Chương 41
HOÀNG TỬ ADMED VÀ NÀNG TIÊN PARI-BANOU (TT)
Pari-Banou càng phấn khởi vì
những tình cảm của hoàng tử, không còn nghi ngờ việc chàng vội vã về thăm cha
là một lý do đặc biệt để chối bỏ lòng tin chàng đã hứa. Nàng nói:
- Hoàng tử, chàng cứ đi khi nào chàng muốn nhưng trước hết, đừng phiền lòng vì vài lời thiếp dặn chàng về chuyến đi. Đầu tiên thiếp nghĩ chưa đến lúc nói với vua cha về cuộc hôn nhân của chúng ta, về sự khác thường của thiếp và chỗ chàng ở từ khi xa Người. Mong chàng chỉ nói được sung sướng, không mong muốn gì hơn và lý do duy nhất trở về là để Người khỏi lo lắng về số phận của chàng.
Để cùng đi, nàng cho hai mươi kỵ sĩ trang bị tất hộ tống chàng. Khi mọi việc đã sẵn sàng, hoàng tử Ahmed ôm hôn từ biệt nàng tiên, nhắc lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại. Người ta dắt con ngựa nàng đã cho chuẩn bị sẵn cho chàng; ngoài việc trang bị yên cương sang trọng, con ngựa cũng đẹp và đắt giá nhất so với bất cứ con ngựa nào trong chuồng của nhà vua. Chàng duyên dáng lên ngự a trước sự rất vui về của nàng tiên và ra đi sau khi chào từ biệt lần cuối.
Đường về hoàng cung không xa, hoàng tử không phải đi lâu. Vào đến kinh thành, dân chúng vui mừng gặp lại chàng, hoan nghênh nhiệt liệt, phần lớn bỏ công việc tụ tập thành đám đông hộ tống chàng về đến cung vua. Nhà vua rất vui mừng ôm hôn chàng, tuy hơi than phiền về nỗi buồn vắng mặt chàng lâu ngày. Ngài nói thêm:
- Sự vắng mặt càng làm ta đau lòng sau sự thiệt thòi của con về lợi thế của hoàng tử Ali, anh con, ta sợ con có một hành động tuyệt vọng nào đấy.
- Thưa phụ hoàng, Người cho rằng sau khi mất Nourounnlhar đối tượng mong mỏi độc nhất của con, con có thể chứng kiến hạnh phúc của Ali anh con sao? Nếu con có thể lì lợm như thế, ở triều đình, trong thành phố và cả bệ hạ nữa sẽ nghĩ về mối tình của con như thế nào? Tình yêu là một sự say mê người ta không rời bỏ được dù muốn; nó chế ngự, làm chủ và không để người tình có lý trí. Bệ hạ biết khi bắn mũi tên, một điều kỳ lạ đã xảy ra với con tuy bãi đua ngựa rộng rãi và bằng phẳng đến thế mà không tìm được mũi tên làm con mất đi lý do về sự công bằng đối với con và các anh. Thất bại trong số phận nhưng con không mất thì giờ phàn nàn vô ích. Để thoả mãn nỗi băn khoăn về mũi tên phiêu lưu đó, con lén mọi người một mình trở lại chỗ cũ tìm nó. Kiếm mãi quanh quẩn chỗ nhặt được tên của các anh không được con đi mãi gần như theo đường thẳng, hình dung ra nơi mũi tên có thể rơi. Đã đi hơn một dặm, mắt vẫn nhìn các bên, thỉnh thoảng con lại quay lại tìm một vật gì đó như mũi tên, rồi lại suy nghĩ nó không thể bắn ra xa như vậy. Con dừng lại tự nhủ có mất trí không khi cho rằng mình đủ sức bắn một mũi tên đi xa đến thế khi mà không một anh hùng thời cổ nào và những người nổi tiếng về sức mạnh đương thời cũng chưa bao giờ vươn tới. Con ngẫm nghĩ như thế và suýt bỏ việc mình đang làm nhưng rồi con cảm thấy bị lôi kéo đi dù không muốn. Con đi đến bốn dặm tới cuối bãi bằng có những tảng núi đá thì thấy mũi tên con bắn nhưng cả chỗ rơi lẫn thời gian đều không hợp lý. Như vậy thay vì nghĩ bệ hạ bất công đối với con khi tuyên bố công chúa thuộc về hoàng tử Ali, con cho rằng việc xảy ra đối với con là một điều bí mật có lợi cho con, con cần phải làm sáng tỏ và con đã biết rõ bí mật đó không quá xa chỗ ấy. Nhưng đây lại là một bí mật khác mà con khẩn cầu bệ hạ đừng cho con là xấu vì con không nói ra, chỉ xin Người bằng lòng được biết con sung sướng và thoả mãn với hạnh phúc của mình. Sống giữa niềm hạnh phúc đó chỉ một điều làm con băn khoăn là lo bệ hạ không yên tâm về số phận của con từ khi con mất tích, xa triều đình. Con thấy con có nhiệm vụ phải về để bây giờ yên lòng. Đây là mục đích đưa con về. Ân huệ độc nhất con xin Người ban cho là thỉnh thoảng cho con trở về tôn kính Người và biết tình hình sức khoẻ của Người.
- Con trai ta - Nhà vua nói - ta không thể từ chối lời cầu xin của con, ta những muốn con quyết định ở lại bên ta thì hơn. Ít nhất con cho ta biết hỏi tin tức về con ở chỗ nào những lúc con không đến được hoặc khi cần phải có mặt con.
- Thưa phụ hoàng - Hoàng tử Ahmed lại nói - điều Người hỏi là một phần trong điều bi1 mật con đã nói. Con khẩn cầu Người cũng cho con im lặng về điểm ấy, con sẽ trở về luôn, thà bất chợt còn hơn để Người trách con lơ là khi con cần có mặt.
Vua Ấn Độ không ép hoàng tử về việc ấy nữa. Ông nói:
- Con trai, ta không muốn đi sâu hơn về điều bí mật của con, để con hoàn toàn làm chủ mình. Con về đây đã đưa lại cho ta một niềm vui lớn đã tê lâu không cảm nhận được. Con sẽ được hoan nghênh tất cả những lần con có thể đến mà không tổn hại đến công việc hoặc những vui thú của con.
Hoàng tử Ahmed chỉ ở lại triều đình nhà vua ba ngày, ngày thứ tư chàng ra đi sớm và nàng tiên Pari- Banou gặp lại chàng thật vui mừng. Nàng không nghĩ chàng trở lại sớm thế và sự nhanh chóng đó làm nàng tự dằn vặt đã nghi ngờ chàng thiếu chung thuỷ. Nàng không giấu giếm hoàng tử, thú nhận sự yếu đuối của mình và xin lỗi chàng. Hai người càng gắn bó với nhau thắm thiết hơn, người này muốn gì, người kia cũng muốn thế.
Hoàng tử trở lại đã một tháng, nàng tiên Pari-Banou nhận thấy sau khi kể lại chuyến đi, câu chuyện với vua cha và xin phép thỉnh thoảng về thăm, chàng không nói gì về nhà vua nữa. Đoán chắc vì dè chừng đối với nàng nên một hôm nàng bảo chàng:
- Hoàng tử, chàng lãng quên vua cha rồi chăng? Không nhớ lời hứa thỉnh thoảng đến thăm Người ư? Thiếp vẫn nhớ điều chàng kể lại hôm trở lại đây nên nhắc chàng đừng để quá lâu chưa thực hiện lời hứa lần trước.
- Nàng ơi - Hoàng tử Ahmed nói với giọng vui vẻ như nàng tiên - ta không quên lời hứa đâu, thà chịu lời trách của nàng vừa rồi còn hơn bị từ chối vì vội vã làm nàng phiền lòng phải chấp nhận.
- Hoàng tử, thiếp không muốn chàng giữ kẽ như thế đối với thiếp hơn nữa. Để việc tương tự không lặp lại, đã một tháng nay chàng không gặp vua chà, thiếp nghĩ chàng không nên để đợt thăm viếng cách nhau trên một tháng. Ngày mai chàng đi thăm vua cha đi và hàng tháng chàng cứ tiếp tục đi thăm như vậy, không cần phải nói với thiếp hoặc chờ thiếp nói, thiếp sẵn sàng chấp nhận điều ấy.
Hôm sau hoàng tử ra đi cùng đoàn tuỳ tùng lần trước nhưng nhanh gọn hơn, bản thân chàng cũng trang bị đẹp hơn, được vua cha tiếp đón vui vẻ, hài lòng như lần trước. Trong nhiều tháng chàng về thăm vua cha như vậy, bao giờ cũng với đoàn người ngựa sang trọng, rực rỡ hơn.
Cuối cùng một số cận thần của nhà vua xét theo quyền lực của hoàng tử Ahmed qua những trang bị bề ngoài, lợi dụng nhà vua để cho tự do nói, đã làm nảy sinh những ngờ vực về chàng trong lòng ngài. Họ nói ngài cần khôn khéo, phải biết rõ chỗ ở của hoàng tử, chàng dựa vào đâu để chi phí lớn thế trong lúc không có đất phong và lợi tức ổn định, hình như chàng về triều chỉ để thách thức vua cha, tỏ ra không cần ngài chu cấp cho một cuộc sống xứng với hoàng tử và cuối cùng đáng sợ là có thể chàng sẽ xúi giục dân chúng nổi dậy cướp ngôi vua.
Vua Ấn Độ không hề nghĩ hoàng tử Alimed có thể có một âm mưu nguy hại như các cận thần muốn làm ngài tin. Ngài nói với họ:
- Các khanh đùa đấy chứ, con trai ta, thương yêu ta, ta tin chắc vào sự trìu mến và trung thành của chàng nên ta không nhớ đã có điều gì đó làm chàng bất bình về ta không.
Nghe vua nói vậy, một cận thần thừa dịp tâu lên:
- Thưa bệ hạ tuy Người đã suy xét một cách hợp lý nhất để các hoàng tử cùng thoả thuận về đám cưới của công chúa Nourounnihar nào ai biết hoàng tử Ahmed có chấp nhận số phận như hoàng tử Houssain không? Chàng có thể hình dung chỉ mình xứng đáng được hưởng những bệ hạ đáng lẽ ưu tiên cho chàng lại để vấn đề cho số phận quyết định nên chàng chịu bất công.
Ông cận thần ranh mãnh nói thêm:
- Bệ hạ có thể cho rằng hoàng tử Ahmed không thể hiện một sự bất bình nào, nỗl lo sợ của chúng thần là vô ích, chúng thần đã dễ hốt hoảng và gợi ra ở bệ hạ những nghi ngờ về hoàng tử con trai Người là sai và có lẽ không có cơ sở Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể những nghi ngờ ấy có chỗ dựa chắc chắn đấy. Bệ hạ cũng rõ trong một vấn đề tế nhị và quan trọng như vậy phải dựa vào điều chắc chắn nhất. Việc hoàng tử giấu giếm có thể đánh lừa Người và mối nguy cơ còn đáng sợ hơn vì hình như hoàng tử Ahmed ở không xa kinh thành. Thực thế, nếu Người để ý như chúng thần, Người thấy sẽ ngay những lần chàng đến,chàng và tuỳ tùng đều tươi tắn, quần áo của họ, vải phủ ngựa cùng những đồ trang sức ánh lên như vừa trong xưởng làm mới ra. Ngựa cũng không có vẻ vất vả hơn một cuộc đi dạo. Những dấu hiệu hoàng tử Ahmed ngay bên cạnh thật rõ ràng, chúng thần nghĩ nếu không trình với bệ hạ thì chúng thần đã thiếu sót về trách nhiệm bảo vệ Người và quyền lực quốc gia, xin bệ hạ xét xem nếu thấy phù hợp.
Khi viên đại thần kết thúc lời nói dài dòng của mình, nhà vua nói để cắt đứt cuộc trao đổi:
- Dù thế nào ta cũng không nghĩ con trai Ahmed của ta độc địa như các khanh thuyết phục ta. Ta cám ơn những lời khuyên của các khanh, chắc chắn với ý định tốt.
Nhà vua nói như vậy với các cận thần, không để họ biết lời nói của họ có tác động đến tâm trí ngài. Nhà vua cũng không hoảng hốt và quyết định theo dõi hoàng tử Ahmed mà không nói vội tể tướng. Ngài cho gọi mụ phù thuỷ, mụ được đưa vào phòng ngài theo một cánh cửa bí mật. Nhà vua nói:
- Ngươi đã nói đúng khi khẳng định con trai Ahmed của ta không chết và ta chịu ơn ngươi, bây giờ ngươi hãy tạo cho ta một niềm vui khác. Từ khi gặp lại, hoàng tử hàng tháng vẫn đến thăm ta nhưng không nói hiện ở đâu mà ta cũng không muốn buộc chàng phải nói điều bí mật ấy. Ta biết ngươi khá khôn ngoan để thoả mãn sự tò mò của ta mà chàng hay bất cứ một ai trong triều đình cũng không hay biết. Ngươi biết chàng đang ở đây, thường ra về không chào từ biệt ta hoặc một người nào trong triều, ngươi đừng để mất thì giờ ngay hôm nay đón đường hoàng tử xem chàng về đâu và cho ta biết kết quả.
Ra khỏi hoàng cung, mụ phù thuỷ đến ngay chỗ hoàng tử đã tìm thấy mũi tên, giấu mình trong những tảng đá để không ai thấy mình.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed ra đi từ bình minh, theo thói quen không chào từ biệt vua cha hoặc đại thần nào. Mụ phù thuỷ thấy chàng đi tới, nhìn theo mãi cho đến khi chàng và tuỳ tùng đi khuất.
Thấy những tảng đá hình thành một hàng rào chắn những người trần, người hay ngựa đều không vào được vì dốc đứng, mụ phù thuỷ phán đoán chắc hoàng tử vào trong hang hoặc một căn hầm ngẩm mà các thần tiên xây dựng thành chỗ ở. Nghĩ thế khi thấy hoàng tử và tuỳ tùng mất hút, mụ rời khỏi chỗ nấp đi thẳng lại đoạn hõm họ đi vào, bước đến tận chỗ chia la thành ngõ ngách, nhìn tứ phía, đi đi lại lại nhiều lần. Mặc dù nhanh nhẹn, mụ không thấy có lối nào vào hang, cả cánh cửa sắt hoàng tử thấy trước đây cũng không có. Chính vì cánh cửa ấy chỉ những người đàn ông mới thấy, đặc biệt là những người đàn ông có thể được nàng tiên Pali-Banou có cảm tình còn đàn bà thì không trông thấy được.
Mụ phù thuỷ nghĩ tìm tòi thêm cũng vô ích, đành trở về trình bày với vua về sự phát hiện của mình. Mụ kể lại việc làm của mình và nói thêm:
- Thưa bệ hạ, Người cũng rõ qua những điều đã thấy, thần không khó khán lắm trong việc tìm hiểu hành vi của hoàng tử Ahmed. Bây giờ thì thần chưa nói được gì. Thần muốn để bệ hạ biết rõ mà không nghi ngờ gì được. Thần xin Người cho thời gian và lòng kiên trì và cho phép thần làm mọi việc mà không hỏi gì về cách thức thần dự định tiến hành.
Nhà vua chấp nhận theo yêu cầu của mụ phù thuỷ. Ngài bảo:
- Ngươi được chủ động, cứ đi và làm theo cách ngươi thấy thích hợp. Ta kiên trì chờ đợi những lời hứa hẹn của ngươi.
Để khuyến khích, nhà vua tặng mụ một viên kim cương đắt giá, và nói rằng đó chỉ là món quà trong lúc chờ đợi khen thưởng đầy đủ khi công việc hoàn thành.
Biết hoàng tử Ahmed mỗi tháng về thăm triều đình vua cha một lần, mụ phù thuỷ chờ cho tháng này qua đi. Một vài ngày trước cuối tháng, mụ tới chân tảng đá chỗ mất hút hoàng tử và tuỳ tùng, chờ ở đấy với một kế hoạch dự định tiến hành.
Ngày hôm sau, như thường lệ hoàng tử Ahmed ra khỏi cánh cửa sắt với đoàn tuỳ tùng quen thuộc, đi qua gần mụ phù thuỷ chàng vốn không quen. Thấy mụ nằm đấy đầu tựa vào tảng đá, rên rỉ như người bị đau nặng, chàng thương hại quay lại chỗ mụ ta hỏi đau như thế nào và cần giúp đỡ gì.
Mụ phù thuỷ, không ngẩng đầu lên, nhìn hoàng tử một cách đáng thương tâm, giọng ngắt quãng trả lời như khó thở nói rằng mụ đi từ nhà ra thành phố, giữa đường bị cơn sốt rất nặng, không còn sức phải dừng lại trong tình trạng rất xa dân cư không hy vọng được cứu chữa.
- Này bà - Hoàng tử Ahmed nói - bà không xa nơi cứu chữa như bà tưởng đâu. Để tôi cho bà thấy, rất gần đây cô một chỗ người ta sẽ chữa cho bà, thậm chí rất mau khỏi đấy. Bà dậy ngồi lên phía sau ngựa của một người chúng tôi Nghe hoàng tử Ahmed nói thế, mụ phù thuỷ muốn biết chỗ chàng ở, chàng làm gì và số phận ra sao, nên vờ đau quá cố gắng ngồi dậy nhận ngay việc làm ơn ấy. Cùng lúc đó hai kỵ sĩ nhảy xuống giúp mụ đứng lên đưa lên sau lưng ngựa một người khác. Trong lúc họ lên ngựa, hoàng tử quay lại đi đầu, đến trước cánh cửa sắt có một kỵ sĩ ra bước tới trước. Chàng đi vào, không xuống ngựa bảo một kỵ sĩ vào báo chàng muốn gặp nữ chủ.
Nàng tiên Pari-Banou chạy vội ra, không hiểu vì sao, hoàng tử trở lại sớm thế. Không để nàng hỏi, chàng nói ngay:
- Nữ hoàng của ta, hoàng tử nói vừa chỉ vào mụ phù thuỷ đã được hai người đỡ xuống ngựa, ta mong nàng cũng thương hại bà này như ta. Ta vừa gặp bà ta trong tình trạng đau đớn, và đã hứa sẽ chăm sóc bà ấy lúc đang cần. Ta nhờ nàng, đừng bỏ rơi bà ta.
Nàng tiên nhìn vào người đàn bà nói là đau ốm trong lúc hoàng tử nói, ra lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta vào một phòng trong lâu đài và chăm sóc như đối với chính nàng.
Hai thị nữ làm theo lệnh vừa nhận được. Pari-Banou lại gần hoàng tử nhỏ giọng nói:
- Hoàng tử, thiếp hoan nghênh lòng thương người xứng đáng với chàng và nguồn gốc của chàng và thiếp vui lòng đáp ứng với ý định tốt ấy nhưng cho phép thiếp nói với chàng thiếp rất sợ ý định tốt ấy không được đền đáp xứng
đáng. Thiếp thấy người đàn bà này có vẻ không đau ốm như bà ta tỏ ra thế và thiếp rất lầm nếu bà không làm quá đi để làm hại chàng. Nhưng chàng đừng ngại, dù người ta có mưu mô như thế nào để phản lại chàng, cứ tin chắc thiếp sẽ giải thoát cho chàng khỏi mọi cạm bẫy. Chàng cứ đi, tiếp tục hành trình của mình.
Lời nói đó không làm hoàng tử hốt hoảng, chàng lại nói:
- Nữ hoàng của ta, ta không nhớ đã làm hại ai và cũng không có ý định ấy nên nghĩ chẳng có ai muốn làm hại mình, dù sao ta vẫn không thôi làm điều tốt khi có dịp.
Nói xong chàng từ biệt nàng tiên trở lại con đường bị gián đoạn vì mụ phù thuỷ và một lúc sau cùng tuỳ tùng đến hoàng cung. Nhà vua tiếp đón chàng gần như bình thường cố gắng không lộ ra những nghi ngờ các cận thần gây ra cho ngài.
Hai thị nữ theo lệnh nàng tiên đưa mụ phù thuỷ vào một gian phòng đẹp, trang trí sang trọng. Lúc đầu họ để mụ ngồi lên một chiếc xô pha tựa vào gối gấm vàng. Sau đó họ giúp mụ nằm lên giường (vì mụ phù thuỷ vẫn giả vờ đang sất cao mệt mỏi), một người ra ngoài một lúc đưa vào một cốc nước cho mụ trong lúc người kia đỡ mụ ngồi lên.
- Bà uống cốc nước này đi - Thị nữ nói - đây là nước giếng Sư Tử, sốt nào cũng chữa khỏi. Không đầy một giờ bà sẽ thấy tác dụng ngay.
Mụ phù thuỷ muốn giả vờ như thật, phải để đề nghị nhiều lần giả như ghê sợ phải uống thuốc. Cuối cùng mụ cầm chiếc cốc, uống hết nước, vừa lắc đầu mạnh như cố gắng lắm. Khi mụ đã nằm lại, hai thị nữ đắp chăn kỹ cho mụ và người đưa nước uống nói:
- Bà cứ ngủ đi, nếu muốn ngủ. Chúng tôi để bà yên tĩnh, hy vọng khoảng một giờ nữa chúng tôi trở lại thấy bà đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Mụ phù thuỷ không phải đến để ốm lâu mà chỉ để thăm dò chỗ ở của hoàng tử và nguyên nhân buộc chàng phải giấu vua cha, thấy mình đã biết khá rõ, muốn nói ngay liều thuốc đã có tác dụng, muốn ra về để báo cáo kết quả với nhà vua. Vì người ta không nói nước có tác dụng ngay nên mụ đành chờ hai thị nữ trở vào.
Hai người thị nữ đến theo giờ đã nói, thấy mụ phù thuỷ đã ngồi dậy trên ghế, mặc quần áo tử tế và đứng lên khi thấy họ bước vào. Mụ kêu lên:
- Chà, nước- thuốc thật hay, có hiệu quả sớm hơn nhiều so với lời các cổ nói, tôi phải nóng lòng chờ, đã đến lúc nhờ các cô dẫn, tôi vào gặp nữ chủ để cám ơn đã được chữa khỏi bệnh như có phép lạ, tôi phải tiếp tục đi.
Hai thị nữ, cũng là các nàng tiên như chủ của họ, sau khi thể hiện vui mừng vì mụ chóng khỏi bệnh, đi trước dẫn đường qua nhiều gian phòng, tất cả đều lộng lẫy, họ vào phòng khách đẹp nhất và trang bị sang trọng nhất –trong lâu đài.
Pari-Banou ở trong phòng khách, ngồi trên một ngai vàng, trang điểm thêm những kim cương, hồng ngọc, ngọc trai kích thước khác thường, bên phải, trái có một số lớn nàng tiên, tất cả đều đẹp tuyệt vời và quần áo lộng lẫy. Thấy bao nhiêu màu sáng chói và oai vệ, mụ phù thuỷ không chỉ loá mắt mà sững sờ cả người, quỳ xuống trước ngai vàng không mở được miệng để cám ơn như đã dự định. Pari-Banou miễn cho mụ khỏi phiền hà, lên tiếng:
- Này bà, ta vui lòng gặp dịp bà phải đến đây và thấy bà đã hồi phục để tiếp tục lên đường. Ta không giữ bà lại nhưng có lẽ bà không phiền lòng được thấy lâu đài của ta. Bà đi với cáo thị nữ của ta; họ sẽ đưa bà đi xem.
Mụ phù thuỷ vẫn sững sờ: quỳ lạy lần thứ hai, trán cúi sát tấm thảm phủ chân ngai vàng chào tạm biệt, không đủ sức và can đảm nói một lời, để hai nàng tiên dẫn đi. Mụ kinh ngạc và luôn miệng tấm tắc khen từng gian phòng, cũng đầy những của cải và vẻ đẹp mà hoàng tử Ahmed đã thấy khi nàng tiên Pari- Banou dẫn chàng đi tham quan lâu đài lần đầu. Điều làm mụ thán phục hơn là sau khi được xem toàn bộ lâu đài, mụ nghe hai nàng tiên nói những gì thấy ở đây chỉ là hình mẫu về sự sống lớn và quyền lực của nữ chủ họ, trong quốc gia mênh mông. Nàng có những lâu đài khác nhiều không kể xiết, tất cả đều kiến trúc kiểu dáng khác nhau không kém phần đẹp lộng lẫy.Vừa nói một số chi tiết họ vừa đưa mụ ra cánh cửa sắt mà hoàng tử đã dẫn mụ vào, mở cửa chúc mụ lên đường mạnh khoẻ và họ chia tay nhau.
Đi mấy bước, mụ phù thuỷ ngoảnh lại quan sát để nhận rõ cánh cửa nhưng vô ích, cửa đã trở thành không trông thấy được đối với mụ cũng như mọi người phụ nữ khác. Mụ đành trở về gặp nhà vua theo đường tắt, khá hài lòng đã đạt yêu cầu. Mụ được đưa vào cửa bí mật của lâu đài. Nghe tin mụ đến, nhà vua đến gặp, thấy nét mặt buồn ngài đoán không có kết quả và nói với mụ:
- Nhìn thấy bà, ta cho rằng chuyến đi của bà không được việc, không làm rõ được điều ta chờ đợi.
- Thưa bệ hạ - mụ phù thuỷ đáp - Người cho phép thần không nói về tâm trạng của thần khi thực hiện việc thần được giao làm vinh dự cho thần mà xin trình bày thật thà những gì thần làm, không bỏ quên đíều gì để xứng đáng với sự uỷ thác của Người và mọi việc đã xảy ra như thế nào. Việc Người thấy nét mặt thần buồn do một nguyên nhân khác chứ không vì công việc không kết quả, mong Người sẽ hài lòng. Thần không nói về nguyên nhân; câu chuyện thần kể sẽ làm Người biết rõ nếu Người bình tĩnh nghe cho.
Mụ phù thuỷ bèn kể với vua Ấn Độ mình đã vờ bị đau ốm ra sao, được hoàng tử Ahmed thương hại, cho dẫn vào một chỗ ở dưới mặt đất, giới thiệu và uỷ thác cho một nàng tiên sắc đẹp không gì trên trần đời sánh nổi chăm sóc mụ. Nàng tiên lệnh cho hai tiên nữ cùng đi phụ trách việc chạy chữa mụ cho đến khi bình phục, thái độ tỏ ra chỉ có từ một người vợ đối với người chồng.
Mụ hơi cường điệu sự ngạc nhiên của mình khi thấy mặt ngoài lâu đài của nàng tiên, cho rằng không lâu đài nào trên đời sánh bằng trong lúc hai tiên nữ xốc tay hai bên người mụ như một bệnh nhân không bước được nếu không có họ hỗ trợ. Mụ kể chi tiết sự sốt sắng của họ giúp đỡ mụ khi ở phòng mụ được đưa vào, cốc nước thuốc họ cho uống và tác dụng chữa khỏi nhanh chóng cũng giả vờ như căn bệnh tuy mụ tin chắc vào hiệu nghiệm của nước thuốc, vào sự uy nghi của nàng tiên ngồi trên ngai vàng trang trí đá quý giá trị hơn hẳn mọi tài sản của vương quốc Ấn Độ. Cuối cùng mụ nói về những của cải vô biên không ước tính được chung cũng như riêng trong lâu đài bao la.
Mụ phù thuỷ kết thúc kết quả về nhiệm vụ của mình và nói tiếp: Thưa bệ hạ, Người nghĩ thế nào về tài sản vô giá của nàng tiên? Có lẽ Người sẽ cho là đáng khâm phục và vui vì vận may của hoàng tử Ahmed con trai người được hưởng thụ chung với nàng tiên. Riêng thần, xin khẩn cầu bệ hạ tha tội cho dám tỏ ra nghĩ khác hẳn, thậm chí sợ có thể hoàng tử sẽ gặp tai hoạ. Và chính vì vậy thần không giấu được nỗi lọ lắng mà Người đã nhận thấy. Thần nghĩ rằng hoàng tử với bản chất tốt tự nhiên, không thể tiến hành việc gì chống lại bệ hạ nhưng ai biết được với sự hấp dẫn, trìu mến và quyền lực đã chiếm được tâm trí chồng, nàng tiên ấy không gợi lên ý định nguy hiểm thay chỗ của bệ hạ, chiếm lấy vương quốc Ấn Độ. Xin Người hết sức lưu ý về một việc quan trọng như thế.
Dù tin chắc vào bản chất tốt đẹp của hoàng tử Ahmed, vua Ấn Độ không khỏi bị lời mụ phù thuỷ tác động. Ngài cho mụ lui xuống vừa nói: “Ta cám ơn ngươi về công khó nhọc và về lời khuyên. Ta biết tầm quan trọng của điều ấy nên không thể giải quyết mà không bàn bạc”.
Khi người ta báo tin mụ phù thuỷ đến, ngài đã trao đổi với những cận thần đã nêu lên những nghi ngờ về hoàng tử con trai ngài. Sau khi mụ phù thuỷ trình bày sự việc, ngài cho gọi họ tới cho họ biết tình hình và cũng nói cả chuyện sợ nàng tiên làm tâm trí hoàng tử thay đổi và nêu chuyện đề phòng việc không hay bằng cách nào.
Một trong những cận thần thay mặt tất cả trả lời:
- Để đề phòng việc không hay, thưa bệ hạ, vì Người biết ai có thể trở thành thủ phạm, vốn đang ở trong triều và Người có quyền làm, Người không nên ngần ngại ít nhất cũng cho bắt giam lại trong ngục tối suốt quãng đời còn lại, thần không muốn nói là giết đi sợ có tiếng vang quá lớn.
Những cận thần khác đồng thanh hoan nghênh ý kiến đó.
Mụ phù thuỷ thấy biện pháp ấy quá tàn bạo, xin phép nói:
- Thưa bệ hạ, thần chắc chắn vì sốt sắng cho lợi ích của bệ hạ mà các đại thần đề nghị Người cho bắt giam hoàng tử Ahmed. Nhưng các vị ấy không thấy khi bắt hoàng tử là đồng thời phải bắt cả những người đi theo chàng mà họ lại là các vị thần. Các vị nghĩ dễ dàng bắt được họ chăng? Với tính chất vốn có họ sẽ biến mất và đi báo với nàng tiên nữ chủ về việc nhục mạ chồng nàng. Nàng tiên sẽ để yên không báo thù ư? Nếu có cách nào đó, ít gây ầm hơn, bệ hạ có thể vạch rõ những ý đồ xấu của hoàng tử Ahmed mà không ai ngờ được ý định của bệ hạ có lẽ phù hợp hơn. Nếu bệ hạ tin lời thần khuyên do những thần tiên có những điều người đời không làm nổi, Người khích hoàng tử nhờ nàng tiên làm điều gì thật cao xa với lý do vì lợi ích chung mà hoàng tử có nhiệm vụ. Ví dụ mỗi lần bệ hạ muốn ra trận, Người buộc phải chi phí rất lớn về cờ, tăng bạt cho cả đoàn quân cả lạc đà, lừa ngựa để hành quân. Phải chăng nên bảo hoàng tử, với của cải chàng có được chỗ nàng tiên, chàng hãy kiếm một lá cờ cầm tay mà phủ được hết đoàn quân. Nếu hoàng tử đem lá cờ đến, ta lại còn bao nhiêu yêu cầu loại ấy có thể đòi hỏi nữa, cho đến lúc chàng lâm vào những khó khăn không thực hiện được, dù nàng tiên đã cướp chàng đi giàu có và sáng tạo đến mức nào. Như vậy chàng sẽ xấu hổ, đành suốt đời ở bên cạnh nàng tiên không dám xuất hiện ngoài đời nữa, bệ hạ không còn lo gì hoạt động của chàng và người ta không thể chê trách Người làm đổ máu một đứa con trai hoặc cấm cố con suốt đời.
Mụ phù thuỷ nói xong, nhà vua hỏi các cận thần có cách gì đề nghị hơn không và thấy họ im lặng, ngài quyết định theo lời khuyên của mụ phù thuỷ, có vẻ hợp lý hơn vả lại điều đó cũng phù hợp với sự nhẹ nhàng ngài vẫn dùng trị nước.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed đến trình vua cha đang họp bàn với các cận thần, chàng lại ngồi gần nhà vua và sự có mặt của chàng không cản trở hội đồng trao đổi nhiều vấn đề trong một lúc nữa. Sau đó nhà vua lên tiếng nói với hoàng tử:
- Con trai ta, khi con về cất cho ta nỗi buồn sâu sắc vì vắng con lâu ngày, con giữ bí mật nơi con ở, ta hài lòng được gặp lại con và biết con thoả mãn về số phận mình, ta không muốn đi sâu vào điều con muốn giữ kín. Ta không hiểu vì lý do gì con có thể như vậy với một người cha luôn quan tâm đến hạnh phúc của con. Bây giờ ta biết hạnh phúc ấy, ta vui mừng cho con và chấp nhận việc con thành hôn với một nàng tiên xứng đáng được yêu, giàu có và quyền lực đến thế như ta được Người ta báo lại. Ta có quyền lực thật nhưng không thể tạo cho con một cuộc hôn nhân như vậy. Với dòng dõi của con, có ai khác ngoài một người cha như ta mơ ước điều ấy, ta mong con không những sống với ta hiếu thảo như cho đến nay con vẫn làm mà còn dùng tiền nong con có được bên cạnh nàng tiên vợ con để hỗ trợ ta những lúc cần thiết và hôm nay ta muốn con đưa vốn liếng ra thử thách. Con cũng biết chi phí rất lớn, không nói đến sự lúng túng mà tướng tá của ta và cả bản thân ta phải gánh chịu những lần đưa quân ra chiến trường để cung cấp cờ, tàng bạt, lạc đà và những vật chở khí cụ khác. Nếu con quan tâm đến việc làm vui lòng ta, ta chắc con không khó khăn gì nói với nàng tiên cho con một lá cờ nắm trong tay mà che phủ được toàn đoàn quân của ta nhất là khi con cho nàng biết lá cờ đó đành cho ta. Khó khăn của việc đó chắc sẽ không làm con từ chối. Mọi người đều biết thần tiên có quyền lực làm nên những điều kỳ lạ nhất.
Hoàng tử Ahmed không ngờ vua cha đòi hỏi chàng một điều như thế, chàng thấy điều đó có vẻ rất khó khăn nếu không nói không thể được. Thực vậy, tuy chàng biết quyền lực của thần tiên rất lớn nhưng nghi ngờ nàng có thể làm ra một lá cờ như vua đề nghị. Vả lại cho đến lúc đó chàng chưa hề yêu cầu Pari- Banou điều gì. Chàng chỉ hài lòng về những cử chỉ luôn luôn yêu chàng say mê, không quên xác định đền đáp lại nàng hết lòng, không nghĩ đến lợi ích gì khác ngoài việc giữ gìn trân trọng lòng quý mến ấy. Vì vậy chàng rất lúng túng khi trả lời:
- Thưa bệ hạ, con giữ km việc đã xảy ra với con và xung quanh, trường hợp con đã tìm được mũi tên vì con thấy không cần thiết trình bày rõ với Người. Con không rõ do đâu mà bí mật ấy được báo cáo với bệ hạ con không giấu giếm điều người ta nói là sự thực. Con là chồng của một nàng tiên, con yêu nàng và chắc chắn nàng cũng yêu con. Nhưng về tiền nong con có được từ nàng như bệ hạ nghĩ thì con không thể nói gì được. Vì không chỉ con không sử dụng mà con cũng không hề có ý nghĩ đó và con mong Người miễn cho con đụng chạm tới, để cho con hưởng niềm hạnh phúc yêu và được yêu, không quan tâm đến việc gì khác. .Nhưng điều mà một người cha yêu cầu là mệnh lệnh đối với một đứa con trai như con, con cho là có nhiệm vụ phải vâng lời về mọi việc. Mặc dù con rất chán ngán việc đó, con sẽ đề nghị với vợ con làm theo yêu cầu của bệ hạ nhưng con không dám hứa là sẽ có. Và nếu con không được vinh dự đến thăm Người thì đó là dấu hiệu con không đạt hiệu quả mong muốn, xin bệ hạ gia ân tha thứ cho con trước và xem như Người đã đưa con đến tình trạng cuối cùng ấy.
Nhà vua lại nói với hoàng tử:
- Con trai, ta rất phiền lòng vì yêu cầu của ta gây cho con không vui và có thể ta sẽ không được gặp lại con. Ta thấy rõ con không biết đến quyền một người chồng đối với vợ, vợ con tỏ ra chỉ yêu con rất ít nếu nàng từ chối một việc không là gì đối với quyền lực của nàng mà con yêu cầu vì yêu mến ta. Con bỏ lối dè dặt đi, chỉ do con nghĩ không được yêu như con yêu thôi. Con cứ đề nghị và sẽ thấy nàng tiên yêu con hơn con nghĩ và nên nhớ do không yêu cầu, người ta sẽ thiệt thòi nhiều lợi thế lớn. Con cứ suy ra, nếu nàng đòi hỏi gì con sẽ không từ chối vì con yêu nàng thì nàng cũng không từ chối điều gì con yêu cầu vì nàng yêu con.
Lời nói của nhà vua không thuyết phục được hoàng tử Ahmed. Chàng muốn người ta đòi hỏi chàng điều gì khác hơn là làm mất lòng Pari-Banou thân yêu của chàng. Cảm thấy buồn, chàng rời hoàng cung sớm hơn thường lệ hai ngày. Gặp chồng, nàng tiên cho đến nay bao giờ cũng thấy chàng về với mình nét mặt hoan hỉ, hỏi về nguyên nhân sự thay đổi đó. Thay vì trả lời, chàng hỏi thăm sức khoẻ của nàng với thái độ cho thấy chàng không muốn cho biết. Nàng nói:
- Thiếp sẽ trả lời câu hỏi của chàng khi nào chàng trả lời câu hỏi của thiếp.
Hoàng tử chống chế khá lâu nói rằng không có việc gì nhưng chàng càng giấu giếm nàng càng hối thúc.
- Thiép không thể nhìn chàng trong tình trạng này - Nàng nói - Chàng hãy nói điều gì làm mình phiền lòng để thiếp xoá bỏ nguyên nhân dù đến thế nào: chắc điều phải thật khác thường nếu không phải là cái chết của phụ hoàng. Nếu thế thiếp sẽ cố giúp phần và thời gian sẽ an ủi chàng.
Hoàng tử Ahmed không thể chống chế lâu hơn trước sự gặng hỏi nhiệt tình của vợ. Chàng nói:
- Nàng ạ, Chúa kéo dài cuộc sống của vua cha và ban phúc cho Người đến suốt đời? Ta từ biệt Người khi Người đầy sức sống và hoàn toàn khoẻ mạnh, không phải vì điều đó mà ta buồn. Chính bản thân phụ hoàng là nguyên nhân làm ta rất chán ngán vì Người buộc ta phải quấy rầy nàng. Trước hết, nàng biết là ta cẩn thận giấu Ngựời về hạnh phúc ta được gặp nàng, yêu nàng và nhận ân huệ, tình yêu của nàng, chúng ta cùng đưa lại niềm tin cho nhau nhưng không biết do đâu mà Người biết được mọi chuyện.
Nàng tiên Pari-Banou ngắt lời chàng:
- Còn thiếp, thiếp biết điều đó. Chàng có nhớ điều thiếp đã nói về người đàn bà làm chàng tin bị đau ốm và thương hại: chính bà ta báo với vua cha những gì chàng đã giấu Người. Thiếp đã nói bà ta không đau ốm gì như chàng và thiếp, thật đúng như vậy. Thực thế sau khi uống nước chữa bệnh thị nữ đưa cho mà thực ra không cần dùng, bà ta giả vờ nhờ nước ấy mà khỏi bệnh và vội đến chào từ biệt để ra về nếu thiếp không lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta đi xem khắp lâu đài. Nhưng chàng nên tiếp tục đi, xem vua cha buộc chàng quấy rầy thiếp như thế nào, điều mà thiếp cam đoan với chàng thiếp sẽ không hề bị khó khăn gì.
- Nàng có thể nhận thấy cho đến nay, ta rất hài lòng được nàng yêu, ta không xin nàng một ân huệ nào khác. Có một người vợ đáng yêu như vậy ta còn mong gì hơn nữa? Ta cũng biết nàng có quyền lực nhưng nghĩ mình có nhiệm vụ không đưa ra thử thách. Nàng hãy biết cho, ta đoán chắc với nàng, không phải ta mà là vua cha đã thiếu tế nhị yêu cầu nàng cho Người một lá cờ cầm tay mà che kín gió mưa toàn bộ triều đình và đoàn quân của Người khi ra trận. Một lần nữa ta muốn nói, không phải ta mà chính vua cha đề nghị nàng ân huệ đó.
- Hoàng tử thiếp phiền lòng vì một điều nhỏ nhặt như thế đã làm chàng bối rối, tâm trí bị xáo trộn như thiếp thấy. Thiếp thấy rõ hai điều: một là nguyên tắc chàng đặt ra cho mình chỉ yêu thiếp và được yêu, không yêu cầu điều gì phải dùng đến quyền lực của thiếp, hai là theo thiếp nghĩ tuy chàng không nói ra, chàng hình dung yêu cầu của vua cha vượt quá khả năng của thiếp. Về điều thứ nhất thiếp hoan nghênh chàng, càng yêu chàng hơn nếu có thể. Điều thứ hại, thiếp chẳng phiền phức gì để chàng biết đấy chỉ là một việc vặt, có dịp thiếp còn có thể làm việc khác khó hơn. Chàng hãy bình tâm nghỉ ngơi, hãy tin rằng thay vì bị quấy rầy, thiếp luôn rất vui lòng thoả mãn những điều gì chàng mong muốn vì tình yêu của thiếp đối với chàng.
Nói xong nàng tiên cho gọi người trông nom kho. Người coi kho đến, nàng tiên bảo: “Nourgihan (tên người coi kho), đem đến cho ta lá cờ lớn nhất trong kho . Một lúc sau Nourgihan trở lại, đưa lá cờ tới không chỉ cầm trong tay mà có thể nắm kín trong tay, nữ chủ cầm lấy đặt vào trong tay hoàng tử.
Ahmed nghe Pari- Banou bảo lấy trong kho lá cờ lớn nhất, chàng nghĩ nàng muốn chế nhạo mình, nét mặt và thái độ tỏ vẻ ngạc nhiên. Nàng tiên thấy vậy phá lên cười:
- Sao? Hoàng tử tưởng thiếp chế nhạo chàng ư? Chàng sẽ thấy thiếp không đùa đâu! Nourgihan – nàng vừa nói vừa lấy lại lá cờ trong tay hoàng tử đưa cho người coi kho - hãy giương lá cờ lên để hoàng tử xem vua cha của chàng có cho là bé hơn yêu cầu không.
Người coi kho ra khỏi lâu đài, đi khá xa để khi đường lá cờ đầu cờ đến một phía bên lâu đài. Hoàng tử nhận thấy ngay lá cờ không phải bé hơn mà lớn đến mức che kín được cả hai đoàn quân của vua cha. Chàng bèn nói:
- Nữ hoàng, ta xin lỗi vì đã hoài nghi. Theo như ta thấy, ta nghĩ không có điều gì nàng muốn làm mà không được.
- Chàng xem - Nàng tiên bảo - lá cờ lớn hơn sự cần thiết. Nhưng chàng chú ý nó có đặc tính căng rộng thêm hoặc thu nhỏ lại phù hợp với kích cỡ cần che mà người ta không phải bỏ tay vào.
Người coi kho bỏ lá cờ xuống, thu nhỏ như ban đầu và đặt vào tay hoàng tử. Ahmed cầm lấy và ngày hôm sau, không chần chừ lâu, lên ngựa có tháp tùng như thường lệ, đưa đến cho phụ hoàng.
