng nghe thì công chúa lại ngắt lời bà và vùng vằng làm những cử chỉ giận dỗi khiến hoàng hậu phải buồn rầu rút lui trở về nói hết mọi chuyện với quốc vương.
Vua Trung Quốc muốn tự mình nắm rõ sự thật nên tới ngay nơi ở của công chúa hỏi nàng phải chăng những chuyện ông vừa được biết là đúng sự thật.
- Tâu bệ hạ - Công chúa nói - Chỉ xin Người gia ân trả lại cho con người chồng đã nằm cạnh con đêm hôm trước.
- Sao? Con gái của cha - Nhà vua sửng sốt - Có người nào đó đã ngủ cùng với con đêm qua ư?
- Thế là thế nào, tâu bệ hạ - Công chúa không để cho nhà vua nói tiếp - Người hỏi phải chăng có người nào đó đã nằm ngủ với con ư! Chính Người đã biết rõ mà. Đó là chàng hiệp sĩ điển trai nhất dưới bầu trời này. Xin cha hãy trả chàng lại cho con, xin cha đừng từ chối. Để phụ hoàng tin - Nàng tiếp - Là con đã thấy chàng hiệp sĩ đó, là chàng đã cùng nằm với con, là con đã vuốt ve âu yếm chàng, là con đã cố gắng làm cho chàng thức dậy mà không được, thì xin cha hãy nhìn chiếc nhẫn này.
Công chúa giơ bàn tay ra và hoàng đế Trung Quốc không biết nói sao khi nhìn chiếc nhẫn và nhận ra đó là nhẫn đàn ông. Nhưng vì ông không sao hiểu được tất cả những gì nàng trình bày và ông đã nhốt nàng lại vì cho là nàng bị điên thì lúc này ông lại càng tin là nàng điên rồ.Vì vậy, không nói gì thêm nữa sợ nàng làm chuyện gì hung hăng với mình và với tất cả những ai tới gần, ông cho trói nàng thật chặt và chỉ cho bà vú nuôi được tới gần chăm sóc và cửa buồng được canh gác nghiêm ngặt.
Hoàng đế Trung Quốc hết sức đau buồn về nỗi bất hạnh của công chúa mà ông tưởng bị loạn trí nặng nề. Ông nghĩ mọi cách để chữa trị cho nàng. Ông cho triệu tập các triều thần và sau không nói rõ tình trạng bệnh tật của công chúa, ông tuyên bố.
- Nếu có người nào dó trong các khanh thành thạo nhận chữa bệnh cho công chúa và làm cho nàng khỏi bệnh, ta sẽ gả cho làm vợ và sẽ là người thừa kế ngôi báu, nốI ngôi sau khi ta chết.
Khát khao được lấy một công chúa xinh đẹp và hi vọng được trị vì một quốc gia hùng mạnh như đất nước Trung Hoa đã tác động lớn đến đầu óc một viên quan đã luống tuổi có mặt lúc đó. Vì ông ta là một pháp sư có bản lĩnh cao cường, ông ta cho mình là có thể thành công nên liền tới nhà vua xin chữa.
- Ta chấp nhận - Nhà vua nói - Nhưng ta muốn cảnh báo trước là ta sẽ cho chặt đầu nếu nhà ngươi thất bại trong việc chạy chữa. Thật là không công bằng nếu nhà ngươi được một phần thưởng lớn như vậy nếu thành công mà không phải chỉu sự rủi ro mất mát gì về phía nhà người khi thất bại. Điều ta nói với nhà ngươi cũng là điều ta muốn nói với tất cả những ai tự nguyện sau nhà ngươi, trong trường hợp ngươi không nhận điều kiện như vậy tức là nhà ngươi không thành công.
Viên quan chấp nhận điều kiện và nhà vua tự dẫn y đến nơi công chúa. Công chún che mặt khi nhìn thấy tên quan.
Tâu phụ vương - Nàng bảo cha- Sao Người lại bất ngờ đưa tới đây một người đàn ông mà con không quen biết và đạo giáo cấm con không được nhìn.
- Con gái ơi? - Nhà vua nói - Con chớ nên bất bình về sự có mặt của người này. Đó là một trong các đại thần trong triều muốn cầu hôn con.
Tâu phụ vương - Công chúa nói- Đó không phải là người mà cha đã gả cho con mà con đã nhận làm của tin chiếc nhẫn con đang mang đây: Mong cha sẽ cho là không tốt khi con lại nhận lời một người khác.