Nhà vua chắc chắn một lá cờ như ngài đòi hỏi vượt ra ngoài mọi khả năng, ngài rất ngạc nhiên thấy con trai mau chóng trở lại. Ngài nhận lá cờ, khen nó nhỏ gọn, sửng sốt khó định thần khi cho căng rộng biết rằng hai đoàn quân lớn như của ngài có thể được che kín thừa thãi. Thấy ngài cho như thế khó sử dụng, hoàng tử Ahmed báo với ngài độ che phủ bao giờ cũng cân đối phù hợp với đoàn quân.
Bề ngoài nhà vua tỏ ra cảm động vì hoàng tử đã cho ngài một món quà quý giá, nhờ chàng cảm ơn nàng tiên và sai người đưa vào giữ cẩn thận trong kho. Nhưng trong thâm tâm ngài ghen tức dữ dội hơn những cận thần nịnh bợ và mụ phù thuỷ đã gợi lên nghĩ rằng con trai ngài nhờ nàng tiên có thể làm những việc cao hơn nhiều so với dòng dõi mình tuy đã lớn mạnh và giàu có. Vì thế ngài càng tích cực hơn trong việc tìm cách tiêu diệt hoàng tử. Ngài hỏi ý kiến mụ phù thuỷ, mụ khuyên nên đòi hỏi hoàng tử đưa nước giếng Sư Tử về.
Buổi chiều trong lúc họp triều thần như thường lệ, có hoàng tử Ahmed tham dự, ngài bảo hoàng tử:
- Con trai, ta đã chịu ơn con về lá cờ con tặng, xem như vật quý nhất trong kho hoàng cung, vì thương mến ta con hãy làm cho ta một việc khác ta không kém phần thích thú. Ta được biết nàng tiên vợ con dùng loại nước ở giếng Sư Tử chữa khỏi mọi căn bệnh nguy hiểm nhất. Sức khoẻ của ta đối với con là trọng, ta chắc con sẵn lòng xin cho ta một thùng, đem về cho ta làm thuốc quý khi cần. Con hãy giúp ta việc quan trọng này, để tâm huyết vào đó như của một đứa con hiếu thảo đối với cha.
Hoàng tử Ahmed nghĩ vua cha đã hài lòng vì có lá cờ đặc biệt và rất có ích, sẽ không giao một nhiệm vụ khác có thể phiền hà đến Pari-Banou, chàng sững sờ vì yêu cầu này tuy nàng đã đảm bảo làm mọi việc cho chàng theo quyền lực của mình. Sau một lúc im lặng, chàng nói:
- Thưa bệ hạ, con khẩn cầu Người tin rằng con sẵn sàng làm mọi việc để góp phần kéo dài tuổi thọ của Người nhưng con mong không có sự can thiệp của vợ con, vì vậy con không dám hứa sẽ mang về loại nước ấy. Tất cả những gì con có thể làm là con sẽ đề nghị với nàng nhưng con cũng thật khổ tâm như con đã nêu ra chuyện lá cờ.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed trở về bên cạnh nàng tiên Pari- Banou, thành thật kể lại việc mình làm ở triều đình khi trình diễn lá cờ, nhận được lòng biết ơn vô cùng đối với nàng và cũng nói về yêu cầu mới của vua cha. Kết thúc câu chuyện, chàng nói thêm:
- Nữ hoàng của ta, ta nêu ra điều đó như kể chuyện lại với nàng về việc xảy ra giữa phụ hoàng và ta, phần còn lại thuộc về nàng, thoả mãn lời đề nghị của Người hay bỏ đi tuỳ theo ý nàng, ta chỉ muốn như lòng nàng muốn.
- Không, không - Pari-Banou nói - thiếp rất vui khi biết vua cha thấy chàng không thờ ơ với thiếp. Thiếp muốn làm Người hài lòng và vì mụ phù thuỷ khuyên Người những gì (thiếp thấy rõ Người nghe lời mụ), Người sẽ không trách cứ được chàng và thiếp. Có sự độc ác trong lời yêu cầu đó.Giếng Sư Tử ở giữa sân một lâu đài có bốn con sư tử mạnh nhất canh cửa lần lượt hai con ngủ hai con thức. Nhưng chàng đừng sợ hãi, thiếp sẽ chỉ cho chàng cách đi giữa chúng không gặp nguy hiểm gì.
Nàng tiên lúc đó đang may vá, bên cạnh có những cuộn chỉ nàng cầm lấy một cuộn đưa cho hoàng tử:
- Trước hết - Nàng nói - chàng cầm lấy cuộn chỉ này, thiếp sẽ bảo chàng cách sử dụng. Thứ hai chàng cho chuẩn bị hai con ngựa, một chàng cưỡi lên và một dắt tay mang một con cừu giết thịt từ hôm nay chia làm bốn phần. Thứ ba chàng cầm một chiếc thùng thiếp sẽ đưa để lấy nước. Ngày mai vào sáng sớm chàng lên ngựa vừa dắt con ngựa kia, khi ra khỏi cánh cửa sắt chàng vứt cuộn chỉ ra trước mặt; cuốn chỉ sẽ lăn đi đến tận cổng lâu đài. Chàng đi theo đến đấy, hai con thức canh phòng sẽ đánh thức hai con đang ngủ ngáy râm ran. Chàng đừng sợ, ném cho mỗị con một phần cừu, nhưng phải nhớ không xuống ngừa. Làm xong chàng thúc ngựa, nhanh nhẹn lại bên giếng múc nước đầy thùng, cũng không xuống ngựa, phi trở ra nhanh. Những con sư tử mải ăn sẽ để chàng tự do đi qua.
Hôm sau hoàng tử ra đi theo lời nàng tiên dặn, thực hiện từng điểm một theo lời nàng. Đến cổng lâu đài chàng ném bốn chân cừu cho bốn con Sư tử, rồi dũng cảm phóng qua chúng, ,vào sát giếng múc nước và trở lại, bình yên ra khỏi lâu đài. Khi đã hơi xa, ngoảnh lại nhìn chàng thấy hai con sư tử chạy theo mình; chàng rút gươm sẵn sàng tự vệ. Nhưng thấy một con quay lại lắc đầu và đuôi tỏ ra không phải đến làm hại chàng mà để đi trước chàng còn con kia ở lại phía sau đi theo. Chàng tra gươm vào vỏ tiếp tục đến kinh thành, có hai con sư tử tháp tùng cho đến cổng hoàng cung rồi trở lại con đường cũ làm một phần dân chúng sợ hãi chạy trốn đề khỏi gặp chúng tuy chúng bước đều không có biểu hiện nào hung dữ.
Nhiều quân lính chạy tới giúp hoàng tử xuống ngựa, đi theo chàng đến hoàng cung nơi nhà vua đang hội họp với cận thần. Chàng tiến lại gần ngai vàng, đặt thùng nước trước chân vua cha, hôn tấm thảm phủ bậc lên xuống rồi đứng dậy nói:
- Thưa phụ hoàng, đây là nước chữa bệnh Người muốn đưa vào làm những vật quý hiếm làm dồi dào kho tàng hoàng cung. Con kính chúc phụ hoàng luôn luôn dồi dào sức khoẻ để không bao giờ phải dùng đến nó.
Hoàng tử nói xong, vua bảo ngồi vào bên phải mình và nói:
- Con trai, ta chịu ơn con về quà tặng của con càng nhiều khi con phải đối mặt với nguy hiểm vì tình thương yêu ta. (Ngài đã được mụ phù thuỷ bẩm báo về giếng Sư Tử và mối nguy hiểm khi đi lấy nước). Con cho ta biết con đã khôn khéo như thế nào, đúng hơn là do sức mạnh không ngờ được nào mà con vẫn an toàn.
- Thưa phụ hoàng - Hoàng tử trả lời - con không có được một phần nào về lời khen của Người mà hoàn toàn do nàng tiên vợ con, con chỉ nghe theo lời khuyên của nàng.
Chàng kể lại việc bố trí của vợ và chàng đã làm như thế nào. Nghe hoàng tử nói xong, nhà vua đã tỏ rõ sự vui mừng nhưng trong lòng sự ghen tị ấy vẫn càng tăng thêm, ngài đứng dậy vào bên trong lâu đài gặp mụ phù thuỷ được ngài cho gọi đến.
Mụ phù thuỷ qua tiếng đồn biết kết quả hoàng tử đưa về liền nghĩ ra một mưu mô khác chắc chắn thành công như mụ nghĩ. Mụ trao đổi cách đó với nhà vua và ngày hôm sau trong cuộc họp hội đồng triều thần có mặt hoàng tử Ahmed, nhà vua nói vói hoàng tử:
Con trai, ta chỉ còn một điều xín con, sau đó ta không buộc con vâng lời nữa, cũng không đòi hỏi đến tiền nong của nàng tiên vợ con. Đấy là dẫn đến cho ta một người đàn ông biết nói cao không đến một bộ rưỡi, bộ râu dài ba mươi bộ, mang trên vai một thanh sắt nặng năm trăm li-vrơ mà ông ta dùng như một chiếc gậy hai đầu .
Hoàng tử Ahmed không tin trên đời có một người như thế, muốn từ chối nhưng nhà vua nằng nặc yêu cầu, nói rằng nàng tiên có thể làm những điều không tưởng tượng được.
Ngày tiếp theo hoàng tử trở về vương quốc trong lòng đất của Pari-Banou, nói về yêu cầu mới của vua cha mà chàng xem còn không thể có được như hai lần trước.Chàng nói:
- Ta không thể hình dung trên đời có thể có loại người như thế. Chắc Người. muốn thử xem ta có chịu đi tìm không hoặc nếu có thì ý đồ của Người là muốn tiêu diệt ta. Thực thế, làm sao Người có thể cho rằng ta bắt được một người bé nhỏ như vậy và trang bị vũ khí theo cách đó? Ta phải dùng những biện pháp nào để có thể chinh phục một người như thế vâng theo ý muốn của ta được? Nếu có thề, mong nàng gợi ý cho ta cách thoát khỏi mưu kế thâm hiểm này một cách vinh dự.
- Hoàng tử của thiếp đừng hoảng hốt. Đi lấy nước ở giếng Sư Tử còn phải trải qua nguy hiểm nhưng tìm người này không phải lo ngại gì. Người ấy là anh thiếp, Schalbar, không giống thiếp tí nào tuy cùng là con một cha, bản chất rất dữ tợn, không có gì ngăn cản được anh ấy hành động đổ máu nếu người ta làm anh phật lòng hoặc xúc phạm anh. Ngoài ra anh là người tốt nhất trên đời và bao giờ cũng sẵn sàng giúp mọi điều người ta mong muốn. Anh ấy đúng như Vua cha đã tả, vũ khí chỉ là thanh sắt nặng, không có nó không bao giờ anh bước đi và anh ấy dùng nó để mọi người kính trọng. Thiếp sẽ mời anh ấy đến nhưng trước hết, chàng phải chuẩn bị tinh thần để khi gặp không sợ hãi về khuôn mặt khác thường của anh ấy.
- Nữ hoàng của ta - Hoàng tử Ahmed lại nói - Schaibar là anh của nàng? Dù xấu xí và hình dạng như thế nào, thay vì sợ hãi khi gặp anh, ta sẽ làm cho anh ấy thương yêu ta và là người thân cận nhất của ta.
Nàng tiên cho đưa vào tiền sảnh lâu đài một lò lửa và một chiếc hộp. Nàng lấy từ hộp ra một loại hương vị thơm vứt vào bếp lò, một làn khói dày bốc lên.
Một lúc sau nàng nói với hoàng tử:
- Hoàng tử, anh thiếp đến đấy, chàng có thấy không?
Hoàng tử nhìn kỹ, nhận ra Schaibar, cao một bộ rưỡi, nghiêm trang bước tới với thanh sắt nặng năm trăm li-vrơ trên vai, bộ râu dài ba mươi bộ vươn ra phía trước, ria mép cân đối vòng lên đến tai che hầu hết khuôn mặt, đôi mắt lợn hõm sâu trong chiếc đầu đồ sộ đội một chiếc mũ nhọn.
Thêm vào đó, ông ta gù người cả trước và sau.
Nếu hoàng tử Ahmed không được biết trước Schaibar là anh của Pari-Banou, chàng không thể không sợ hãi khi gặp. Yên tâm vì mối quan hệ đó, chàng vững vàng chờ ông ta đến và tiếp đón ông không một biểu hiện yếu đuối nào.
Schalbar vừa tiến đến vừa nhìn hoàng tử với con mắt làm chàng lạnh toát người, chào Pạri-Banou và hỏi người này là ai nàng trả lời:
- Thưa anh đây là chồng em, tên là Ahmed, con trai nhà vua Ấn Độ. Lý do em không mời anh đến dự hôn lễ là không muốn làm anh lỡ việc đang tiến hành mà em rất vui biết anh trở về thắng lợi. Vì vậy em đã tự tiện gọi anh đến.
Nghe nói thế Schaibar nhìn hoàng tử với con mắt duyên dáng hơn tuy không giảm kiêu ngạo và thái độ dữ tợn. Ông ta bảo:
- Em gái, ta có thể giúp chàng việc gì? Chàng cứ nói. Chỉ cần là chồng em, ta có trách nhiệm làm chàng vui lòng về những gì mong muốn.
- Vua cha của chàng - Pari-Banou lại nói - tò mò muốn gặp anh, em đề nghị anh để chàng đưa đi.
- Chàng cứ đi trước, ta sẵn sàng theo chàng.
- Thưa anh, hôm nay đi thì đã muộn, xin anh lùi lại sáng mai. Vả lại anh cũng cần biết giữa nhà vua và hoàng tử đã xảy ra những gì từ khi chúng em thành hôn với nhau, tối nay em sẽ nói rõ hơn.
Hôm sau, Schaibar đã biết tình hình, ra đi sớm có hoàng tử Ahmed đi cùng để giới thiệu ông ta với nhà vua. Họ vừa xuất hiện ở cổng thành những người trông thấy sợ hãi vì một người xấu xí đến thế, trốn vào cửa hàng hoặc trong nhà khép cửa lại, những người khác bỏ chạy gây lo sợ cho những người khác cũng bỏ chạy theo không dám nhìn lại phía sau. Vì thế trong lúc Schaibar và hoàng tử thong thả bước tới, họ thấy vắng lặng trên mọi đường phố, quảng trường cho đến tận hoàng cung. Những người gác cổng thay vì ngăn cản Schaibar vào, đã bỏ chạy hết để cổng hoàng cung bỏ ngỏ. Hoàng tử và Schalbar tiến vào đến phòng họp không gặp trở ngại gì, thấy nhà vua đang ngồi trên ngai vàng, quân bảo vệ đã bỏ chạy không có ai cản trở họ.
Schaibar ngẩng cao đầu, lại gần ngai vàng và không chờ hoàng tử giới thiệu, hỏi nhà vua:
- Người đã muốn gặp thì có tôi ở đây, Người muốn gì ở tôi?
Nhà vua đáng lẽ trả lời thì đưa tay bịt mắt quay đầu về phía khác để không thấy một vật đáng sợ như vậy. Schaibar tức giận vì cách tiếp đón bất lịch sự ấy và bực bội vì đã cất công đến đây, giơ chiếc gậy sắt quát:
- Nói đi chứ? - Vừa nói ông ta vừa giáng gậy sắt vào đầu nhà vua làm ngài chết ngay. Ông ta đánh ngay làm hoàng tử Ahmed không kịp chặn lại. Chàng chỉ có thể ngăn cản ông ta đánh luôn vị tể tướng ngồi bên phải vua, chàng phải nói đấy là người đã cho vua những lời khuyên tốt Schaỉbar hỏi:
- Thế những người này khuyên vua làm những điều xấu à?
Vừa nói ông ta vừa đánh chết những đại thần khác ngồi bên phải, bên trái, tất cả đều nịnh bợ xúi giục nhà vua và là kẻ thù của hoàng tử Ahmed. Bao nhiêu cú đánh là bấy nhiêu người chết, chỉ thoát được những người chưa đến nỗi sợ hãi quá không đứng yên mà vùng chạy trốn khỏi cung vua.
Việc hành quyết khủng khiếp kết thúc, Schaibar ra khỏi gian phòng họp, thanh sắt trên vai, nhìn vị tể tướng đi theo hoàng tử vừa cứu mạng mình.
- Ta biết - Người kỳ dị nói - ở đây có một mụ phù thuỷ còn độc ác hơn những cận thần không xứng đáng ta vừa giết chết, cho người đưa mụ phù thuỷ đến ngay.
Tể tướng vội bảo người đi tìm, người ta dẫn mụ đến và Schaibar vừa dùng gậy đánh vừa nói:
- Này, cứ đưa ra những lời khuyên nguy hại và giả làm người bệnh đi.
Mụ phù thuỷ chết ngay tại chỗ.
Schaìbar nói thêm:
- Chưa đủ đâu, ta sẽ đánh chết dân cả thành phố nếu không tôn xưng ngay hoàng tử Ahmed em rể ta, làm vua của nước Ấn Độ.
Những người có mặt lúc đó nghe thấy thế hô vang:
- Vua Ahmed muôn năm!
Và một lúc sau cả thành phố cùng ho vang như thế và đồng thời là lời tuyên bố hoàng tử Ahmed nối ngôi. Schaibar mặc quần áo vua Ấn Độ cho hoàng tử, đưa chàng ngồi lên ngai vàng và sau khi để triều thần tôn vinh, thề trung thành với nhà vua mới, con người kỳ dị đi dẫn em gái Pari-Banou đến trong không khí rầm rộ, giới thiệu là hoàng hậu Ấn Độ.
Hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar, do không tham gia vào âm mưu chống hoàng tử Ahmed, thậm chí cũng không biết có âm mưu đó, nhà vua mới liền ban lãnh địa là một tỉnh rất lớn có cả thủ đô để họ đến đấy sống trong những ngày còn lại. Nhà vua cũng cho một lính hầu đến gặp hoàng tử Houssain thông báo sự thay đổi vừa xảy ra và cho chàng lựa chọn một tỉnh theo ưa thích làm nơi cai trị của mình. Nhưng hoàng tử cảm thấy hạnh phúc trong cô đơn, nhờ tên lính cám ơn nhà vua em chàng về lòng tốt dành cho chàng, hoàng tử Houssain khẳng định sự thần phục và chỉ xin gia ân cho phép chàng tiếp tục sống ẩn dật ở nơi chàng đã chọn.
- Hoàng tử, chàng cứ đi khi nào chàng muốn nhưng trước hết, đừng phiền lòng vì vài lời thiếp dặn chàng về chuyến đi. Đầu tiên thiếp nghĩ chưa đến lúc nói với vua cha về cuộc hôn nhân của chúng ta, về sự khác thường của thiếp và chỗ chàng ở từ khi xa Người. Mong chàng chỉ nói được sung sướng, không mong muốn gì hơn và lý do duy nhất trở về là để Người khỏi lo lắng về số phận của chàng.
Để cùng đi, nàng cho hai mươi kỵ sĩ trang bị tất hộ tống chàng. Khi mọi việc đã sẵn sàng, hoàng tử Ahmed ôm hôn từ biệt nàng tiên, nhắc lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại. Người ta dắt con ngựa nàng đã cho chuẩn bị sẵn cho chàng; ngoài việc trang bị yên cương sang trọng, con ngựa cũng đẹp và đắt giá nhất so với bất cứ con ngựa nào trong chuồng của nhà vua. Chàng duyên dáng lên ngự a trước sự rất vui về của nàng tiên và ra đi sau khi chào từ biệt lần cuối.
Đường về hoàng cung không xa, hoàng tử không phải đi lâu. Vào đến kinh thành, dân chúng vui mừng gặp lại chàng, hoan nghênh nhiệt liệt, phần lớn bỏ công việc tụ tập thành đám đông hộ tống chàng về đến cung vua. Nhà vua rất vui mừng ôm hôn chàng, tuy hơi than phiền về nỗi buồn vắng mặt chàng lâu ngày. Ngài nói thêm:
- Sự vắng mặt càng làm ta đau lòng sau sự thiệt thòi của con về lợi thế của hoàng tử Ali, anh con, ta sợ con có một hành động tuyệt vọng nào đấy.
- Thưa phụ hoàng, Người cho rằng sau khi mất Nourounnlhar đối tượng mong mỏi độc nhất của con, con có thể chứng kiến hạnh phúc của Ali anh con sao? Nếu con có thể lì lợm như thế, ở triều đình, trong thành phố và cả bệ hạ nữa sẽ nghĩ về mối tình của con như thế nào? Tình yêu là một sự say mê người ta không rời bỏ được dù muốn; nó chế ngự, làm chủ và không để người tình có lý trí. Bệ hạ biết khi bắn mũi tên, một điều kỳ lạ đã xảy ra với con tuy bãi đua ngựa rộng rãi và bằng phẳng đến thế mà không tìm được mũi tên làm con mất đi lý do về sự công bằng đối với con và các anh. Thất bại trong số phận nhưng con không mất thì giờ phàn nàn vô ích. Để thoả mãn nỗi băn khoăn về mũi tên phiêu lưu đó, con lén mọi người một mình trở lại chỗ cũ tìm nó. Kiếm mãi quanh quẩn chỗ nhặt được tên của các anh không được con đi mãi gần như theo đường thẳng, hình dung ra nơi mũi tên có thể rơi. Đã đi hơn một dặm, mắt vẫn nhìn các bên, thỉnh thoảng con lại quay lại tìm một vật gì đó như mũi tên, rồi lại suy nghĩ nó không thể bắn ra xa như vậy. Con dừng lại tự nhủ có mất trí không khi cho rằng mình đủ sức bắn một mũi tên đi xa đến thế khi mà không một anh hùng thời cổ nào và những người nổi tiếng về sức mạnh đương thời cũng chưa bao giờ vươn tới. Con ngẫm nghĩ như thế và suýt bỏ việc mình đang làm nhưng rồi con cảm thấy bị lôi kéo đi dù không muốn. Con đi đến bốn dặm tới cuối bãi bằng có những tảng núi đá thì thấy mũi tên con bắn nhưng cả chỗ rơi lẫn thời gian đều không hợp lý. Như vậy thay vì nghĩ bệ hạ bất công đối với con khi tuyên bố công chúa thuộc về hoàng tử Ali, con cho rằng việc xảy ra đối với con là một điều bí mật có lợi cho con, con cần phải làm sáng tỏ và con đã biết rõ bí mật đó không quá xa chỗ ấy. Nhưng đây lại là một bí mật khác mà con khẩn cầu bệ hạ đừng cho con là xấu vì con không nói ra, chỉ xin Người bằng lòng được biết con sung sướng và thoả mãn với hạnh phúc của mình. Sống giữa niềm hạnh phúc đó chỉ một điều làm con băn khoăn là lo bệ hạ không yên tâm về số phận của con từ khi con mất tích, xa triều đình. Con thấy con có nhiệm vụ phải về để bây giờ yên lòng. Đây là mục đích đưa con về. Ân huệ độc nhất con xin Người ban cho là thỉnh thoảng cho con trở về tôn kính Người và biết tình hình sức khoẻ của Người.
- Con trai ta - Nhà vua nói - ta không thể từ chối lời cầu xin của con, ta những muốn con quyết định ở lại bên ta thì hơn. Ít nhất con cho ta biết hỏi tin tức về con ở chỗ nào những lúc con không đến được hoặc khi cần phải có mặt con.
- Thưa phụ hoàng - Hoàng tử Ahmed lại nói - điều Người hỏi là một phần trong điều bi1 mật con đã nói. Con khẩn cầu Người cũng cho con im lặng về điểm ấy, con sẽ trở về luôn, thà bất chợt còn hơn để Người trách con lơ là khi con cần có mặt.
Vua Ấn Độ không ép hoàng tử về việc ấy nữa. Ông nói:
- Con trai, ta không muốn đi sâu hơn về điều bí mật của con, để con hoàn toàn làm chủ mình. Con về đây đã đưa lại cho ta một niềm vui lớn đã tê lâu không cảm nhận được. Con sẽ được hoan nghênh tất cả những lần con có thể đến mà không tổn hại đến công việc hoặc những vui thú của con.
Hoàng tử Ahmed chỉ ở lại triều đình nhà vua ba ngày, ngày thứ tư chàng ra đi sớm và nàng tiên Pari- Banou gặp lại chàng thật vui mừng. Nàng không nghĩ chàng trở lại sớm thế và sự nhanh chóng đó làm nàng tự dằn vặt đã nghi ngờ chàng thiếu chung thuỷ. Nàng không giấu giếm hoàng tử, thú nhận sự yếu đuối của mình và xin lỗi chàng. Hai người càng gắn bó với nhau thắm thiết hơn, người này muốn gì, người kia cũng muốn thế.
Hoàng tử trở lại đã một tháng, nàng tiên Pari-Banou nhận thấy sau khi kể lại chuyến đi, câu chuyện với vua cha và xin phép thỉnh thoảng về thăm, chàng không nói gì về nhà vua nữa. Đoán chắc vì dè chừng đối với nàng nên một hôm nàng bảo chàng:
- Hoàng tử, chàng lãng quên vua cha rồi chăng? Không nhớ lời hứa thỉnh thoảng đến thăm Người ư? Thiếp vẫn nhớ điều chàng kể lại hôm trở lại đây nên nhắc chàng đừng để quá lâu chưa thực hiện lời hứa lần trước.
- Nàng ơi - Hoàng tử Ahmed nói với giọng vui vẻ như nàng tiên - ta không quên lời hứa đâu, thà chịu lời trách của nàng vừa rồi còn hơn bị từ chối vì vội vã làm nàng phiền lòng phải chấp nhận.
- Hoàng tử, thiếp không muốn chàng giữ kẽ như thế đối với thiếp hơn nữa. Để việc tương tự không lặp lại, đã một tháng nay chàng không gặp vua chà, thiếp nghĩ chàng không nên để đợt thăm viếng cách nhau trên một tháng. Ngày mai chàng đi thăm vua cha đi và hàng tháng chàng cứ tiếp tục đi thăm như vậy, không cần phải nói với thiếp hoặc chờ thiếp nói, thiếp sẵn sàng chấp nhận điều ấy.
Hôm sau hoàng tử ra đi cùng đoàn tuỳ tùng lần trước nhưng nhanh gọn hơn, bản thân chàng cũng trang bị đẹp hơn, được vua cha tiếp đón vui vẻ, hài lòng như lần trước. Trong nhiều tháng chàng về thăm vua cha như vậy, bao giờ cũng với đoàn người ngựa sang trọng, rực rỡ hơn.
Cuối cùng một số cận thần của nhà vua xét theo quyền lực của hoàng tử Ahmed qua những trang bị bề ngoài, lợi dụng nhà vua để cho tự do nói, đã làm nảy sinh những ngờ vực về chàng trong lòng ngài. Họ nói ngài cần khôn khéo, phải biết rõ chỗ ở của hoàng tử, chàng dựa vào đâu để chi phí lớn thế trong lúc không có đất phong và lợi tức ổn định, hình như chàng về triều chỉ để thách thức vua cha, tỏ ra không cần ngài chu cấp cho một cuộc sống xứng với hoàng tử và cuối cùng đáng sợ là có thể chàng sẽ xúi giục dân chúng nổi dậy cướp ngôi vua.
Vua Ấn Độ không hề nghĩ hoàng tử Alimed có thể có một âm mưu nguy hại như các cận thần muốn làm ngài tin. Ngài nói với họ:
- Các khanh đùa đấy chứ, con trai ta, thương yêu ta, ta tin chắc vào sự trìu mến và trung thành của chàng nên ta không nhớ đã có điều gì đó làm chàng bất bình về ta không.
Nghe vua nói vậy, một cận thần thừa dịp tâu lên:
- Thưa bệ hạ tuy Người đã suy xét một cách hợp lý nhất để các hoàng tử cùng thoả thuận về đám cưới của công chúa Nourounnihar nào ai biết hoàng tử Ahmed có chấp nhận số phận như hoàng tử Houssain không? Chàng có thể hình dung chỉ mình xứng đáng được hưởng những bệ hạ đáng lẽ ưu tiên cho chàng lại để vấn đề cho số phận quyết định nên chàng chịu bất công.
Ông cận thần ranh mãnh nói thêm:
- Bệ hạ có thể cho rằng hoàng tử Ahmed không thể hiện một sự bất bình nào, nỗl lo sợ của chúng thần là vô ích, chúng thần đã dễ hốt hoảng và gợi ra ở bệ hạ những nghi ngờ về hoàng tử con trai Người là sai và có lẽ không có cơ sở Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể những nghi ngờ ấy có chỗ dựa chắc chắn đấy. Bệ hạ cũng rõ trong một vấn đề tế nhị và quan trọng như vậy phải dựa vào điều chắc chắn nhất. Việc hoàng tử giấu giếm có thể đánh lừa Người và mối nguy cơ còn đáng sợ hơn vì hình như hoàng tử Ahmed ở không xa kinh thành. Thực thế, nếu Người để ý như chúng thần, Người thấy sẽ ngay những lần chàng đến,chàng và tuỳ tùng đều tươi tắn, quần áo của họ, vải phủ ngựa cùng những đồ trang sức ánh lên như vừa trong xưởng làm mới ra. Ngựa cũng không có vẻ vất vả hơn một cuộc đi dạo. Những dấu hiệu hoàng tử Ahmed ngay bên cạnh thật rõ ràng, chúng thần nghĩ nếu không trình với bệ hạ thì chúng thần đã thiếu sót về trách nhiệm bảo vệ Người và quyền lực quốc gia, xin bệ hạ xét xem nếu thấy phù hợp.
Khi viên đại thần kết thúc lời nói dài dòng của mình, nhà vua nói để cắt đứt cuộc trao đổi:
- Dù thế nào ta cũng không nghĩ con trai Ahmed của ta độc địa như các khanh thuyết phục ta. Ta cám ơn những lời khuyên của các khanh, chắc chắn với ý định tốt.
Nhà vua nói như vậy với các cận thần, không để họ biết lời nói của họ có tác động đến tâm trí ngài. Nhà vua cũng không hoảng hốt và quyết định theo dõi hoàng tử Ahmed mà không nói vội tể tướng. Ngài cho gọi mụ phù thuỷ, mụ được đưa vào phòng ngài theo một cánh cửa bí mật. Nhà vua nói:
- Ngươi đã nói đúng khi khẳng định con trai Ahmed của ta không chết và ta chịu ơn ngươi, bây giờ ngươi hãy tạo cho ta một niềm vui khác. Từ khi gặp lại, hoàng tử hàng tháng vẫn đến thăm ta nhưng không nói hiện ở đâu mà ta cũng không muốn buộc chàng phải nói điều bí mật ấy. Ta biết ngươi khá khôn ngoan để thoả mãn sự tò mò của ta mà chàng hay bất cứ một ai trong triều đình cũng không hay biết. Ngươi biết chàng đang ở đây, thường ra về không chào từ biệt ta hoặc một người nào trong triều, ngươi đừng để mất thì giờ ngay hôm nay đón đường hoàng tử xem chàng về đâu và cho ta biết kết quả.
Ra khỏi hoàng cung, mụ phù thuỷ đến ngay chỗ hoàng tử đã tìm thấy mũi tên, giấu mình trong những tảng đá để không ai thấy mình.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed ra đi từ bình minh, theo thói quen không chào từ biệt vua cha hoặc đại thần nào. Mụ phù thuỷ thấy chàng đi tới, nhìn theo mãi cho đến khi chàng và tuỳ tùng đi khuất.
Thấy những tảng đá hình thành một hàng rào chắn những người trần, người hay ngựa đều không vào được vì dốc đứng, mụ phù thuỷ phán đoán chắc hoàng tử vào trong hang hoặc một căn hầm ngẩm mà các thần tiên xây dựng thành chỗ ở. Nghĩ thế khi thấy hoàng tử và tuỳ tùng mất hút, mụ rời khỏi chỗ nấp đi thẳng lại đoạn hõm họ đi vào, bước đến tận chỗ chia la thành ngõ ngách, nhìn tứ phía, đi đi lại lại nhiều lần. Mặc dù nhanh nhẹn, mụ không thấy có lối nào vào hang, cả cánh cửa sắt hoàng tử thấy trước đây cũng không có. Chính vì cánh cửa ấy chỉ những người đàn ông mới thấy, đặc biệt là những người đàn ông có thể được nàng tiên Pali-Banou có cảm tình còn đàn bà thì không trông thấy được.
Mụ phù thuỷ nghĩ tìm tòi thêm cũng vô ích, đành trở về trình bày với vua về sự phát hiện của mình. Mụ kể lại việc làm của mình và nói thêm:
- Thưa bệ hạ, Người cũng rõ qua những điều đã thấy, thần không khó khán lắm trong việc tìm hiểu hành vi của hoàng tử Ahmed. Bây giờ thì thần chưa nói được gì. Thần muốn để bệ hạ biết rõ mà không nghi ngờ gì được. Thần xin Người cho thời gian và lòng kiên trì và cho phép thần làm mọi việc mà không hỏi gì về cách thức thần dự định tiến hành.
Nhà vua chấp nhận theo yêu cầu của mụ phù thuỷ. Ngài bảo:
- Ngươi được chủ động, cứ đi và làm theo cách ngươi thấy thích hợp. Ta kiên trì chờ đợi những lời hứa hẹn của ngươi.
Để khuyến khích, nhà vua tặng mụ một viên kim cương đắt giá, và nói rằng đó chỉ là món quà trong lúc chờ đợi khen thưởng đầy đủ khi công việc hoàn thành.
Biết hoàng tử Ahmed mỗi tháng về thăm triều đình vua cha một lần, mụ phù thuỷ chờ cho tháng này qua đi. Một vài ngày trước cuối tháng, mụ tới chân tảng đá chỗ mất hút hoàng tử và tuỳ tùng, chờ ở đấy với một kế hoạch dự định tiến hành.
Ngày hôm sau, như thường lệ hoàng tử Ahmed ra khỏi cánh cửa sắt với đoàn tuỳ tùng quen thuộc, đi qua gần mụ phù thuỷ chàng vốn không quen. Thấy mụ nằm đấy đầu tựa vào tảng đá, rên rỉ như người bị đau nặng, chàng thương hại quay lại chỗ mụ ta hỏi đau như thế nào và cần giúp đỡ gì.
Mụ phù thuỷ, không ngẩng đầu lên, nhìn hoàng tử một cách đáng thương tâm, giọng ngắt quãng trả lời như khó thở nói rằng mụ đi từ nhà ra thành phố, giữa đường bị cơn sốt rất nặng, không còn sức phải dừng lại trong tình trạng rất xa dân cư không hy vọng được cứu chữa.
- Này bà - Hoàng tử Ahmed nói - bà không xa nơi cứu chữa như bà tưởng đâu. Để tôi cho bà thấy, rất gần đây cô một chỗ người ta sẽ chữa cho bà, thậm chí rất mau khỏi đấy. Bà dậy ngồi lên phía sau ngựa của một người chúng tôi Nghe hoàng tử Ahmed nói thế, mụ phù thuỷ muốn biết chỗ chàng ở, chàng làm gì và số phận ra sao, nên vờ đau quá cố gắng ngồi dậy nhận ngay việc làm ơn ấy. Cùng lúc đó hai kỵ sĩ nhảy xuống giúp mụ đứng lên đưa lên sau lưng ngựa một người khác. Trong lúc họ lên ngựa, hoàng tử quay lại đi đầu, đến trước cánh cửa sắt có một kỵ sĩ ra bước tới trước. Chàng đi vào, không xuống ngựa bảo một kỵ sĩ vào báo chàng muốn gặp nữ chủ.
Nàng tiên Pari-Banou chạy vội ra, không hiểu vì sao, hoàng tử trở lại sớm thế. Không để nàng hỏi, chàng nói ngay:
- Nữ hoàng của ta, hoàng tử nói vừa chỉ vào mụ phù thuỷ đã được hai người đỡ xuống ngựa, ta mong nàng cũng thương hại bà này như ta. Ta vừa gặp bà ta trong tình trạng đau đớn, và đã hứa sẽ chăm sóc bà ấy lúc đang cần. Ta nhờ nàng, đừng bỏ rơi bà ta.
Nàng tiên nhìn vào người đàn bà nói là đau ốm trong lúc hoàng tử nói, ra lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta vào một phòng trong lâu đài và chăm sóc như đối với chính nàng.
Hai thị nữ làm theo lệnh vừa nhận được. Pari-Banou lại gần hoàng tử nhỏ giọng nói:
- Hoàng tử, thiếp hoan nghênh lòng thương người xứng đáng với chàng và nguồn gốc của chàng và thiếp vui lòng đáp ứng với ý định tốt ấy nhưng cho phép thiếp nói với chàng thiếp rất sợ ý định tốt ấy không được đền đáp xứng
đáng. Thiếp thấy người đàn bà này có vẻ không đau ốm như bà ta tỏ ra thế và thiếp rất lầm nếu bà không làm quá đi để làm hại chàng. Nhưng chàng đừng ngại, dù người ta có mưu mô như thế nào để phản lại chàng, cứ tin chắc thiếp sẽ giải thoát cho chàng khỏi mọi cạm bẫy. Chàng cứ đi, tiếp tục hành trình của mình.
Lời nói đó không làm hoàng tử hốt hoảng, chàng lại nói:
- Nữ hoàng của ta, ta không nhớ đã làm hại ai và cũng không có ý định ấy nên nghĩ chẳng có ai muốn làm hại mình, dù sao ta vẫn không thôi làm điều tốt khi có dịp.
Nói xong chàng từ biệt nàng tiên trở lại con đường bị gián đoạn vì mụ phù thuỷ và một lúc sau cùng tuỳ tùng đến hoàng cung. Nhà vua tiếp đón chàng gần như bình thường cố gắng không lộ ra những nghi ngờ các cận thần gây ra cho ngài.
Hai thị nữ theo lệnh nàng tiên đưa mụ phù thuỷ vào một gian phòng đẹp, trang trí sang trọng. Lúc đầu họ để mụ ngồi lên một chiếc xô pha tựa vào gối gấm vàng. Sau đó họ giúp mụ nằm lên giường (vì mụ phù thuỷ vẫn giả vờ đang sất cao mệt mỏi), một người ra ngoài một lúc đưa vào một cốc nước cho mụ trong lúc người kia đỡ mụ ngồi lên.
- Bà uống cốc nước này đi - Thị nữ nói - đây là nước giếng Sư Tử, sốt nào cũng chữa khỏi. Không đầy một giờ bà sẽ thấy tác dụng ngay.
Mụ phù thuỷ muốn giả vờ như thật, phải để đề nghị nhiều lần giả như ghê sợ phải uống thuốc. Cuối cùng mụ cầm chiếc cốc, uống hết nước, vừa lắc đầu mạnh như cố gắng lắm. Khi mụ đã nằm lại, hai thị nữ đắp chăn kỹ cho mụ và người đưa nước uống nói:
- Bà cứ ngủ đi, nếu muốn ngủ. Chúng tôi để bà yên tĩnh, hy vọng khoảng một giờ nữa chúng tôi trở lại thấy bà đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Mụ phù thuỷ không phải đến để ốm lâu mà chỉ để thăm dò chỗ ở của hoàng tử và nguyên nhân buộc chàng phải giấu vua cha, thấy mình đã biết khá rõ, muốn nói ngay liều thuốc đã có tác dụng, muốn ra về để báo cáo kết quả với nhà vua. Vì người ta không nói nước có tác dụng ngay nên mụ đành chờ hai thị nữ trở vào.
Hai người thị nữ đến theo giờ đã nói, thấy mụ phù thuỷ đã ngồi dậy trên ghế, mặc quần áo tử tế và đứng lên khi thấy họ bước vào. Mụ kêu lên:
- Chà, nước- thuốc thật hay, có hiệu quả sớm hơn nhiều so với lời các cổ nói, tôi phải nóng lòng chờ, đã đến lúc nhờ các cô dẫn, tôi vào gặp nữ chủ để cám ơn đã được chữa khỏi bệnh như có phép lạ, tôi phải tiếp tục đi.
Hai thị nữ, cũng là các nàng tiên như chủ của họ, sau khi thể hiện vui mừng vì mụ chóng khỏi bệnh, đi trước dẫn đường qua nhiều gian phòng, tất cả đều lộng lẫy, họ vào phòng khách đẹp nhất và trang bị sang trọng nhất –trong lâu đài.
Pari-Banou ở trong phòng khách, ngồi trên một ngai vàng, trang điểm thêm những kim cương, hồng ngọc, ngọc trai kích thước khác thường, bên phải, trái có một số lớn nàng tiên, tất cả đều đẹp tuyệt vời và quần áo lộng lẫy. Thấy bao nhiêu màu sáng chói và oai vệ, mụ phù thuỷ không chỉ loá mắt mà sững sờ cả người, quỳ xuống trước ngai vàng không mở được miệng để cám ơn như đã dự định. Pari-Banou miễn cho mụ khỏi phiền hà, lên tiếng:
- Này bà, ta vui lòng gặp dịp bà phải đến đây và thấy bà đã hồi phục để tiếp tục lên đường. Ta không giữ bà lại nhưng có lẽ bà không phiền lòng được thấy lâu đài của ta. Bà đi với cáo thị nữ của ta; họ sẽ đưa bà đi xem.
Mụ phù thuỷ vẫn sững sờ: quỳ lạy lần thứ hai, trán cúi sát tấm thảm phủ chân ngai vàng chào tạm biệt, không đủ sức và can đảm nói một lời, để hai nàng tiên dẫn đi. Mụ kinh ngạc và luôn miệng tấm tắc khen từng gian phòng, cũng đầy những của cải và vẻ đẹp mà hoàng tử Ahmed đã thấy khi nàng tiên Pari- Banou dẫn chàng đi tham quan lâu đài lần đầu. Điều làm mụ thán phục hơn là sau khi được xem toàn bộ lâu đài, mụ nghe hai nàng tiên nói những gì thấy ở đây chỉ là hình mẫu về sự sống lớn và quyền lực của nữ chủ họ, trong quốc gia mênh mông. Nàng có những lâu đài khác nhiều không kể xiết, tất cả đều kiến trúc kiểu dáng khác nhau không kém phần đẹp lộng lẫy.Vừa nói một số chi tiết họ vừa đưa mụ ra cánh cửa sắt mà hoàng tử đã dẫn mụ vào, mở cửa chúc mụ lên đường mạnh khoẻ và họ chia tay nhau.
Đi mấy bước, mụ phù thuỷ ngoảnh lại quan sát để nhận rõ cánh cửa nhưng vô ích, cửa đã trở thành không trông thấy được đối với mụ cũng như mọi người phụ nữ khác. Mụ đành trở về gặp nhà vua theo đường tắt, khá hài lòng đã đạt yêu cầu. Mụ được đưa vào cửa bí mật của lâu đài. Nghe tin mụ đến, nhà vua đến gặp, thấy nét mặt buồn ngài đoán không có kết quả và nói với mụ:
- Nhìn thấy bà, ta cho rằng chuyến đi của bà không được việc, không làm rõ được điều ta chờ đợi.
- Thưa bệ hạ - mụ phù thuỷ đáp - Người cho phép thần không nói về tâm trạng của thần khi thực hiện việc thần được giao làm vinh dự cho thần mà xin trình bày thật thà những gì thần làm, không bỏ quên đíều gì để xứng đáng với sự uỷ thác của Người và mọi việc đã xảy ra như thế nào. Việc Người thấy nét mặt thần buồn do một nguyên nhân khác chứ không vì công việc không kết quả, mong Người sẽ hài lòng. Thần không nói về nguyên nhân; câu chuyện thần kể sẽ làm Người biết rõ nếu Người bình tĩnh nghe cho.
Mụ phù thuỷ bèn kể với vua Ấn Độ mình đã vờ bị đau ốm ra sao, được hoàng tử Ahmed thương hại, cho dẫn vào một chỗ ở dưới mặt đất, giới thiệu và uỷ thác cho một nàng tiên sắc đẹp không gì trên trần đời sánh nổi chăm sóc mụ. Nàng tiên lệnh cho hai tiên nữ cùng đi phụ trách việc chạy chữa mụ cho đến khi bình phục, thái độ tỏ ra chỉ có từ một người vợ đối với người chồng.
Mụ hơi cường điệu sự ngạc nhiên của mình khi thấy mặt ngoài lâu đài của nàng tiên, cho rằng không lâu đài nào trên đời sánh bằng trong lúc hai tiên nữ xốc tay hai bên người mụ như một bệnh nhân không bước được nếu không có họ hỗ trợ. Mụ kể chi tiết sự sốt sắng của họ giúp đỡ mụ khi ở phòng mụ được đưa vào, cốc nước thuốc họ cho uống và tác dụng chữa khỏi nhanh chóng cũng giả vờ như căn bệnh tuy mụ tin chắc vào hiệu nghiệm của nước thuốc, vào sự uy nghi của nàng tiên ngồi trên ngai vàng trang trí đá quý giá trị hơn hẳn mọi tài sản của vương quốc Ấn Độ. Cuối cùng mụ nói về những của cải vô biên không ước tính được chung cũng như riêng trong lâu đài bao la.
Mụ phù thuỷ kết thúc kết quả về nhiệm vụ của mình và nói tiếp: Thưa bệ hạ, Người nghĩ thế nào về tài sản vô giá của nàng tiên? Có lẽ Người sẽ cho là đáng khâm phục và vui vì vận may của hoàng tử Ahmed con trai người được hưởng thụ chung với nàng tiên. Riêng thần, xin khẩn cầu bệ hạ tha tội cho dám tỏ ra nghĩ khác hẳn, thậm chí sợ có thể hoàng tử sẽ gặp tai hoạ. Và chính vì vậy thần không giấu được nỗi lọ lắng mà Người đã nhận thấy. Thần nghĩ rằng hoàng tử với bản chất tốt tự nhiên, không thể tiến hành việc gì chống lại bệ hạ nhưng ai biết được với sự hấp dẫn, trìu mến và quyền lực đã chiếm được tâm trí chồng, nàng tiên ấy không gợi lên ý định nguy hiểm thay chỗ của bệ hạ, chiếm lấy vương quốc Ấn Độ. Xin Người hết sức lưu ý về một việc quan trọng như thế.
Dù tin chắc vào bản chất tốt đẹp của hoàng tử Ahmed, vua Ấn Độ không khỏi bị lời mụ phù thuỷ tác động. Ngài cho mụ lui xuống vừa nói: “Ta cám ơn ngươi về công khó nhọc và về lời khuyên. Ta biết tầm quan trọng của điều ấy nên không thể giải quyết mà không bàn bạc”.
Khi người ta báo tin mụ phù thuỷ đến, ngài đã trao đổi với những cận thần đã nêu lên những nghi ngờ về hoàng tử con trai ngài. Sau khi mụ phù thuỷ trình bày sự việc, ngài cho gọi họ tới cho họ biết tình hình và cũng nói cả chuyện sợ nàng tiên làm tâm trí hoàng tử thay đổi và nêu chuyện đề phòng việc không hay bằng cách nào.
Một trong những cận thần thay mặt tất cả trả lời:
- Để đề phòng việc không hay, thưa bệ hạ, vì Người biết ai có thể trở thành thủ phạm, vốn đang ở trong triều và Người có quyền làm, Người không nên ngần ngại ít nhất cũng cho bắt giam lại trong ngục tối suốt quãng đời còn lại, thần không muốn nói là giết đi sợ có tiếng vang quá lớn.
Những cận thần khác đồng thanh hoan nghênh ý kiến đó.
Mụ phù thuỷ thấy biện pháp ấy quá tàn bạo, xin phép nói:
- Thưa bệ hạ, thần chắc chắn vì sốt sắng cho lợi ích của bệ hạ mà các đại thần đề nghị Người cho bắt giam hoàng tử Ahmed. Nhưng các vị ấy không thấy khi bắt hoàng tử là đồng thời phải bắt cả những người đi theo chàng mà họ lại là các vị thần. Các vị nghĩ dễ dàng bắt được họ chăng? Với tính chất vốn có họ sẽ biến mất và đi báo với nàng tiên nữ chủ về việc nhục mạ chồng nàng. Nàng tiên sẽ để yên không báo thù ư? Nếu có cách nào đó, ít gây ầm hơn, bệ hạ có thể vạch rõ những ý đồ xấu của hoàng tử Ahmed mà không ai ngờ được ý định của bệ hạ có lẽ phù hợp hơn. Nếu bệ hạ tin lời thần khuyên do những thần tiên có những điều người đời không làm nổi, Người khích hoàng tử nhờ nàng tiên làm điều gì thật cao xa với lý do vì lợi ích chung mà hoàng tử có nhiệm vụ. Ví dụ mỗi lần bệ hạ muốn ra trận, Người buộc phải chi phí rất lớn về cờ, tăng bạt cho cả đoàn quân cả lạc đà, lừa ngựa để hành quân. Phải chăng nên bảo hoàng tử, với của cải chàng có được chỗ nàng tiên, chàng hãy kiếm một lá cờ cầm tay mà phủ được hết đoàn quân. Nếu hoàng tử đem lá cờ đến, ta lại còn bao nhiêu yêu cầu loại ấy có thể đòi hỏi nữa, cho đến lúc chàng lâm vào những khó khăn không thực hiện được, dù nàng tiên đã cướp chàng đi giàu có và sáng tạo đến mức nào. Như vậy chàng sẽ xấu hổ, đành suốt đời ở bên cạnh nàng tiên không dám xuất hiện ngoài đời nữa, bệ hạ không còn lo gì hoạt động của chàng và người ta không thể chê trách Người làm đổ máu một đứa con trai hoặc cấm cố con suốt đời.
Mụ phù thuỷ nói xong, nhà vua hỏi các cận thần có cách gì đề nghị hơn không và thấy họ im lặng, ngài quyết định theo lời khuyên của mụ phù thuỷ, có vẻ hợp lý hơn vả lại điều đó cũng phù hợp với sự nhẹ nhàng ngài vẫn dùng trị nước.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed đến trình vua cha đang họp bàn với các cận thần, chàng lại ngồi gần nhà vua và sự có mặt của chàng không cản trở hội đồng trao đổi nhiều vấn đề trong một lúc nữa. Sau đó nhà vua lên tiếng nói với hoàng tử:
- Con trai ta, khi con về cất cho ta nỗi buồn sâu sắc vì vắng con lâu ngày, con giữ bí mật nơi con ở, ta hài lòng được gặp lại con và biết con thoả mãn về số phận mình, ta không muốn đi sâu vào điều con muốn giữ kín. Ta không hiểu vì lý do gì con có thể như vậy với một người cha luôn quan tâm đến hạnh phúc của con. Bây giờ ta biết hạnh phúc ấy, ta vui mừng cho con và chấp nhận việc con thành hôn với một nàng tiên xứng đáng được yêu, giàu có và quyền lực đến thế như ta được Người ta báo lại. Ta có quyền lực thật nhưng không thể tạo cho con một cuộc hôn nhân như vậy. Với dòng dõi của con, có ai khác ngoài một người cha như ta mơ ước điều ấy, ta mong con không những sống với ta hiếu thảo như cho đến nay con vẫn làm mà còn dùng tiền nong con có được bên cạnh nàng tiên vợ con để hỗ trợ ta những lúc cần thiết và hôm nay ta muốn con đưa vốn liếng ra thử thách. Con cũng biết chi phí rất lớn, không nói đến sự lúng túng mà tướng tá của ta và cả bản thân ta phải gánh chịu những lần đưa quân ra chiến trường để cung cấp cờ, tàng bạt, lạc đà và những vật chở khí cụ khác. Nếu con quan tâm đến việc làm vui lòng ta, ta chắc con không khó khăn gì nói với nàng tiên cho con một lá cờ nắm trong tay mà che phủ được toàn đoàn quân của ta nhất là khi con cho nàng biết lá cờ đó đành cho ta. Khó khăn của việc đó chắc sẽ không làm con từ chối. Mọi người đều biết thần tiên có quyền lực làm nên những điều kỳ lạ nhất.
Hoàng tử Ahmed không ngờ vua cha đòi hỏi chàng một điều như thế, chàng thấy điều đó có vẻ rất khó khăn nếu không nói không thể được. Thực vậy, tuy chàng biết quyền lực của thần tiên rất lớn nhưng nghi ngờ nàng có thể làm ra một lá cờ như vua đề nghị. Vả lại cho đến lúc đó chàng chưa hề yêu cầu Pari- Banou điều gì. Chàng chỉ hài lòng về những cử chỉ luôn luôn yêu chàng say mê, không quên xác định đền đáp lại nàng hết lòng, không nghĩ đến lợi ích gì khác ngoài việc giữ gìn trân trọng lòng quý mến ấy. Vì vậy chàng rất lúng túng khi trả lời:
- Thưa bệ hạ, con giữ km việc đã xảy ra với con và xung quanh, trường hợp con đã tìm được mũi tên vì con thấy không cần thiết trình bày rõ với Người. Con không rõ do đâu mà bí mật ấy được báo cáo với bệ hạ con không giấu giếm điều người ta nói là sự thực. Con là chồng của một nàng tiên, con yêu nàng và chắc chắn nàng cũng yêu con. Nhưng về tiền nong con có được từ nàng như bệ hạ nghĩ thì con không thể nói gì được. Vì không chỉ con không sử dụng mà con cũng không hề có ý nghĩ đó và con mong Người miễn cho con đụng chạm tới, để cho con hưởng niềm hạnh phúc yêu và được yêu, không quan tâm đến việc gì khác. .Nhưng điều mà một người cha yêu cầu là mệnh lệnh đối với một đứa con trai như con, con cho là có nhiệm vụ phải vâng lời về mọi việc. Mặc dù con rất chán ngán việc đó, con sẽ đề nghị với vợ con làm theo yêu cầu của bệ hạ nhưng con không dám hứa là sẽ có. Và nếu con không được vinh dự đến thăm Người thì đó là dấu hiệu con không đạt hiệu quả mong muốn, xin bệ hạ gia ân tha thứ cho con trước và xem như Người đã đưa con đến tình trạng cuối cùng ấy.
Nhà vua lại nói với hoàng tử:
- Con trai, ta rất phiền lòng vì yêu cầu của ta gây cho con không vui và có thể ta sẽ không được gặp lại con. Ta thấy rõ con không biết đến quyền một người chồng đối với vợ, vợ con tỏ ra chỉ yêu con rất ít nếu nàng từ chối một việc không là gì đối với quyền lực của nàng mà con yêu cầu vì yêu mến ta. Con bỏ lối dè dặt đi, chỉ do con nghĩ không được yêu như con yêu thôi. Con cứ đề nghị và sẽ thấy nàng tiên yêu con hơn con nghĩ và nên nhớ do không yêu cầu, người ta sẽ thiệt thòi nhiều lợi thế lớn. Con cứ suy ra, nếu nàng đòi hỏi gì con sẽ không từ chối vì con yêu nàng thì nàng cũng không từ chối điều gì con yêu cầu vì nàng yêu con.
Lời nói của nhà vua không thuyết phục được hoàng tử Ahmed. Chàng muốn người ta đòi hỏi chàng điều gì khác hơn là làm mất lòng Pari-Banou thân yêu của chàng. Cảm thấy buồn, chàng rời hoàng cung sớm hơn thường lệ hai ngày. Gặp chồng, nàng tiên cho đến nay bao giờ cũng thấy chàng về với mình nét mặt hoan hỉ, hỏi về nguyên nhân sự thay đổi đó. Thay vì trả lời, chàng hỏi thăm sức khoẻ của nàng với thái độ cho thấy chàng không muốn cho biết. Nàng nói:
- Thiếp sẽ trả lời câu hỏi của chàng khi nào chàng trả lời câu hỏi của thiếp.
Hoàng tử chống chế khá lâu nói rằng không có việc gì nhưng chàng càng giấu giếm nàng càng hối thúc.
- Thiép không thể nhìn chàng trong tình trạng này - Nàng nói - Chàng hãy nói điều gì làm mình phiền lòng để thiếp xoá bỏ nguyên nhân dù đến thế nào: chắc điều phải thật khác thường nếu không phải là cái chết của phụ hoàng. Nếu thế thiếp sẽ cố giúp phần và thời gian sẽ an ủi chàng.
Hoàng tử Ahmed không thể chống chế lâu hơn trước sự gặng hỏi nhiệt tình của vợ. Chàng nói:
- Nàng ạ, Chúa kéo dài cuộc sống của vua cha và ban phúc cho Người đến suốt đời? Ta từ biệt Người khi Người đầy sức sống và hoàn toàn khoẻ mạnh, không phải vì điều đó mà ta buồn. Chính bản thân phụ hoàng là nguyên nhân làm ta rất chán ngán vì Người buộc ta phải quấy rầy nàng. Trước hết, nàng biết là ta cẩn thận giấu Ngựời về hạnh phúc ta được gặp nàng, yêu nàng và nhận ân huệ, tình yêu của nàng, chúng ta cùng đưa lại niềm tin cho nhau nhưng không biết do đâu mà Người biết được mọi chuyện.
Nàng tiên Pari-Banou ngắt lời chàng:
- Còn thiếp, thiếp biết điều đó. Chàng có nhớ điều thiếp đã nói về người đàn bà làm chàng tin bị đau ốm và thương hại: chính bà ta báo với vua cha những gì chàng đã giấu Người. Thiếp đã nói bà ta không đau ốm gì như chàng và thiếp, thật đúng như vậy. Thực thế sau khi uống nước chữa bệnh thị nữ đưa cho mà thực ra không cần dùng, bà ta giả vờ nhờ nước ấy mà khỏi bệnh và vội đến chào từ biệt để ra về nếu thiếp không lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta đi xem khắp lâu đài. Nhưng chàng nên tiếp tục đi, xem vua cha buộc chàng quấy rầy thiếp như thế nào, điều mà thiếp cam đoan với chàng thiếp sẽ không hề bị khó khăn gì.
- Nàng có thể nhận thấy cho đến nay, ta rất hài lòng được nàng yêu, ta không xin nàng một ân huệ nào khác. Có một người vợ đáng yêu như vậy ta còn mong gì hơn nữa? Ta cũng biết nàng có quyền lực nhưng nghĩ mình có nhiệm vụ không đưa ra thử thách. Nàng hãy biết cho, ta đoán chắc với nàng, không phải ta mà là vua cha đã thiếu tế nhị yêu cầu nàng cho Người một lá cờ cầm tay mà che kín gió mưa toàn bộ triều đình và đoàn quân của Người khi ra trận. Một lần nữa ta muốn nói, không phải ta mà chính vua cha đề nghị nàng ân huệ đó.
- Hoàng tử thiếp phiền lòng vì một điều nhỏ nhặt như thế đã làm chàng bối rối, tâm trí bị xáo trộn như thiếp thấy. Thiếp thấy rõ hai điều: một là nguyên tắc chàng đặt ra cho mình chỉ yêu thiếp và được yêu, không yêu cầu điều gì phải dùng đến quyền lực của thiếp, hai là theo thiếp nghĩ tuy chàng không nói ra, chàng hình dung yêu cầu của vua cha vượt quá khả năng của thiếp. Về điều thứ nhất thiếp hoan nghênh chàng, càng yêu chàng hơn nếu có thể. Điều thứ hại, thiếp chẳng phiền phức gì để chàng biết đấy chỉ là một việc vặt, có dịp thiếp còn có thể làm việc khác khó hơn. Chàng hãy bình tâm nghỉ ngơi, hãy tin rằng thay vì bị quấy rầy, thiếp luôn rất vui lòng thoả mãn những điều gì chàng mong muốn vì tình yêu của thiếp đối với chàng.
Nói xong nàng tiên cho gọi người trông nom kho. Người coi kho đến, nàng tiên bảo: “Nourgihan (tên người coi kho), đem đến cho ta lá cờ lớn nhất trong kho . Một lúc sau Nourgihan trở lại, đưa lá cờ tới không chỉ cầm trong tay mà có thể nắm kín trong tay, nữ chủ cầm lấy đặt vào trong tay hoàng tử.
Ahmed nghe Pari- Banou bảo lấy trong kho lá cờ lớn nhất, chàng nghĩ nàng muốn chế nhạo mình, nét mặt và thái độ tỏ vẻ ngạc nhiên. Nàng tiên thấy vậy phá lên cười:
- Sao? Hoàng tử tưởng thiếp chế nhạo chàng ư? Chàng sẽ thấy thiếp không đùa đâu! Nourgihan – nàng vừa nói vừa lấy lại lá cờ trong tay hoàng tử đưa cho người coi kho - hãy giương lá cờ lên để hoàng tử xem vua cha của chàng có cho là bé hơn yêu cầu không.
Người coi kho ra khỏi lâu đài, đi khá xa để khi đường lá cờ đầu cờ đến một phía bên lâu đài. Hoàng tử nhận thấy ngay lá cờ không phải bé hơn mà lớn đến mức che kín được cả hai đoàn quân của vua cha. Chàng bèn nói:
- Nữ hoàng, ta xin lỗi vì đã hoài nghi. Theo như ta thấy, ta nghĩ không có điều gì nàng muốn làm mà không được.
- Chàng xem - Nàng tiên bảo - lá cờ lớn hơn sự cần thiết. Nhưng chàng chú ý nó có đặc tính căng rộng thêm hoặc thu nhỏ lại phù hợp với kích cỡ cần che mà người ta không phải bỏ tay vào.
Người coi kho bỏ lá cờ xuống, thu nhỏ như ban đầu và đặt vào tay hoàng tử. Ahmed cầm lấy và ngày hôm sau, không chần chừ lâu, lên ngựa có tháp tùng như thường lệ, đưa đến cho phụ hoàng.
Nhà vua chắc chắn một lá cờ như ngài đòi hỏi vượt ra ngoài mọi khả năng, ngài rất ngạc nhiên thấy con trai mau chóng trở lại. Ngài nhận lá cờ, khen nó nhỏ gọn, sửng sốt khó định thần khi cho căng rộng biết rằng hai đoàn quân lớn như của ngài có thể được che kín thừa thãi. Thấy ngài cho như thế khó sử dụng, hoàng tử Ahmed báo với ngài độ che phủ bao giờ cũng cân đối phù hợp với đoàn quân.
Bề ngoài nhà vua tỏ ra cảm động vì hoàng tử đã cho ngài một món quà quý giá, nhờ chàng cảm ơn nàng tiên và sai người đưa vào giữ cẩn thận trong kho. Nhưng trong thâm tâm ngài ghen tức dữ dội hơn những cận thần nịnh bợ và mụ phù thuỷ đã gợi lên nghĩ rằng con trai ngài nhờ nàng tiên có thể làm những việc cao hơn nhiều so với dòng dõi mình tuy đã lớn mạnh và giàu có. Vì thế ngài càng tích cực hơn trong việc tìm cách tiêu diệt hoàng tử. Ngài hỏi ý kiến mụ phù thuỷ, mụ khuyên nên đòi hỏi hoàng tử đưa nước giếng Sư Tử về.
Buổi chiều trong lúc họp triều thần như thường lệ, có hoàng tử Ahmed tham dự, ngài bảo hoàng tử:
- Con trai, ta đã chịu ơn con về lá cờ con tặng, xem như vật quý nhất trong kho hoàng cung, vì thương mến ta con hãy làm cho ta một việc khác ta không kém phần thích thú. Ta được biết nàng tiên vợ con dùng loại nước ở giếng Sư Tử chữa khỏi mọi căn bệnh nguy hiểm nhất. Sức khoẻ của ta đối với con là trọng, ta chắc con sẵn lòng xin cho ta một thùng, đem về cho ta làm thuốc quý khi cần. Con hãy giúp ta việc quan trọng này, để tâm huyết vào đó như của một đứa con hiếu thảo đối với cha.
Hoàng tử Ahmed nghĩ vua cha đã hài lòng vì có lá cờ đặc biệt và rất có ích, sẽ không giao một nhiệm vụ khác có thể phiền hà đến Pari-Banou, chàng sững sờ vì yêu cầu này tuy nàng đã đảm bảo làm mọi việc cho chàng theo quyền lực của mình. Sau một lúc im lặng, chàng nói:
- Thưa bệ hạ, con khẩn cầu Người tin rằng con sẵn sàng làm mọi việc để góp phần kéo dài tuổi thọ của Người nhưng con mong không có sự can thiệp của vợ con, vì vậy con không dám hứa sẽ mang về loại nước ấy. Tất cả những gì con có thể làm là con sẽ đề nghị với nàng nhưng con cũng thật khổ tâm như con đã nêu ra chuyện lá cờ.
Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed trở về bên cạnh nàng tiên Pari- Banou, thành thật kể lại việc mình làm ở triều đình khi trình diễn lá cờ, nhận được lòng biết ơn vô cùng đối với nàng và cũng nói về yêu cầu mới của vua cha. Kết thúc câu chuyện, chàng nói thêm:
- Nữ hoàng của ta, ta nêu ra điều đó như kể chuyện lại với nàng về việc xảy ra giữa phụ hoàng và ta, phần còn lại thuộc về nàng, thoả mãn lời đề nghị của Người hay bỏ đi tuỳ theo ý nàng, ta chỉ muốn như lòng nàng muốn.
- Không, không - Pari-Banou nói - thiếp rất vui khi biết vua cha thấy chàng không thờ ơ với thiếp. Thiếp muốn làm Người hài lòng và vì mụ phù thuỷ khuyên Người những gì (thiếp thấy rõ Người nghe lời mụ), Người sẽ không trách cứ được chàng và thiếp. Có sự độc ác trong lời yêu cầu đó.Giếng Sư Tử ở giữa sân một lâu đài có bốn con sư tử mạnh nhất canh cửa lần lượt hai con ngủ hai con thức. Nhưng chàng đừng sợ hãi, thiếp sẽ chỉ cho chàng cách đi giữa chúng không gặp nguy hiểm gì.
Nàng tiên lúc đó đang may vá, bên cạnh có những cuộn chỉ nàng cầm lấy một cuộn đưa cho hoàng tử:
- Trước hết - Nàng nói - chàng cầm lấy cuộn chỉ này, thiếp sẽ bảo chàng cách sử dụng. Thứ hai chàng cho chuẩn bị hai con ngựa, một chàng cưỡi lên và một dắt tay mang một con cừu giết thịt từ hôm nay chia làm bốn phần. Thứ ba chàng cầm một chiếc thùng thiếp sẽ đưa để lấy nước. Ngày mai vào sáng sớm chàng lên ngựa vừa dắt con ngựa kia, khi ra khỏi cánh cửa sắt chàng vứt cuộn chỉ ra trước mặt; cuốn chỉ sẽ lăn đi đến tận cổng lâu đài. Chàng đi theo đến đấy, hai con thức canh phòng sẽ đánh thức hai con đang ngủ ngáy râm ran. Chàng đừng sợ, ném cho mỗị con một phần cừu, nhưng phải nhớ không xuống ngừa. Làm xong chàng thúc ngựa, nhanh nhẹn lại bên giếng múc nước đầy thùng, cũng không xuống ngựa, phi trở ra nhanh. Những con sư tử mải ăn sẽ để chàng tự do đi qua.
Hôm sau hoàng tử ra đi theo lời nàng tiên dặn, thực hiện từng điểm một theo lời nàng. Đến cổng lâu đài chàng ném bốn chân cừu cho bốn con Sư tử, rồi dũng cảm phóng qua chúng, ,vào sát giếng múc nước và trở lại, bình yên ra khỏi lâu đài. Khi đã hơi xa, ngoảnh lại nhìn chàng thấy hai con sư tử chạy theo mình; chàng rút gươm sẵn sàng tự vệ. Nhưng thấy một con quay lại lắc đầu và đuôi tỏ ra không phải đến làm hại chàng mà để đi trước chàng còn con kia ở lại phía sau đi theo. Chàng tra gươm vào vỏ tiếp tục đến kinh thành, có hai con sư tử tháp tùng cho đến cổng hoàng cung rồi trở lại con đường cũ làm một phần dân chúng sợ hãi chạy trốn đề khỏi gặp chúng tuy chúng bước đều không có biểu hiện nào hung dữ.
Nhiều quân lính chạy tới giúp hoàng tử xuống ngựa, đi theo chàng đến hoàng cung nơi nhà vua đang hội họp với cận thần. Chàng tiến lại gần ngai vàng, đặt thùng nước trước chân vua cha, hôn tấm thảm phủ bậc lên xuống rồi đứng dậy nói:
- Thưa phụ hoàng, đây là nước chữa bệnh Người muốn đưa vào làm những vật quý hiếm làm dồi dào kho tàng hoàng cung. Con kính chúc phụ hoàng luôn luôn dồi dào sức khoẻ để không bao giờ phải dùng đến nó.
Hoàng tử nói xong, vua bảo ngồi vào bên phải mình và nói:
- Con trai, ta chịu ơn con về quà tặng của con càng nhiều khi con phải đối mặt với nguy hiểm vì tình thương yêu ta. (Ngài đã được mụ phù thuỷ bẩm báo về giếng Sư Tử và mối nguy hiểm khi đi lấy nước). Con cho ta biết con đã khôn khéo như thế nào, đúng hơn là do sức mạnh không ngờ được nào mà con vẫn an toàn.
- Thưa phụ hoàng - Hoàng tử trả lời - con không có được một phần nào về lời khen của Người mà hoàn toàn do nàng tiên vợ con, con chỉ nghe theo lời khuyên của nàng.
Chàng kể lại việc bố trí của vợ và chàng đã làm như thế nào. Nghe hoàng tử nói xong, nhà vua đã tỏ rõ sự vui mừng nhưng trong lòng sự ghen tị ấy vẫn càng tăng thêm, ngài đứng dậy vào bên trong lâu đài gặp mụ phù thuỷ được ngài cho gọi đến.
Mụ phù thuỷ qua tiếng đồn biết kết quả hoàng tử đưa về liền nghĩ ra một mưu mô khác chắc chắn thành công như mụ nghĩ. Mụ trao đổi cách đó với nhà vua và ngày hôm sau trong cuộc họp hội đồng triều thần có mặt hoàng tử Ahmed, nhà vua nói vói hoàng tử:
Con trai, ta chỉ còn một điều xín con, sau đó ta không buộc con vâng lời nữa, cũng không đòi hỏi đến tiền nong của nàng tiên vợ con. Đấy là dẫn đến cho ta một người đàn ông biết nói cao không đến một bộ rưỡi, bộ râu dài ba mươi bộ, mang trên vai một thanh sắt nặng năm trăm li-vrơ mà ông ta dùng như một chiếc gậy hai đầu .
Hoàng tử Ahmed không tin trên đời có một người như thế, muốn từ chối nhưng nhà vua nằng nặc yêu cầu, nói rằng nàng tiên có thể làm những điều không tưởng tượng được.
Ngày tiếp theo hoàng tử trở về vương quốc trong lòng đất của Pari-Banou, nói về yêu cầu mới của vua cha mà chàng xem còn không thể có được như hai lần trước.Chàng nói:
- Ta không thể hình dung trên đời có thể có loại người như thế. Chắc Người. muốn thử xem ta có chịu đi tìm không hoặc nếu có thì ý đồ của Người là muốn tiêu diệt ta. Thực thế, làm sao Người có thể cho rằng ta bắt được một người bé nhỏ như vậy và trang bị vũ khí theo cách đó? Ta phải dùng những biện pháp nào để có thể chinh phục một người như thế vâng theo ý muốn của ta được? Nếu có thề, mong nàng gợi ý cho ta cách thoát khỏi mưu kế thâm hiểm này một cách vinh dự.
- Hoàng tử của thiếp đừng hoảng hốt. Đi lấy nước ở giếng Sư Tử còn phải trải qua nguy hiểm nhưng tìm người này không phải lo ngại gì. Người ấy là anh thiếp, Schalbar, không giống thiếp tí nào tuy cùng là con một cha, bản chất rất dữ tợn, không có gì ngăn cản được anh ấy hành động đổ máu nếu người ta làm anh phật lòng hoặc xúc phạm anh. Ngoài ra anh là người tốt nhất trên đời và bao giờ cũng sẵn sàng giúp mọi điều người ta mong muốn. Anh ấy đúng như Vua cha đã tả, vũ khí chỉ là thanh sắt nặng, không có nó không bao giờ anh bước đi và anh ấy dùng nó để mọi người kính trọng. Thiếp sẽ mời anh ấy đến nhưng trước hết, chàng phải chuẩn bị tinh thần để khi gặp không sợ hãi về khuôn mặt khác thường của anh ấy.
- Nữ hoàng của ta - Hoàng tử Ahmed lại nói - Schaibar là anh của nàng? Dù xấu xí và hình dạng như thế nào, thay vì sợ hãi khi gặp anh, ta sẽ làm cho anh ấy thương yêu ta và là người thân cận nhất của ta.
Nàng tiên cho đưa vào tiền sảnh lâu đài một lò lửa và một chiếc hộp. Nàng lấy từ hộp ra một loại hương vị thơm vứt vào bếp lò, một làn khói dày bốc lên.
Một lúc sau nàng nói với hoàng tử:
- Hoàng tử, anh thiếp đến đấy, chàng có thấy không?
Hoàng tử nhìn kỹ, nhận ra Schaibar, cao một bộ rưỡi, nghiêm trang bước tới với thanh sắt nặng năm trăm li-vrơ trên vai, bộ râu dài ba mươi bộ vươn ra phía trước, ria mép cân đối vòng lên đến tai che hầu hết khuôn mặt, đôi mắt lợn hõm sâu trong chiếc đầu đồ sộ đội một chiếc mũ nhọn.
Thêm vào đó, ông ta gù người cả trước và sau.
Nếu hoàng tử Ahmed không được biết trước Schaibar là anh của Pari-Banou, chàng không thể không sợ hãi khi gặp. Yên tâm vì mối quan hệ đó, chàng vững vàng chờ ông ta đến và tiếp đón ông không một biểu hiện yếu đuối nào.
Schalbar vừa tiến đến vừa nhìn hoàng tử với con mắt làm chàng lạnh toát người, chào Pạri-Banou và hỏi người này là ai nàng trả lời:
- Thưa anh đây là chồng em, tên là Ahmed, con trai nhà vua Ấn Độ. Lý do em không mời anh đến dự hôn lễ là không muốn làm anh lỡ việc đang tiến hành mà em rất vui biết anh trở về thắng lợi. Vì vậy em đã tự tiện gọi anh đến.
Nghe nói thế Schaibar nhìn hoàng tử với con mắt duyên dáng hơn tuy không giảm kiêu ngạo và thái độ dữ tợn. Ông ta bảo:
- Em gái, ta có thể giúp chàng việc gì? Chàng cứ nói. Chỉ cần là chồng em, ta có trách nhiệm làm chàng vui lòng về những gì mong muốn.
- Vua cha của chàng - Pari-Banou lại nói - tò mò muốn gặp anh, em đề nghị anh để chàng đưa đi.
- Chàng cứ đi trước, ta sẵn sàng theo chàng.
- Thưa anh, hôm nay đi thì đã muộn, xin anh lùi lại sáng mai. Vả lại anh cũng cần biết giữa nhà vua và hoàng tử đã xảy ra những gì từ khi chúng em thành hôn với nhau, tối nay em sẽ nói rõ hơn.
Hôm sau, Schaibar đã biết tình hình, ra đi sớm có hoàng tử Ahmed đi cùng để giới thiệu ông ta với nhà vua. Họ vừa xuất hiện ở cổng thành những người trông thấy sợ hãi vì một người xấu xí đến thế, trốn vào cửa hàng hoặc trong nhà khép cửa lại, những người khác bỏ chạy gây lo sợ cho những người khác cũng bỏ chạy theo không dám nhìn lại phía sau. Vì thế trong lúc Schaibar và hoàng tử thong thả bước tới, họ thấy vắng lặng trên mọi đường phố, quảng trường cho đến tận hoàng cung. Những người gác cổng thay vì ngăn cản Schaibar vào, đã bỏ chạy hết để cổng hoàng cung bỏ ngỏ. Hoàng tử và Schalbar tiến vào đến phòng họp không gặp trở ngại gì, thấy nhà vua đang ngồi trên ngai vàng, quân bảo vệ đã bỏ chạy không có ai cản trở họ.
Schaibar ngẩng cao đầu, lại gần ngai vàng và không chờ hoàng tử giới thiệu, hỏi nhà vua:
- Người đã muốn gặp thì có tôi ở đây, Người muốn gì ở tôi?
Nhà vua đáng lẽ trả lời thì đưa tay bịt mắt quay đầu về phía khác để không thấy một vật đáng sợ như vậy. Schaibar tức giận vì cách tiếp đón bất lịch sự ấy và bực bội vì đã cất công đến đây, giơ chiếc gậy sắt quát:
- Nói đi chứ? - Vừa nói ông ta vừa giáng gậy sắt vào đầu nhà vua làm ngài chết ngay. Ông ta đánh ngay làm hoàng tử Ahmed không kịp chặn lại. Chàng chỉ có thể ngăn cản ông ta đánh luôn vị tể tướng ngồi bên phải vua, chàng phải nói đấy là người đã cho vua những lời khuyên tốt Schaỉbar hỏi:
- Thế những người này khuyên vua làm những điều xấu à?
Vừa nói ông ta vừa đánh chết những đại thần khác ngồi bên phải, bên trái, tất cả đều nịnh bợ xúi giục nhà vua và là kẻ thù của hoàng tử Ahmed. Bao nhiêu cú đánh là bấy nhiêu người chết, chỉ thoát được những người chưa đến nỗi sợ hãi quá không đứng yên mà vùng chạy trốn khỏi cung vua.
Việc hành quyết khủng khiếp kết thúc, Schaibar ra khỏi gian phòng họp, thanh sắt trên vai, nhìn vị tể tướng đi theo hoàng tử vừa cứu mạng mình.
- Ta biết - Người kỳ dị nói - ở đây có một mụ phù thuỷ còn độc ác hơn những cận thần không xứng đáng ta vừa giết chết, cho người đưa mụ phù thuỷ đến ngay.
Tể tướng vội bảo người đi tìm, người ta dẫn mụ đến và Schaibar vừa dùng gậy đánh vừa nói:
- Này, cứ đưa ra những lời khuyên nguy hại và giả làm người bệnh đi.
Mụ phù thuỷ chết ngay tại chỗ.
Schaìbar nói thêm:
- Chưa đủ đâu, ta sẽ đánh chết dân cả thành phố nếu không tôn xưng ngay hoàng tử Ahmed em rể ta, làm vua của nước Ấn Độ.
Những người có mặt lúc đó nghe thấy thế hô vang:
- Vua Ahmed muôn năm!
Và một lúc sau cả thành phố cùng ho vang như thế và đồng thời là lời tuyên bố hoàng tử Ahmed nối ngôi. Schaibar mặc quần áo vua Ấn Độ cho hoàng tử, đưa chàng ngồi lên ngai vàng và sau khi để triều thần tôn vinh, thề trung thành với nhà vua mới, con người kỳ dị đi dẫn em gái Pari-Banou đến trong không khí rầm rộ, giới thiệu là hoàng hậu Ấn Độ.
Hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar, do không tham gia vào âm mưu chống hoàng tử Ahmed, thậm chí cũng không biết có âm mưu đó, nhà vua mới liền ban lãnh địa là một tỉnh rất lớn có cả thủ đô để họ đến đấy sống trong những ngày còn lại. Nhà vua cũng cho một lính hầu đến gặp hoàng tử Houssain thông báo sự thay đổi vừa xảy ra và cho chàng lựa chọn một tỉnh theo ưa thích làm nơi cai trị của mình. Nhưng hoàng tử cảm thấy hạnh phúc trong cô đơn, nhờ tên lính cám ơn nhà vua em chàng về lòng tốt dành cho chàng, hoàng tử Houssain khẳng định sự thần phục và chỉ xin gia ân cho phép chàng tiếp tục sống ẩn dật ở nơi chàng đã chọn.
Chương 42
HAI NGƯỜI CHỊ GHEN TỴ VÀ CÔ EM ÚT
Hoàng hậu
Scheherasade kể những câu chuyện nối tiếp nhau làm nhà vua Ấn Độ tạm ngưng ý đồ
của mình, ngài không biết sẽ giết hay để nàng sống. Hoàng hậu tiếp tục một
chuyện mới như sau:
- Thưa bệ hạ, có một hoàng tử Ba Tư tên là Khosrouschah, mới tham gia cai trị vương quốc rất thích những cuộc phiêu lưu về đêm. Chàng thường cải trang cùng một trong những tên lính hầu tin cậy làm tuỳ tùng cũng cải trang như chàng đi khắp các khu trong thành phố. Nhiều lúc họ gặp những trường hợp rất đặc biệt. Thiếp hy vọng bệ hạ vui lòng nghe câu chuyện chàng gặp hôm đầu sau khi được vua cha chết vì già yếu truyền ngôi trị vì vương quốc Ba Tư.
Sau những lễ nghi theo thủ tục nhân sự kiện nối ngôi vua và sau khi chôn cất vua cha, nhà vua mới Khosrouschah muốn tìm hiểu những gì xảy ra trong đời vì tính chàng thích thế hơn là vì nhiệm vụ, ra khỏi hoàng cung vào một đêm lúc hai giờ sáng, có quan tể tướng đi theo cũng cải trang như chàng. Đến một khu dân thường, trên đường ông nghe tiếng nói khá to, chàng lại gần một ngôi nhà sáng đèn nhìn qua khe cửa thấy ba chị em nhà nọ ăn khuya xong đang ngồi trên ghế sô-pha nói chuyện. Theo câu nói của người chị lớn tuổi, nhà vua trẻ biết ngay họ đang trao đổi về ước mong của mình. Người ấy nói:
- Chị mong lấy được chồng là người thợ làm bánh của nhà vua; chị sẽ ăn no nê loại bánh ngon mà người ta gọi là bánh ngon nhất cửa vua. Nào ý thích của các em ra sao?
- Riêng em - Người chị thứ hai nói - em ước muốn là vợ bếp trưởng của nhà vua; em được ăn những thức ăn tuyệt vời và chắc chắn bánh nhà vua rất nhiều trong hoàng cung, em sẽ không sợ thiếu. Chị thấy không - cô nói thêm với chị cả ý thích của em giá trị hơn của chị chứ?
Cô em út rất đẹp và tinh tế, thông minh hơn các chị, đến lượt mình nói:
- Các chị ạ, em không hạn hẹp trong những điều ít ỏi đó, em sẽ bay cao hơn và đã là ước mong, em muốn sẽ là vợ nhà vua. Em sẽ sinh cho Người một hoàng tử có mái tóc một bên vàng, một bên bạc; khi hoàng tử khóc nước mắt rơi xuống là những viên ngọc và mỗi lần cười đôi môi xinh đẹp như một nụ hoa hồng chớm nở.
Những mong ước của ba chị em, đặc biệt của cô em út có vẻ rất đặc biệt đối với vua Khosrouschah nên chàng quyết định làm họ vừa lòng và chàng nói rõ ý định ấy với tể tướng, chàng bảo phải nhớ lấy ngôi nhà để hôm sau đến đưa họ vào cung cả ba người.
Viên tể tướng thực hiện lệnh nhà vua, hôm sau đến bảo ba chị em ăn mặc nhanh chóng để đi yết kiến nhà vua, ông chỉ nói Người muốn gặp họ. Đến hoàng cung họ được đưa vào trình diện, nhà vua hỏi:
- Đêm qua trong lúc vui vẻ các cô ước muốn những gì, ta muốn biết rõ, đừng giấu giếm ta.
Nghe vua hỏi, ba chị em bị bất ngờ, thẹn đỏ mặt. Họ cúi xuống và màu má ửng hồng trang điểm thêm cho cô em út chiếm được lòng nhà vua trẻ. Ngại ngùng và lo sợ câu chuyện của họ làm nhà vua không hài lòng họ im lặng: nhà vua thấy thế nói cho họ yên tâm:
- Các cô đừng sợ, ta không cho gọi các cô đến để gây khó dễ; ta thấy câu hỏi của ta làm các cô sợ ngoài ý định của ta và do biết điều ước muốn của từng người, ta muốn làm cho các cô được toại nguyện. Cô - chàng nói thêm – cô ước được lấy ta làm chồng, hôm nay cô sẽ được thoả mãn; còn hai cô - chàng tiếp tục nói hướng về cô chị cả và chị hai ta cũng cho làm lễ thành hôn với người làm bánh và trưởng đầu bếp phục vụ ta.
Vua tuyên bố xong, cô em út làm gương cho các chị, quỳ xuống chân nhà vua để tỏ lòng biết ơn.
- Thưa bệ hạ - Nàng nói - ước muốn của thần thiếp đã được bệ hạ biết, chỉ là một cách chuyện trò và giải trí; thiếp không xứng đáng với vinh dự bệ hạ ban cho và xin Người tha lỗi cho sự táo tợn của thiếp.
Hai người chị cũng muốn xin lỗi như thế nhưng vua ngắt lời họ và nói:
- Không, không, không sao khác được, ước mong của mỗi người các cô sẽ được thực hiện.
Lễ cưới được tiến hành ngày hôm đó như nhà vua đã quyết định những tổ chức rất khác nhau. Hôn lễ của cô em út rất trang trọng kèm theo những cuộc hoan hỉ phù hợp với việc thành hôn của một vị vua và hoàng hậu Ba Tư còn hôn lễ hai người chị chỉ tưng bừng theo địa vị của những người chồng nghĩa là người làm bánh và trưởng bếp hoàng cung.
Hai người chị cảm thấy rõ rệt sự cách biệt vô biên giữa đám cưới của họ và của cô em út. Thay vì hài lòng về hạnh phúc đến với họ theo ước mong, sự vượt xa hy vọng của họ, do quyết định ấy của nhà vua làm họ ghen tức quá đáng nó không chỉ vẩn đục niềm vui của họ mà gây ra những bất hạnh lớn, nhục nhã và làm phiền muộn nặng nể cho hoàng hậu, cô em út của họ. Lúc đầu họ chưa có thì gỉờ trao đổi về sự lựa chọn của vua như họ nghĩ là mang lại tổn hại cho họ vì phải chuẩn bị cho lễ thành hôn. Nhưng sau đó mấy ngày họ có thể gặp nhau trong một buổi tắm công cộng như đã hẹn. Người chị cả nói với chị hai:
- Thế nào em gái, em nói sao về về cô em út của chúng ta? Phải chăng trở thành hoàng hậu mới là một chuyện thật thú vị?
- Em thú nhận chẳng hiểu ra sao nữa - người chị kia nói - Không rõ nhà vua thấy ở cô ấy có những nét gì hấp dẫn làm quáng cả mắt mà làm như vậy. Cô ta chỉ là một đứa trẻ con, trong tình trạng chúng ta đã thấy. Có phải vì cô ta trẻ hơn chúng ta một ít mà nhà vua không để mắt đến chị? Chị xứng đáng sánh vai với nhà vua hơn và Người phải công bằng thích chị hơn cô ta mới phải.