Viên quan chờ đợi là công chúa sẽ nói và làm những chuyện điên rồ. Y rất ngạc nhiên thấy nàng bình thản và nói năng đúng mực như vậy và y biết rất rõ là nàng chẳng điên rồ một chút nào ngoài một tình yêu mãnh liệt đã được hình thành rất có căn cứ. Y không dám tự tiện trình bày với nhà vua. Hẳn là quốc vương không sao chịu được việc công chúa yêu một người không phải là người ông muốn cho con làm chồng. Y phủ phục xuống chân vua:
Tâu bệ hạ - Y nói - Sau những gì thần đã nghe được thì việc chữa chạy cho công chúa hoàn toàn vô ích. Thần chẳng có thứ thuốc nào trị được bệnh đó và tính mệnh của thần xin tuỳ theo ý bệ hạ.
Nhà vua bực mình về sự bất lực của viên đại thần và viên quan này đã gây phiền muộn cho mình nên đã cho chặt đầu y.
Ít ngày sau đó, để khỏi bị trách cứ là không quan tâm đầy đủ tìm mọi cách trị bệnh cho công chúa, nhà vua cho ban bố khắp thành là nếu có một thầy lang, một nhà chiêm tính, một pháp sư nào đó có nhiều kinh nghiệm chữa được bệnh mất trí cho công chúa thì cứ tới xin bệ kiến, với điều kiện là mất đầu nếu không chữa khỏi. Ông còn cho ban bố cũng vấn đề này trong tất cả các thành phố chính trong nước và ở tất cả các triều đình các quốc gia lân cận Người tới đầu tiên là một nhà chiêm tinh kiêm pháp sư. Vua cho một hoạn nô dẫn tới nơi công chúa bị cấm cung. Nhà chiêm tinh rút ra từ trong túi mang theo một cái ống dùng để xem sao, một quả cầu nhỏ, một bếp lò, nhiều loại thuốc xông, một cái lọ đồng và nhiều vật dụng khác. Ông ta đòi mang lửa đến.
Công chúa Trung Hoa hỏi tất cả những dụng cụ ấy có nghĩa gì?
- Thưa công chúa - Pháp sư đáp - Đó là để bắt ma quái nó đang ám công chúa, đem nó mang nhất vào cái lọ này và ném nó xuống đáy biển.
- Cái tên chiêm tinh chết tiệt này! - Công chúa kêu lên -Mi nên biết rằng ta chẳng cần gì đến những thứ đó, rằng ta rất tỉnh táo minh mẫn và chính mi mới là tên loạn trí.
Nếu mi thực sự có bản lĩnh thì hãy dẫn người ta yêu đến đây với ta, đó là điều tốt nhất mà mi có thể phục vụ ta đấy.
- Thưa công chúa - Nhà chiêm tinh nói - Nếu là như vậy, thì không phải ở tôi mà là nàng phải chờ đợi ở hoàng đế cha nàng.
Y cho lại vào túi tất cả những gì vừa lôi ra, bực mình vì đã nhẹ dạ nhận đi chữa một căn bệnh tưởng tượng.
Khi hoạn nô dẫn nhà chiêm tinh trở lại trước hoàng đế Trung Hoa, nhà chiêm tinh không đợi hoạn nô tâu trình, tự mình mạnh dạn phát biểu:
Tâu bệ hạ, theo như lời bệ hạ bố cáo và tự Người khẳng định, tôi đinh ninh là công chúa điên rồ do đó chắc chắn là với những bí quyết trong tay, tôi có thể đưa được nàng trở lại người có thần kinh lành mạnh. Nhưng chẳng lâu la gì mà tôi phát hiện ra ngoài bệnh si tình ra thì nàng không mắc bệnh gì khác, và nghệ thuật của tôi chưa đạt tới lĩnh vực điều trị được bệnh tương tư. Chính hoàng thượng có ưu thế hơn cả mọi người có thể chữa ngay bệnh cho công chúa bằng cách hãy cho nàng kết hôn với ngườI chồng mà nàng đòi hỏi.
Nhà vua cho nhà chiêm tinh này là hỗn xược và xử tội chết. Để không làm cho bệ hạ nhàm chán vì những sự việc trùng lặp thiếp xin nói ngay là sau đó còn có tới năm chục chiêm tinh gia, thầy thuốc và pháp sư cùng bị chung số phận. Đầu của họ được treo trước cổng thành.
 
                                                                                     Phần Sau  | Phần Kế Tiếp









Nghìn Lẻ Một Đêm 41-46












                                                                     




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]

nhathongnguyen.blogspot 9.8 su10 nhathongnguyen.blogspot 90286 student

Receive All Updates Via Twitter