- Em gái ạ - Người chị cả nói - đừng nói về chị. Nếu nhà vua chọn em thì chị chẳng bàn cãi gì nhưng lại chọn một con bé bẩn thỉu làm chị buồn lòng; chị sẽ trả thù khi có thể và chắc em cũng quan tâm đến việc ấy như chị. Nên mong em cùng với chị làm vì việc này mà chúng ta quan tâm như nhau, chứng ta sẽ bàn với nhau những cách mà mình nghĩ ra để hạ nhục nó.
Sau khi âm mưu với nhau như thế, hai chị em thường gặp nhau, mỗi lần gặp đều bàn về những thủ đoạn có thể vượt qua thậm chí phá hoại hạnh phúc của cô em út họ. Họ vẽ ra nhiều cách nhưng bàn thực hiện, họ lại thấy nhiều khó khăn lớn không dám làm liều. Tuy vậy thỉnh thoảng họ vẫn cùng nhau đến thăm em, giấu giếm ý đồ đáng kết tội của mình, hết sức tỏ ra thân mật để làm cô em tin chắc họ rất phấn khởi có một cô em ở địa vị cao sang như thế. Về phần mình hoàng hậu luôn tiếp đón họ trân trọng, không cao điệu và vẫn không bớt thương yêu các chị như trước đây.
Mấy tháng sau khi cưới hoàng hậu nhận thấy mình mang thai; nhà vua rất vui mừng và niềm vui ấy không chỉ trong hoàng cung mà lan rộng ra khắp các khu phố ở kinh thành Ba Tư. Hai người chị đến chúc mừng và bàn tính về bà đỡ giúp việc sinh nở, họ ngỏ ý với hoàng hậu đừng chọn ai khác ngoài họ. Hoàng hậu cám ơn họ, và nói:
- Các chị, em không mong gì hơn như các chị nghĩ, nếu việc lựa chọn thuộc về em hoàn toàn, em sẽ vô cùng cám ơn lòng tốt của các chị nhưng em không thể không tuân theo lệnh của nhà vua. Tuy vậy mỗi chị nên làm thế nào để chồng các chị nhờ bạn bè xin nhà vua gia ân cho như vậy và nếu nhà vua nói với em điều đó, các chị cứ tin rằng em sẽ tỏ ra vui sướng và còn cám ơn Người về sự lựa chọn các chị làm việc đó.
Hai người chồng mỗi người nhờ những cận thần đỏ đầu của mình, khẩn cầu họ xin nhà vua cho vợ họ được vinh dự họ mong muốn; các cận thần ra sức nỉ non với nhà vua kết quả là nhà vua đã hứa sẽ nghĩ đến điều ấy vua giữ lời hứa và trong một buổi trao đổi với hoàng hậu, nhà vua bảo theo chàng hai bà chị có vẻ thích hợp trong việc giúp đỡ hoàng hậu lúc sinh hơn mọi bà đỡ nào khác nhưng chưa muốn chỉ định khi chưa được hoàng hậu đồng tình. Hoàng hậu nhạy cảm về sự tôn trọng của vua, tỏ rõ lòng biết ơn và nói:
- Thưa bệ hạ. Thiếp chỉ làm theo lệnh của bệ hạ. Người đã có lòng tốt để mắt đến hai chị của thiếp, thiếp rất cám ơn sự chiếu cố đó vì tình thương yêu thiếp và thiếp không giấu giém rằng thiếp vui lòng nhờ họ hơn những người lạ.
Vậy là vua Khosrouschah cử hai người chị hoàng hậu làm bà đỡ, từ đó cả hai vào cung, rất vui mừng có dịp mong muốn để thực hiện mưu mô độc ác đối với cô em út.
Ngày sinh đã tới, hoàng hậu may mắn có một hoàng tử xinh như mộng. Sắc đẹp và sự non nớt của đứa bé cũng không thể khiến lòng hai người đàn bà vô lương tâm cảm động hoặc thương hại. Họ bọc đứa trẻ sơ sinh khá cẩu thả, bỏ vào một chiếc giỏ thả trên dòng nước một con suối chảy qua nhà hoàng hậu, đem một con chó nhỏ đã chết thay thế nói rằng do hoàng hậu sinh ra. Tin xấu ấy được báo lên vua; nhà vua tức giận suýt giết chết hoàng hậu nếu vị tể tướng không can ngăn nhà vua không nên bất công bắt hoàng hậu chịu trách nhiệm về những kỳ quặc của tự nhiên.
Chiếc giỏ trong đó có hoàng tử nhỏ nằm được dòng nước suối đưa ra khỏi bức tường bao quanh nhà hoàng hậu theo lỗ hổng bên dưới, tiếp tục trôi qua khu vườn thượng uyển. Tình cờ người quản lý khu vườn, một trong những võ quan cấp cao và được coi trọng nhất vương quốc, đi dạo trong vườn dọc con suối. Ông thấy chiếc giỏ bập bềnh trên nước, liền gọi một người làm vườn gần đó chỉ cho và nói:
Anh nhanh tay vớt cho ta chiếc giỏ xem có gì trong đó.
Người làm vườn lại bên bờ suối khéo léo dùng một cây sào kéo chiếc giỏ vào, nâng lên và đưa tới.
Người quản lý khu vườn rất ngạc nhiên thấy một đứa bé trong giỏ tuy vừa mới sinh nhưng có những nét đẹp ưa nhìn. Ông đã lấy vợ từ lâu, rất mong có người nối dõi nhưng trời chưa cho. Ông bỏ cuộc đi dạo, bảo người làm vườn mang giỏ và đứa bé đi theo về nhà mình ngay bên cạnh cổng vườn, vào phòng của bà vợ nói:
- Bà ơi, chúng ta chưa có con và Chúa trời đưa đến cho ta đây. Tôi uỷ thác cho bà, tìm ngay một vú nuôi và chăm nom cẩn thận như con trai chúng ta: bây giờ tôi nhận ra nó là ai rồi.
Bà vợ vui mừng bế đứa bé, rất hài lòng được chăm sóc nó. Người quản lý khu vườn không muốn đi sâu tìm hiểu đứa bé ở đâu ra. Ông tự nhủ:
- Ta thấy rõ nó từ phía nhà hoàng hậu trôi đến nhưng ta không có nhiệm vụ điều tra xem việc gì xảy ra ở đó cũng như không được gây xáo trộn trong một nơi rất cần thiết phải yên ổn.
Năm sau hoàng hậu sinh một hoàng tử khác. Những người chị mất tính người cũng không thương hại đứa bé hơn anh nó. Họ cũng bỏ vào giỏ thả trôi trên dòng suối và nói rằng hoàng hậu sinh ra một con mèo. May mắn cho đứa bé, người quản lý khu vườn ở gần suối, cho vớt lên đưa về cho vợ, dặn chăm nom cẩn thận như đứa đầu. Bà vợ chăm sóc ,chu đáo không kém do ý thích của minh và chiều theo lòng tốt của chồng.
Vua Ba Tư lần này càng giận hoàng hậu hơn lần trước và định phản ứng mãnh liệt nếu vị tể tướng lại không làm cho ngài nguôi đi. Cuối cùng hoàng hậu sinh lần thứ ba, không phải hoàng tử mà một công chúa; cô bé vô tội cũng chịu số phận như hai anh. Hai người chị đáng ghét quyết tầm không dừng tay khi cô em út chưa bị truất ngôi hoặc ít ra là bị đuổi đi và phải bị làm nhục lại thả trôi ở dòng suối. Công chúa được cứu khỏi cái chết chắc chắn cũng do tình thương và lòng nhân hậu của người quản lý khu vườn, và cũng được nuôi dưỡng như hai anh.
Vẫn bản tính vô nhân đạo của hai người chị lần này sự dối trá lừa bịp của họ còn tăng thêm. Họ đưa ra một mẩu gỗ nói là do hoàng hậu sinh ra.
Vua Khosrouschah không nuốt giận được nữa khi được tin lần sinh mới kỳ lạ này. Ngài nói:
- Sao! Người đàn bà không xứng đáng này định sẽ làm đầy quái vật trong cung của ta nếu ta để cho cô ta sống ư? Không, không bao giờ được thế nữa, bản thân cô ta đã là một quái vật, ta phải tẩy rửa khỏi cuộc đời.
Nhà vua tuyên bố lệnh tử hình hoàng hậu và giao cho tể tướng thực hiện.
Quan tể tướng và các cận thần có mặt lúc đó vội quỳ xuống chân nhà vua khẩn cầu rút bỏ lệnh ấy. Quan tể tướng nói:
- Thưa bệ hạ, xin Người cho phép thần được trình bày, lệnh tử hình chỉ dùng trong những tội trạng giết người. Ba lần sinh của hoàng hậu, lạ lùng đến thế, không phải tội giết người. Căn cứ vào đâu có thể quy cho bà góp phần làm việc ấy? Một số lớn phụ nữ thường ngày vẫn sinh nở như vậy; họ đáng thương nhưng không đáng xử phạt. Bệ hạ có thể không ban ân huệ đến bà nữa nhưng nên để bà sống. Sự buồn tủi vì mất ân huệ củn bệ hạ trong những ngày còn lại đã là một hình phạt nặng đối với bà.
Vua Ba Tư bình tĩnh lại thấy kết tội hoàng hậu vì sinh ra những quái thai là bất công thật. Nhà vua phán:
- Thôi được, để cho bà ấy sống nhưng với một điều kiện hàng ngày bà ấy chỉ muốn được chết. Làm cho bà ấy một căn nhà nhỏ ở cổng nhà thờ chính, một cửa sổ mở thường xuyên; nhốt bà vào đấy bắt bà ấy mặc quần áo thô, mỗi người dân đạo Hồi đi qua đấy vào nhà thờ cầu nguyện phải nhổ vào mặt bà ta nếu không cũng bị phạt như thế. Để lệnh được thực hiện nghiêm, ta giao cho ông, quan tể tướng bố trí canh gác.
Giọng nói của vua nêu lên hình phạt này làm vị tể tướng không dám nói nữa. Ông cho tiến hành hình phạt trong sự thoả lòng của hai người chị ghen tức. Căn nhà nhỏ xây dựng xong và hoàng hậu thực sự đáng thương sau lúc sinh bị nhốt vào đó theo cách nhà vua ra lệnh, nhục nhã làm trò cười và chịu sự khinh bỉ của dân chúng. Hình phạt ấy bà không đáng bị xử, nhưng bà kiên trì chịu đựng nên đã đưa lại lời khen và lòng thương cảm của tất cả những người phán xét sáng suốt, công bằng hơn người thường.
Hai hoàng tử và công chúa được người quản lý khu vườn và bà vợ nuôi dạy với tình âu yếm của những người cha mẹ; tình âu yếm đó càng tăng khi công chúa và các hoàng tử càng lớn lên nhất là vì những vẻ đẹp của công chúa. Tính ba anh em ngoan ngoãn, xu hướng tốt đẹp hơn hẳn trẻ con bình thường và có một phong thái nào đó chỉ có thể thuộc về các hoàng tử và công chúa. Để phân biệt anh em, họ gọi tên đứa trẻ đầu là Bahman, đứa thứ hai Pervij, tên những nhà vua Ba Tư cổ. Họ gọi công chúa là Parijađe, tên của nhiều hoàng hậu, công chúa trong vương quốc .
Khi hai hoàng tử đến tuổi, người quản lý khu vườn tìm thầy dạy đọc và viết; công chúa có mặt ở những buổi học tỏ ra rất muốn đọc, viết tuy còn ít tuổi hơn các anh. Người bố nuôi phấn khởi trước tình hình ấy cũng để ông thầy đó dạy cho công chúa luôn. Được khuyến khích, cộng với sự nhanh nhẹn và thông minh một thời gian sau công chúa cũng thành thạo như các anh.
Từ lúc đó ba anh em cùng học chung một thầy về mỹ thuật, địa lý, thơ, lịch sử và các môn khoa học. Cả trong những môn khoa học bí ẩn, họ cũng không thấy có gì khó khăn, mỗi lúc một thêm tiến bộ xuất sắc làm các thầy dạy ngạc nhiên và rồi thú nhận thẳng thắn chẳng bao lâu học trò sẽ đi xa hơn thầy. Trong những tiết nghỉ học công chúa chơi âm nhạc, tập hát và sử dụng nhiều loại nhạc cụ; khi các hoàng tử học đi ngựa, công chúa không muốn thua kém các anh cũng luyện tập với họ nên biết lên ngựa, dẫn dắt ngựa, bắn cung, ném lao cũng giỏi như họ thậm chí thường vượt họ trong các cuộc đua.
Người quản lý vườn thượng uyển vô cùng vui sướng thấy những đứa con nuôi hoàn hảo như thế về thể chất và tinh thần, xứng đáng với chi phí bỏ ra trong việc nuôi dạy vượt xa kinh phí dự trù, thậm chí ông còn chi thêm một khoản nữa rất lớn. Cho đến lúc đó, hài lòng với ngôi nhà đang ở ven khu vườn, ông chưa có nhà nghỉ ở vùng thôn dã. Giờ đây ông mua một trang trại cách thành phố không xa, có nhiều đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng cây và thấy ngôi nhà không được đẹp và đủ tiện nghi, ông không tiếc công cho xây dựng lại cho đẹp nhất trong vùng. Hàng ngày ông tới đó đôn đốc một số đông thợ làm việc và khi xong một căn phòng đủ ở, ông ở luôn đấy nhiều ngày những lúc công việc ở triều đình cho phép. Ngôi nhà hoàn thành trong đó người ta trang trí nội thất với những đồ đạc sang trọng nhất phù hợp với vẻ đẹp của ngôi nhà, ông cho bố trí khu vườn theo ý mình như những ông chủ lớn ở Ba Tư thường làm. Ông xây dựng thêm một vườn cây rất rộng bao tường cao thả vào đấy các loại thú rừng để các hoàng tử và công chúa khi thích thì đi săn giải trí.
Khi trang trại đã hoàn chỉnh và ở được, người quản lý vườn thượng uyển đến quỳ dưới chân nhà vua, trình bày đã phục vụ lâu năm, bây giờ già yếu xin vua cho từ chức và lui về nhà. Vua rất hài lòng về quá trình phục vụ của ông từ thời vua cha cho đến đời ngài trị vì vui lòng gia ân, và hỏi có thể khen thưởng ông như thế nào. Người quản lý vườn thượng uyển trả lời:
- Thưa bệ hạ, thần đã nhận được đầy đủ ân đức của bệ hạ và của vua cha đã khuất đến mức chỉ còn muốn chết trong vinh dự của những ân đức ấy.
Ông chào từ biệt vua Khosrouschah rồi về sống ở trang trại vừa xây dựng cùng hai hoàng tử và công chúa; vợ ông đã mất cách đó vài năm. Nhưng rồi người quản lý vườn thượng uyển cũng chỉ sống với họ thêm năm, sáu tháng nữa rồi đột ngột qua đời, không có thì giờ nói một lời về nguồn gốc thật của họ, một việc mà ông đã định làm, nó rất cần thiết để buộc họ sống như từ trước đến nay theo tinh thần và điều kiện của họ, phù hợp với việc giáo dục và xu hướng ông đưa lại cho họ.
Hoàng tử Bahman và Pervij, công chúa PariJade không biết người cha nào khác ngoài người quản lý vườn thượng uyển, thương tiếc ông hết mức và làm mọi nhiệm vụ an táng, phụng thờ ông với tình yêu và lòng biết ơn của những người con đối với cha. Với tài sản lớn ông để lại, họ tiếp tục sống hoà hợp với nhau như trước đây; các hoàng tử cũng không có tham vọng về triều tìm kiếm chức tước và danh giá mà hai chàng dễ dàng đạt được.
Một hôm hai hoàng tử đi săn, công chúa Parijade ở nhà, một bà Hồi giáo sùng đạo, rất già đến trước cổng xin vào nhà cầu kinh vì đã đến giờ. Người hầu vào xin phép công chúa; nàng ra lệnh đưa bà vào, chỉ cho bà nhà nguyện mà người quản lý vườn thượng uyển đã cẩn thận xây dựng bên cạnh nhà vì trong vùng không có nhà thờ. Nàng cũng bảo khi bà già cầu nguyện xong nên đưa bà đi xem cả ngôi nhà, vườn cây rồi dẫn đến gặp nàng.
Bà tín đồ Hồi giáo đi vào, đọc kinh ở nhà nguyện; khi xong, hai người hầu gái đang chờ mời bà đi xem ngôi nhà và khu vườn. Thấy bà tỏ ra sẵn sàng theo họ, hai người đưa bà hết qua phòng này lại đến phòng khác. Trong mỗi phòng bà nhìn mọi thứ đồ đạc và lối bố trí phù hợp với từng nơi lòng đầy khâm phục; họ lại đưa bà ra vườn. Bà thấy cảnh vật thật mới và hoà hợp, liền khen ngợi rằng người bố trí khu vườn phải là bậc thầy về nghệ thuật. Cuối cùng bà được dẫn đến gặp công chúa đang chờ ở phòng khách lớn, hơn hẳn các phòng khác về vẻ đẹp, sạch sẽ và sang trọng.
Thấy bà già vào, công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu, bà lại gần đây và ngồi bên cạnh tôi; tôi rất hạnh phúc có dịp tranh thủ một lúc học tập tấm gương tốt và con đường thờ phụng Chúa của một người như bà mà mọi người khôn ngoan đều phải noi theo.
Bà già thay vì lên ngồi trên ghế xô-pha, muốn ngồi ở dưới thềm nhưng công chúa không chịu, đứng dậy đến nắm tay bà buộc đến ngồi cạnh nàng ở vị trí danh dự. Bà già cảm động về phong cách lễ độ ấy.
- Thưa quý cô - Bà nói - Tôi không đáng được đối xử trân trọng như thế, tôi vâng lời chỉ vì cô ra lệnh và cô là chủ trong gia đình.
Khi đã ngồi, trước khi trò chuyện: một trong những người hầu nữ của công chúa đưa lại trước mặt bà và công chúa một chiếc bàn nhỏ, thấp bằng gỗ mun khảm ngọc, bên trên là một chiếc đĩa sứ đầy bánh ngọt và nhiều bình hoa quả trong mùa, mứt khô và nước uống.
Công chúa cầm một chiếc bánh đưa cho bà già, nói:
- Mẹ phúc hậu, bà ăn đi và chọn những quả cây bà thích. Bà cần ăn uống sau khi đi đường đến tận đây.
- Thưa quý cô - Bà già nói - Tôi không quen ăn những thứ ngon lành này nhưng tôi ăn để không từ chối những gì Chúa đưa đến cho tôi do bàn tay hào hiệp của cô.
Trong lúc bà già ăn, công chúa cũng ăn một ít để khuyến khích bà cùng ăn. Nàng hỏi bà về những biện pháp hành đạo của bà và cách sinh sống; bà già trả lời rất khiêm tốn. Tữ chuyện này sang chuyện khác, nàng hỏi bà cảm nghĩ về ngôi nhà và thấy có vừa ý không.
- Thưa quý cô - Bà già trả lời - Phải thật kém thẩm mỹ mới thấy có gì đó phải thay đổi. Ngôi nhà rất đẹp, vui tươi trang trí nội thất hài hoà, việc bố trí không thể làm gì hơn được. Về địa điểm, ngôi nhà ở trên khu đất thoáng đãng và không thể hình dung có một cảnh vườn nhìn ngắm thích hơn khu vườn trong đó. Tuy vậy nếu cô cho phép, tôi không giấu giếm được nói với cô, ngôi nhà sẽ không so sánh được nếu được bổ sung vào ba điều đang thiếu.
- Thưa bà - Công chúa Parijade hỏi - Đó là ba điều gì? Nhờ bà chỉ dẫn cho; nhân danh Chúa tôi đoán chắc với bà sẽ không tiếc nuối gì để tìm cho được nếu có thể.
- Thưa quý cô, điều thứ nhất là con chim biết nói: đây là một con chim đặc biệt tên là Bulbulhejar, còn có đặc tính lôi kéo những con chim trong vùng đến cùng hót theo. Điều thứ hai là cây hay hát, lá cây là miệng tấu lên một hợp âm với những giọng khác nhau không bao giờ ngừng. Cuối cùng thứ ba là loại nước màu vàng nhỏ một giọt vào chiếc bể làm thêm vào một chỗ trong khu vườn, lúc đầu nó làm đầy bể sau đó ở giữa bắn lên thành tia không ngớt vươn cao và rơi lại xuống bể mà không tràn.
- Chà? Mẹ phúc hậu - Công chúa kêu lên- Tôi rất cám ơn bà đã cho biết những điều ấy. Thật kỳ lạ, tôi chưa được nghe nói có vật gì trên đời lạ lùng và đáng ca ngợi hơn. Tôi chắc bà biết chỗ có những vật đó, mong bà làm ơn chỉ cho.
Để làm công chúa thoả mãn, bà già nói:
- Thưa quý cô, tôi sẽ không xứng đáng với lòng mến khách, tốt như thế đối với tôi, nếu từ chối không thoả mãn yêu cầu của cô. Vậy tôi vinh dự được nói, ba vật tôi vừa nói đó ở cùng một chỗ ở biên giới vương quốc về phía Ấn độ. Con đường đến đấy đi qua trước nhà cô; người được cô cử đi chỉ việc theo con đường đấy đi hai mươi ngày và ngày thứ hai mươi hỏi người gặp đầu tiên, con chim biết nói, cây hát và nước vàng ở đâu, người ấy sẽ chỉ cho.
Nói xong bà già đứng dậy xin từ biệt và tiếp tục đi theo đường mình.
Công chúa Parijade tâm trí bận về những lời chỉ dẫn của bà già về ba vật kỳ lạ, chỉ nhận ra bà đã ra đi khi muốn hỏi rõ thêm. Nàng suy nghĩ nếu chỉ nghe nói như vậy mà tiến hành một chuyến đi thì vô ích. Nàng không muốn cho người chạy theo mời bà trở lại mà cố gắng nhớ lại những gì bà đã cho biết. Khi thấy đã không quên điều gì, công chúa rất vui nếu có được những vật tuyệt vời như vậy nhưng nàng đoán sẽ có rất nhiều những khó khăn, sợ không thể có được chúng, nàng đắm mình trong lo âu.
ông chúa Parijade đang triền miên suy nghĩ thì các hoàng tử anh đi săn trở về. Họ vào phòng khách thay vì thấy nàng vui vẻ, cởi mở như thường lệ, họ ngạc nhiên trông thấy nàng đăm chiêu có vẻ buồn, không ngẩng đầu để ít nhất cũng nhận ra có mặt họ.
Hoàng tử Bahman lên tiếng hỏi:
- Em gái, sự vui vẻ và tính hiếu động của em vốn có nay ở đâu rồi? Em có bị ốm không? Có việc gì xảy ra chăng? Vì sao em buồn thế, nói cho các anh biết đi. Các anh phải san sẻ hoặc chữa trị cho em, hoặc sẽ trả thù nếu có kẻ nào xúc phạm đến một người đáng kính như em.
Công chúa ngồi một lúc không trả lời, đưa mắt nhìn các anh rồi cúi xuống ngay sau khi nói không có gì.
- Em gái - Hoàng tử Bahnlan lại nói - Em giấu các anh sự thật. Phải có điều gì đó thậm chí nghiêm trọng. Không thể trong một thời gian ngắn các anh đi ra ngoài, có một sự thay đê lớn, bất ngờ như các anh đang nhận thấy ở em mà lại không có chuyện gì. Các anh không thoả mãn về một câu trả lời như vậy. Em đừng giấu các anh đó là việc gì nếu không muốn để các anh nghĩ rằng em chối bỏ tình cảm thắm thiết và sự gắn bó vững chắc, không thay đổi giữa chúng ta từ hồi còn bé bỏng cho đến ngày nay.
Công chúa còn lâu mới cắt đứt với các anh, không muốn để các anh phải nghĩ như vậy, bèn nói:
- Khi em nói điều làm cho em phiền lòng không có gì là em nói dối với các anh chứ không phải đối với em vì thấy có tầm quan trọng nào đó. Vì các anh ép buộc em nhân danh tình thân và sự gắn bó giữa chúng ta vốn rất quý báu đối với em, em sẽ nói với các anh đó là điều gì. Các anh chắc đã nghĩ, và em cũng nghĩ như các anh, ngôi nhà người cha quá cố xây dựng cho chúng ta mọi mặt đều hoàn hảo, không còn thiếu gì. Tuy thế hôm nay em được biết thiếu ba điều làm cho mọi trang trại trên đời không so sánh nổi với nó. Đó là con chim biết nói cây hay hát và giọt nước vàng - Sau khi giải thích tính ưu việt của ba vật đó, nàng nói thêm: - Do một bà tín đồ Hồi giáo nhận xét với em điều đó, chỉ dẫn chỗ có ba vật ấy và đường đi đến đấy. Có lẽ các anh thấy có thể bỏ qua chuyện ấy đấy là những vật ít hiệu quả không cần thiết bổ sung vào mà ngôi nhà chúng ta vẫn lả một nhà rất đẹp rồi . Các anh nghĩ thế nào tuỳ thích nhưng riêng em, em thấy cần thiết và chỉ hài lòng khi có ba vật ấy ở chỗ chúng ta. Như vậy các anh có quan tâm hay không cũng được nhưng mong hãy giúp em, xem em có nên cử người đi tìm về không.
- Em gái - Hoàng tử Bahman lại nói - Không có gì em quan tâm mà các anh không quan tâm. Chỉ cần em sốt sắng tìm cho được những vật em nói là đã buộc các anh tham gia rồi. Các anh cũng cảm thấy cần hành động và được thoả mãn, anh tin rằng em trai thứ hai cũng vậy và chúng ta cùng bắt tay chinh phục lấy các thứ ấy như em nói. Tầm quan trọng và nét đặc biệt của việc này đáng được gọi thế. Anh đảm nhiệm việc thực hiện, em chỉ cần nói cho anh con đường đi tới đó và địa điểm, anh không lùi cuộc hành trình lại lâu quá ngày mai.
- Thưa anh - Hoàng tử Pervij nói - Anh là chủ gia đình và là chỗ dựa, không nên vắng nhà lâu ngày. Chắc em gái sẽ đồng tình với em mong anh từ bỏ ý định đó để em đi thì tất hơn. Em sẽ hoàn thành việc đó không kém anh và mọi công việc sẽ đúng nề nếp hơn.
- Em trai - Hoàng tử Bahman nói - Anh tin chắc vào lòng tự nguyện của em và em hoàn thành việe đó không kém anh nhưng vấn đề đã được quyết định, anh muốn làm lấy và sẽ làm. Em ở nhà với em gái chúng ta, không cần bàn lại nữa.
Chàng để thì giờ còn lại trong ngày chuẩn bị cho cuộc hành trình và hỏi kỹ công chúa về những lời chỉ dẫn của bà tín đồ để khỏi lạc đường.
Hôm sau từ sáng sớm hoàng tử Bahman lên ngựa; hoàng tử Pervij và công chúa Parijade ra tiễn, ôm hôn anh cả chúc đi đường gặp may mắn. Giữa lúc chia tay, công chúa chợt nhớ ra một điều trước đó chưa nghĩ tới. Nàng nói:
- Thưa anh, em đã không nghĩ đến những rủi ro dọc đường, biết đâu không được gặp lại anh bao giờ nữa? Anh xuống ngựa, đừng đi nữa. Thà em không thấy và sở hữu con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng còn hơn anh gặp nguy hiểm và mất anh.
- Em gái - Hoàng tử Bahman mỉm cười về mối lo sợ của công chúa - Anh đã quyết định rồi và chưa lấy được những cái đó thì anh chưa thôi. Những tai nạn em nói chỉ đến với những người bất hạnh. Đúng là anh có thể trong số đó nhưng cũng có thể là một trong những người may mắn vốn rất nhiều so với những người bất hạnh. Do những tình huống đều không chắc chắn và anh cũng có thể ngã xuống trong việc làm, tất cả những gì anh có thể làm là để lại cho các em một con dao, nó đây.
Hoàng tử rút ra một còn dao đưa cho công chúa và nói:
Em giữ lấy, thỉnh thoảng rút ra khỏi vỏ xem, nếu thấy lưỡi dao trong sáng như thường là dấu hiệu anh còn sống; nếu thấy có vết máu thì biết là anh đã chết và cầu nguyện cho anh.
Công chúa Parijade không làm gì hơn được. Hoàng tử Bahman trang bị đầy đủ từ biệt nàng và Pervij lần cuối và ra đi. Chàng không rẽ trái rẽ phải, theo đúng con đường tiếp tục đi qua đất nước Ba Tư và ngày thứ hai mươi chàng nhận thấy bên đường một ông già xấu xí ngồi dưới gốc cây tơ gần đấy là căn nhà tranh ông vẫn để ẩn mình trong mưa nắng.
Đôi lông mày trắng như tuyết cũng như mái tóc, ria mép và bộ râu, rủ dài xuống đến đầu mũi; ria mép phủ kín miệng, bộ râu và mái tóc rủ xuống gần tận bàn chân. Móng tay móng chân dài quá thể, trên đầu là một chiếc mũ bằng rất rộng theo hình lọng; quần áo chỉ là một chiếc chiếu bọc quanh người.
Ông già là một ẩn sĩ xa lánh cuộc đời, từ nhiều năm không chăm sóc thân thể chỉ gắn bó với Chúa nên cuối cùng thành người như vậy.
Hoàng tử Bahman suốt buổi sáng đã chú ý quan sát để hỏi về chỗ định đến, tới gần ông già thì dừng lại xem như người đầu tiên mình gặp, xuống ngựa hỏi thăm như bà tín đồ đã dặn công chúa Parijade. Tay dắt ngựa tiến lại chỗ ông già, chàng chào và hỏi:
Bố phúc hậu, mong Chúa để bố kéo dài tuổi thọ và hoàn thành mọi mong ước của mình!.
Ẩn sĩ trả lời chàng nhưng rất khó nghe nên chàng không hiểu một chữ. Hoàng tử thấy cản trở đó do bố ria phủ kín miệng ông già, không muốn bỏ qua lời chỉ dẫn cần thiết, cầm chiếc kéo đem theo và sau khi buộc ngựa vào một cành cây, lại nói với ẩn sĩ:
- Thưa ẩn sĩ, tôi muốn nói chuyện với cụ nhưng bộ ria mép của cụ làm tôi không nghe được lời. Xin cụ vui lòng để tôi làm, sửa sang râu tóc lại cùng với bộ lông mày che hết mặt mũi làm cụ giống một con gấu hơn là người.
Ân sĩ không phản đối ý định của hoàng tử, để chàng cắt tỉa và khi xong, chàng thấy khuôn mặt ông già sáng sủa trẻ hơn rất nhiều so vội tuổi bèn nói:
- Ân sĩ phúc hậu, nếu tôi có chiếc gương tôi sẽ đưa để cụ xem đã trẻ lại bao nhiêu; bây giờ cụ là một con người mà trước đây người ta không nhận ra được.
Lời vuốt ve của hoàng tử Bahman làm ông già mỉm cườì khen:
- Tên ông, dù ông là ai, tôi biết ơn ông về việc tốt ông vừa làm cho tôi; tôi sẵn sàng tỏ lòng biết ơn đối với ông về mọi việc theo sức mình. Ông từ xa đến chắc có việc cần thiết, hãy cho tôi biết đó là việc gì, nếu có thể tôi cố gắng làm ông hài lòng.
- Thưa ẩn sĩ phúc hậu - Hoàng tử Bahman nói – Tôi từ xa đến, đi tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Tôi biết ba vật ấy ở trong vùng này nhưng không biết chỗ cụ thể. Nếu cụ biết xin cụ chỉ đường cho tôi để tôi không lấy nhầm và mất công làm một cuộc hành trình từ xa.
Trong lúc ,nói thế, hoàng tử nhận thấy nét mặt ẩn sĩ thay đổi, cúi mặt xuống, vẻ nghiêm trang và đứng yên không trả lời. Điều đó buộc hoàng tử nói tiếp:
Bố phúc hậu, hình như cụ đã nghe rồi: nhờ cụ nói cho có biết điều tôi đề nghị hay không để khỏi mất thì giờ và tôi đi hỏi chỗ khác.
Cuối cùng ẩn sĩ không nín lặng nữa:
- Tôn ông, tôi biết con đường ông hỏi nhưng tình cảm từ khi gặp ông, càng tăng thêm khi ông giúp tôi sửa sang râu tóc làm tôi ngập ngừng không biết có nên thoả mãn yêu cầu của ông không.
- Lý do gì ngăn cản cụ và những khó khăn gì tôi sẽ gặp phải vậy?
- Tôi nói đây. Mối nguy hiểm ông đương đầu lớn hơn ông nghĩ nhiều. Rất nhiều tôn ông không kém dũng cảm và táo bạo đã đi qua đây và cũng hỏi tôi điều ấy. Sau khi dùng mọi cách để họ quay lại nhưng họ không tin, tôi phải chỉ đường cho họ vì họ nài nỉ, tôi đảm bảo với ông họ đều thất bại và không thấy một ai trở về. Nếu ông còn yêu cuộc sống một ít và nghe lời tôi khuyên thì ông nên quay lại nhà đi.
Hoàng tử cố giữ ý định của mình, nói với ẩn sĩ:
- Tôi tin vào lời khuyên rất thành thật của cụ và xin cám ơn về tình cảm của cụ đối với tôi. Nhưng dù nguy hiểm đến mức nào cũng không làm tôi thay đổi ý định. Nếu có ai đó tấn công tôi, tôi có vũ khí tốt và kẻ đó sẽ không hăng hái, dũng cảm hơn tôi đâu.
- Nếu những kẻ tấn công ông - Ẩn sĩ chỉ rõ- không xuất hiện (vì họ rất nhiều), ông làm sao chống cự lại những kẻ vô hình?
- Bất kể cụ nói thế nào, cụ không làm tôi từ bỏ nhiệm vụ của tôi được. Cụ đã biết đường, một lần nữa xin cụ chỉ dẫn cho, đừng từ chối gia ân cho tôi việc ấy.
Ẩn sĩ thấy không thể thuyết phục tinh thần của hoàng tử Bahman và chàng vẫn kiên quyết hoàn thành cuộc hành trình mặc dù đã được nghe những lời khuyên cứu mạng, ông đưa tay vào chiếc túi bên cạnh mình lấy ra một viên tròn đưa cho chàng:
- Ông đã không nghe và tranh thủ những lời khuyên của tôi, vậy ông hãy cầm lấy viên này, khi lên ngựa thì quăng ra phía trước và theo nó đến chân một quả núi. Khi nó dừng lại đó, ông xuống ngựa để nguyên dây cương trên cổ ngựa, nó sẽ đứng yên chờ ông trở lại. Lên núi ông thấy bên phải, trái rất nhiều tảng đá màu đen và nghe lẫn lộn nhiều giọng chửi rủa để ông ngã lòng, làm sao để ông không lên cao được. Nhưng ông đừng sợ và nhất là không được ngoảnh nhìn lại phía sau, ông sẽ bị biến ngay thành một tảng đá đen giống như những tảng đá ông thấy, những tảng đá đó vốn là những tôn ông đã thất bại như tôi nói. Nếu ông tránh được mối nguy hiểm lớn tôi tả đó và lên đến đỉnh núi, ông sẽ thấy một cái lồng trong đó là con chim ông tìm. Vì nó biết nói, ông hỏi nó cây hay nói và nước vàng ở đâu, nó sẽ chỉ cho. Tôi không dặn gì hơn nữa, đấy là điều ông phải làm và phải né tránh. Nhưng nếu ông tin tôi, theo lời tôi đã khuyên thì không nên dấn thân vào nguy hiểm. Một lần nữa trong lúc còn thì giờ suy nghĩ, ông hãy xem sự mất mát không sửa chữa được ấy gắn liền với điều kiện người ta có thể vi phạm dù không chấp nhận được như ông hiểu.
- Về lời khuyên của cụ vừa nhắc lại mà tôi rất biết ơn - Hoàng tử Bahman nói sau khi nhận viên tròn cụ đưa - Tôi không nghe theo được nhưng tôi cố gắng làm đúng lời dặn của cụ, không ngoảnh lại nhìn phía sau khi bước lên núi và hy vọng cụ sẽ thấy tôi trở lại mang theo những vật mình tìm kiếm và cám ơn cụ rất nhiều.
Nói xong và sau lời chúc của ẩn sĩ, chàng nhảy lên ngựa cúi chào từ biệt và ném viền tròn ra phía trước.
Viên tròn lăn đi, tiếp tục lăn với tốc độ gần như lúc chàng ném, buộc ngựa phải phi nhanh theo để khỏi mất hút. Chàng theo mãi, đến khi nó dừng lại ở chân núi, chàng xuống ngựa bỏ dây cương lên cổ ngựa đang đứng nguyên tại chỗ. Khi nhận ra ngọn núi và thấy những tảng đá đen, chàng bắt đầu leo lên, chưa đầy bốn bước thì những giọng nói vang lên mà không thấy người. Có những tiếng nói: Tên điên khùng kia đi đâu? Nó lên làm gì? Nó muốn gì? Không cho nó đi qua! . Những tiếng khác: Bắt nó lại, túm lấy nó, giết nó đi! . Có những giọng khác vang lên như sấm: Có kẻ trộm! Kẻ ám sát? Giết người? . Ngược lại có những giọng chế giễu: Không, đừng làm hại nó, để cho cậu bé xinh xắn đi qua; thực ra người ta giữ chiếc lồng và con chim cho nó! .
Dù nghe những tiếng nói quấy rầy, hoàng tử Bahman vẫn cố đi lên được một đoạn, quyết tâm và vững vàng tự kiềm chế mình nhưng những giọng nói tăng lên gấp bội, tiếng ồn ào lớn và ngay bên cạnh chàng cả trước cả sau làm chàng bỗng sợ hãi. Chân tay bắt đầu run, chàng lảo đảo, cảm thấy đuối sức và quên hẳn lời dặn của ẩn sĩ; chàng quay lại để đi xuống và ngay lúc ấy biến thành một tảng đá đen, đó chính là sự biến dạng của bao nhiêu người trước chàng muốn đi tìm những vật như chàng; con ngựa cũng cùng chung số phận.
Từ lúc hoàng tử Bahman ra đi, công chúa Parijade vẫn giắt con dao ở thắt lưng để biết anh mình sống hay chết, mỗi ngày rút ra xem nhiều lần. Như vậy nàng yên tâm được biết anh đang mạnh khoẻ và thường trao đổi tình hình với hoàng tử Pervij.
Lần cuối cùng trong cái ngày thê thảm mà hoàng tử Bahman vừa biến thành đá, hoàng tử Pervlj và công chúa theo thường lệ vẫn nói về chàng vào buổi tối:
- Em gái này - Hoàng tử Pervlj bảo - Em rút lưỡi dao ra xem tin tức của anh cả ra sao.
Công chúa rút dao, nhìn vào họ thấy có máu chảy ở đầu lưỡi Hoảng hốt, công chúa ném dao đi kêu lên:
- Ôi? Anh thân mến, thế là em mất anh rồi, do lỗi của em mà không bao giờ chúng em thấy lại anh nữa! Ta thật khốn khổ? Tại sao em lại nói với anh về con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng? Đúng ra thì mặc bà già tín đồ thấy ngôi nhà đẹp hay xấu, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh? Ích kỷ, lừa đảo, bà trả ơn sự tiếp đón của ta như thế đấy! Vì sao bà nói với ta về ba vật kỳ lạ ấy, tất cả chỉ là ảo tưởng qua cái chết khốn khổ của người anh thân yêu làm tinh thần ta không ngớt rối loạn!
Hoàng tử Pervij cũng không kém đau buồn về cái chết của người anh như công chúa Parijade nhưng không mất thì giờ thương tiếc vô ích, biết rằng em gái vẫn say mê con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, chàng can thiệp:
- Em gái, chúng ta thương tiếc anh Bahman của chúng ta cũng vô ích: những than phiền, đau đớn của chúng ta không trả lại cuộc sống cho anh ấy được. Đấy là ý muốn của Chúa, chúng ta đành phục tùng ý Chúa mà không đi sâu. vào làm gì. Tại sao bây giờ em lại nghi ngờ lời của bà tín đồ sau khi đã chắc chắn cho là có thật? Phải chăng em nghĩ bà ấy bịa ra để lừa bịp em khi mà em không nêu lên vấn đề và tiếp đón bà trung thực và tốt như vậy? Chúng ta hãy nghĩ anh cả chết do lỗi của anh ấy hoặc vì tai nạn gì chúng ta không hình dung được. Vì thế cái chết của anh cả không cản trở chúng ta tiếp tục theo đuổi cuộc tìm kiếm: anh sẽ tự đi thay thế anh ấy; anh cũng bố trí đúng thế và theo gương anh cả, ý anh không thay đổi và ngày mai anh sẽ lên đường.
Công chúa làm mọi cách để thuyết phục anh đừng đi, bảo rằng. không nên liều mình vào nơi nguy hiểm vì có thể sẽ mất cả hai người anh, nhưng chàng vẫn không lay chuyển. Trước khi ra đi, để em gái biết kết quả về cuộc hành trình như nàng đã theo dõi chuyến đi của anh cả qua con dao để lại, chàng đưa cho em chuỗi hạt ngọc một trăm viên và dặn:
- Em dựa vào chuỗi ngọc để biết tình hình lúc anh đi vắng, nếu những viên ngọc như dính với nhau nghĩa là em không xoay chúng được hoặc không chảy nối tiếp nhau thì đó là dấu hiệu anh đã cùng số phận với anh cả. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ không xảy ra điều đó và anh may mắn được gặp lại em, thoả mãn về điều chúng ta mong đợi.
Hoàng tử Pervij ra đi, ngày thứ hai mươi gặp cùng ẩn sĩ ấy ở chỗ hoàng tử Bahman đã gặp. Chàng lại gần chào hỏi và đề nghị chỉ dẫn nơi có con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Ân sĩ cũng nêu lên những khó khăn và khuyên răn như đã làm với hoàng tử Bahman, nói cả việc mới đây thôi có một kỵ sĩ trẻ có nhiều nét giống chàng cũng hỏi con đường với mục đích ấy. Do chàng kia nài ép, ông đã chỉ đường, cho phương tiện dẫn đường, dặn những gì cần chú ý để thành công nhưng rồi không thấy trở lại, chắc đã chung số phận với những người đi trước.
Thưa ẩn sĩ - Hoàng tử Pervij nói - Tôi biết người cụ nói đó: đấy là anh cả tôi và tôi được tin chính xác anh ấy đã chết nhưng không biết chết vì gì.
- Tôi có thể nói với ông - Ân sĩ đáp: - Ông ấy biến thành tảng đá đen như những người tôi vừa nói; ông cũng đề phòng về sự biến dạng ấy nếu không giữ thật đúng những lời tôi dặn. Ông nên từ bỏ ý muốn ấy đi, tôi khuyên ông một lần nữa.
- Thưa ẩn sĩ, tôi không đủ lời nói lên lòng biết ơn đối với cụ đã có chú ý bảo vệ cuộc sống cho tôi tuy tôi là người không quen biết và chưa làm gì xứng đáng với thái độ quý hoá đó. Nhưng xin nói trước khi quyết định tôi đã suy nghĩ kỹ và không thể từ bỏ được. Tôi xin cụ chỉ dẫn cho như đã chỉ dẫn anh tôi, có lẽ tôi sẽ vâng theo tốt hơn.
Vì không thuyết phục được ông, tôi tuổi đã cao không đứng vững được, tôi cho ông viên này làm người dẫn đường cho ông.
Không để ẩn sĩ nói thêm, hoàng tử Pervij xuống ngựa lại gần ông già; ông già vừa rút một viên trong túi còn rất nhiều viên, đưa cho chàng bảo cách sử dụng và sau khi dặn kỹ đừng sợ những tiếng nói không thấy người dù đe doạ đến mấy và lên đến chỗ có chiếc lồng và con chim.
Hoàng tử Pervij cám ơn ẩn sĩ, nhảy lên ngựa ném viên tròn lên phía trước và thúc ngựa đuổi theo. Đến chân núi thấy viên ấy dừng lại, chàng xuống ngựa. Trước khi bước lên, chàng đứng tại chỗ nhớ lại những lời dặn của ẩn sĩ lấy can đảm trèo lên núi, quyết tâm lên đến đỉnh. Vừa lên năm, sáu bước chàng nghe phía sau có tiếng quát rất gần gọi lại và chửi: Chờ đã, thằng táo tợn, ta sẽ trừng phạt mày, to gan .
Bị lăng nhục, hoàng tử Pervij quên hết lời dặn của ẩn sĩ, đưa tay rút gươm quay người lại trả thù nhưng vừa kịp thấy chẳng có ai theo mình chàng đã bị hoá đá, cả người và ngựa.
- Thưa bệ hạ, có một hoàng tử Ba Tư tên là Khosrouschah, mới tham gia cai trị vương quốc rất thích những cuộc phiêu lưu về đêm. Chàng thường cải trang cùng một trong những tên lính hầu tin cậy làm tuỳ tùng cũng cải trang như chàng đi khắp các khu trong thành phố. Nhiều lúc họ gặp những trường hợp rất đặc biệt. Thiếp hy vọng bệ hạ vui lòng nghe câu chuyện chàng gặp hôm đầu sau khi được vua cha chết vì già yếu truyền ngôi trị vì vương quốc Ba Tư.
Sau những lễ nghi theo thủ tục nhân sự kiện nối ngôi vua và sau khi chôn cất vua cha, nhà vua mới Khosrouschah muốn tìm hiểu những gì xảy ra trong đời vì tính chàng thích thế hơn là vì nhiệm vụ, ra khỏi hoàng cung vào một đêm lúc hai giờ sáng, có quan tể tướng đi theo cũng cải trang như chàng. Đến một khu dân thường, trên đường ông nghe tiếng nói khá to, chàng lại gần một ngôi nhà sáng đèn nhìn qua khe cửa thấy ba chị em nhà nọ ăn khuya xong đang ngồi trên ghế sô-pha nói chuyện. Theo câu nói của người chị lớn tuổi, nhà vua trẻ biết ngay họ đang trao đổi về ước mong của mình. Người ấy nói:
- Chị mong lấy được chồng là người thợ làm bánh của nhà vua; chị sẽ ăn no nê loại bánh ngon mà người ta gọi là bánh ngon nhất cửa vua. Nào ý thích của các em ra sao?
- Riêng em - Người chị thứ hai nói - em ước muốn là vợ bếp trưởng của nhà vua; em được ăn những thức ăn tuyệt vời và chắc chắn bánh nhà vua rất nhiều trong hoàng cung, em sẽ không sợ thiếu. Chị thấy không - cô nói thêm với chị cả ý thích của em giá trị hơn của chị chứ?
Cô em út rất đẹp và tinh tế, thông minh hơn các chị, đến lượt mình nói:
- Các chị ạ, em không hạn hẹp trong những điều ít ỏi đó, em sẽ bay cao hơn và đã là ước mong, em muốn sẽ là vợ nhà vua. Em sẽ sinh cho Người một hoàng tử có mái tóc một bên vàng, một bên bạc; khi hoàng tử khóc nước mắt rơi xuống là những viên ngọc và mỗi lần cười đôi môi xinh đẹp như một nụ hoa hồng chớm nở.
Những mong ước của ba chị em, đặc biệt của cô em út có vẻ rất đặc biệt đối với vua Khosrouschah nên chàng quyết định làm họ vừa lòng và chàng nói rõ ý định ấy với tể tướng, chàng bảo phải nhớ lấy ngôi nhà để hôm sau đến đưa họ vào cung cả ba người.
Viên tể tướng thực hiện lệnh nhà vua, hôm sau đến bảo ba chị em ăn mặc nhanh chóng để đi yết kiến nhà vua, ông chỉ nói Người muốn gặp họ. Đến hoàng cung họ được đưa vào trình diện, nhà vua hỏi:
- Đêm qua trong lúc vui vẻ các cô ước muốn những gì, ta muốn biết rõ, đừng giấu giếm ta.
Nghe vua hỏi, ba chị em bị bất ngờ, thẹn đỏ mặt. Họ cúi xuống và màu má ửng hồng trang điểm thêm cho cô em út chiếm được lòng nhà vua trẻ. Ngại ngùng và lo sợ câu chuyện của họ làm nhà vua không hài lòng họ im lặng: nhà vua thấy thế nói cho họ yên tâm:
- Các cô đừng sợ, ta không cho gọi các cô đến để gây khó dễ; ta thấy câu hỏi của ta làm các cô sợ ngoài ý định của ta và do biết điều ước muốn của từng người, ta muốn làm cho các cô được toại nguyện. Cô - chàng nói thêm – cô ước được lấy ta làm chồng, hôm nay cô sẽ được thoả mãn; còn hai cô - chàng tiếp tục nói hướng về cô chị cả và chị hai ta cũng cho làm lễ thành hôn với người làm bánh và trưởng đầu bếp phục vụ ta.
Vua tuyên bố xong, cô em út làm gương cho các chị, quỳ xuống chân nhà vua để tỏ lòng biết ơn.
- Thưa bệ hạ - Nàng nói - ước muốn của thần thiếp đã được bệ hạ biết, chỉ là một cách chuyện trò và giải trí; thiếp không xứng đáng với vinh dự bệ hạ ban cho và xin Người tha lỗi cho sự táo tợn của thiếp.
Hai người chị cũng muốn xin lỗi như thế nhưng vua ngắt lời họ và nói:
- Không, không, không sao khác được, ước mong của mỗi người các cô sẽ được thực hiện.
Lễ cưới được tiến hành ngày hôm đó như nhà vua đã quyết định những tổ chức rất khác nhau. Hôn lễ của cô em út rất trang trọng kèm theo những cuộc hoan hỉ phù hợp với việc thành hôn của một vị vua và hoàng hậu Ba Tư còn hôn lễ hai người chị chỉ tưng bừng theo địa vị của những người chồng nghĩa là người làm bánh và trưởng bếp hoàng cung.
Hai người chị cảm thấy rõ rệt sự cách biệt vô biên giữa đám cưới của họ và của cô em út. Thay vì hài lòng về hạnh phúc đến với họ theo ước mong, sự vượt xa hy vọng của họ, do quyết định ấy của nhà vua làm họ ghen tức quá đáng nó không chỉ vẩn đục niềm vui của họ mà gây ra những bất hạnh lớn, nhục nhã và làm phiền muộn nặng nể cho hoàng hậu, cô em út của họ. Lúc đầu họ chưa có thì gỉờ trao đổi về sự lựa chọn của vua như họ nghĩ là mang lại tổn hại cho họ vì phải chuẩn bị cho lễ thành hôn. Nhưng sau đó mấy ngày họ có thể gặp nhau trong một buổi tắm công cộng như đã hẹn. Người chị cả nói với chị hai:
- Thế nào em gái, em nói sao về về cô em út của chúng ta? Phải chăng trở thành hoàng hậu mới là một chuyện thật thú vị?
- Em thú nhận chẳng hiểu ra sao nữa - người chị kia nói - Không rõ nhà vua thấy ở cô ấy có những nét gì hấp dẫn làm quáng cả mắt mà làm như vậy. Cô ta chỉ là một đứa trẻ con, trong tình trạng chúng ta đã thấy. Có phải vì cô ta trẻ hơn chúng ta một ít mà nhà vua không để mắt đến chị? Chị xứng đáng sánh vai với nhà vua hơn và Người phải công bằng thích chị hơn cô ta mới phải.
- Em gái ạ - Người chị cả nói - đừng nói về chị. Nếu nhà vua chọn em thì chị chẳng bàn cãi gì nhưng lại chọn một con bé bẩn thỉu làm chị buồn lòng; chị sẽ trả thù khi có thể và chắc em cũng quan tâm đến việc ấy như chị. Nên mong em cùng với chị làm vì việc này mà chúng ta quan tâm như nhau, chứng ta sẽ bàn với nhau những cách mà mình nghĩ ra để hạ nhục nó.
Sau khi âm mưu với nhau như thế, hai chị em thường gặp nhau, mỗi lần gặp đều bàn về những thủ đoạn có thể vượt qua thậm chí phá hoại hạnh phúc của cô em út họ. Họ vẽ ra nhiều cách nhưng bàn thực hiện, họ lại thấy nhiều khó khăn lớn không dám làm liều. Tuy vậy thỉnh thoảng họ vẫn cùng nhau đến thăm em, giấu giếm ý đồ đáng kết tội của mình, hết sức tỏ ra thân mật để làm cô em tin chắc họ rất phấn khởi có một cô em ở địa vị cao sang như thế. Về phần mình hoàng hậu luôn tiếp đón họ trân trọng, không cao điệu và vẫn không bớt thương yêu các chị như trước đây.
Mấy tháng sau khi cưới hoàng hậu nhận thấy mình mang thai; nhà vua rất vui mừng và niềm vui ấy không chỉ trong hoàng cung mà lan rộng ra khắp các khu phố ở kinh thành Ba Tư. Hai người chị đến chúc mừng và bàn tính về bà đỡ giúp việc sinh nở, họ ngỏ ý với hoàng hậu đừng chọn ai khác ngoài họ. Hoàng hậu cám ơn họ, và nói:
- Các chị, em không mong gì hơn như các chị nghĩ, nếu việc lựa chọn thuộc về em hoàn toàn, em sẽ vô cùng cám ơn lòng tốt của các chị nhưng em không thể không tuân theo lệnh của nhà vua. Tuy vậy mỗi chị nên làm thế nào để chồng các chị nhờ bạn bè xin nhà vua gia ân cho như vậy và nếu nhà vua nói với em điều đó, các chị cứ tin rằng em sẽ tỏ ra vui sướng và còn cám ơn Người về sự lựa chọn các chị làm việc đó.
Hai người chồng mỗi người nhờ những cận thần đỏ đầu của mình, khẩn cầu họ xin nhà vua cho vợ họ được vinh dự họ mong muốn; các cận thần ra sức nỉ non với nhà vua kết quả là nhà vua đã hứa sẽ nghĩ đến điều ấy vua giữ lời hứa và trong một buổi trao đổi với hoàng hậu, nhà vua bảo theo chàng hai bà chị có vẻ thích hợp trong việc giúp đỡ hoàng hậu lúc sinh hơn mọi bà đỡ nào khác nhưng chưa muốn chỉ định khi chưa được hoàng hậu đồng tình. Hoàng hậu nhạy cảm về sự tôn trọng của vua, tỏ rõ lòng biết ơn và nói:
- Thưa bệ hạ. Thiếp chỉ làm theo lệnh của bệ hạ. Người đã có lòng tốt để mắt đến hai chị của thiếp, thiếp rất cám ơn sự chiếu cố đó vì tình thương yêu thiếp và thiếp không giấu giém rằng thiếp vui lòng nhờ họ hơn những người lạ.
Vậy là vua Khosrouschah cử hai người chị hoàng hậu làm bà đỡ, từ đó cả hai vào cung, rất vui mừng có dịp mong muốn để thực hiện mưu mô độc ác đối với cô em út.
Ngày sinh đã tới, hoàng hậu may mắn có một hoàng tử xinh như mộng. Sắc đẹp và sự non nớt của đứa bé cũng không thể khiến lòng hai người đàn bà vô lương tâm cảm động hoặc thương hại. Họ bọc đứa trẻ sơ sinh khá cẩu thả, bỏ vào một chiếc giỏ thả trên dòng nước một con suối chảy qua nhà hoàng hậu, đem một con chó nhỏ đã chết thay thế nói rằng do hoàng hậu sinh ra. Tin xấu ấy được báo lên vua; nhà vua tức giận suýt giết chết hoàng hậu nếu vị tể tướng không can ngăn nhà vua không nên bất công bắt hoàng hậu chịu trách nhiệm về những kỳ quặc của tự nhiên.
Chiếc giỏ trong đó có hoàng tử nhỏ nằm được dòng nước suối đưa ra khỏi bức tường bao quanh nhà hoàng hậu theo lỗ hổng bên dưới, tiếp tục trôi qua khu vườn thượng uyển. Tình cờ người quản lý khu vườn, một trong những võ quan cấp cao và được coi trọng nhất vương quốc, đi dạo trong vườn dọc con suối. Ông thấy chiếc giỏ bập bềnh trên nước, liền gọi một người làm vườn gần đó chỉ cho và nói:
Anh nhanh tay vớt cho ta chiếc giỏ xem có gì trong đó.
Người làm vườn lại bên bờ suối khéo léo dùng một cây sào kéo chiếc giỏ vào, nâng lên và đưa tới.
Người quản lý khu vườn rất ngạc nhiên thấy một đứa bé trong giỏ tuy vừa mới sinh nhưng có những nét đẹp ưa nhìn. Ông đã lấy vợ từ lâu, rất mong có người nối dõi nhưng trời chưa cho. Ông bỏ cuộc đi dạo, bảo người làm vườn mang giỏ và đứa bé đi theo về nhà mình ngay bên cạnh cổng vườn, vào phòng của bà vợ nói:
- Bà ơi, chúng ta chưa có con và Chúa trời đưa đến cho ta đây. Tôi uỷ thác cho bà, tìm ngay một vú nuôi và chăm nom cẩn thận như con trai chúng ta: bây giờ tôi nhận ra nó là ai rồi.
Bà vợ vui mừng bế đứa bé, rất hài lòng được chăm sóc nó. Người quản lý khu vườn không muốn đi sâu tìm hiểu đứa bé ở đâu ra. Ông tự nhủ:
- Ta thấy rõ nó từ phía nhà hoàng hậu trôi đến nhưng ta không có nhiệm vụ điều tra xem việc gì xảy ra ở đó cũng như không được gây xáo trộn trong một nơi rất cần thiết phải yên ổn.
Năm sau hoàng hậu sinh một hoàng tử khác. Những người chị mất tính người cũng không thương hại đứa bé hơn anh nó. Họ cũng bỏ vào giỏ thả trôi trên dòng suối và nói rằng hoàng hậu sinh ra một con mèo. May mắn cho đứa bé, người quản lý khu vườn ở gần suối, cho vớt lên đưa về cho vợ, dặn chăm nom cẩn thận như đứa đầu. Bà vợ chăm sóc ,chu đáo không kém do ý thích của minh và chiều theo lòng tốt của chồng.
Vua Ba Tư lần này càng giận hoàng hậu hơn lần trước và định phản ứng mãnh liệt nếu vị tể tướng lại không làm cho ngài nguôi đi. Cuối cùng hoàng hậu sinh lần thứ ba, không phải hoàng tử mà một công chúa; cô bé vô tội cũng chịu số phận như hai anh. Hai người chị đáng ghét quyết tầm không dừng tay khi cô em út chưa bị truất ngôi hoặc ít ra là bị đuổi đi và phải bị làm nhục lại thả trôi ở dòng suối. Công chúa được cứu khỏi cái chết chắc chắn cũng do tình thương và lòng nhân hậu của người quản lý khu vườn, và cũng được nuôi dưỡng như hai anh.
Vẫn bản tính vô nhân đạo của hai người chị lần này sự dối trá lừa bịp của họ còn tăng thêm. Họ đưa ra một mẩu gỗ nói là do hoàng hậu sinh ra.
Vua Khosrouschah không nuốt giận được nữa khi được tin lần sinh mới kỳ lạ này. Ngài nói:
- Sao! Người đàn bà không xứng đáng này định sẽ làm đầy quái vật trong cung của ta nếu ta để cho cô ta sống ư? Không, không bao giờ được thế nữa, bản thân cô ta đã là một quái vật, ta phải tẩy rửa khỏi cuộc đời.
Nhà vua tuyên bố lệnh tử hình hoàng hậu và giao cho tể tướng thực hiện.
Quan tể tướng và các cận thần có mặt lúc đó vội quỳ xuống chân nhà vua khẩn cầu rút bỏ lệnh ấy. Quan tể tướng nói:
- Thưa bệ hạ, xin Người cho phép thần được trình bày, lệnh tử hình chỉ dùng trong những tội trạng giết người. Ba lần sinh của hoàng hậu, lạ lùng đến thế, không phải tội giết người. Căn cứ vào đâu có thể quy cho bà góp phần làm việc ấy? Một số lớn phụ nữ thường ngày vẫn sinh nở như vậy; họ đáng thương nhưng không đáng xử phạt. Bệ hạ có thể không ban ân huệ đến bà nữa nhưng nên để bà sống. Sự buồn tủi vì mất ân huệ củn bệ hạ trong những ngày còn lại đã là một hình phạt nặng đối với bà.
Vua Ba Tư bình tĩnh lại thấy kết tội hoàng hậu vì sinh ra những quái thai là bất công thật. Nhà vua phán:
- Thôi được, để cho bà ấy sống nhưng với một điều kiện hàng ngày bà ấy chỉ muốn được chết. Làm cho bà ấy một căn nhà nhỏ ở cổng nhà thờ chính, một cửa sổ mở thường xuyên; nhốt bà vào đấy bắt bà ấy mặc quần áo thô, mỗi người dân đạo Hồi đi qua đấy vào nhà thờ cầu nguyện phải nhổ vào mặt bà ta nếu không cũng bị phạt như thế. Để lệnh được thực hiện nghiêm, ta giao cho ông, quan tể tướng bố trí canh gác.
Giọng nói của vua nêu lên hình phạt này làm vị tể tướng không dám nói nữa. Ông cho tiến hành hình phạt trong sự thoả lòng của hai người chị ghen tức. Căn nhà nhỏ xây dựng xong và hoàng hậu thực sự đáng thương sau lúc sinh bị nhốt vào đó theo cách nhà vua ra lệnh, nhục nhã làm trò cười và chịu sự khinh bỉ của dân chúng. Hình phạt ấy bà không đáng bị xử, nhưng bà kiên trì chịu đựng nên đã đưa lại lời khen và lòng thương cảm của tất cả những người phán xét sáng suốt, công bằng hơn người thường.
Hai hoàng tử và công chúa được người quản lý khu vườn và bà vợ nuôi dạy với tình âu yếm của những người cha mẹ; tình âu yếm đó càng tăng khi công chúa và các hoàng tử càng lớn lên nhất là vì những vẻ đẹp của công chúa. Tính ba anh em ngoan ngoãn, xu hướng tốt đẹp hơn hẳn trẻ con bình thường và có một phong thái nào đó chỉ có thể thuộc về các hoàng tử và công chúa. Để phân biệt anh em, họ gọi tên đứa trẻ đầu là Bahman, đứa thứ hai Pervij, tên những nhà vua Ba Tư cổ. Họ gọi công chúa là Parijađe, tên của nhiều hoàng hậu, công chúa trong vương quốc .
Khi hai hoàng tử đến tuổi, người quản lý khu vườn tìm thầy dạy đọc và viết; công chúa có mặt ở những buổi học tỏ ra rất muốn đọc, viết tuy còn ít tuổi hơn các anh. Người bố nuôi phấn khởi trước tình hình ấy cũng để ông thầy đó dạy cho công chúa luôn. Được khuyến khích, cộng với sự nhanh nhẹn và thông minh một thời gian sau công chúa cũng thành thạo như các anh.
Từ lúc đó ba anh em cùng học chung một thầy về mỹ thuật, địa lý, thơ, lịch sử và các môn khoa học. Cả trong những môn khoa học bí ẩn, họ cũng không thấy có gì khó khăn, mỗi lúc một thêm tiến bộ xuất sắc làm các thầy dạy ngạc nhiên và rồi thú nhận thẳng thắn chẳng bao lâu học trò sẽ đi xa hơn thầy. Trong những tiết nghỉ học công chúa chơi âm nhạc, tập hát và sử dụng nhiều loại nhạc cụ; khi các hoàng tử học đi ngựa, công chúa không muốn thua kém các anh cũng luyện tập với họ nên biết lên ngựa, dẫn dắt ngựa, bắn cung, ném lao cũng giỏi như họ thậm chí thường vượt họ trong các cuộc đua.
Người quản lý vườn thượng uyển vô cùng vui sướng thấy những đứa con nuôi hoàn hảo như thế về thể chất và tinh thần, xứng đáng với chi phí bỏ ra trong việc nuôi dạy vượt xa kinh phí dự trù, thậm chí ông còn chi thêm một khoản nữa rất lớn. Cho đến lúc đó, hài lòng với ngôi nhà đang ở ven khu vườn, ông chưa có nhà nghỉ ở vùng thôn dã. Giờ đây ông mua một trang trại cách thành phố không xa, có nhiều đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng cây và thấy ngôi nhà không được đẹp và đủ tiện nghi, ông không tiếc công cho xây dựng lại cho đẹp nhất trong vùng. Hàng ngày ông tới đó đôn đốc một số đông thợ làm việc và khi xong một căn phòng đủ ở, ông ở luôn đấy nhiều ngày những lúc công việc ở triều đình cho phép. Ngôi nhà hoàn thành trong đó người ta trang trí nội thất với những đồ đạc sang trọng nhất phù hợp với vẻ đẹp của ngôi nhà, ông cho bố trí khu vườn theo ý mình như những ông chủ lớn ở Ba Tư thường làm. Ông xây dựng thêm một vườn cây rất rộng bao tường cao thả vào đấy các loại thú rừng để các hoàng tử và công chúa khi thích thì đi săn giải trí.
Khi trang trại đã hoàn chỉnh và ở được, người quản lý vườn thượng uyển đến quỳ dưới chân nhà vua, trình bày đã phục vụ lâu năm, bây giờ già yếu xin vua cho từ chức và lui về nhà. Vua rất hài lòng về quá trình phục vụ của ông từ thời vua cha cho đến đời ngài trị vì vui lòng gia ân, và hỏi có thể khen thưởng ông như thế nào. Người quản lý vườn thượng uyển trả lời:
- Thưa bệ hạ, thần đã nhận được đầy đủ ân đức của bệ hạ và của vua cha đã khuất đến mức chỉ còn muốn chết trong vinh dự của những ân đức ấy.
Ông chào từ biệt vua Khosrouschah rồi về sống ở trang trại vừa xây dựng cùng hai hoàng tử và công chúa; vợ ông đã mất cách đó vài năm. Nhưng rồi người quản lý vườn thượng uyển cũng chỉ sống với họ thêm năm, sáu tháng nữa rồi đột ngột qua đời, không có thì giờ nói một lời về nguồn gốc thật của họ, một việc mà ông đã định làm, nó rất cần thiết để buộc họ sống như từ trước đến nay theo tinh thần và điều kiện của họ, phù hợp với việc giáo dục và xu hướng ông đưa lại cho họ.
Hoàng tử Bahman và Pervij, công chúa PariJade không biết người cha nào khác ngoài người quản lý vườn thượng uyển, thương tiếc ông hết mức và làm mọi nhiệm vụ an táng, phụng thờ ông với tình yêu và lòng biết ơn của những người con đối với cha. Với tài sản lớn ông để lại, họ tiếp tục sống hoà hợp với nhau như trước đây; các hoàng tử cũng không có tham vọng về triều tìm kiếm chức tước và danh giá mà hai chàng dễ dàng đạt được.
Một hôm hai hoàng tử đi săn, công chúa Parijade ở nhà, một bà Hồi giáo sùng đạo, rất già đến trước cổng xin vào nhà cầu kinh vì đã đến giờ. Người hầu vào xin phép công chúa; nàng ra lệnh đưa bà vào, chỉ cho bà nhà nguyện mà người quản lý vườn thượng uyển đã cẩn thận xây dựng bên cạnh nhà vì trong vùng không có nhà thờ. Nàng cũng bảo khi bà già cầu nguyện xong nên đưa bà đi xem cả ngôi nhà, vườn cây rồi dẫn đến gặp nàng.
Bà tín đồ Hồi giáo đi vào, đọc kinh ở nhà nguyện; khi xong, hai người hầu gái đang chờ mời bà đi xem ngôi nhà và khu vườn. Thấy bà tỏ ra sẵn sàng theo họ, hai người đưa bà hết qua phòng này lại đến phòng khác. Trong mỗi phòng bà nhìn mọi thứ đồ đạc và lối bố trí phù hợp với từng nơi lòng đầy khâm phục; họ lại đưa bà ra vườn. Bà thấy cảnh vật thật mới và hoà hợp, liền khen ngợi rằng người bố trí khu vườn phải là bậc thầy về nghệ thuật. Cuối cùng bà được dẫn đến gặp công chúa đang chờ ở phòng khách lớn, hơn hẳn các phòng khác về vẻ đẹp, sạch sẽ và sang trọng.
Thấy bà già vào, công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu, bà lại gần đây và ngồi bên cạnh tôi; tôi rất hạnh phúc có dịp tranh thủ một lúc học tập tấm gương tốt và con đường thờ phụng Chúa của một người như bà mà mọi người khôn ngoan đều phải noi theo.
Bà già thay vì lên ngồi trên ghế xô-pha, muốn ngồi ở dưới thềm nhưng công chúa không chịu, đứng dậy đến nắm tay bà buộc đến ngồi cạnh nàng ở vị trí danh dự. Bà già cảm động về phong cách lễ độ ấy.
- Thưa quý cô - Bà nói - Tôi không đáng được đối xử trân trọng như thế, tôi vâng lời chỉ vì cô ra lệnh và cô là chủ trong gia đình.
Khi đã ngồi, trước khi trò chuyện: một trong những người hầu nữ của công chúa đưa lại trước mặt bà và công chúa một chiếc bàn nhỏ, thấp bằng gỗ mun khảm ngọc, bên trên là một chiếc đĩa sứ đầy bánh ngọt và nhiều bình hoa quả trong mùa, mứt khô và nước uống.
Công chúa cầm một chiếc bánh đưa cho bà già, nói:
- Mẹ phúc hậu, bà ăn đi và chọn những quả cây bà thích. Bà cần ăn uống sau khi đi đường đến tận đây.
- Thưa quý cô - Bà già nói - Tôi không quen ăn những thứ ngon lành này nhưng tôi ăn để không từ chối những gì Chúa đưa đến cho tôi do bàn tay hào hiệp của cô.
Trong lúc bà già ăn, công chúa cũng ăn một ít để khuyến khích bà cùng ăn. Nàng hỏi bà về những biện pháp hành đạo của bà và cách sinh sống; bà già trả lời rất khiêm tốn. Tữ chuyện này sang chuyện khác, nàng hỏi bà cảm nghĩ về ngôi nhà và thấy có vừa ý không.
- Thưa quý cô - Bà già trả lời - Phải thật kém thẩm mỹ mới thấy có gì đó phải thay đổi. Ngôi nhà rất đẹp, vui tươi trang trí nội thất hài hoà, việc bố trí không thể làm gì hơn được. Về địa điểm, ngôi nhà ở trên khu đất thoáng đãng và không thể hình dung có một cảnh vườn nhìn ngắm thích hơn khu vườn trong đó. Tuy vậy nếu cô cho phép, tôi không giấu giếm được nói với cô, ngôi nhà sẽ không so sánh được nếu được bổ sung vào ba điều đang thiếu.
- Thưa bà - Công chúa Parijade hỏi - Đó là ba điều gì? Nhờ bà chỉ dẫn cho; nhân danh Chúa tôi đoán chắc với bà sẽ không tiếc nuối gì để tìm cho được nếu có thể.
- Thưa quý cô, điều thứ nhất là con chim biết nói: đây là một con chim đặc biệt tên là Bulbulhejar, còn có đặc tính lôi kéo những con chim trong vùng đến cùng hót theo. Điều thứ hai là cây hay hát, lá cây là miệng tấu lên một hợp âm với những giọng khác nhau không bao giờ ngừng. Cuối cùng thứ ba là loại nước màu vàng nhỏ một giọt vào chiếc bể làm thêm vào một chỗ trong khu vườn, lúc đầu nó làm đầy bể sau đó ở giữa bắn lên thành tia không ngớt vươn cao và rơi lại xuống bể mà không tràn.
- Chà? Mẹ phúc hậu - Công chúa kêu lên- Tôi rất cám ơn bà đã cho biết những điều ấy. Thật kỳ lạ, tôi chưa được nghe nói có vật gì trên đời lạ lùng và đáng ca ngợi hơn. Tôi chắc bà biết chỗ có những vật đó, mong bà làm ơn chỉ cho.
Để làm công chúa thoả mãn, bà già nói:
- Thưa quý cô, tôi sẽ không xứng đáng với lòng mến khách, tốt như thế đối với tôi, nếu từ chối không thoả mãn yêu cầu của cô. Vậy tôi vinh dự được nói, ba vật tôi vừa nói đó ở cùng một chỗ ở biên giới vương quốc về phía Ấn độ. Con đường đến đấy đi qua trước nhà cô; người được cô cử đi chỉ việc theo con đường đấy đi hai mươi ngày và ngày thứ hai mươi hỏi người gặp đầu tiên, con chim biết nói, cây hát và nước vàng ở đâu, người ấy sẽ chỉ cho.
Nói xong bà già đứng dậy xin từ biệt và tiếp tục đi theo đường mình.
Công chúa Parijade tâm trí bận về những lời chỉ dẫn của bà già về ba vật kỳ lạ, chỉ nhận ra bà đã ra đi khi muốn hỏi rõ thêm. Nàng suy nghĩ nếu chỉ nghe nói như vậy mà tiến hành một chuyến đi thì vô ích. Nàng không muốn cho người chạy theo mời bà trở lại mà cố gắng nhớ lại những gì bà đã cho biết. Khi thấy đã không quên điều gì, công chúa rất vui nếu có được những vật tuyệt vời như vậy nhưng nàng đoán sẽ có rất nhiều những khó khăn, sợ không thể có được chúng, nàng đắm mình trong lo âu.
ông chúa Parijade đang triền miên suy nghĩ thì các hoàng tử anh đi săn trở về. Họ vào phòng khách thay vì thấy nàng vui vẻ, cởi mở như thường lệ, họ ngạc nhiên trông thấy nàng đăm chiêu có vẻ buồn, không ngẩng đầu để ít nhất cũng nhận ra có mặt họ.
Hoàng tử Bahman lên tiếng hỏi:
- Em gái, sự vui vẻ và tính hiếu động của em vốn có nay ở đâu rồi? Em có bị ốm không? Có việc gì xảy ra chăng? Vì sao em buồn thế, nói cho các anh biết đi. Các anh phải san sẻ hoặc chữa trị cho em, hoặc sẽ trả thù nếu có kẻ nào xúc phạm đến một người đáng kính như em.
Công chúa ngồi một lúc không trả lời, đưa mắt nhìn các anh rồi cúi xuống ngay sau khi nói không có gì.
- Em gái - Hoàng tử Bahnlan lại nói - Em giấu các anh sự thật. Phải có điều gì đó thậm chí nghiêm trọng. Không thể trong một thời gian ngắn các anh đi ra ngoài, có một sự thay đê lớn, bất ngờ như các anh đang nhận thấy ở em mà lại không có chuyện gì. Các anh không thoả mãn về một câu trả lời như vậy. Em đừng giấu các anh đó là việc gì nếu không muốn để các anh nghĩ rằng em chối bỏ tình cảm thắm thiết và sự gắn bó vững chắc, không thay đổi giữa chúng ta từ hồi còn bé bỏng cho đến ngày nay.
Công chúa còn lâu mới cắt đứt với các anh, không muốn để các anh phải nghĩ như vậy, bèn nói:
- Khi em nói điều làm cho em phiền lòng không có gì là em nói dối với các anh chứ không phải đối với em vì thấy có tầm quan trọng nào đó. Vì các anh ép buộc em nhân danh tình thân và sự gắn bó giữa chúng ta vốn rất quý báu đối với em, em sẽ nói với các anh đó là điều gì. Các anh chắc đã nghĩ, và em cũng nghĩ như các anh, ngôi nhà người cha quá cố xây dựng cho chúng ta mọi mặt đều hoàn hảo, không còn thiếu gì. Tuy thế hôm nay em được biết thiếu ba điều làm cho mọi trang trại trên đời không so sánh nổi với nó. Đó là con chim biết nói cây hay hát và giọt nước vàng - Sau khi giải thích tính ưu việt của ba vật đó, nàng nói thêm: - Do một bà tín đồ Hồi giáo nhận xét với em điều đó, chỉ dẫn chỗ có ba vật ấy và đường đi đến đấy. Có lẽ các anh thấy có thể bỏ qua chuyện ấy đấy là những vật ít hiệu quả không cần thiết bổ sung vào mà ngôi nhà chúng ta vẫn lả một nhà rất đẹp rồi . Các anh nghĩ thế nào tuỳ thích nhưng riêng em, em thấy cần thiết và chỉ hài lòng khi có ba vật ấy ở chỗ chúng ta. Như vậy các anh có quan tâm hay không cũng được nhưng mong hãy giúp em, xem em có nên cử người đi tìm về không.
- Em gái - Hoàng tử Bahman lại nói - Không có gì em quan tâm mà các anh không quan tâm. Chỉ cần em sốt sắng tìm cho được những vật em nói là đã buộc các anh tham gia rồi. Các anh cũng cảm thấy cần hành động và được thoả mãn, anh tin rằng em trai thứ hai cũng vậy và chúng ta cùng bắt tay chinh phục lấy các thứ ấy như em nói. Tầm quan trọng và nét đặc biệt của việc này đáng được gọi thế. Anh đảm nhiệm việc thực hiện, em chỉ cần nói cho anh con đường đi tới đó và địa điểm, anh không lùi cuộc hành trình lại lâu quá ngày mai.
- Thưa anh - Hoàng tử Pervij nói - Anh là chủ gia đình và là chỗ dựa, không nên vắng nhà lâu ngày. Chắc em gái sẽ đồng tình với em mong anh từ bỏ ý định đó để em đi thì tất hơn. Em sẽ hoàn thành việc đó không kém anh và mọi công việc sẽ đúng nề nếp hơn.
- Em trai - Hoàng tử Bahman nói - Anh tin chắc vào lòng tự nguyện của em và em hoàn thành việe đó không kém anh nhưng vấn đề đã được quyết định, anh muốn làm lấy và sẽ làm. Em ở nhà với em gái chúng ta, không cần bàn lại nữa.
Chàng để thì giờ còn lại trong ngày chuẩn bị cho cuộc hành trình và hỏi kỹ công chúa về những lời chỉ dẫn của bà tín đồ để khỏi lạc đường.
Hôm sau từ sáng sớm hoàng tử Bahman lên ngựa; hoàng tử Pervij và công chúa Parijade ra tiễn, ôm hôn anh cả chúc đi đường gặp may mắn. Giữa lúc chia tay, công chúa chợt nhớ ra một điều trước đó chưa nghĩ tới. Nàng nói:
- Thưa anh, em đã không nghĩ đến những rủi ro dọc đường, biết đâu không được gặp lại anh bao giờ nữa? Anh xuống ngựa, đừng đi nữa. Thà em không thấy và sở hữu con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng còn hơn anh gặp nguy hiểm và mất anh.
- Em gái - Hoàng tử Bahman mỉm cười về mối lo sợ của công chúa - Anh đã quyết định rồi và chưa lấy được những cái đó thì anh chưa thôi. Những tai nạn em nói chỉ đến với những người bất hạnh. Đúng là anh có thể trong số đó nhưng cũng có thể là một trong những người may mắn vốn rất nhiều so với những người bất hạnh. Do những tình huống đều không chắc chắn và anh cũng có thể ngã xuống trong việc làm, tất cả những gì anh có thể làm là để lại cho các em một con dao, nó đây.
Hoàng tử rút ra một còn dao đưa cho công chúa và nói:
Em giữ lấy, thỉnh thoảng rút ra khỏi vỏ xem, nếu thấy lưỡi dao trong sáng như thường là dấu hiệu anh còn sống; nếu thấy có vết máu thì biết là anh đã chết và cầu nguyện cho anh.
Công chúa Parijade không làm gì hơn được. Hoàng tử Bahman trang bị đầy đủ từ biệt nàng và Pervij lần cuối và ra đi. Chàng không rẽ trái rẽ phải, theo đúng con đường tiếp tục đi qua đất nước Ba Tư và ngày thứ hai mươi chàng nhận thấy bên đường một ông già xấu xí ngồi dưới gốc cây tơ gần đấy là căn nhà tranh ông vẫn để ẩn mình trong mưa nắng.
Đôi lông mày trắng như tuyết cũng như mái tóc, ria mép và bộ râu, rủ dài xuống đến đầu mũi; ria mép phủ kín miệng, bộ râu và mái tóc rủ xuống gần tận bàn chân. Móng tay móng chân dài quá thể, trên đầu là một chiếc mũ bằng rất rộng theo hình lọng; quần áo chỉ là một chiếc chiếu bọc quanh người.
Ông già là một ẩn sĩ xa lánh cuộc đời, từ nhiều năm không chăm sóc thân thể chỉ gắn bó với Chúa nên cuối cùng thành người như vậy.
Hoàng tử Bahman suốt buổi sáng đã chú ý quan sát để hỏi về chỗ định đến, tới gần ông già thì dừng lại xem như người đầu tiên mình gặp, xuống ngựa hỏi thăm như bà tín đồ đã dặn công chúa Parijade. Tay dắt ngựa tiến lại chỗ ông già, chàng chào và hỏi:
Bố phúc hậu, mong Chúa để bố kéo dài tuổi thọ và hoàn thành mọi mong ước của mình!.
Ẩn sĩ trả lời chàng nhưng rất khó nghe nên chàng không hiểu một chữ. Hoàng tử thấy cản trở đó do bố ria phủ kín miệng ông già, không muốn bỏ qua lời chỉ dẫn cần thiết, cầm chiếc kéo đem theo và sau khi buộc ngựa vào một cành cây, lại nói với ẩn sĩ:
- Thưa ẩn sĩ, tôi muốn nói chuyện với cụ nhưng bộ ria mép của cụ làm tôi không nghe được lời. Xin cụ vui lòng để tôi làm, sửa sang râu tóc lại cùng với bộ lông mày che hết mặt mũi làm cụ giống một con gấu hơn là người.
Ân sĩ không phản đối ý định của hoàng tử, để chàng cắt tỉa và khi xong, chàng thấy khuôn mặt ông già sáng sủa trẻ hơn rất nhiều so vội tuổi bèn nói:
- Ân sĩ phúc hậu, nếu tôi có chiếc gương tôi sẽ đưa để cụ xem đã trẻ lại bao nhiêu; bây giờ cụ là một con người mà trước đây người ta không nhận ra được.
Lời vuốt ve của hoàng tử Bahman làm ông già mỉm cườì khen:
- Tên ông, dù ông là ai, tôi biết ơn ông về việc tốt ông vừa làm cho tôi; tôi sẵn sàng tỏ lòng biết ơn đối với ông về mọi việc theo sức mình. Ông từ xa đến chắc có việc cần thiết, hãy cho tôi biết đó là việc gì, nếu có thể tôi cố gắng làm ông hài lòng.
- Thưa ẩn sĩ phúc hậu - Hoàng tử Bahman nói – Tôi từ xa đến, đi tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Tôi biết ba vật ấy ở trong vùng này nhưng không biết chỗ cụ thể. Nếu cụ biết xin cụ chỉ đường cho tôi để tôi không lấy nhầm và mất công làm một cuộc hành trình từ xa.
Trong lúc ,nói thế, hoàng tử nhận thấy nét mặt ẩn sĩ thay đổi, cúi mặt xuống, vẻ nghiêm trang và đứng yên không trả lời. Điều đó buộc hoàng tử nói tiếp:
Bố phúc hậu, hình như cụ đã nghe rồi: nhờ cụ nói cho có biết điều tôi đề nghị hay không để khỏi mất thì giờ và tôi đi hỏi chỗ khác.
Cuối cùng ẩn sĩ không nín lặng nữa:
- Tôn ông, tôi biết con đường ông hỏi nhưng tình cảm từ khi gặp ông, càng tăng thêm khi ông giúp tôi sửa sang râu tóc làm tôi ngập ngừng không biết có nên thoả mãn yêu cầu của ông không.
- Lý do gì ngăn cản cụ và những khó khăn gì tôi sẽ gặp phải vậy?
- Tôi nói đây. Mối nguy hiểm ông đương đầu lớn hơn ông nghĩ nhiều. Rất nhiều tôn ông không kém dũng cảm và táo bạo đã đi qua đây và cũng hỏi tôi điều ấy. Sau khi dùng mọi cách để họ quay lại nhưng họ không tin, tôi phải chỉ đường cho họ vì họ nài nỉ, tôi đảm bảo với ông họ đều thất bại và không thấy một ai trở về. Nếu ông còn yêu cuộc sống một ít và nghe lời tôi khuyên thì ông nên quay lại nhà đi.
Hoàng tử cố giữ ý định của mình, nói với ẩn sĩ:
- Tôi tin vào lời khuyên rất thành thật của cụ và xin cám ơn về tình cảm của cụ đối với tôi. Nhưng dù nguy hiểm đến mức nào cũng không làm tôi thay đổi ý định. Nếu có ai đó tấn công tôi, tôi có vũ khí tốt và kẻ đó sẽ không hăng hái, dũng cảm hơn tôi đâu.
- Nếu những kẻ tấn công ông - Ẩn sĩ chỉ rõ- không xuất hiện (vì họ rất nhiều), ông làm sao chống cự lại những kẻ vô hình?
- Bất kể cụ nói thế nào, cụ không làm tôi từ bỏ nhiệm vụ của tôi được. Cụ đã biết đường, một lần nữa xin cụ chỉ dẫn cho, đừng từ chối gia ân cho tôi việc ấy.
Ẩn sĩ thấy không thể thuyết phục tinh thần của hoàng tử Bahman và chàng vẫn kiên quyết hoàn thành cuộc hành trình mặc dù đã được nghe những lời khuyên cứu mạng, ông đưa tay vào chiếc túi bên cạnh mình lấy ra một viên tròn đưa cho chàng:
- Ông đã không nghe và tranh thủ những lời khuyên của tôi, vậy ông hãy cầm lấy viên này, khi lên ngựa thì quăng ra phía trước và theo nó đến chân một quả núi. Khi nó dừng lại đó, ông xuống ngựa để nguyên dây cương trên cổ ngựa, nó sẽ đứng yên chờ ông trở lại. Lên núi ông thấy bên phải, trái rất nhiều tảng đá màu đen và nghe lẫn lộn nhiều giọng chửi rủa để ông ngã lòng, làm sao để ông không lên cao được. Nhưng ông đừng sợ và nhất là không được ngoảnh nhìn lại phía sau, ông sẽ bị biến ngay thành một tảng đá đen giống như những tảng đá ông thấy, những tảng đá đó vốn là những tôn ông đã thất bại như tôi nói. Nếu ông tránh được mối nguy hiểm lớn tôi tả đó và lên đến đỉnh núi, ông sẽ thấy một cái lồng trong đó là con chim ông tìm. Vì nó biết nói, ông hỏi nó cây hay nói và nước vàng ở đâu, nó sẽ chỉ cho. Tôi không dặn gì hơn nữa, đấy là điều ông phải làm và phải né tránh. Nhưng nếu ông tin tôi, theo lời tôi đã khuyên thì không nên dấn thân vào nguy hiểm. Một lần nữa trong lúc còn thì giờ suy nghĩ, ông hãy xem sự mất mát không sửa chữa được ấy gắn liền với điều kiện người ta có thể vi phạm dù không chấp nhận được như ông hiểu.
- Về lời khuyên của cụ vừa nhắc lại mà tôi rất biết ơn - Hoàng tử Bahman nói sau khi nhận viên tròn cụ đưa - Tôi không nghe theo được nhưng tôi cố gắng làm đúng lời dặn của cụ, không ngoảnh lại nhìn phía sau khi bước lên núi và hy vọng cụ sẽ thấy tôi trở lại mang theo những vật mình tìm kiếm và cám ơn cụ rất nhiều.
Nói xong và sau lời chúc của ẩn sĩ, chàng nhảy lên ngựa cúi chào từ biệt và ném viền tròn ra phía trước.
Viên tròn lăn đi, tiếp tục lăn với tốc độ gần như lúc chàng ném, buộc ngựa phải phi nhanh theo để khỏi mất hút. Chàng theo mãi, đến khi nó dừng lại ở chân núi, chàng xuống ngựa bỏ dây cương lên cổ ngựa đang đứng nguyên tại chỗ. Khi nhận ra ngọn núi và thấy những tảng đá đen, chàng bắt đầu leo lên, chưa đầy bốn bước thì những giọng nói vang lên mà không thấy người. Có những tiếng nói: Tên điên khùng kia đi đâu? Nó lên làm gì? Nó muốn gì? Không cho nó đi qua! . Những tiếng khác: Bắt nó lại, túm lấy nó, giết nó đi! . Có những giọng khác vang lên như sấm: Có kẻ trộm! Kẻ ám sát? Giết người? . Ngược lại có những giọng chế giễu: Không, đừng làm hại nó, để cho cậu bé xinh xắn đi qua; thực ra người ta giữ chiếc lồng và con chim cho nó! .
Dù nghe những tiếng nói quấy rầy, hoàng tử Bahman vẫn cố đi lên được một đoạn, quyết tâm và vững vàng tự kiềm chế mình nhưng những giọng nói tăng lên gấp bội, tiếng ồn ào lớn và ngay bên cạnh chàng cả trước cả sau làm chàng bỗng sợ hãi. Chân tay bắt đầu run, chàng lảo đảo, cảm thấy đuối sức và quên hẳn lời dặn của ẩn sĩ; chàng quay lại để đi xuống và ngay lúc ấy biến thành một tảng đá đen, đó chính là sự biến dạng của bao nhiêu người trước chàng muốn đi tìm những vật như chàng; con ngựa cũng cùng chung số phận.
Từ lúc hoàng tử Bahman ra đi, công chúa Parijade vẫn giắt con dao ở thắt lưng để biết anh mình sống hay chết, mỗi ngày rút ra xem nhiều lần. Như vậy nàng yên tâm được biết anh đang mạnh khoẻ và thường trao đổi tình hình với hoàng tử Pervij.
Lần cuối cùng trong cái ngày thê thảm mà hoàng tử Bahman vừa biến thành đá, hoàng tử Pervlj và công chúa theo thường lệ vẫn nói về chàng vào buổi tối:
- Em gái này - Hoàng tử Pervlj bảo - Em rút lưỡi dao ra xem tin tức của anh cả ra sao.
Công chúa rút dao, nhìn vào họ thấy có máu chảy ở đầu lưỡi Hoảng hốt, công chúa ném dao đi kêu lên:
- Ôi? Anh thân mến, thế là em mất anh rồi, do lỗi của em mà không bao giờ chúng em thấy lại anh nữa! Ta thật khốn khổ? Tại sao em lại nói với anh về con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng? Đúng ra thì mặc bà già tín đồ thấy ngôi nhà đẹp hay xấu, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh? Ích kỷ, lừa đảo, bà trả ơn sự tiếp đón của ta như thế đấy! Vì sao bà nói với ta về ba vật kỳ lạ ấy, tất cả chỉ là ảo tưởng qua cái chết khốn khổ của người anh thân yêu làm tinh thần ta không ngớt rối loạn!
Hoàng tử Pervij cũng không kém đau buồn về cái chết của người anh như công chúa Parijade nhưng không mất thì giờ thương tiếc vô ích, biết rằng em gái vẫn say mê con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, chàng can thiệp:
- Em gái, chúng ta thương tiếc anh Bahman của chúng ta cũng vô ích: những than phiền, đau đớn của chúng ta không trả lại cuộc sống cho anh ấy được. Đấy là ý muốn của Chúa, chúng ta đành phục tùng ý Chúa mà không đi sâu. vào làm gì. Tại sao bây giờ em lại nghi ngờ lời của bà tín đồ sau khi đã chắc chắn cho là có thật? Phải chăng em nghĩ bà ấy bịa ra để lừa bịp em khi mà em không nêu lên vấn đề và tiếp đón bà trung thực và tốt như vậy? Chúng ta hãy nghĩ anh cả chết do lỗi của anh ấy hoặc vì tai nạn gì chúng ta không hình dung được. Vì thế cái chết của anh cả không cản trở chúng ta tiếp tục theo đuổi cuộc tìm kiếm: anh sẽ tự đi thay thế anh ấy; anh cũng bố trí đúng thế và theo gương anh cả, ý anh không thay đổi và ngày mai anh sẽ lên đường.
Công chúa làm mọi cách để thuyết phục anh đừng đi, bảo rằng. không nên liều mình vào nơi nguy hiểm vì có thể sẽ mất cả hai người anh, nhưng chàng vẫn không lay chuyển. Trước khi ra đi, để em gái biết kết quả về cuộc hành trình như nàng đã theo dõi chuyến đi của anh cả qua con dao để lại, chàng đưa cho em chuỗi hạt ngọc một trăm viên và dặn:
- Em dựa vào chuỗi ngọc để biết tình hình lúc anh đi vắng, nếu những viên ngọc như dính với nhau nghĩa là em không xoay chúng được hoặc không chảy nối tiếp nhau thì đó là dấu hiệu anh đã cùng số phận với anh cả. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ không xảy ra điều đó và anh may mắn được gặp lại em, thoả mãn về điều chúng ta mong đợi.
Hoàng tử Pervij ra đi, ngày thứ hai mươi gặp cùng ẩn sĩ ấy ở chỗ hoàng tử Bahman đã gặp. Chàng lại gần chào hỏi và đề nghị chỉ dẫn nơi có con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Ân sĩ cũng nêu lên những khó khăn và khuyên răn như đã làm với hoàng tử Bahman, nói cả việc mới đây thôi có một kỵ sĩ trẻ có nhiều nét giống chàng cũng hỏi con đường với mục đích ấy. Do chàng kia nài ép, ông đã chỉ đường, cho phương tiện dẫn đường, dặn những gì cần chú ý để thành công nhưng rồi không thấy trở lại, chắc đã chung số phận với những người đi trước.
Thưa ẩn sĩ - Hoàng tử Pervij nói - Tôi biết người cụ nói đó: đấy là anh cả tôi và tôi được tin chính xác anh ấy đã chết nhưng không biết chết vì gì.
- Tôi có thể nói với ông - Ân sĩ đáp: - Ông ấy biến thành tảng đá đen như những người tôi vừa nói; ông cũng đề phòng về sự biến dạng ấy nếu không giữ thật đúng những lời tôi dặn. Ông nên từ bỏ ý muốn ấy đi, tôi khuyên ông một lần nữa.
- Thưa ẩn sĩ, tôi không đủ lời nói lên lòng biết ơn đối với cụ đã có chú ý bảo vệ cuộc sống cho tôi tuy tôi là người không quen biết và chưa làm gì xứng đáng với thái độ quý hoá đó. Nhưng xin nói trước khi quyết định tôi đã suy nghĩ kỹ và không thể từ bỏ được. Tôi xin cụ chỉ dẫn cho như đã chỉ dẫn anh tôi, có lẽ tôi sẽ vâng theo tốt hơn.
Vì không thuyết phục được ông, tôi tuổi đã cao không đứng vững được, tôi cho ông viên này làm người dẫn đường cho ông.
Không để ẩn sĩ nói thêm, hoàng tử Pervij xuống ngựa lại gần ông già; ông già vừa rút một viên trong túi còn rất nhiều viên, đưa cho chàng bảo cách sử dụng và sau khi dặn kỹ đừng sợ những tiếng nói không thấy người dù đe doạ đến mấy và lên đến chỗ có chiếc lồng và con chim.
Hoàng tử Pervij cám ơn ẩn sĩ, nhảy lên ngựa ném viên tròn lên phía trước và thúc ngựa đuổi theo. Đến chân núi thấy viên ấy dừng lại, chàng xuống ngựa. Trước khi bước lên, chàng đứng tại chỗ nhớ lại những lời dặn của ẩn sĩ lấy can đảm trèo lên núi, quyết tâm lên đến đỉnh. Vừa lên năm, sáu bước chàng nghe phía sau có tiếng quát rất gần gọi lại và chửi: Chờ đã, thằng táo tợn, ta sẽ trừng phạt mày, to gan .
Bị lăng nhục, hoàng tử Pervij quên hết lời dặn của ẩn sĩ, đưa tay rút gươm quay người lại trả thù nhưng vừa kịp thấy chẳng có ai theo mình chàng đã bị hoá đá, cả người và ngựa.
Chương 43
HAI NGƯỜI CHỊ GHEN TỴ VÀ CÔ EM ÚT (TT)
Từ khi hoàng tử
Pervij lên đường, công chúa Parijade hàng ngày cầm chuỗi ngọc lẩm nhẩm lần từng
viên ngọc những lúc không có việc. Suốt thời gian ấy ban đêm nàng vòng chuỗi
ngọc quanh cổ, sáng thức dậy tay lần xem những viên ngọc có lăn nối tiếp nhau
không. Một hôm, vào lúc hoàng tử Pervij cùng chung số phận như hoàng tử Bahman,
bị biến thành đá, nàng đang cầm chuỗi ngọc và lẩm nhẩm nói bỗng cảm thấy những
viên ngọc không lăn theo ngón tay mình, nàng chắc chắn đấy là dấu hiệu anh đã
chết. Đã quyết định phải làm gì nếu tai hoạ xảy ra, nàng không để thì giờ thở
than khóc lóc. Cố trấn tĩnh và ngay sáng hôm sau, cải trang thành đàn ông,
trang bị vũ khí đầy đủ, dặn người nhà đi ít ngày sẽ trở về, nàng lên ngựa ra đi
theo con đường của hai người anh.
Công chúa Parijade vốn quen cưỡi ngựa đi săn giải trí, chịu đựng mệt nhọc đường trường hơn những phụ nữ khác. Cũng đi nhiều ngày như hai anh, đến ngày thứ hai mươi nàng cũng gặp ông già ẩn sĩ như họ. Lại gần, nàng xuống ngựa, dây cương cầm tay, nàng đến ngồi gần ông chào và nói:
- Ẩn sĩ phúc hậu, cho phép tôi ngồi nghỉ một lúc gần cụ và làm ơn cho biết cụ có nghe nói đâu đó trong vùng này có một nơi tìm được con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng không ạ?
Ẩn sĩ trả lời:
- Quý cô, nghe giọng nói tôi biết là,của phụ nữ tuy cô đã cải trang thành đàn ông; tôi cám ơn cô về lời chào mừng và rất vui lòng có vinh dự được gặp cô. Tôi biết chỗ có những vật cô nói nhưng cô hỏi với ý định gì?
Thưa ẩn sĩ, người ta kể cho tôi một chuyện rất hay khiến tôi nóng lòng muốn sở hữu những vật ấy.
-Thưa cô, người ta nói đúng đấy, những vật ấy còn kỳ lạ đặc biệt hơn những gì người ta giới thiệu nhưng giấu cô những khó khăn phải vượt qua để có nó. Cô sẽ không dấn thân vào một việc vất vả và nguy hiểm như vậy nếu người ta nói rõ hết với cô. Cô hãy tin tôi, đừng tiến lên nữa, cô trở về đi để tôi khỏi phải góp phần vào sự thiệt hại của cô.
- Bố phúc hậu - Công chúa đáp - Tôi đến từ xa và sẽ bực bội vì không thực hiện được ý định của mình. Cụ nói những khó khăn và nguy cơ mất mạng nhưng không nói đó là những khó khăn gì và nguy cơ ra sao; tôi muốn biết để cân nhắc, có thể tin tưởng vào quyết định, lòng can đảm và sức lực của mình không, nên giữ hay nên bỏ.
Ãn sĩ bèn nhắc lại với công chúa những lời đã nói với hai hoàng tử, nói quá lên những khó khăn leo lên núi chỗ có lồng chim? phải làm chủ được con chim, nó sẽ cho biết chỗ có cây hay hát và nước vàng; tiếng ồn và âm vang những giọng nói đe doạ và đáng sợ nghe khắp quanh mình mà không thấy người; cuối cùng là số lượng những tảng đá đen gây khiếp sợ cho cô và bất cứ ai khi biết rằng đấy là những ky sĩ dũng cảm bị biến dạng do không giữ vững điều kiện chủ yếu là không được ngoảnh lại phía sau trước khi nắm chiếc lồng chim.
Khi ẩn sĩ nói xong, công chúa kết luận:
- Theo tôi hiểu khó khăn lớn nhất để thành công trong việc này là thứ nhất: leo núi lên đến chỗ có lồng chim mà không hoảng hốt về âm vang những giọng nói nghe không thấy người và thứ hai, không được ngoảnh lại nhìn phía sau mình. Về điều kiện sau này, tôi hy vọng khá tự chủ để giữ đúng. Còn điều thứ nhất, tôi thú nhận những giọng nói như cụ kể, có thể làm kinh hoàng những người vững vàng nhất. Nhưng như trong mọi việc làm có hậu quả lớn và nguy hiểm, người ta không cấm dùng thủ thuật, xin hỏi cụ tôi có thể dùng trong việc làm này vốn rất quan trọng đối với tôi không?
- Cô định dùng thủ thuật gì - Ấn sĩ hỏi.
- Tôi thấy nếu dùng bông nút chặt tai lại thì dù giọng nói to và đáng sợ đến mấy, tôi cũng cảm nhận bớt đi rất nhiều, sẽ kém tác động và trí óc tôi vẫn giữ được bình tĩnh, không đến nỗi bối rối mất cả lý trí.
- Thưa cô, cho đến nay tất cả những người hỏi đường như cô, tôi không biết đã có ai dùng thủ thuật ấy chưa. Điều tôi thấy là, không một ai đề nghị dùng cách đó và tất cả đều bị chết. Nếu cô quyết tâm theo ý định của mình, cô cứ thử xem: may ra cô thành công; tuy thế tôi không khuyên cô nên dấn thân vào.
- Bố phúc hậu, tôi quyết tâm vô cùng. Lòng tôi nói với tôi thủ thuật ấy sẽ thành công và tôi quyết định dùng nó. Như vậy chỉ còn hỏi cụ tôi phải đi con đường nào, xin cụ làm ơn đừng từ chối.
Ẩn sĩ một lần khuyến khích nàng suy nghĩ kỹ lại, thấy không lay chuyển được lòng quyết tâm, rút một viên tròn ra đưa cho nàng:
- Cô cầm lấy viên này - ông nói - lên ngựa ném ra phía trước, đi theo nó vòng vòng qua mọi nẻo đường cho đến chân núi cô tìm và dừng lại khi nó dừng; cô xuống ngựa và leo lên núi. Cô đi đi, đừng quên những lời tôi dặn.
Công chúa Parijade cảm ơn ẩn sĩ, chào từ biệt rồi lên ngựa, ném viên tròn ra phía trước mặt lăn đi, thúc ngựa chạy theo cho đến khi nó dừng lại ở chân núi:
Nàng xuống ngựa, lấy bông nút chặt lỗ tai, nhìn kỹ đường rồi bắt đầu dũng cảm bước lên núi. Nàng nghe những tiếng la hét, nhận thấy bông là một cứu cánh rất tác dụng. Càng đi lên những giọng nói càng tăng, càng mạnh nhưng không làm nàng có cảm giác rối trí. Nghe nhiều loại chửi rủa, chế diễu giới tính nhưng nàng khinh thường, chỉ cười. Nàng tự nhủ: Ta chẳng bị xúc phạm vì những lời chửi rủa, hay chế giễu; các người cứ nói tệ hại nữa ta cũng không cần và không ngăn cản được ta tiếp tục đi lên . Cuối cùng lên trên cao, nàng nhận thấy lồng và con chim, cùng hoà theo những giọng nói, cố làm nàng bối rối bằng giọng oang oang tuy người bé: Rút lui đi, không được lại gần đây :
Công chúa phấn khích trước vật đó, bước nhanh hơn khi thấy gần tới mục đích; nàng lên tới đỉnh núi, đất bằng, chạy thẳng đến chiếc lồng nắm lấy nói với con chim:
- Chim ơi, không muốn ta cũng bắt; mày không thoát khỏi đâu.
Trong lúc Parijade lấy bông ở tai ra, con chim nói:
- Cô gái dũng cảm, đừng giận tôi vì phụ hoạ với những giọng nói cố bảo vệ tự do cho tôi. Tuy bị nhốt trong lồng, tôi vẫn luôn bằng lòng về số phận mình; nhưng do phải làm nô lệ tôi mong có nàng là chủ, người đã nắm được tôi một cách can đảm, xứng đáng hơn tất cả mọi người khác trên đời. Từ nay tôi thề trung thành tuyệt đối với nàng, hoàn toàn vâng theo lệnh nàng. Tôi biết nàng là ai, tôi sẽ nói cho nàng biết nàng là ai mà chính nàng cũng không biết xuất thân của mình; một ngày nào đó tôi sẽ giúp nàng một việc hy vọng nàng sẽ rất biết ơn. Để bắt đầu chứng tỏ sự thành thật của tôi xin nàng cho biết nàng mong mụốn điều gì, tôi sẵn sàng vâng lệnh.
Công chúa vui sướng không tả hết về việc chinh phục trả giá bằng mạng sống của hai anh và bản thân phải mệt nhọc, vượt qua mối nguy lớn, nói với chim:
- Chim ơi, ta định nói với chim ta muốn nhiều điều rất quan trọng, rất phấn khởi thấy chim tỏ ra sẵn sàng. Việc đầu tiên nghe nói ở đây có loại nước vàng đặc tính tuyệt vời, ta muốn chim chỉ cho ta trước đã.
Con chim chỉ chỗ cũng gần đấy nàng đến múc đầy một chiếc bình bạc mang theo. Trở lại nàng hỏi chim:
- Chim ơi, không chỉ thế, ta tìm cây hay hát, cây ấy ở đâu?
- Nàng quay lạỉ, thấy một khu rừng phía sau có cây ấy.
Khu rừng không xa, công chúa đến đấy và giữa nhiều cây cối nàng nghe có hoà âm du dương làm nàng nhận ra cây mình tìm nhưng rất to, cao. Nàng trở lại hỏi chim:
- Chim ơi, ta đã tìm thấy cây hay hát nhưng không thể nhổ bật gốc hay mang đi được.
- Không cần nhổ bật gốc - Chim lại nói- Nàng chỉ cần lấy một nhánh nhỏ đưa về trồng trong vườn; nó sẽ bén rễ vào đất và ít lâu sau nàng sẽ thấy nó trở thành một cây lớn như vừa thấy.
Khi đã có trong tay ba vật quí mà bà tín đồ Hồi giáo làm nàng khát khao, nàng nói với chim:
- Chim ơi, những gì chim vừa giúp ta không đủ. Chim là nguyên nhân cái chết của hai anh ta đã biến thành đá đen trong số ta thấy khi lên đây. Ta muốn đưa họ cùng về.
Có vẻ chim muốn công chúa miễn cho điều này vì thực ra làm được việc đó cũng khá khó khăn. Công chúa nài nỉ:
- Chim à, chim nhớ đã nói là nô lệ của ta, chim đã làm đúng thế và cuộc sống thuộc về ta rồi.
- Tôi không phủ nhận điều đó - Chim nói- Việc nàng đòi hỏi khó khăn hơn nhiều so với những việc khác, nhưng tôi cố gắng làm nàng vui lòng. Nàng nhìn quanh đây xem có một chiếc binh nào không.
- Ta thấy có đấy - Công chúa trả lời.
- Nàng cầm lấy và khi xuống núi rỏ một ít nước trong bình lên mỗi tảng đá đen; đó là cách tìm lại những người anh của nàng.
Công chúa Parljade cầm lấy bình và mang theo lồng chim, lọ nước, cành cây, vừa đi xuống vừa rỏ nước trong bình lên mỗi tảng đá đen trên đường và những tảng đá ấy ngay sau đó biến thành người. Nàng không bỏ sót tảng đá nào, tất cả những con ngựa của các hoàng tử anh cũng như của những người khác đều xuất hiện trở lại. Như vậy nàng nhận ra các hoàng tử Bahman và Pervij; họ cũng nhận ra nàng, chạy lại ôm hôn em gái. Vừa ôm hôn họ nàng vừa tỏ ra ngạc nhiên:
- Các anh thân yêu, các anh làm gì ở đây vậy?
Nghe họ trả lời vừa ngủ một giấc, nàng lại nói:
- Vâng, nhưng không có em, giấc ngủ của các anh còn kéo dài và có lẽ đến mãi ngày tận thế. Các anh không nhớ đã đến đây tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, đã thấy những tảng đá đen rải rác chỗ này ư? Các anh nghĩ xem có còn lại tảng nào không? Các người xung quanh ta và các anh đã là những tảng đá ấy, cả những con ngựa đang chờ các anh nữa. Các anh muốn phép lạ ấy xảy ra như thế nào thì đây vừa tiếp tục nói nàng vừa chỉ chiếc bình nàng đã đặt xuống ở chân núi - nhờ nước trong bình này em đã rỏ xuống từng tảng đá. Sau khi đã làm chủ con chim biết nói trong lồng này, nhờ nó bảo em đã tìm được cây hay hát lấy một cành và nước vàng em lấy vào chiếc lọ, em không muốn trở về mà không có các anh đi cùng, em buộc nó phải làm cách nào, nó chỉ cho lấy chiếc bình nước và làm ra sao.
Các hoàng tử Bahman và Pervij nghe rõ, biết mình vừa chịu ơn công chúa em gái; những người vây quanh họ cũng tỏ lòng biết ơn, thay vì ganh tị việc chinh phục họ đã muốn làm, chỉ có thể đội ơn cứu sống mình, tự nguyện là những nô lệ của nàng, sẵn sàng làm những việc nàng ra lệnh cho họ.
- Thưa các ông - Công chúa nói - Nếu đã nghe tôi nói các ông hẳn nhận thấy tôi không có ý gì khác là làm như thế để tìm lại các anh mình; nếu là một việc tốt cho các ông thì cũng không phải cảm ơn tôi. Tổi xem mỗi người các ông là những người tự do như trước khi gặp không may và tôi chung vui với các ông về hạnh phúc trở lại làm người nhân dịp này. Chúng ta cũng chẳng nên ở lại một nơi không còn gì giữ chúng ta lâu hơn nữa: hãy lên ngựa và mỗi chúng ta trở về nơi ta đã đi.
Công chúa Parijade đi trước lại chỗ nàng để con ngựa đứng chờ. Trước khi nàng lên ngựa, hoàng tử Bahman muốn đỡ cho em, đề nghị nàng đưa lồng chim để chàng cầm cho. Công chúa nói:
- Thưa anh, con chim là nô lệ của em, em muốn tự minh giữ nó; nếu muốn anh giũ cho cành cây và anh Pervij anh phụ trách cho lọ nước vàng.
Khi hoàng tử Bahman, Peryij và tất cả những người khác đã lên ngựa, công chúa chờ để một người trong bọn họ đi trước dẫn đầu. Hai Hoàng tử lịch sự muốn nhường cho những người kia và những người kia muốn nhường vinh dự cho công chúa.
- Thưa các ông, tôi không xứng đáng được vinh dự ấy nhưng tôi chấp nhận vì các ông muốn thế - Nàng phi ngựa lên trước rồi hai hoàng tử và tất cả mọi người cùng đi theo.
Đoàn người muốn gặp ẩn sĩ lúc đi qua để cám ơn sự tiếp đón và những chỉ dẫn thành tâm nhưng ông đã chết, người ta không rõ vì ông đã già yếu hay vì không cần thiết phải chỉ đường lên chinh phục ba vật quí hiếm nữa.
Vậy là đoàn tiếp tục đi nhưng mỗi ngày một ít dần. Những quí ông đến từ những nước khác nhau, lần lượt nhắc lại lời cảm ơn được trở lại cuộc sống, từ biệt công chúa và các anh nàng khi gặp con đường về địa phương mình. Công chúa và hai hoàng tử theo đường mình về đến tận nhà.
Trước hết công chúa để lồng chim trong vườn, bên cạnh phòng khách; khi con chim hót lên những hoạ mi, mai tước, chiền chiện, chim chích, hồng tước và vô vàn các loại chim khác trong nước kéo đến cùng hót theo. Về cành cây nàng cho trồng ở một chỗ không xa ngôi nhà lắm; cành đâm rễ và chẳng bao lâu trở thành một cây to, cành lá reo vui một hợp âm như ở cây nàng lấy cành. Lọ nước vàng, nàng cho xây giữa vườn một bể lớn đá hoa cương, khi xong nàng đổ cả lọ vào đấy. Nước phồng lên tăng nhanh khối lượng và khi lên đến gần mép bể, nó phun ở giữa thành dòng lên cao hai mươi bộ, rơi xuống lại, cứ thế tiếp tục mà nước không tràn.
Tin về những kỳ quan ấy lan khắp vùng, cổng ngôi nhà cũng như cổng vườn không đóng lại với ai chẳng bao lâu nhân dân những vùng quanh đấy đổ xô đến ngắm xem rất đông.
Sau mấy ngày lại sức, hai hoàng tử Baliman và Pervij trở lại cuộc sống bình thường; đi săn là thú vui quen thuộc. Lần đầu từ khi về họ lên ngựa cùng đi, không phải trong rừng nhà mình mà cách đó hai, ba dặm. Trong lúc họ săn, vua Ba Tư bất chợt cũng đến săn cùng chỗ. Khi họ thấy nhà vua sẽ đến qua số đông kỵ sĩ xuất hiện nhiều nơi, họ ngừng săn bắn, rút lui để khỏi gặp nhau nhưng không ngờ lại đúng theo con đường nhà vua đến, trong một chỗ chật hẹp không quay đi hoặc lùi lại mà không bị bắt gặp. Kinh ngạc họ chỉ còn biết xuống ngựa, quỳ xuống trước mặt nhà vua, trán đập xuống đất không ngẩng đầu lên nhìn. Vua thấy họ ăn mặc, nai nịt gọn gàng sạch sẽ như đã ở trong triều, tò mò muốn xem mặt bèn dừng lại, lệnh cho họ đứng dậy.
Hai hoàng tử đứng dậy trước mặt vua thái độ thoải mái tuy có vẻ khiêm tốn, lễ phép. Vua im lặng nhìn họ một lúc từ đầu đến chân sau khi ngắm phong thái và khuôn mặt dễ mến của họ, ngài hỏi họ là ai và ở đâu.
Hoàng tử Bahman trả lời:
- Thưa bệ hạ, chúng thần là con trai viên quản lý khu vườn thượng uyển đã mất, ở trong một trang trại ông cho xây dựng trước khi chết để chúng thần ở trong lúc chờ đợi đến tuổi phục vụ bệ hạ và đến xin Người công việc khi gặp điều kiện.
- Theo ta thấy, các anh thích đi săn?
- Thưa bệ hạ, đấy là việc tập dượt bình thường của chúng thần mà bất cứ ai chuẩn bị nhập vào quân ngũ của bệ hạ cũng không lơ là theo truyền thống cũ của vương quốc .
Vua rất thích thú vì câu trả lời khôn ngoan, nói với họ:
- Nếu thế ta rất vui lòng thấy các ngươi đi săn. Các ngươi cùng đi với ta, chọn săn bắn gì tuỳ thích.
Các hoàng tử lại lên ngựa đi theo nhà vua; chưa đi xa thì thấy xuất hiện nhiều loại thú. Hoàng tử Bahman chọn một con sư tử, hoàng tử Pervij chọn con gấu, đuổi theo thật dũng cảm làm vua ngạc nhiên. Hầu như cùng một lúc tới gần con mồi, họ phóng lao khôn khéo xuyên hẳn con sư tử và con gấu một lúc con nào cũng ngã xuống. Không dừng lại hoàng tử Bahman đuổi theo một con gấu khác, hoàng tử Pervij một con sư tử, chẳng mấy chốc họ đâm chết hai con vật. Họ muốn tiếp tục nhưng vua không cho phép cho gọi họ lại và bảo:
- Nếu ta để các anh tiếp tục, các anh sẽ tiêu diệt hết những con thú của ta. Không phải ta cần phải dành lại cho cuộc săn bắn của ta đến thế mà muốn bảo vệ cuộc sống của các anh từ nay trở thành thân thiết với ta qua lòng can đảm của các anh trông ra có ích nhiều cho ta.
Vua Khosrouschah cuối cùng cảm thấy rất mến hai hoàng tử đến mức bảo đến thăm ngài ngay.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử Bahman nói- Người ban cho chúng thần một vinh dự mà chúng thần không xứng đáng xin khẩn cầu Người miễn cho.
Vua không rõ vì lý gì các hoàng tử không nhận sự chiếu cố của mình, bảo hai chàng giải thích xem.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử Bahman nói- Chúng thần có em gái út cùng sống; chúng thần gắn bó với nhau đến mức chưa làm điều gì khi chưa hỏi ý kiến nàng cũng như nàng chưa làm gì khi chưa hỏi chúng thần.
- Ta rất khen tình anh em đoàn kết của các ngươi. Vậy cứ về hỏi em gái và ngày mai đi săn với ta các ngươi sẽ trả lời.
Hai hoàng tử về nhà nhưng không ai nhớ việc gặp nhà vua, có vinh dự săn bắn với ông, cũng quên nói chuyện với công chúa nhà vua muốn đưa họ về cung. Ngày hôm sau gặp vua trong đợt đi săn, vua hỏi:
- Thế nào? Các ngươi nói chuyện với em gái chưa? Nàng có bằng lòng để ta gặp các ngươi thường xuyên hơn không?
Các hoàng tử đỏ mặt nhìn nhau:
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử Bahman trả lời: Xin Người tha lỗi cho chúng thần, cả em thần và thần đều không nhớ ra.
- Vậy hôm nay các ngươi phải nhớ và ngày mai trả lời ta.
Hai hoàng tử lại quên một lần nữa; nhà vua không những không mắng mà rút ra ba viên vàng bỏ vào lòng hoàng tử Bahman. Ông mỉm cười nói:
- Những viên này nhắc các anh không quên lần thứ ba điều ta muốn vì tình cảm đối với ta: tối nay tiếng chúng rơi ra từ thắt lưng sẽ nhắc các anh nếu quên.
Sự việc xảy ra như vua dự kiến. Không có ba viên vàng các hoàng tử đã quên nói chuyện với em gáì. Khi hoàng tử cởi thắt lưng chuẩn bị đi ngủ thì những viên ấy rơi ra. Chàng bèn lại tìm hoàng tử Pervij cùng nhau sang phòng công chúa lúc chưa đi nằm, trình bày lại mọi trường hợp đã gặp nhà vua.
Công chúa Parijade nghe tin hoảng hốt nói:
- Việc các anh gặp vua thật sung sướng và vinh dự, sau này sẽ còn tăng thêm nhưng không ổn và rất buồn đối với em. Em thấy rõ vì em mà các anh chống lại ý muốn của vua; tình cảm hoàn toàn dành cho em, em rất cám ơn. Có thể nói các anh thà chịu vô lễ với vua, thẳng thắn từ chối vì nghĩ sẽ tổn hại đến tình anh em; các anh thấy đến với nhà vua thì phải bỏ rơi em để dành tất cả cho Người. Nhưng các anh tưởng dễ dàng từ chối ý định của nhà vua có vẻ rất sốt sắng như thế nào? Những ý muốn của vua thật nguy hiểm khi chống lại. Vì vậy theo em, các anh hãy làm vui lòng nhà vua, em chỉ biết để các anh đi và có nguy cơ khổ sở vì các anh. Các anh thấy em nghĩ thế đấy, tuy nhiên trước khi kết luận chúng ta thử hỏi con chim xem nó khuyên chúng ta như thế nào; nó rất khôn, tinh tường và đã hứa cứu giúp chúng ta khi gặp khó khăn.
Công chúa Parijade cho mang lồng chim vào, nói rõ tình trạng lúng túng với chim trước mặt các hoàng tử và hỏi cách giải quyết.
Con chim trả lời:
- Các hoàng tử anh nàng phải nghe theo ý muốn của nhà vua và đến lượt mình họ mời vua về thăm nhà.
- Nhưng chim ơi - Công chúa nói - Anh em chúng ta thương yêu nhau; tình cảm không gì sánh bằng ấy có bị tổn hại gì không?
- Không hề; ngược lại càng mạnh mẽ hơn.
- Nếu thế vua sẽ thấy ta.
Chim nói cần thiết vua phải gặp, mọi việc càng tốt hơn thôi.
Ngày hôm sau hai hoàng tử trở lại chỗ đi săn; nhà vua ngay từ xa đã hỏi họ có nhớ nói chuyện với em gái không. Hoàng tử Bahman lại gần trình bày:
- Thưa bệ hạ, xin Người cứ sử dụng chúng thần; không những em gái chúng thần đồng ý mà còn cho chúng thần sai khi vì nàng mà không sẵn sàng làm bổn phận đối với bệ hạ. Nàng tỏ ra xứng đáng thế còn chúng thần đã sai lầm, hy vọng bệ hạ tha thứ cho chúng thần.
- Các ngươi không lo ngại về điều đó. Thay vì cho việc các ngươi làm là sai lầm, ta rất đồng tình, hy vọng các ngươi cũng tôn trọng và gắn bó với ta như thế tuy có phần nhỏ hơn trong tình cảm của các ngươi đối với nhau.
Các hoàng tử ngượng ngùng trước lòng tất quá lớn của nhà vua chỉ trả lời bằng cách cúi thấp mình thể hiện rất tôn kính thái độ của nhà vua.
Trái với thường ngày hôm ấy vua không săn bắn lâu. Xét thấy các hoàng tử không kém thông minh hơn lòng dũng cảm, ngài nóng lòng nói chuyện thoải mái với họ nên chóng trở về cung. Nhà vua muốn họ đi bên cạnh ngài, vinh dự mà chẳng những cận thần tháp tùng, cả quan tể tướng cũng ghen tị thấy họ đi trước mình.
Khi vua vào đến kinh thành, dân chúng đầy đường nhìn vào hai hoàng tử Bahman và Pervij, tìm hiểu xem họ là ai, người lạ hay trong vương quốc. Phần đông nói: Dù sao mong nhà vua có hai hoàng tử mạnh khoẻ, thần tú như thế? Có thể đã cùng lứa tuổi ấy nếu hoàng hậu đang chịu hình phạt từ lâu, trước đây sinh nở may mắn .
Việc đầu tiên về đến hoàng cung là nhà vua dẫn các hoàng tử đi xem những cung điện chính mà họ khâm phục về vẻ đẹp, sự giàu có, đồ đạc và trang trí thật cân đối. Người ta phục vụ một bữa ăn phong phú và vua bảo hai chàng cùng ngồi ăn. Họ muốn xin lỗi nhưng phải vâng lời khi vua nói ngài muốn thế. Nhà vua vốn vô cùng thông minh, có những hiểu biết uyên thâm vượt bậc về khoa học đặc biệt về lịch sử, thấy trước các hoàng tử không dám tự do nói chuyện vì khiêm tốn và tôn kính. Để họ có. dịp nôi, ngài bắt đầu nói và trao đổi nhiều vấn đề suốt trong bữa ăn nhưng dù đề cập đến đề tài nào, hai chàng nói với nhiều hiểu biết, thông minh, phân tích bình luận tất làm vua luôn khen ngợi. Nhà vua tự nhủ: “Nếu là con mình, với trí óc như thế, ta dù dạy dỗ chúng cũng không biết được gì hơn, cũng không thành thạo hoặc có học vấn hơn thế . Nhà vua rất vui khi trò chuyện với họ ; ngồi ăn lâu hơn thường lệ và sau khi ở đấy ra nhà vua còn nói chuyện lâu với họ. Cuối cùng nhà vua nói:
- Chưa bao giờ ta nghĩ ở ngoài kinh thành có những thần dân của ta được giáo dục đặc biệt và có khả năng đến thế, trong đời ta chưa có cuộc trò chuyện nào làm ta hài lòng như với các ngươi. Nhưng thế là đủ, đã đến lúc các ngươi thư giãn trí óc với vài trò vui cung đình; không có gì xua tan được mây mù bằng âm nhạc, các ngươi sẽ nghe một hợp tấu nhạc cụ và và công múa hát không tồi.
Vua vừa dứt lời, các nhạc công được lệnh vào đáp ứng khá tất sự chờ đợi về tài năng của họ. Những vai hề rất giỏi tiếp nối ban hoà tấu rồi các nam nữ vũ công kết thúc cuộc vui.
Hai hoàng tử thấy gần hết ngày quỳ xuống trước mặt vua xin phép rút lui sau khi cám ơn về lòng tốt và vinh dự được ban cho. Vua để họ ra về, nói:
Ta để các anh về, nên nhớ đích thân ta dẫn các ngươi về cung là để chỉ đường; sau này các ngươi tự đến; bao giờ cũng được hoan nghênh và càng đến nhiều hơn, các ngươi càng làm ta vui lòng.
Trươc khi ra đi, hoàng tử Bahman tâu với vua:
- Thưa bệ hạ, chúng thần dám xin Người gia ân cho anh em thần và em gái thần, lần đi săn tới đưa Người đến trong vùng mời Người ghé qua nhà chúng thần một lúc; ngôi nhà không xứng đáng được Người đến thăm nhưng đôi khi các vị vua không chê vảo một nhà tranh.
Vua nói:
- Một ngôi nhà của những chủ nhân như các ngươi chỉ có thể đẹp và xứng với các ngươi ta vui lòng đến và càng vui hơn với những chủ nhà như các ngươi và em gái ngươi mà nghe kể về đức tính ta đã thấy thân mến. Ta không lùi lại quá ngày kia để thoả mãn điều đó. Ta sẽ có ở chỗ gặp các ngươi lần đầu từ sáng sớm; các ngươi cũng đến đo để hướng dẫn ta.
Cùng ngày hôm đó hai hoàng tử về nhà, sau khi kể lại với em gái vinh dự được vua tiếp đón, họ báo đã mời vua đến nhà họ khi đi săn trong vùng và vua đã định ngày kia sẽ ghé thăm.
Công chúa nói:
Nếu vậy ngay từ bây giờ phải nghĩ đến việc chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng với nhà vua. Chúng ta hỏi ý kiến con chim thì hay nhất: có lẽ nó chỉ cho ta một sớ món ăn hợp, khẩu vị nhà vua hơn.
Các hoàng tử thống nhất theo ý kiến em gái; khi họ lui về phòng nàng hỏi riêng con chim. Nàng nói:
- Chim ơi, vua sẽ cho chúng ta vinh dự ghé thăm nhà và chúng ta phải chiêu đãi Người. Chim bảo chúng ta phải làm cách nào để Người hài lòng?
- Nữ chủ phúc hậu, nhà có khá nhiều đầu bếp giỏi, bảo họ cố gắng hết sức mình và trên hết họ phải làm một đĩa dưa chuột, nhồi nhân ngọc mà nàng cho phục vụ trước mặt vua hơn tất cả những thức ăn khác ngay từ đợt đầu.
- Dưa chuột nhồi nhân ngọc? - Công chúa ngạc nhiên kêu lên - Chim ơi, đó là một món ăn kỳ lạ. Nhà vua có thể khen là một vật đẹp nhưng Người ngồi vào bàn để ăn chứ không phải để ngắm ngọc. Hơn nữa nếu ta dùng tất cả những ngọc ta có thể có cũng không đủ làm nhân.
- Nữ chủ, nàng cứ làm như tôi đã nói, đừng lo sẽ ra sao; chỉ xảy đến việc tốt thôi. Còn về ngọc sáng sớm mai nàng ra cây to đầu tiên trong vườn về bên tay phải, cho đào dưới gốc.
Người làm vườn đào đến một chiều sâu nào đó thấy cứng, phát hiện ra một chiếc hộp vàng khoảng một bộ vuông chỉ cho công chúa. Nàng nói:
- Chính vì vật đó mà tôi dẫn ông đến đây. Cứ tiếp tục đi.
Người làm vườn lôi chiếc hộp ra đưa vào tay công chúa. Chiếc hộp chỉ khép bằng những móc sạch, công chúa mở ra thấy đầy những viên ngọc rất nhỏ nhưng đều nhau và tiện dùng theo yêu cầu dự định. Rất hài lòng phát hiện được kho của này, nàng đóng hộp lại mang về nhà trong lúc người làm vườn vun trả lại đất vào gốc cây như trước.
Hoàng tử Bahman và Pervij ở trong phòng thấy em gái ra vườn sớm hơn thường lệ, đi ra gặp nàng giữa vườn tay mang chiếc hộp vàng, ngạc nhiên hỏi:
Em gái - Hoàng tử Bahman nói - Khi các anh thấy em ra vườn có người làm vườn đi theo thì không mang gì, bây giờ trở vồ tay mang chiếc hộp vàng; phải chăng người làm vườn tìm được kho của chỉ cho em?
- Thưa các anh - Công chúa trả lời - Ngược lại đấy.
- Chính em lẫn người làm vườn đến chỗ có chiếc hộp bảo đào lên. Các anh sẽ ngạc nhiên hơn khi thấy hộp đựng gì.
Công chúa mở hộp và các hoàng tử sửng sốt thấy đầy ngọc rất có giá trị về chất lượng và số lượng, hỏi từ đâu mà em gái biết có kho của này.
- Thưa các anh - Nàng trả lời - Có một việc gấp gáp hơn đang chờ, các anh vào nhà em sẽ bảo.
Hoàng tử Pervij bảo:
- Việc nào gấp gáp hơn điều các anh muốn biết rõ này? Chúng ta cùng vào với nhau vậy.
Trên đường vào nhà, công chúa Pariìađe kể lại việc hỏi ý kíến con chim và nó bảo nên làm thế nào, đặc biệt cần có món đưa chuột nhồi nhân ngọc và nó chỉ chỗ cho đi lấy chiếc hộp này. Ba anh em phân tích nhiều, không hiểu vì sao chim bảo làm món ăn ấy nhưng đành phải theo đúng lời khuyên từng điểm một.
Công chúa cho gọi trưởng đầu bếp, ra lệnh chuẩn bị bữa ăn chiêu đãi nhà vua theo cách nàng hướng dẫn:
Ngoài những thứ đó - Nàng nói thêm - Ông làm một món ăn thích hợp với khẩu vị nhà vua: một đĩa dưa chuột nhồi nhân. Nhân là những viên ngọc này đây.
Đồng thời nàng mở hộp chỉ cho bếp trưởng. Chưa bao giờ nghe nói nhồi nhân như vậy, bếp trưởng ngạc nhiên lùi lại hai bước. Công chúa đoán được ý nghĩ của ông, nói:
Tôi biết ông cho tôi là một người điên bảo làm một món ăn chưa bao giờ có như thế. Nhưng không đâu, tôi rất tỉnh táo bảo chuẩn bị món ăn đó. Ông phát huy sáng kiến mang chiếc hộp này đi làm đi và đem trả lại tôi số ngọc còn lại không dùng hết.
Bếp trưởng chẳng còn gì để nói nữa, cầm chiếc hộp mang đi. Cùng ngày ấy công chúa cho dọn dẹp thật sạch sẽ, ngăn nắp cả trong nhà và ngoài vườn để tiếp đón vua xứng đáng hơn.
Ngày hôm sau, hai hoàng tử đã ở chỗ đi săn thì vua Ba Tư đến. Ngài bắt đầu săn bắn cho đến khi mặt trời lên cao, nắng gắt phải nghỉ. Hoàng tử Bahman ở bên cạnh vua để hướng dẫn còn hoàng tử Pelvij đi trước chỉ đường, khi đã trông thấy nhà mình, chàng thúc ngựa về báo tin nhưng người hầu của công chúa được bố trí trên đường đã đi báo, công chúa đang chờ sẵn đón tiếp.
Vua vào đến sân, xuống ngựa trước tiền sảnh; công chúa Parijade chạy đến quỳ dưới chân ngài chào; các hoàng tử giới thiệu em gái, xin phép cho được đón tiếp vua.
Nhà vua cúi xuống nâng công chúa lên, nhìn nàng một lúc, ngỡ ngàng về sắc đẹp, duyên dáng, phong thái không có vẻ gì thôn dã giống nơi nàng ở. Nhà vua nói:
- Hai anh xứng đáng với em gái và em gái xứng đáng với các anh trai; nhìn bề ngoài xét bên trong ta không lạ nữa việc các anh trai không muốn 1àm gì mà không được em gái tán thành. Ta hy vọng biết rõ nàng hơn về điểm này nhưng để xem ngôi nhà đã.
Công chúa thưa:
Thưa bệ hạ, đây chỉ là một ngôi nhà ở thôn dã phù hợp với những người như chúng thần sống xa người đời. Nó không so sánh được với những ngôi nhà thành phố lớn, càng làm thế nào bằng được những biệt thự ở hoàng cung.
- Ta không hoàn toàn đồng ý như nàng nghĩ nhà vua nói - Những gì ta thấy trước hết làm ta nghi ngờ nàng. Ta sẽ nêu những nhận xét của ta sau khi xem xong; nàng đi trước dẫn đường!
Công chúa để riêng phòng khách lại, dẫn vua đi phòng này đến phòng khác; sau khi xem xét từng phòng; khen sự đa dạng của những gian phòng, nhà vua nói với công chúa Parijade:
- Người đẹp, nàng gọi như thế là một ngôi nhà thôn dã à? Những thành phố lớn, đẹp nhất cung sẽ vắng vẻ nếu tất cả những nhà ở thôn dã giống ngôi nhà của nàng. Ta không ngạc nhiên thấy các ngươi rất thích ở đây và khinh thường thành phố. Đưa ta đi xem khu vườn, xem có phù hợp với ngôi nhà không.
Công chúa mở cửa ra vườn và điều đập vào mắt nhà vua trước tiên là vòi nước phun màu vàng. Lạ lùng về một cảnh quan mới, sau khi ngắm một lúc vua hỏi:
- Ngọn nước tuyệt vời, xem rất thích, ở đâu ra vậy? Nguồn suối ở đâu, nghệ thuật lấm nước phun có vẻ trên đời không có như vậy. Ta muốn đến xem sao.
Ông vừa nói vừa tiến lại. Công chúa tiếp tục dẫn đường, đưa vua đến chỗ trồng cây hay hát.
Lại gần, vua nghe có một hoà âm khác hẳn những bản hợp tấu ông đã nghe nhiều, dừng lại đưa mắt tìm các nhạc công, không thấy nhưng vẫn nghe rõ ràng tiếng nhạc. Ông hỏi:
- Người đẹp, những nhạc công đang hợp tấu ở đâu vậy? Họ ở dưới đất hay biến dạng trên không? Với những giai điệu hay như thế họ ngại gì mà không ra mắt cho người ta vui thích?
Thưa bệ hạ - Công chúa mỉm cười trả lời- Không phải nhạc công hợp tấu mà do cây bệ hạ thấy trước mặt phát ra; xin Người bước lại mấy bước nữa sẽ nghe rõ ràng Vua lại gần say sưa vì âm điệu bản hợp tấu, nghe mãi không thôi. Cuối cùng vua lên tiếng hỏi:
- Người đẹp này cây này tình cờ mọc trong vườn nhà nàng hay là một món quà tặng từ đất nước xa xôi nào? Nàng gọi cây tên là gì?
- Thưa bệ hạ, đây là cây hay hát, không mọc trong vùng này. Đây là một câu chuyện dài liên quan đến nước vàng trong bể và con chim biết nói mà bệ hạ sẽ thấy sau khi xem nước vàng. Nếu Người thấy đượe thần sẽ kể lại khi Người đã nghỉ ngơi giải trí sau cuộc săn mệt nhọc.
- Người đẹp, ta không mệt nhọc gì như nàng nói vì đã được những vật ta ngắm nhìn bù lại. Chúng ta đến xem bể nước vàng đi, ta muốn ngắm con chim biết nói lắm rồi.
Đến bể nước vàng vua nhìn rất lâu vào tia nước không ngớt phun lên cao rồi rơi xuống và nói với công
- Theo nàng nước này không có nguồn, không có vòi dẫn đến từ một chỗ nào gần đây; ta rất lạ về điều đó cũng như về cây hay hát.
- Thưa bệ hạ, điều ấy đúng như Người vừa nói, bể nước liền một tấm, nước không do từ các bên hay phía dưới đưa vào. Thần đã bỏ vào bể một lọ nước, với đặc tính riêng biệt, nước tự phun lên như bệ hạ thấy.
Vua rời bể nước, nói:
- Lần thứ nhất thế đủ rồi vì ta hứa sẽ thường đến đây hơn. Nàng dẫn ta đi để ta xem con chim biết nói.
Vào gần phòng khách, vua thấy trên những cây quanh đấy có một số lượng chim khổng lồ đang hót râm ran vang lên trong không khí. Nhà vua hỏi vì sao chim tập hợp tại đây mà những cây khác trong vườn không có. Công chúa trả lời:
- Thưa bệ hạ tất cả chúng đến từ những vùng xung quanh để phối hợp với tiếng hót của con chim biết nói. Bệ hạ thấy nó đang trong chiếc lồng để ở một cửa sổ phòng khách Người sẽ vào. Nếu để ý Người sẽ nhận ra tiếng hót của nó rất hay, kể cả chim hoạ mi cũng còn xa mới bằng nó.
Vua vào phòng khách; thấy chim vẫn hót, công chúa cao giọng bảo:
- Nô lệ của ta, đây là nhà vua, chim chào mừng đi.
Con chim ngừng hót ngay và những chim khác cũng ngừng theo. Nó nói: Kính chào nhà vua, mong Người luôn thịnh vượng và sống lâu, . Bữa ăn chuẩn bị gần cửa sổ treo lồng chim, vua vừa ngồi vào bàn vừa nói:
- Ta cảm ơn lời chim chúc mừng; ta rất hài lòng ,thấy chim là vua của các loài chim.
Thấy đa đưa chuột trước mặt, vua nghĩ nhồi nhân như bình thường đưa tay gắp nhưng rất ngạc nhiên thấy nhồi hạt ngọc. Nhà vua nói:
- Món ăn gì mới lạ đây? Nhồi hạt ngọc với ý định gì? Ngọc có ăn được đâu! - Nhà vua nhìn hai anh em hoàng tử và công chúa bảo giải thích nhưng con chim can thiệp ngay:
Thưa bệ hạ, Người có thể nào ngạc nhiên đến vậy khi thấy một món ăn nhồi hạt ngọc trong lúc Người dễ dàng tin rằng hoàng hậu vợ Người đã sinh ra một con chó, một con mèo và một khúc gỗ ư?
- Ta đã tin thế vì các bà đỡ khẳng định với ta.
- Những bà đỡ ấy, thưa bệ hạ - Chim lại nói - Là hai người chị của hoàng hậu, nhưng những người chị này lại ghen ty với hạnh phúc Người đã vinh dự đem lại cho hoàng hậu. Để thoả lòng tức giận họ đã lợi dụng sự dễ dãi của bệ hạ; nếu Người cho tra hỏi, họ sẽ thú nhận tội. Hai anh em trai và em gái Người thấy đây là con của Người bị thả trôi theo dòng suối nhưng được người quản lý khu vườn thượng uyển vớt lên đưa về nuôi dạy chu đáo.
Lời nói của chim làm rõ ngay lòng phân vân của nhà vua. Ngài kêu lên:
- Chim ơi, ta không phân vân gì mà tin vào sự thật chim phát hiện ra và báo với ta. Xu hướng và sự trìu mến ta cảm thấy đối với chúng nói rõ với ta chúng là dòng máu của ta. Đến đây, các con trai, con gái của ta, để ta ôm hôn các con, thể hiện tình cảm đầu tiên của một người bố.
Nhà vua đứng dậy lần lượt ôm lấy hai hoàng tử và công chúa, chan hoà dòng lệ với họ. Nhà vua nói:
- Chưa đủ đâu các con, các con phải ôm hôn nhau không phải với tư cách con của người quản lý vườn ta vĩnh viễn chịu ơn vì bảo vệ cuộc sống của các con mà nhân danh con ta, từ dòng máu các vua Ba Tư ta chắc chắn các con giữ được vinh quang.
Sau khi hai hoàng tử và công chúa ôm hôn nhau với một niềm thoả mãn mới mẻ như nhà vua mong muốn, vua lại ngồi vào bàn cùng họ và ăn vội. Ăn xong, nhà vua nói:
- Các con ta, các con đã biết ta là phụ hoàng rồi, ngày mai ta sẽ dẫn hoàng hậu mẹ các con đến. Các con chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp bà.
Nhà vua lên ngựa nhanh chóng trở về kinh thành. Việc đầu tiên khi vào hoàng cung là ra lệnh cho tể tướng xét xử ngay hai người chị hoàng hậu. Hai người bị bắt đưa tới, thẩm vấn riêng rẽ, đối chiếu xác nhận, bị kết tội phanh thây, tất cả không tới một tiếng đồng hồ.
Trong lúc đó vua Khosrouschah, với tất cả triều thần có mặt tháp tùng, đi bộ đến trước cửa nhà thờ lớn đưa hoàng hậu bị giam giữ khổ sở từ bao nhiêu năm nay ra ngoài. Vua đầy nước mắt ôm hôn bà trong tình trạng đáng thương ấy và nói:
- Hoàng hậu, ta đến xin lỗi bà đã xử sự bất công đối với bà và xin sửa chữa mọi việc. Ta đã bắt đầu làm việc đó bằng cách trừng phạt những người đàn bà đã tồi tệ lừa bịp ta và hy vọng bà cho là đã khôi phục được hoàn toàn khi ta đưa lại cho bà hai hoàng tử hoàn hảo và một công chúa đáng yêu xinh đẹp, những đứa con của ta và của bà. Bà về cung đi, lấy lại chức phận của bà với đầy đủ vinh dự.
Việc sửa chữa ấy làm trước một số đông dân chúng nghe tin chạy đến từ các nơi và chỉ một lát sau lan khắp thành phố.
Hôm sau từ sáng sớm vua và hoàng hậu đã thay bộ quần áo buồn rầu nhục nhã, trang bị phù hợp với chức tước, cả triều đình tháp tùng, cùng đến nhà hai hoàng tử và công chúa:
- Hoàng hậu, đây là hai hoàng tử con trai và công chúa con gái bà; bà ôm hôn chúng cũng trìu mển như ta đã ôm hôn chúng; chúng xứng đáng với ta và với bà.
Nước mắt tràn đầy qua những ôm hôn cảm động ấy, đặc biệt về phần hoàng hậu vì niềm an ủi và lòng vui mừng được ôm hôn hai con trai, một con gái đã gây cho bà bao phiền muộn lâu dài. Khi hoàng tử và công chúa đã cho chuẩn bị một bữa ăn ngon chiêu đãi vua, hoàng hậu và các triều thần: mọi người ngồi vào bàn và sau bữa ăn, vua đưa hoàng hậu ra xem khu vườn, chỉ cho bà xem cây hát hay và cảnh nước vàng phun lên cao. Về con chim bà đã thấy trong lồng treo ở cửa sổ và vua đã ca ngợi nhiều trong lúc ăn.
Khi xong việc, vua lên ngựa về cung; hoàng tử Bahmán đi bên phải, hoàng tử Perviì bên trái ông; hoàng hậu và công chúa bên trái bà, đi sau vua. Với trật tự ấy, trước và sau có những võ quan của triều đình theo chức vụ từng người, cả đoàn lên đường về kinh. Khi gần tới kinh thành, dân chúng kéo đến rất đông, ra cổng thành đón họ. Họ nhìn vào hoàng hậu, vui mừng cho bà sau nỗi đau khổ kéo dài và hai hoàng tử, công chúa mà đi theo hoan hô nhiệt liệt. Họ cũng bị con chim trong chiếc lồng công chúa mang theo hấp dẫn vì tiếng hót kéo theo tất cả những con chim khác vừa hót vừa đậu trên cây đọc đường và trên mái nhà trên đường phố.
Hai hoàng tử Bahman và Pervij, được hộ tống rầm rộ về cung và tối đến là những cảnh chiếu sáng và trò vui ở hoàng cung và cả kinh thành kéo dài trong nhiều ngày.
Công chúa Parijade vốn quen cưỡi ngựa đi săn giải trí, chịu đựng mệt nhọc đường trường hơn những phụ nữ khác. Cũng đi nhiều ngày như hai anh, đến ngày thứ hai mươi nàng cũng gặp ông già ẩn sĩ như họ. Lại gần, nàng xuống ngựa, dây cương cầm tay, nàng đến ngồi gần ông chào và nói:
- Ẩn sĩ phúc hậu, cho phép tôi ngồi nghỉ một lúc gần cụ và làm ơn cho biết cụ có nghe nói đâu đó trong vùng này có một nơi tìm được con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng không ạ?
Ẩn sĩ trả lời:
- Quý cô, nghe giọng nói tôi biết là,của phụ nữ tuy cô đã cải trang thành đàn ông; tôi cám ơn cô về lời chào mừng và rất vui lòng có vinh dự được gặp cô. Tôi biết chỗ có những vật cô nói nhưng cô hỏi với ý định gì?
Thưa ẩn sĩ, người ta kể cho tôi một chuyện rất hay khiến tôi nóng lòng muốn sở hữu những vật ấy.
-Thưa cô, người ta nói đúng đấy, những vật ấy còn kỳ lạ đặc biệt hơn những gì người ta giới thiệu nhưng giấu cô những khó khăn phải vượt qua để có nó. Cô sẽ không dấn thân vào một việc vất vả và nguy hiểm như vậy nếu người ta nói rõ hết với cô. Cô hãy tin tôi, đừng tiến lên nữa, cô trở về đi để tôi khỏi phải góp phần vào sự thiệt hại của cô.
- Bố phúc hậu - Công chúa đáp - Tôi đến từ xa và sẽ bực bội vì không thực hiện được ý định của mình. Cụ nói những khó khăn và nguy cơ mất mạng nhưng không nói đó là những khó khăn gì và nguy cơ ra sao; tôi muốn biết để cân nhắc, có thể tin tưởng vào quyết định, lòng can đảm và sức lực của mình không, nên giữ hay nên bỏ.
Ãn sĩ bèn nhắc lại với công chúa những lời đã nói với hai hoàng tử, nói quá lên những khó khăn leo lên núi chỗ có lồng chim? phải làm chủ được con chim, nó sẽ cho biết chỗ có cây hay hát và nước vàng; tiếng ồn và âm vang những giọng nói đe doạ và đáng sợ nghe khắp quanh mình mà không thấy người; cuối cùng là số lượng những tảng đá đen gây khiếp sợ cho cô và bất cứ ai khi biết rằng đấy là những ky sĩ dũng cảm bị biến dạng do không giữ vững điều kiện chủ yếu là không được ngoảnh lại phía sau trước khi nắm chiếc lồng chim.
Khi ẩn sĩ nói xong, công chúa kết luận:
- Theo tôi hiểu khó khăn lớn nhất để thành công trong việc này là thứ nhất: leo núi lên đến chỗ có lồng chim mà không hoảng hốt về âm vang những giọng nói nghe không thấy người và thứ hai, không được ngoảnh lại nhìn phía sau mình. Về điều kiện sau này, tôi hy vọng khá tự chủ để giữ đúng. Còn điều thứ nhất, tôi thú nhận những giọng nói như cụ kể, có thể làm kinh hoàng những người vững vàng nhất. Nhưng như trong mọi việc làm có hậu quả lớn và nguy hiểm, người ta không cấm dùng thủ thuật, xin hỏi cụ tôi có thể dùng trong việc làm này vốn rất quan trọng đối với tôi không?
- Cô định dùng thủ thuật gì - Ấn sĩ hỏi.
- Tôi thấy nếu dùng bông nút chặt tai lại thì dù giọng nói to và đáng sợ đến mấy, tôi cũng cảm nhận bớt đi rất nhiều, sẽ kém tác động và trí óc tôi vẫn giữ được bình tĩnh, không đến nỗi bối rối mất cả lý trí.
- Thưa cô, cho đến nay tất cả những người hỏi đường như cô, tôi không biết đã có ai dùng thủ thuật ấy chưa. Điều tôi thấy là, không một ai đề nghị dùng cách đó và tất cả đều bị chết. Nếu cô quyết tâm theo ý định của mình, cô cứ thử xem: may ra cô thành công; tuy thế tôi không khuyên cô nên dấn thân vào.
- Bố phúc hậu, tôi quyết tâm vô cùng. Lòng tôi nói với tôi thủ thuật ấy sẽ thành công và tôi quyết định dùng nó. Như vậy chỉ còn hỏi cụ tôi phải đi con đường nào, xin cụ làm ơn đừng từ chối.
Ẩn sĩ một lần khuyến khích nàng suy nghĩ kỹ lại, thấy không lay chuyển được lòng quyết tâm, rút một viên tròn ra đưa cho nàng:
- Cô cầm lấy viên này - ông nói - lên ngựa ném ra phía trước, đi theo nó vòng vòng qua mọi nẻo đường cho đến chân núi cô tìm và dừng lại khi nó dừng; cô xuống ngựa và leo lên núi. Cô đi đi, đừng quên những lời tôi dặn.
Công chúa Parijade cảm ơn ẩn sĩ, chào từ biệt rồi lên ngựa, ném viên tròn ra phía trước mặt lăn đi, thúc ngựa chạy theo cho đến khi nó dừng lại ở chân núi:
Nàng xuống ngựa, lấy bông nút chặt lỗ tai, nhìn kỹ đường rồi bắt đầu dũng cảm bước lên núi. Nàng nghe những tiếng la hét, nhận thấy bông là một cứu cánh rất tác dụng. Càng đi lên những giọng nói càng tăng, càng mạnh nhưng không làm nàng có cảm giác rối trí. Nghe nhiều loại chửi rủa, chế diễu giới tính nhưng nàng khinh thường, chỉ cười. Nàng tự nhủ: Ta chẳng bị xúc phạm vì những lời chửi rủa, hay chế giễu; các người cứ nói tệ hại nữa ta cũng không cần và không ngăn cản được ta tiếp tục đi lên . Cuối cùng lên trên cao, nàng nhận thấy lồng và con chim, cùng hoà theo những giọng nói, cố làm nàng bối rối bằng giọng oang oang tuy người bé: Rút lui đi, không được lại gần đây :
Công chúa phấn khích trước vật đó, bước nhanh hơn khi thấy gần tới mục đích; nàng lên tới đỉnh núi, đất bằng, chạy thẳng đến chiếc lồng nắm lấy nói với con chim:
- Chim ơi, không muốn ta cũng bắt; mày không thoát khỏi đâu.
Trong lúc Parijade lấy bông ở tai ra, con chim nói:
- Cô gái dũng cảm, đừng giận tôi vì phụ hoạ với những giọng nói cố bảo vệ tự do cho tôi. Tuy bị nhốt trong lồng, tôi vẫn luôn bằng lòng về số phận mình; nhưng do phải làm nô lệ tôi mong có nàng là chủ, người đã nắm được tôi một cách can đảm, xứng đáng hơn tất cả mọi người khác trên đời. Từ nay tôi thề trung thành tuyệt đối với nàng, hoàn toàn vâng theo lệnh nàng. Tôi biết nàng là ai, tôi sẽ nói cho nàng biết nàng là ai mà chính nàng cũng không biết xuất thân của mình; một ngày nào đó tôi sẽ giúp nàng một việc hy vọng nàng sẽ rất biết ơn. Để bắt đầu chứng tỏ sự thành thật của tôi xin nàng cho biết nàng mong mụốn điều gì, tôi sẵn sàng vâng lệnh.
Công chúa vui sướng không tả hết về việc chinh phục trả giá bằng mạng sống của hai anh và bản thân phải mệt nhọc, vượt qua mối nguy lớn, nói với chim:
- Chim ơi, ta định nói với chim ta muốn nhiều điều rất quan trọng, rất phấn khởi thấy chim tỏ ra sẵn sàng. Việc đầu tiên nghe nói ở đây có loại nước vàng đặc tính tuyệt vời, ta muốn chim chỉ cho ta trước đã.
Con chim chỉ chỗ cũng gần đấy nàng đến múc đầy một chiếc bình bạc mang theo. Trở lại nàng hỏi chim:
- Chim ơi, không chỉ thế, ta tìm cây hay hát, cây ấy ở đâu?
- Nàng quay lạỉ, thấy một khu rừng phía sau có cây ấy.
Khu rừng không xa, công chúa đến đấy và giữa nhiều cây cối nàng nghe có hoà âm du dương làm nàng nhận ra cây mình tìm nhưng rất to, cao. Nàng trở lại hỏi chim:
- Chim ơi, ta đã tìm thấy cây hay hát nhưng không thể nhổ bật gốc hay mang đi được.
- Không cần nhổ bật gốc - Chim lại nói- Nàng chỉ cần lấy một nhánh nhỏ đưa về trồng trong vườn; nó sẽ bén rễ vào đất và ít lâu sau nàng sẽ thấy nó trở thành một cây lớn như vừa thấy.
Khi đã có trong tay ba vật quí mà bà tín đồ Hồi giáo làm nàng khát khao, nàng nói với chim:
- Chim ơi, những gì chim vừa giúp ta không đủ. Chim là nguyên nhân cái chết của hai anh ta đã biến thành đá đen trong số ta thấy khi lên đây. Ta muốn đưa họ cùng về.
Có vẻ chim muốn công chúa miễn cho điều này vì thực ra làm được việc đó cũng khá khó khăn. Công chúa nài nỉ:
- Chim à, chim nhớ đã nói là nô lệ của ta, chim đã làm đúng thế và cuộc sống thuộc về ta rồi.
- Tôi không phủ nhận điều đó - Chim nói- Việc nàng đòi hỏi khó khăn hơn nhiều so với những việc khác, nhưng tôi cố gắng làm nàng vui lòng. Nàng nhìn quanh đây xem có một chiếc binh nào không.
- Ta thấy có đấy - Công chúa trả lời.
- Nàng cầm lấy và khi xuống núi rỏ một ít nước trong bình lên mỗi tảng đá đen; đó là cách tìm lại những người anh của nàng.
Công chúa Parljade cầm lấy bình và mang theo lồng chim, lọ nước, cành cây, vừa đi xuống vừa rỏ nước trong bình lên mỗi tảng đá đen trên đường và những tảng đá ấy ngay sau đó biến thành người. Nàng không bỏ sót tảng đá nào, tất cả những con ngựa của các hoàng tử anh cũng như của những người khác đều xuất hiện trở lại. Như vậy nàng nhận ra các hoàng tử Bahman và Pervij; họ cũng nhận ra nàng, chạy lại ôm hôn em gái. Vừa ôm hôn họ nàng vừa tỏ ra ngạc nhiên:
- Các anh thân yêu, các anh làm gì ở đây vậy?
Nghe họ trả lời vừa ngủ một giấc, nàng lại nói:
- Vâng, nhưng không có em, giấc ngủ của các anh còn kéo dài và có lẽ đến mãi ngày tận thế. Các anh không nhớ đã đến đây tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, đã thấy những tảng đá đen rải rác chỗ này ư? Các anh nghĩ xem có còn lại tảng nào không? Các người xung quanh ta và các anh đã là những tảng đá ấy, cả những con ngựa đang chờ các anh nữa. Các anh muốn phép lạ ấy xảy ra như thế nào thì đây vừa tiếp tục nói nàng vừa chỉ chiếc bình nàng đã đặt xuống ở chân núi - nhờ nước trong bình này em đã rỏ xuống từng tảng đá. Sau khi đã làm chủ con chim biết nói trong lồng này, nhờ nó bảo em đã tìm được cây hay hát lấy một cành và nước vàng em lấy vào chiếc lọ, em không muốn trở về mà không có các anh đi cùng, em buộc nó phải làm cách nào, nó chỉ cho lấy chiếc bình nước và làm ra sao.
Các hoàng tử Bahman và Pervij nghe rõ, biết mình vừa chịu ơn công chúa em gái; những người vây quanh họ cũng tỏ lòng biết ơn, thay vì ganh tị việc chinh phục họ đã muốn làm, chỉ có thể đội ơn cứu sống mình, tự nguyện là những nô lệ của nàng, sẵn sàng làm những việc nàng ra lệnh cho họ.
- Thưa các ông - Công chúa nói - Nếu đã nghe tôi nói các ông hẳn nhận thấy tôi không có ý gì khác là làm như thế để tìm lại các anh mình; nếu là một việc tốt cho các ông thì cũng không phải cảm ơn tôi. Tổi xem mỗi người các ông là những người tự do như trước khi gặp không may và tôi chung vui với các ông về hạnh phúc trở lại làm người nhân dịp này. Chúng ta cũng chẳng nên ở lại một nơi không còn gì giữ chúng ta lâu hơn nữa: hãy lên ngựa và mỗi chúng ta trở về nơi ta đã đi.
Công chúa Parijade đi trước lại chỗ nàng để con ngựa đứng chờ. Trước khi nàng lên ngựa, hoàng tử Bahman muốn đỡ cho em, đề nghị nàng đưa lồng chim để chàng cầm cho. Công chúa nói:
- Thưa anh, con chim là nô lệ của em, em muốn tự minh giữ nó; nếu muốn anh giũ cho cành cây và anh Pervij anh phụ trách cho lọ nước vàng.
Khi hoàng tử Bahman, Peryij và tất cả những người khác đã lên ngựa, công chúa chờ để một người trong bọn họ đi trước dẫn đầu. Hai Hoàng tử lịch sự muốn nhường cho những người kia và những người kia muốn nhường vinh dự cho công chúa.
- Thưa các ông, tôi không xứng đáng được vinh dự ấy nhưng tôi chấp nhận vì các ông muốn thế - Nàng phi ngựa lên trước rồi hai hoàng tử và tất cả mọi người cùng đi theo.
Đoàn người muốn gặp ẩn sĩ lúc đi qua để cám ơn sự tiếp đón và những chỉ dẫn thành tâm nhưng ông đã chết, người ta không rõ vì ông đã già yếu hay vì không cần thiết phải chỉ đường lên chinh phục ba vật quí hiếm nữa.
Vậy là đoàn tiếp tục đi nhưng mỗi ngày một ít dần. Những quí ông đến từ những nước khác nhau, lần lượt nhắc lại lời cảm ơn được trở lại cuộc sống, từ biệt công chúa và các anh nàng khi gặp con đường về địa phương mình. Công chúa và hai hoàng tử theo đường mình về đến tận nhà.
Trước hết công chúa để lồng chim trong vườn, bên cạnh phòng khách; khi con chim hót lên những hoạ mi, mai tước, chiền chiện, chim chích, hồng tước và vô vàn các loại chim khác trong nước kéo đến cùng hót theo. Về cành cây nàng cho trồng ở một chỗ không xa ngôi nhà lắm; cành đâm rễ và chẳng bao lâu trở thành một cây to, cành lá reo vui một hợp âm như ở cây nàng lấy cành. Lọ nước vàng, nàng cho xây giữa vườn một bể lớn đá hoa cương, khi xong nàng đổ cả lọ vào đấy. Nước phồng lên tăng nhanh khối lượng và khi lên đến gần mép bể, nó phun ở giữa thành dòng lên cao hai mươi bộ, rơi xuống lại, cứ thế tiếp tục mà nước không tràn.
Tin về những kỳ quan ấy lan khắp vùng, cổng ngôi nhà cũng như cổng vườn không đóng lại với ai chẳng bao lâu nhân dân những vùng quanh đấy đổ xô đến ngắm xem rất đông.
Sau mấy ngày lại sức, hai hoàng tử Baliman và Pervij trở lại cuộc sống bình thường; đi săn là thú vui quen thuộc. Lần đầu từ khi về họ lên ngựa cùng đi, không phải trong rừng nhà mình mà cách đó hai, ba dặm. Trong lúc họ săn, vua Ba Tư bất chợt cũng đến săn cùng chỗ. Khi họ thấy nhà vua sẽ đến qua số đông kỵ sĩ xuất hiện nhiều nơi, họ ngừng săn bắn, rút lui để khỏi gặp nhau nhưng không ngờ lại đúng theo con đường nhà vua đến, trong một chỗ chật hẹp không quay đi hoặc lùi lại mà không bị bắt gặp. Kinh ngạc họ chỉ còn biết xuống ngựa, quỳ xuống trước mặt nhà vua, trán đập xuống đất không ngẩng đầu lên nhìn. Vua thấy họ ăn mặc, nai nịt gọn gàng sạch sẽ như đã ở trong triều, tò mò muốn xem mặt bèn dừng lại, lệnh cho họ đứng dậy.
Hai hoàng tử đứng dậy trước mặt vua thái độ thoải mái tuy có vẻ khiêm tốn, lễ phép. Vua im lặng nhìn họ một lúc từ đầu đến chân sau khi ngắm phong thái và khuôn mặt dễ mến của họ, ngài hỏi họ là ai và ở đâu.
Hoàng tử Bahman trả lời:
- Thưa bệ hạ, chúng thần là con trai viên quản lý khu vườn thượng uyển đã mất, ở trong một trang trại ông cho xây dựng trước khi chết để chúng thần ở trong lúc chờ đợi đến tuổi phục vụ bệ hạ và đến xin Người công việc khi gặp điều kiện.
- Theo ta thấy, các anh thích đi săn?
- Thưa bệ hạ, đấy là việc tập dượt bình thường của chúng thần mà bất cứ ai chuẩn bị nhập vào quân ngũ của bệ hạ cũng không lơ là theo truyền thống cũ của vương quốc .
Vua rất thích thú vì câu trả lời khôn ngoan, nói với họ:
- Nếu thế ta rất vui lòng thấy các ngươi đi săn. Các ngươi cùng đi với ta, chọn săn bắn gì tuỳ thích.
Các hoàng tử lại lên ngựa đi theo nhà vua; chưa đi xa thì thấy xuất hiện nhiều loại thú. Hoàng tử Bahman chọn một con sư tử, hoàng tử Pervij chọn con gấu, đuổi theo thật dũng cảm làm vua ngạc nhiên. Hầu như cùng một lúc tới gần con mồi, họ phóng lao khôn khéo xuyên hẳn con sư tử và con gấu một lúc con nào cũng ngã xuống. Không dừng lại hoàng tử Bahman đuổi theo một con gấu khác, hoàng tử Pervij một con sư tử, chẳng mấy chốc họ đâm chết hai con vật. Họ muốn tiếp tục nhưng vua không cho phép cho gọi họ lại và bảo:
- Nếu ta để các anh tiếp tục, các anh sẽ tiêu diệt hết những con thú của ta. Không phải ta cần phải dành lại cho cuộc săn bắn của ta đến thế mà muốn bảo vệ cuộc sống của các anh từ nay trở thành thân thiết với ta qua lòng can đảm của các anh trông ra có ích nhiều cho ta.
Vua Khosrouschah cuối cùng cảm thấy rất mến hai hoàng tử đến mức bảo đến thăm ngài ngay.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử Bahman nói- Người ban cho chúng thần một vinh dự mà chúng thần không xứng đáng xin khẩn cầu Người miễn cho.
Vua không rõ vì lý gì các hoàng tử không nhận sự chiếu cố của mình, bảo hai chàng giải thích xem.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử Bahman nói- Chúng thần có em gái út cùng sống; chúng thần gắn bó với nhau đến mức chưa làm điều gì khi chưa hỏi ý kiến nàng cũng như nàng chưa làm gì khi chưa hỏi chúng thần.
- Ta rất khen tình anh em đoàn kết của các ngươi. Vậy cứ về hỏi em gái và ngày mai đi săn với ta các ngươi sẽ trả lời.
Hai hoàng tử về nhà nhưng không ai nhớ việc gặp nhà vua, có vinh dự săn bắn với ông, cũng quên nói chuyện với công chúa nhà vua muốn đưa họ về cung. Ngày hôm sau gặp vua trong đợt đi săn, vua hỏi:
- Thế nào? Các ngươi nói chuyện với em gái chưa? Nàng có bằng lòng để ta gặp các ngươi thường xuyên hơn không?
Các hoàng tử đỏ mặt nhìn nhau:
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử Bahman trả lời: Xin Người tha lỗi cho chúng thần, cả em thần và thần đều không nhớ ra.
- Vậy hôm nay các ngươi phải nhớ và ngày mai trả lời ta.
Hai hoàng tử lại quên một lần nữa; nhà vua không những không mắng mà rút ra ba viên vàng bỏ vào lòng hoàng tử Bahman. Ông mỉm cười nói:
- Những viên này nhắc các anh không quên lần thứ ba điều ta muốn vì tình cảm đối với ta: tối nay tiếng chúng rơi ra từ thắt lưng sẽ nhắc các anh nếu quên.
Sự việc xảy ra như vua dự kiến. Không có ba viên vàng các hoàng tử đã quên nói chuyện với em gáì. Khi hoàng tử cởi thắt lưng chuẩn bị đi ngủ thì những viên ấy rơi ra. Chàng bèn lại tìm hoàng tử Pervij cùng nhau sang phòng công chúa lúc chưa đi nằm, trình bày lại mọi trường hợp đã gặp nhà vua.
Công chúa Parijade nghe tin hoảng hốt nói:
- Việc các anh gặp vua thật sung sướng và vinh dự, sau này sẽ còn tăng thêm nhưng không ổn và rất buồn đối với em. Em thấy rõ vì em mà các anh chống lại ý muốn của vua; tình cảm hoàn toàn dành cho em, em rất cám ơn. Có thể nói các anh thà chịu vô lễ với vua, thẳng thắn từ chối vì nghĩ sẽ tổn hại đến tình anh em; các anh thấy đến với nhà vua thì phải bỏ rơi em để dành tất cả cho Người. Nhưng các anh tưởng dễ dàng từ chối ý định của nhà vua có vẻ rất sốt sắng như thế nào? Những ý muốn của vua thật nguy hiểm khi chống lại. Vì vậy theo em, các anh hãy làm vui lòng nhà vua, em chỉ biết để các anh đi và có nguy cơ khổ sở vì các anh. Các anh thấy em nghĩ thế đấy, tuy nhiên trước khi kết luận chúng ta thử hỏi con chim xem nó khuyên chúng ta như thế nào; nó rất khôn, tinh tường và đã hứa cứu giúp chúng ta khi gặp khó khăn.
Công chúa Parijade cho mang lồng chim vào, nói rõ tình trạng lúng túng với chim trước mặt các hoàng tử và hỏi cách giải quyết.
Con chim trả lời:
- Các hoàng tử anh nàng phải nghe theo ý muốn của nhà vua và đến lượt mình họ mời vua về thăm nhà.
- Nhưng chim ơi - Công chúa nói - Anh em chúng ta thương yêu nhau; tình cảm không gì sánh bằng ấy có bị tổn hại gì không?
- Không hề; ngược lại càng mạnh mẽ hơn.
- Nếu thế vua sẽ thấy ta.
Chim nói cần thiết vua phải gặp, mọi việc càng tốt hơn thôi.
Ngày hôm sau hai hoàng tử trở lại chỗ đi săn; nhà vua ngay từ xa đã hỏi họ có nhớ nói chuyện với em gái không. Hoàng tử Bahman lại gần trình bày:
- Thưa bệ hạ, xin Người cứ sử dụng chúng thần; không những em gái chúng thần đồng ý mà còn cho chúng thần sai khi vì nàng mà không sẵn sàng làm bổn phận đối với bệ hạ. Nàng tỏ ra xứng đáng thế còn chúng thần đã sai lầm, hy vọng bệ hạ tha thứ cho chúng thần.
- Các ngươi không lo ngại về điều đó. Thay vì cho việc các ngươi làm là sai lầm, ta rất đồng tình, hy vọng các ngươi cũng tôn trọng và gắn bó với ta như thế tuy có phần nhỏ hơn trong tình cảm của các ngươi đối với nhau.
Các hoàng tử ngượng ngùng trước lòng tất quá lớn của nhà vua chỉ trả lời bằng cách cúi thấp mình thể hiện rất tôn kính thái độ của nhà vua.
Trái với thường ngày hôm ấy vua không săn bắn lâu. Xét thấy các hoàng tử không kém thông minh hơn lòng dũng cảm, ngài nóng lòng nói chuyện thoải mái với họ nên chóng trở về cung. Nhà vua muốn họ đi bên cạnh ngài, vinh dự mà chẳng những cận thần tháp tùng, cả quan tể tướng cũng ghen tị thấy họ đi trước mình.
Khi vua vào đến kinh thành, dân chúng đầy đường nhìn vào hai hoàng tử Bahman và Pervij, tìm hiểu xem họ là ai, người lạ hay trong vương quốc. Phần đông nói: Dù sao mong nhà vua có hai hoàng tử mạnh khoẻ, thần tú như thế? Có thể đã cùng lứa tuổi ấy nếu hoàng hậu đang chịu hình phạt từ lâu, trước đây sinh nở may mắn .
Việc đầu tiên về đến hoàng cung là nhà vua dẫn các hoàng tử đi xem những cung điện chính mà họ khâm phục về vẻ đẹp, sự giàu có, đồ đạc và trang trí thật cân đối. Người ta phục vụ một bữa ăn phong phú và vua bảo hai chàng cùng ngồi ăn. Họ muốn xin lỗi nhưng phải vâng lời khi vua nói ngài muốn thế. Nhà vua vốn vô cùng thông minh, có những hiểu biết uyên thâm vượt bậc về khoa học đặc biệt về lịch sử, thấy trước các hoàng tử không dám tự do nói chuyện vì khiêm tốn và tôn kính. Để họ có. dịp nôi, ngài bắt đầu nói và trao đổi nhiều vấn đề suốt trong bữa ăn nhưng dù đề cập đến đề tài nào, hai chàng nói với nhiều hiểu biết, thông minh, phân tích bình luận tất làm vua luôn khen ngợi. Nhà vua tự nhủ: “Nếu là con mình, với trí óc như thế, ta dù dạy dỗ chúng cũng không biết được gì hơn, cũng không thành thạo hoặc có học vấn hơn thế . Nhà vua rất vui khi trò chuyện với họ ; ngồi ăn lâu hơn thường lệ và sau khi ở đấy ra nhà vua còn nói chuyện lâu với họ. Cuối cùng nhà vua nói:
- Chưa bao giờ ta nghĩ ở ngoài kinh thành có những thần dân của ta được giáo dục đặc biệt và có khả năng đến thế, trong đời ta chưa có cuộc trò chuyện nào làm ta hài lòng như với các ngươi. Nhưng thế là đủ, đã đến lúc các ngươi thư giãn trí óc với vài trò vui cung đình; không có gì xua tan được mây mù bằng âm nhạc, các ngươi sẽ nghe một hợp tấu nhạc cụ và và công múa hát không tồi.
Vua vừa dứt lời, các nhạc công được lệnh vào đáp ứng khá tất sự chờ đợi về tài năng của họ. Những vai hề rất giỏi tiếp nối ban hoà tấu rồi các nam nữ vũ công kết thúc cuộc vui.
Hai hoàng tử thấy gần hết ngày quỳ xuống trước mặt vua xin phép rút lui sau khi cám ơn về lòng tốt và vinh dự được ban cho. Vua để họ ra về, nói:
Ta để các anh về, nên nhớ đích thân ta dẫn các ngươi về cung là để chỉ đường; sau này các ngươi tự đến; bao giờ cũng được hoan nghênh và càng đến nhiều hơn, các ngươi càng làm ta vui lòng.
Trươc khi ra đi, hoàng tử Bahman tâu với vua:
- Thưa bệ hạ, chúng thần dám xin Người gia ân cho anh em thần và em gái thần, lần đi săn tới đưa Người đến trong vùng mời Người ghé qua nhà chúng thần một lúc; ngôi nhà không xứng đáng được Người đến thăm nhưng đôi khi các vị vua không chê vảo một nhà tranh.
Vua nói:
- Một ngôi nhà của những chủ nhân như các ngươi chỉ có thể đẹp và xứng với các ngươi ta vui lòng đến và càng vui hơn với những chủ nhà như các ngươi và em gái ngươi mà nghe kể về đức tính ta đã thấy thân mến. Ta không lùi lại quá ngày kia để thoả mãn điều đó. Ta sẽ có ở chỗ gặp các ngươi lần đầu từ sáng sớm; các ngươi cũng đến đo để hướng dẫn ta.
Cùng ngày hôm đó hai hoàng tử về nhà, sau khi kể lại với em gái vinh dự được vua tiếp đón, họ báo đã mời vua đến nhà họ khi đi săn trong vùng và vua đã định ngày kia sẽ ghé thăm.
Công chúa nói:
Nếu vậy ngay từ bây giờ phải nghĩ đến việc chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng với nhà vua. Chúng ta hỏi ý kiến con chim thì hay nhất: có lẽ nó chỉ cho ta một sớ món ăn hợp, khẩu vị nhà vua hơn.
Các hoàng tử thống nhất theo ý kiến em gái; khi họ lui về phòng nàng hỏi riêng con chim. Nàng nói:
- Chim ơi, vua sẽ cho chúng ta vinh dự ghé thăm nhà và chúng ta phải chiêu đãi Người. Chim bảo chúng ta phải làm cách nào để Người hài lòng?
- Nữ chủ phúc hậu, nhà có khá nhiều đầu bếp giỏi, bảo họ cố gắng hết sức mình và trên hết họ phải làm một đĩa dưa chuột, nhồi nhân ngọc mà nàng cho phục vụ trước mặt vua hơn tất cả những thức ăn khác ngay từ đợt đầu.
- Dưa chuột nhồi nhân ngọc? - Công chúa ngạc nhiên kêu lên - Chim ơi, đó là một món ăn kỳ lạ. Nhà vua có thể khen là một vật đẹp nhưng Người ngồi vào bàn để ăn chứ không phải để ngắm ngọc. Hơn nữa nếu ta dùng tất cả những ngọc ta có thể có cũng không đủ làm nhân.
- Nữ chủ, nàng cứ làm như tôi đã nói, đừng lo sẽ ra sao; chỉ xảy đến việc tốt thôi. Còn về ngọc sáng sớm mai nàng ra cây to đầu tiên trong vườn về bên tay phải, cho đào dưới gốc.
Người làm vườn đào đến một chiều sâu nào đó thấy cứng, phát hiện ra một chiếc hộp vàng khoảng một bộ vuông chỉ cho công chúa. Nàng nói:
- Chính vì vật đó mà tôi dẫn ông đến đây. Cứ tiếp tục đi.
Người làm vườn lôi chiếc hộp ra đưa vào tay công chúa. Chiếc hộp chỉ khép bằng những móc sạch, công chúa mở ra thấy đầy những viên ngọc rất nhỏ nhưng đều nhau và tiện dùng theo yêu cầu dự định. Rất hài lòng phát hiện được kho của này, nàng đóng hộp lại mang về nhà trong lúc người làm vườn vun trả lại đất vào gốc cây như trước.
Hoàng tử Bahman và Pervij ở trong phòng thấy em gái ra vườn sớm hơn thường lệ, đi ra gặp nàng giữa vườn tay mang chiếc hộp vàng, ngạc nhiên hỏi:
Em gái - Hoàng tử Bahman nói - Khi các anh thấy em ra vườn có người làm vườn đi theo thì không mang gì, bây giờ trở vồ tay mang chiếc hộp vàng; phải chăng người làm vườn tìm được kho của chỉ cho em?
- Thưa các anh - Công chúa trả lời - Ngược lại đấy.
- Chính em lẫn người làm vườn đến chỗ có chiếc hộp bảo đào lên. Các anh sẽ ngạc nhiên hơn khi thấy hộp đựng gì.
Công chúa mở hộp và các hoàng tử sửng sốt thấy đầy ngọc rất có giá trị về chất lượng và số lượng, hỏi từ đâu mà em gái biết có kho của này.
- Thưa các anh - Nàng trả lời - Có một việc gấp gáp hơn đang chờ, các anh vào nhà em sẽ bảo.
Hoàng tử Pervij bảo:
- Việc nào gấp gáp hơn điều các anh muốn biết rõ này? Chúng ta cùng vào với nhau vậy.
Trên đường vào nhà, công chúa Pariìađe kể lại việc hỏi ý kíến con chim và nó bảo nên làm thế nào, đặc biệt cần có món đưa chuột nhồi nhân ngọc và nó chỉ chỗ cho đi lấy chiếc hộp này. Ba anh em phân tích nhiều, không hiểu vì sao chim bảo làm món ăn ấy nhưng đành phải theo đúng lời khuyên từng điểm một.
Công chúa cho gọi trưởng đầu bếp, ra lệnh chuẩn bị bữa ăn chiêu đãi nhà vua theo cách nàng hướng dẫn:
Ngoài những thứ đó - Nàng nói thêm - Ông làm một món ăn thích hợp với khẩu vị nhà vua: một đĩa dưa chuột nhồi nhân. Nhân là những viên ngọc này đây.
Đồng thời nàng mở hộp chỉ cho bếp trưởng. Chưa bao giờ nghe nói nhồi nhân như vậy, bếp trưởng ngạc nhiên lùi lại hai bước. Công chúa đoán được ý nghĩ của ông, nói:
Tôi biết ông cho tôi là một người điên bảo làm một món ăn chưa bao giờ có như thế. Nhưng không đâu, tôi rất tỉnh táo bảo chuẩn bị món ăn đó. Ông phát huy sáng kiến mang chiếc hộp này đi làm đi và đem trả lại tôi số ngọc còn lại không dùng hết.
Bếp trưởng chẳng còn gì để nói nữa, cầm chiếc hộp mang đi. Cùng ngày ấy công chúa cho dọn dẹp thật sạch sẽ, ngăn nắp cả trong nhà và ngoài vườn để tiếp đón vua xứng đáng hơn.
Ngày hôm sau, hai hoàng tử đã ở chỗ đi săn thì vua Ba Tư đến. Ngài bắt đầu săn bắn cho đến khi mặt trời lên cao, nắng gắt phải nghỉ. Hoàng tử Bahman ở bên cạnh vua để hướng dẫn còn hoàng tử Pelvij đi trước chỉ đường, khi đã trông thấy nhà mình, chàng thúc ngựa về báo tin nhưng người hầu của công chúa được bố trí trên đường đã đi báo, công chúa đang chờ sẵn đón tiếp.
Vua vào đến sân, xuống ngựa trước tiền sảnh; công chúa Parijade chạy đến quỳ dưới chân ngài chào; các hoàng tử giới thiệu em gái, xin phép cho được đón tiếp vua.
Nhà vua cúi xuống nâng công chúa lên, nhìn nàng một lúc, ngỡ ngàng về sắc đẹp, duyên dáng, phong thái không có vẻ gì thôn dã giống nơi nàng ở. Nhà vua nói:
- Hai anh xứng đáng với em gái và em gái xứng đáng với các anh trai; nhìn bề ngoài xét bên trong ta không lạ nữa việc các anh trai không muốn 1àm gì mà không được em gái tán thành. Ta hy vọng biết rõ nàng hơn về điểm này nhưng để xem ngôi nhà đã.
Công chúa thưa:
Thưa bệ hạ, đây chỉ là một ngôi nhà ở thôn dã phù hợp với những người như chúng thần sống xa người đời. Nó không so sánh được với những ngôi nhà thành phố lớn, càng làm thế nào bằng được những biệt thự ở hoàng cung.
- Ta không hoàn toàn đồng ý như nàng nghĩ nhà vua nói - Những gì ta thấy trước hết làm ta nghi ngờ nàng. Ta sẽ nêu những nhận xét của ta sau khi xem xong; nàng đi trước dẫn đường!
Công chúa để riêng phòng khách lại, dẫn vua đi phòng này đến phòng khác; sau khi xem xét từng phòng; khen sự đa dạng của những gian phòng, nhà vua nói với công chúa Parijade:
- Người đẹp, nàng gọi như thế là một ngôi nhà thôn dã à? Những thành phố lớn, đẹp nhất cung sẽ vắng vẻ nếu tất cả những nhà ở thôn dã giống ngôi nhà của nàng. Ta không ngạc nhiên thấy các ngươi rất thích ở đây và khinh thường thành phố. Đưa ta đi xem khu vườn, xem có phù hợp với ngôi nhà không.
Công chúa mở cửa ra vườn và điều đập vào mắt nhà vua trước tiên là vòi nước phun màu vàng. Lạ lùng về một cảnh quan mới, sau khi ngắm một lúc vua hỏi:
- Ngọn nước tuyệt vời, xem rất thích, ở đâu ra vậy? Nguồn suối ở đâu, nghệ thuật lấm nước phun có vẻ trên đời không có như vậy. Ta muốn đến xem sao.
Ông vừa nói vừa tiến lại. Công chúa tiếp tục dẫn đường, đưa vua đến chỗ trồng cây hay hát.
Lại gần, vua nghe có một hoà âm khác hẳn những bản hợp tấu ông đã nghe nhiều, dừng lại đưa mắt tìm các nhạc công, không thấy nhưng vẫn nghe rõ ràng tiếng nhạc. Ông hỏi:
- Người đẹp, những nhạc công đang hợp tấu ở đâu vậy? Họ ở dưới đất hay biến dạng trên không? Với những giai điệu hay như thế họ ngại gì mà không ra mắt cho người ta vui thích?
Thưa bệ hạ - Công chúa mỉm cười trả lời- Không phải nhạc công hợp tấu mà do cây bệ hạ thấy trước mặt phát ra; xin Người bước lại mấy bước nữa sẽ nghe rõ ràng Vua lại gần say sưa vì âm điệu bản hợp tấu, nghe mãi không thôi. Cuối cùng vua lên tiếng hỏi:
- Người đẹp này cây này tình cờ mọc trong vườn nhà nàng hay là một món quà tặng từ đất nước xa xôi nào? Nàng gọi cây tên là gì?
- Thưa bệ hạ, đây là cây hay hát, không mọc trong vùng này. Đây là một câu chuyện dài liên quan đến nước vàng trong bể và con chim biết nói mà bệ hạ sẽ thấy sau khi xem nước vàng. Nếu Người thấy đượe thần sẽ kể lại khi Người đã nghỉ ngơi giải trí sau cuộc săn mệt nhọc.
- Người đẹp, ta không mệt nhọc gì như nàng nói vì đã được những vật ta ngắm nhìn bù lại. Chúng ta đến xem bể nước vàng đi, ta muốn ngắm con chim biết nói lắm rồi.
Đến bể nước vàng vua nhìn rất lâu vào tia nước không ngớt phun lên cao rồi rơi xuống và nói với công
- Theo nàng nước này không có nguồn, không có vòi dẫn đến từ một chỗ nào gần đây; ta rất lạ về điều đó cũng như về cây hay hát.
- Thưa bệ hạ, điều ấy đúng như Người vừa nói, bể nước liền một tấm, nước không do từ các bên hay phía dưới đưa vào. Thần đã bỏ vào bể một lọ nước, với đặc tính riêng biệt, nước tự phun lên như bệ hạ thấy.
Vua rời bể nước, nói:
- Lần thứ nhất thế đủ rồi vì ta hứa sẽ thường đến đây hơn. Nàng dẫn ta đi để ta xem con chim biết nói.
Vào gần phòng khách, vua thấy trên những cây quanh đấy có một số lượng chim khổng lồ đang hót râm ran vang lên trong không khí. Nhà vua hỏi vì sao chim tập hợp tại đây mà những cây khác trong vườn không có. Công chúa trả lời:
- Thưa bệ hạ tất cả chúng đến từ những vùng xung quanh để phối hợp với tiếng hót của con chim biết nói. Bệ hạ thấy nó đang trong chiếc lồng để ở một cửa sổ phòng khách Người sẽ vào. Nếu để ý Người sẽ nhận ra tiếng hót của nó rất hay, kể cả chim hoạ mi cũng còn xa mới bằng nó.
Vua vào phòng khách; thấy chim vẫn hót, công chúa cao giọng bảo:
- Nô lệ của ta, đây là nhà vua, chim chào mừng đi.
Con chim ngừng hót ngay và những chim khác cũng ngừng theo. Nó nói: Kính chào nhà vua, mong Người luôn thịnh vượng và sống lâu, . Bữa ăn chuẩn bị gần cửa sổ treo lồng chim, vua vừa ngồi vào bàn vừa nói:
- Ta cảm ơn lời chim chúc mừng; ta rất hài lòng ,thấy chim là vua của các loài chim.
Thấy đa đưa chuột trước mặt, vua nghĩ nhồi nhân như bình thường đưa tay gắp nhưng rất ngạc nhiên thấy nhồi hạt ngọc. Nhà vua nói:
- Món ăn gì mới lạ đây? Nhồi hạt ngọc với ý định gì? Ngọc có ăn được đâu! - Nhà vua nhìn hai anh em hoàng tử và công chúa bảo giải thích nhưng con chim can thiệp ngay:
Thưa bệ hạ, Người có thể nào ngạc nhiên đến vậy khi thấy một món ăn nhồi hạt ngọc trong lúc Người dễ dàng tin rằng hoàng hậu vợ Người đã sinh ra một con chó, một con mèo và một khúc gỗ ư?
- Ta đã tin thế vì các bà đỡ khẳng định với ta.
- Những bà đỡ ấy, thưa bệ hạ - Chim lại nói - Là hai người chị của hoàng hậu, nhưng những người chị này lại ghen ty với hạnh phúc Người đã vinh dự đem lại cho hoàng hậu. Để thoả lòng tức giận họ đã lợi dụng sự dễ dãi của bệ hạ; nếu Người cho tra hỏi, họ sẽ thú nhận tội. Hai anh em trai và em gái Người thấy đây là con của Người bị thả trôi theo dòng suối nhưng được người quản lý khu vườn thượng uyển vớt lên đưa về nuôi dạy chu đáo.
Lời nói của chim làm rõ ngay lòng phân vân của nhà vua. Ngài kêu lên:
- Chim ơi, ta không phân vân gì mà tin vào sự thật chim phát hiện ra và báo với ta. Xu hướng và sự trìu mến ta cảm thấy đối với chúng nói rõ với ta chúng là dòng máu của ta. Đến đây, các con trai, con gái của ta, để ta ôm hôn các con, thể hiện tình cảm đầu tiên của một người bố.
Nhà vua đứng dậy lần lượt ôm lấy hai hoàng tử và công chúa, chan hoà dòng lệ với họ. Nhà vua nói:
- Chưa đủ đâu các con, các con phải ôm hôn nhau không phải với tư cách con của người quản lý vườn ta vĩnh viễn chịu ơn vì bảo vệ cuộc sống của các con mà nhân danh con ta, từ dòng máu các vua Ba Tư ta chắc chắn các con giữ được vinh quang.
Sau khi hai hoàng tử và công chúa ôm hôn nhau với một niềm thoả mãn mới mẻ như nhà vua mong muốn, vua lại ngồi vào bàn cùng họ và ăn vội. Ăn xong, nhà vua nói:
- Các con ta, các con đã biết ta là phụ hoàng rồi, ngày mai ta sẽ dẫn hoàng hậu mẹ các con đến. Các con chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp bà.
Nhà vua lên ngựa nhanh chóng trở về kinh thành. Việc đầu tiên khi vào hoàng cung là ra lệnh cho tể tướng xét xử ngay hai người chị hoàng hậu. Hai người bị bắt đưa tới, thẩm vấn riêng rẽ, đối chiếu xác nhận, bị kết tội phanh thây, tất cả không tới một tiếng đồng hồ.
Trong lúc đó vua Khosrouschah, với tất cả triều thần có mặt tháp tùng, đi bộ đến trước cửa nhà thờ lớn đưa hoàng hậu bị giam giữ khổ sở từ bao nhiêu năm nay ra ngoài. Vua đầy nước mắt ôm hôn bà trong tình trạng đáng thương ấy và nói:
- Hoàng hậu, ta đến xin lỗi bà đã xử sự bất công đối với bà và xin sửa chữa mọi việc. Ta đã bắt đầu làm việc đó bằng cách trừng phạt những người đàn bà đã tồi tệ lừa bịp ta và hy vọng bà cho là đã khôi phục được hoàn toàn khi ta đưa lại cho bà hai hoàng tử hoàn hảo và một công chúa đáng yêu xinh đẹp, những đứa con của ta và của bà. Bà về cung đi, lấy lại chức phận của bà với đầy đủ vinh dự.
Việc sửa chữa ấy làm trước một số đông dân chúng nghe tin chạy đến từ các nơi và chỉ một lát sau lan khắp thành phố.
Hôm sau từ sáng sớm vua và hoàng hậu đã thay bộ quần áo buồn rầu nhục nhã, trang bị phù hợp với chức tước, cả triều đình tháp tùng, cùng đến nhà hai hoàng tử và công chúa:
- Hoàng hậu, đây là hai hoàng tử con trai và công chúa con gái bà; bà ôm hôn chúng cũng trìu mển như ta đã ôm hôn chúng; chúng xứng đáng với ta và với bà.
Nước mắt tràn đầy qua những ôm hôn cảm động ấy, đặc biệt về phần hoàng hậu vì niềm an ủi và lòng vui mừng được ôm hôn hai con trai, một con gái đã gây cho bà bao phiền muộn lâu dài. Khi hoàng tử và công chúa đã cho chuẩn bị một bữa ăn ngon chiêu đãi vua, hoàng hậu và các triều thần: mọi người ngồi vào bàn và sau bữa ăn, vua đưa hoàng hậu ra xem khu vườn, chỉ cho bà xem cây hát hay và cảnh nước vàng phun lên cao. Về con chim bà đã thấy trong lồng treo ở cửa sổ và vua đã ca ngợi nhiều trong lúc ăn.
Khi xong việc, vua lên ngựa về cung; hoàng tử Bahmán đi bên phải, hoàng tử Perviì bên trái ông; hoàng hậu và công chúa bên trái bà, đi sau vua. Với trật tự ấy, trước và sau có những võ quan của triều đình theo chức vụ từng người, cả đoàn lên đường về kinh. Khi gần tới kinh thành, dân chúng kéo đến rất đông, ra cổng thành đón họ. Họ nhìn vào hoàng hậu, vui mừng cho bà sau nỗi đau khổ kéo dài và hai hoàng tử, công chúa mà đi theo hoan hô nhiệt liệt. Họ cũng bị con chim trong chiếc lồng công chúa mang theo hấp dẫn vì tiếng hót kéo theo tất cả những con chim khác vừa hót vừa đậu trên cây đọc đường và trên mái nhà trên đường phố.
Hai hoàng tử Bahman và Pervij, được hộ tống rầm rộ về cung và tối đến là những cảnh chiếu sáng và trò vui ở hoàng cung và cả kinh thành kéo dài trong nhiều ngày.
Chương Cuối
NGHÌN MỘT ĐÊM LẺ TRÔI QUA
Vua Ấn Độ không
ngăn được mình ca ngợi trí nhớ tuyệt vời của hoàng hậu vợ ngài mỗi đêm đều giải
trí mới cho ngài bằng bao nhiêu câu chuyện khác nhau không hề cạn.
Nghìn một đêm lẻ trôi qua với những thú vui nhẹ nhàng ấy; thậm chí giúp vua bớt đi nhiều định kiến xấu về sự chung thuỷ của phụ nữ; trí óc dịu đi, ngài công nhận đức tính và sự khôn khéo của Scheherasade, nhớ đến lòng can đảm tự nguyện muốn trở thành vợ ngài, không e ngại cái chết bà biết sẽ chờ mình vào sáng hôm sau như những người trước bà.
Nhìn nhận điều đó và biết những đức tính khác của bà cuối cùng đưa ngài đến quyết định gia ân cho bà. Ngài nói:
- Scheherasade thân mến, ta thấy rõ nguồn chuyện kể của nàng không hề cạn: nàng giải trí cho ta đã khá lâu, đã làm ta nguôi giận? vì nàng ta sẵn lòng từ bỏ luật lệ độc ác ta đặt ra. Ta hoàn toàn tha thứ và muốn nàng được xem là người giải phóng cho tất cả những cô gái phải hy sinh vì lòng thù hận chính đáng của ta.
Hoàng hậu quỳ xuống chân vua, trìu mến hôn chân ngài tỏ rõ lòng biết ơn sốt sắng và hoàn hảo nhất.
Quan tể tướng là người đầu tiên được vua truyền đạt tin tốt lành ấy. Nguồn tin lan rộng ngay trong thành phố, ra các tỉnh làm mọi dân tộc của vương quốc Ấn độ hô lên hàng nghìn lời ngợi ca và chúc phúc vua và Scheherasade đáng yêu, vợ vua.
Nghìn một đêm lẻ trôi qua với những thú vui nhẹ nhàng ấy; thậm chí giúp vua bớt đi nhiều định kiến xấu về sự chung thuỷ của phụ nữ; trí óc dịu đi, ngài công nhận đức tính và sự khôn khéo của Scheherasade, nhớ đến lòng can đảm tự nguyện muốn trở thành vợ ngài, không e ngại cái chết bà biết sẽ chờ mình vào sáng hôm sau như những người trước bà.
Nhìn nhận điều đó và biết những đức tính khác của bà cuối cùng đưa ngài đến quyết định gia ân cho bà. Ngài nói:
- Scheherasade thân mến, ta thấy rõ nguồn chuyện kể của nàng không hề cạn: nàng giải trí cho ta đã khá lâu, đã làm ta nguôi giận? vì nàng ta sẵn lòng từ bỏ luật lệ độc ác ta đặt ra. Ta hoàn toàn tha thứ và muốn nàng được xem là người giải phóng cho tất cả những cô gái phải hy sinh vì lòng thù hận chính đáng của ta.
Hoàng hậu quỳ xuống chân vua, trìu mến hôn chân ngài tỏ rõ lòng biết ơn sốt sắng và hoàn hảo nhất.
Quan tể tướng là người đầu tiên được vua truyền đạt tin tốt lành ấy. Nguồn tin lan rộng ngay trong thành phố, ra các tỉnh làm mọi dân tộc của vương quốc Ấn độ hô lên hàng nghìn lời ngợi ca và chúc phúc vua và Scheherasade đáng yêu, vợ vua.
HẾT
Ba nhà sư khất thực | Thủy thủ Xanh bat
Thủy thủ Xanh bat
Ở Bat-đa, dưới triều
vua Ha-run-an Rat-sit, có một người phu khuân vác nghèo khó tên là Hin-bat. Một
hôm trời nắng nóng, anh ta phải vác một kiện hàng nặng từ đầu đến cuối thành
phố. Thấm mệt sau khi đi một quãng đường dài, anh ta tới một phố lúc ấy có một
làn mưa bụi bay qua, hè phố lại vừa mới được tưới nước hoa hồng. Thấy không có
nơi nào nghỉ tốt hơn nữa, anh đặt kiện hàng xuống và ngồi lên trên, trước một
ngôi nhà lớn trong đó đang ồn ào yến tiệc.
Ngạc nhiên, anh bước tới gần một vài người hầu ăn vận sang trọng và hỏi một người trong số họ rằng ông chủ ngôi nhà này tên là gì.
- Thế nào! - Người hầu trả lời - anh sống ở Bat-đa mà không biết đây là nhà của đức ông Xanh-bat, người thuỷ thủ, người đã có mặt trên khắp đại dương có mặt trời chiếu sáng ư?
Anh phu khuân vác đã từng được nghe về sự giàu có của Xanh-bat, ngửa mặt lên trời kêu lên:
- Hỡi đấng sáng tạo ra muôn loài, ngài hãy nhìn xem sự khác nhau giữa Xanh-bat và tôi! Ông ta đã làm gì để có một số phận dễ chịu đến như vậy? Tôi đã làm gì để chịu một định mệnh hà khắc đến nhường này?
Anh ta chìm sâu vào những ý nghĩ buồn thảm của mình thì có một người đày tớ từ trong nhà bước ra, cầm lấy tay anh và nói:
- Hãy đi theo tôi, chủ tôi, đức ông Xanh-bat, muốn nói chuyện với anh.
Người ấy đưa anh vào một gian phòng lớn có rất nhiều khách khứa trước những bàn ăn có đủ cao lương mỹ vị. ở chỗ ngồi danh dự có một ông già đáng kính, râu bạc trắng, đằng sau có có những sĩ quan và quân hầu đang tấp nập phục vụ. Ông già ấy là Xanh-bat. Anh phu khuân vác run rẩy chào mọi người, nhưng Xanh-bat đã bảo anh bước tới và ngồi phía bên phải ông, ông cũng tiếp thức ăn và rót cho anh những thứ rượu vang hảo hạng.
Khi ăn uống xong, Xanh-bat, người đã được nghe những lời phàn nàn của anh phu khuân vác khốn khổ ngoài cửa sổ, cầm lấy tay anh và hỏi anh đang có những điều gì phiền muộn.
- Trời ơi - Đỏ mặt lên vì ngượng ngùng, Hin-bat trả lời- xin thú thật với ngài, sự mệt nhọc đã làm tôi cáu kỉnh, thốt ra những lời vô ý mà tôi mong được ngài tha lỗi cho.
- Không nên nghĩ như vậy - Xanh-bat nói tiếp - Tôi không đến nỗi bất công để anh bực mình đâu; nhưng tôi phải giúp anh để xóa sự hiểu lầm về tôi. Chắc rằng anh đã nghĩ là tôi được như bây giờ không phải làm gì, không có một khó nhọc nào mà lại được nghỉ ngơi đầy đủ như bây giờ, anh nhầm rồi! Chắc hẳn anh cũng đã được nghe một cách không đầy đủ những cuộc phiêu lưu, những nguy hiểm trên biển trong bảy cuộc hành trình mà tôi đã trải qua, và vì lúc này là cơ hội tốt, tôi sẽ kể cho anh biết một cách chính xác. Tôi cho rằng anh không phật ý khi nghe tôi nói...
Sau khi tĩnh tâm một lát, Xanh-bat bắt đầu kể chuyện của mình.
Cuộc hành trình thứ nhất của thuỷ thủ Xanh-bat
Tôi đã thừa hưởng của gia đình tôi một gia tài lớn, trong đó tôi dành phần lớn cho sự ăn chơi phung phí thời tuổi trẻ của mình. Nhưng tôi đã nhanh chóng nhận ra sự mù quáng của tôi, hiểu rằng lúc trở về già mà nghèo khổ là cái đáng phàn nàn cuối cùng của tất cả mọi sự khốn khổ, và tôi quyết định làm cho số tiền ít ỏi còn lại của mình sinh sôi nảy nở thêm. Tôi tới Bat-xô-ra, một thành phố buôn bán nằm giữa sôn Ti-grơ và sông Ơ-phrat, xuống một con tàu mà tôi cùng với những người lái buôn khác chung vốn kinh doanh.
Chúng tôi gương buồm, qua vịnh Pec-xich để tới miền đông ấn độ, ghé vào nhiều đảo nhỏ trên đường đi để bán hoặc để đổi hàng. Một ngày nọ, biển lặng, tàu giong buồm đưa chúng tôi tới một hòn đảo nằm ngang mặt nước, có màu xanh như một đồng cỏ. Tôi nằm trong số những người lên bờ với sự cho phép của viên thuyền trưởng. Nhưng trong khi chúng tôi đang nghỉ ngơi sau khi ăn uống thì hòn đảo rung lên, hất ngã chúng tôi một cách dữ dội.
Từ trên tàu mọi người gọichúng tôi trở lại gấp, nếu không sẽ gặp nguy khốn, vì nơi chúng tôi đứng trên hòn đảo, nói cho đúng ra là trên lưng cá voi; khi cá lặn sâu xuống nước thì tôi chỉ kịp bám vào một khúc gỗ từ tàu mang lên để đốt lửa.
Tưởng rằng tất cả hànhh khách đã lên tàu, lợ dụng lúc có gió đúng hướng nổi lên, viên thuyền trưởng ra lệnh nhổ neo, giương buồm tiếp tục cuộc hành trình ,và con tàu nhanh chóngđi xa. Tôi phó mặc thân phận mình cho những con sóng, phó mặc cuộc đời trong buổi chiều còn lại và cái đêm tiếp đó. Sáng hôm sau khi tôi hoàn toàn đuối sức, không còn hy vọng gì trong việc giữ lấy mạng sống thì may mắn sóng đã đưa tôi vào một hòn đảo. Bờ thì dốc đứng và lởm chởm những đá, nhưng tôi đã thành công trong việc leo lên để rồi nằm lăn ra bất tỉnh trên mặt đất cho đến khi mặt trời lên cao.
Khi sức khoẻ trở lại, tôi đi lang thang trên đảo. Tới một đồng cỏ đẹp, tôi thấy đàng xa có một con ngựa cái buộc vào một cái cọc. Cùng lúc ấy tôi nghe tiếng người nói ở dưới đất. Một lát sau người ấy hiện ra hỏi tôi là ai. Tôi kể lại sự việc đã xảy ra với mình; sau đó người ấy dẫn tôi vào một cái hang, trong ấy còn có những người khác nữa.
Họ cho tôi biết họ là những người chăn ngựa của vua Mi-ra-giơ, vua của hòn đảo này; hàng năm vào mùa này, họ phải mang ngựa tới đây để chăn thả và họ phải để phòng ngựa biển xông lên ăn thịt ngựa của nhà vua. Họ nói thêm là ngày mai họ phải đi, nếu tôi đến chậm một hôm, thì chắc chắn là tôi sẽ bị nguy khốn vì dân cư ở cách đây rất xa mà tôi không thể đi nếu không có người dẫn đường. Khi mọi người nói tới đây thì con ngựa biển vọt lên, xông vào con ngựa cái để ăn thịt; nhưng những người chăn ngựa hò la ầm ỹ, nó phải bỏ con mồi và lặn xuống biển.
Hôm sau họ lên đường để về kinh thành đảo cùng với đàn ngựa và tôi đi theo mọi người. Tới nơi, vua Mi-ra-giơ, người tôi tới trình diện, hỏi sự ngẫu nhiên nào mà tôi đến xứ sở của ngài. Câu chuyện về nỗi bất hạnh của tôi làm nhà vua thương cảm; ngài ra lệnh cho người ta phải chăm sóc tôi, cho tôi những thứ cần dùng và mọi người đã thực hiện một cách chu đáo.
Vì là lái buôn nên tôi thường tìm gặp những người cùng nghề. Tôi tìm những người nước ngoài để hỏi thăm tin tức từ Bat-đa, để xem có ai về thì tôi cùng về với họ. Một hôm có một con tàu cập bến. Sau khi thả neo người ta khuân vác hàng hoá lên bờ. Khi nhìn những kiện hàng, những mảnh giấy ghi tên chủ hàng dán trên đó, tôi thấy có tên tôi. Sau khi xem xét kỹ, tôi không nghi ngờ rằng đây là hàng hoá của tôi đã xếp xuống tàu ở Bat-xô-ra.
Những người quen biết tôi trên tàu tới chúc mừng tôi, biểu thị sự vui mừng của họ khi gặp lại tôi. Viền thuyền trưởng ôm lấy tôi:
- Lạy trời phù hộ - Ông nói - Anh đã thoát khỏi tai nạn lớn! Tôi không thể nói rõ là tôi đã hối tiếc như thế nào. Đây là của cải của anh; anh hãy nhận lấy, chúng thuộc về anh; dùng chúng thế nào là tuỳ anh.
Tôi cảm ơn ông ta, tôi khen ngợi lòng trung thực của ông; và để đền ơn, tôi đề nghị ông nhận một số hàng mà tôi biếu ông, nhưng ông từ chối.
Tôi chọn những thứ quí giá trong số hàng hoá của mình tặng vua Mi-ra-giơ để cảm ơn lòng hiếu khách của ngài. Sau đó tôi từ biệt nhà vua, lên con tàu ấy trở về. Trước khi đi, tôi đã đổi hàng của mình với những bến cảng khác. Tôi mang về gỗ lô hội, gỗ đàn hương, long não, quả nhục đậu khấu, vỏ đinh hương, hồ tiêu, gừng, và đinh.
Cuối cùng chúng tôi trở về Bat-xô-ra và từ đấy tôi về Bat-đa với số tiền khoảng một trăm nghìn đồng tiền vàng. Gia đình vui mừng thấy tôi trở về. Tôi mua nô lệ, ruộng đất và xây một ngôi nhà đẹp. Tôi đã lập nghiệp như vậy, định bụng quên đi những đau khổ mà mình đã trải qua và hưởng thụ những thú vui của cuộc đời. Nhưng những ý định khôn ngoan đó không bền lâu, anh sẽ thấy ở câu chuyện sau.
Cuộc hành trình thứ hai của thuỷ thủ Xanh-bat
- Thật vậy - Xanh-bat nói tiếp - Tôi đã buồn chán với cuộc sống lười biếng ngay sau đó. ý thích đi đây, đi đó và buôn bán trên biển lại cuốn hút tôi. Tôi mua hàng hoá làm một chuyến đi như mong muốn và tôi lại xuống tàu cùng với các bạn hàng mà tôi đã hiểu rõ lòng trung thực của họ.
Chúng tôi đi từ đảo này sang đảo khác, thực hiện những cuộc đổi hàng có lợi. Một hôm chúng tôi lên một hòn đảo có nhiều cây ăn quả nhưng hoang vắng không có dấu chân người. Trong khi người khác hái hoa, tôi lấy rượi vang mang teo ra và ngồi xuống dưới bóng cây. Tôi ăn một bữa thịnh soạn mà tôi có được, sau đó, không nghĩ ngợi gì, tôi ngủ rất say.
Tôi đã ngủ trong bao lâu. Tôi không rõ. Nhưng khi tỉnh giấc thì tôi không thấy con tàu đã thả neo đâu cả: nó đã giương tất cả các cánh buồm, ra khơi rất nhanh tới mức chỉ một thoáng sau nó đã mất hút khỏi tầm nhìn của tôi. Thoạt tiên, tôi cảm thấy có thể chết vì thất vọng. Sau đó tôi phó mặc cho ý muốn của thượng đế, và, không hiểu lúc ấy nghĩ như thế nào, tôi trèo lên một cây cao để nhìn xung quanh. Thấy ở phía xa có một vật màu trắng, tôi tụt xuống khỏi cây, mang theo một số thức ăn còn lại, tôi bước theo hướng ấy.
Gần tới nơi, tôi thấy đây là một vật tròn rất lớn, hoàn toàn nhẵn nhụi. Tôi đi xung quanh vật ấy nhưng không tìm thấy cửa, tôi thấy cũng không thể trèo lên được tuy nó là vật đặc. Đi vòng quanh nó có tới năm chục bước chân.
Mặt trời sắp lặn. Cảnh vật bỗng tối sầm như có đám mây lướt qua. Nếu tôi thấy lạ lùng về sự tối tăm ấy thì tôi cũng ngạc nhiên thấy một con chim lớn đang lượn trên đầu tôi. Tôi nhớ lại câu chuyện về con chim thần mà những người thuỷ thủ đã nói chuyện với nhau, và tôi cho rằng vật tròn màu trắng lớn kia là trứng con chim này. Thật vậy, con chim đã hạ cánh xuống để ấp trứng. Thấy vậy, tôi bám chặt vào quả trứng tới mức chân con chim như một thân cây đứng sừng sững trước mặt tôi.
Tôi buộc người tôi vào chân con chim bằng chiếc khăn trùm đầu của mình với hy vọng khi chim bay đi, nó sẽ mang tôi ra khỏi cái đảo hoang vắng này. Đúng thế, sau môt đêm ấp trứng, sáng sớm hôm sau chim thần nhấc tôi bay cao, cao tới mức tôi không nhìn thấy quả đất ở đâu nữa; sau đó chim đột ngột xuống thấp với tốc độ đáng sợ.
Xuống tới đất, tôi nhanh chóng cởi chiếc khăn chân con chim. Vừa cởi xong thì chim mổ một con rắn dài không thể tưởng tượng nổi và dùng mỏ quặp lấy con rắn và bay đi.
Nơi mà con chim đặt tôi xuống là một thung lũng rất sâu, xung quanh có núi cao bao bọc, cao tới mức những ngọn núi chìm vào trong mây, núi đứng sát vào nhau tới mức không có con đường nào dẫn lên núi cả. Đối với tôi đây quả là một sự bối rối; và so sánh với hòn đảo hoang vu tôi vừa rời khỏi thì tôi thấy không có gì thay đổi.
Đi xem xét trong thung lũng, tôi thấy nhiều viên kim cương nằm rải rác khắp nơi, có những viên rất lớn, đang lúc thất vọng, tôi bước qua chúng mà không muốn nhặt lên. Cuối cùng, vì quá mệt nhọc, tôi ngồi sụp xuống và ngủ sau khi ăn hết số thức ăn ít ỏi còn lại. Đang ngủ thì có một vật rơi mạnh xuống bên cạnh khiến tôi tỉnh giấc. Đâu là một tảng thịt tươi lớn, cùng lúc ấy tôi cũng thấy những tảng khác từ trên núi rơi xuống.
Tôi cũng từng được nghe, nhưng không mấy tin tưởng, rằng có những người lái buôn tới thung lũng này trong mùa đại bàng nuôi con; họ xả thịt ra thành từng mảnh và ném xuống thung lũng; những viên kim cương găm vào thịt. Chim đại bàng tha thịt về tổ nuôi con. Những người lái buôn chạy tới hò reo ầm ỹ để đuổi chim đi và gỡ những viên kim cương găm trên miếng thịt. Với mưu kế ấy, người ta có thể lấy đươc kim cương từ thung lũng sâu mà không một ai có thể xuống được.
Câu chuyện đó làm tôi tưởng tượng ra cách thoát khỏi cái vực thẳm này. Tôi bắt đầu nhặt những viên kim cương lớn nhìn thấy và cho tất cả vào chiếc túi da đựng thức ăn của mình. Tôi vác tảng thịt dài nhất, dùng chiếc khăn buộc chặt nó vào người và nằm sấp xuống đất.
Nằm được một lúc thì những con đại bàng sà xuống, quắp lấy những tảng thịt tha đi; và một trong số những con chim lớn nhất tha tôi cùng miếng thịt buộc trên người bay lên một đỉnh núi cao nơi có tổ của nó. Những người lái buôn nhanh chóng hò reo để chim sợ bay đi; và khi chim rời khỏi mồi, họ chạy tới bên tôi, ngạc nhiên nhìn thấy tôi và càng ngạc nhiên hơn khi tôi kể lại chuyện mình. Sáng kiến can đảm cũng như sự thành công của tôi khiến họ phải chìm sâu vào sự thán phục.
Họ đưa tôi về nơi ở của họ. Tại đây tôi mở chiếc túi của minh ra; những viên kim cương lớn làm mọi người ngạc nhiên và họ đã phải thú nhận trong đời mình họ chưa nhìn thấy một viên kim cương nào lớn đến như vậy. Tôi yêu cầu người lái buôn đã tới tổ chim để cứu nạn tôi chọn một viên mà ông ta ưng ý. Vì người ấy chỉ lấy một viên nhỏ; và vì tôi bảo ông cứ lấy đừng ngại ngùng gì thì ông ta nói:
- Không, tôi thích viên này, nó khá quý đối với tôi, nó sẽ giúp tôi đỡ vất vả trên con đường lập nghiệp của mình.
Tôi ngủ lại một đêm cùng với những người lái buôn và hôm sau chúng tôi lên đường. Qua cảng thứ nhất thì chúng tôi đến đảo Rô-ha, nơi có cây, mà người ta lấy dầu long não. Cây rất lớn, đến mức hàng trăm người có thể ngôi dưới bóng râm của nó. Tôi đổi một vài viên kim cương lấy một số hàng hoá tốt. Từ đấy, chúng tôi đến các đảo khác, qua nhiều thành phố buôn bán phát đạt và cuối cùng chúng tôi đến Bat-xô-ra, từ đó tôi trở về Bat-đa. Trước hết, tôi bỏ tiền ra cứu giúp những người nghèo khó, sau đó tôi hưởng thụ số của cải rất lớn của mình. Trong cuộc sống yên ả, tôi bắt đầu quên những hiểm nguy của hai cuộc hành trình đã qua. Và anh có thể thấy ngay tôi sẽ làm những gì.
Cuộc hành trình thứ ba của thủy thủ Xanh-bat
Vì đang trong tuổi thanh xuân, tôi thấy buồn rầu khi phải sống trong cảnh nhàn nhã. Tôi đã rời Bat-đa để tới Bat-xô-ra với những hàng hoá của xứ sở mình. Tại đây tôi xuống tàu cùng với các bạn buôn khác. Cuộc đi biển lòng vòng đầu tiên của chúng tôi khá dài vì chúng tôi đã đậu ở nhiều cảng, tiến hành những cuộc buôn bán lớn.
Một hôm chúng tôi đang lênh đênh giữa biển cả thì bị một cơn bão lớn tấn công làm lạc đường. Sau nhiều ngày, tàu tới gần một bến cảng và viên thuyền trưởng bảo chúng tôi:
- Hòn đảo này là của những người dã man, mình đầy lông lá; chúng sắp sửa tấn công chúng ta. Vì chúng là những người lùn nên chúng ta không thể chống lại nổi, chúng đông như một đàn châu chấu, nếu chúng ta giết một thì hàng trăm đứa khác sẽ giết chúng ta.
Ngay lập tức chúng tôi thấy một đám đông không đếm xuể, những ngươi dã man xấu xí, minh đầy lông màu hung, chỉ cáo khoảng hai bộ (đơn vị đo lường cũ khoảng 66 cm - ND). Chúng nhảy xuống bơi và bao vây con tàu của chúng tôi. Chúng leo lên các dây dợ trên tàu, lên tận boong thượng, xé những cánh buồm, cắt đứt dây neo và kéo tàu vào đất liền, sau đó buộc chúng tôi rời khỏi tàu. Chúng kéo con tàu đến một hòn đảo nơi chúng vừa xuất phát.
Chúng tôi đi khỏi cảng, cuối cùng đến một dinh thự lớn thì dừng chân. Đây là một lâu đài xây dựng cahức chắn và rất cao, có cửa bằng gỗ mun với hai cánh mà chúng tôi mở ra rất dễ dàng. Chúng tôi bước vào sân, thấy trước mặt một phòng lớn một bên có một đống xương người. Trước cảnh ấy, đầu gối của chúng tôi như đã rời khỏi chân. Chúng tôi ngôi bệt xuống đất với một sự kinh hãi chết chóc.
Mặt trời vừa lặn thì cánh cổng bật mở với tiếng động rất lớn, ngay sau đó chúgn tôi thấ bộ mặt một người đen xỉn cao như một cây cọ. Người ấy có một con mắt ở giữa trán, đỏ lòm như một cục than hồng, răgn rất dài và nhọn nhô ra nh mõm ngựa và môi dưới trễ xuống tận ngực. Đôi tai như ta ivoi phủ lẫp hai vai. Móng tay dài và nhọn như móng chân chim lớn. Nhìn thấy tên khổng lồ khủng khiếp ấy chúng tôi ngất đi như là đã chết rồi.
Khi tỉnh lại, chúng tôi thấy tên khổng lồ đang ngồi ở phòng bên nhìn chúng tôi bằng con mắt độc nhất của hắn. Sau khi cân nhắc, nó bước tới chúng tôi, thò ta ra túm lấy gáy tôi nhấc lên và quay người tôi để nhìn mọi phía như người chủ cửa hàng thịt xem cái đầu cừu của mình. Nhìn kỹ, hắn thấy tôi gày gò, chỉ có da bọc xương, hắn ném tôi xuống. Hắn lần lượt nhấc những người khác lên để quan sát cùng với cách ấy. Ông thuyền trưởng là người béo nhất trong bọn, hắn mnắm ông bằng một tay như người ta nắm láy con chim sẻ, rồi hắn lấy xiên sắt xiên dọc người ông, đưa lên lửa nướgn ông. Cuối cùng hắn vào phòng riêng ăn thịt người cùng với món cháo của hắn. Ăn xong, hắn lăn ra ngủ, ngáy như sấm động. Hắn ngủ cho đến sáng hôm sau. Chúng tôi thì không thể nào ngủ được. Chúng tôi đã qua một đêm sợ hãi ghê ghớm mà người ta có thể phát điên lên được. Sáng, tên khổng lồ bỏ đi, để mặc chúng tôi trong lâu đài.
Chúng tôi đông và chỉ có một kẻ thù nhưng chúng tôi chưa kịp nghĩ đến việc thoát thân bằng cách giết tê nkhổng lồ. Lợi dụng lúc hắn vắng nhà, chúng tôi ra bờ biển đóng rất nhiều bè, mỗi chiếc có thẻ chở được ba người.
Chiều xuống chúng tôi trở về lâu đài, gã khổng lồ cũng về sau chúng tôi một lúc lâu .Chúng tôi lại phải chứng kiến cảnh một người bạn nữa của chúng tôi bị nướng chín. Sau khi kết thúc bữa ăn ghê tởm ấy, gã khổng lồ nằm xuống và ngủ. Khi thấy gã bắt đầu ngáy theo thói quen, chín người khỏe nhất trong chúng tôi và tôi, mỗi người lấy một cái xiên sắt cho vào lửa nung đỏ lê, sau đó chúgn tôi cùng đâm vào mắt tên khổng lồ làm cho nó vỡ ra.
Sự đau đớn khiến hắn kêu lên những tiếng ghê rợn. Gã đứng phắt lên, giơ tay ra mọi phía mong túm được ai đó trong số chúgn tôi; nhưng chúng tôi đã cso thời gain tránh xa gã và nằm rạp xuống đất cách xa tầm tay của gã. Thất bại trong việc bắt chúng tôi, tên khổng lồ loạng choạng đi khỏi lâu đài với những tiếng kêu đau đớn.
Chúng tôi nhanh chóng chạy ra bờ biển đợi trời sáng và lắng nghe động tĩnh về gã khổng lồ. Nếu không nghe thấy tiếng kêu đó thì đó là dấu hiệu của việc hắn đã chết; và trong trường hợp ấy thì chúng tôi có thể ở lại đảo mà không phải dùng tới những cái mảng đầy rủi ro kia nữa. Nhưng khi trời vừa hửng sáng, chúng tôi thấy kẻ thù tàn ác của mình và nhiều tên khác nữa đang vội vàng chạy tới
Cuộc hành trình thứ tư của thuỷ thủ Xanh-bat
Sự hài lòng và những thích thú sau chuyến đi thứ ba không đủ để tôi từ bỏ ý định tiếp tục đi nữa. Tôi sắp xếp công việc, mua hàng hoá cho những nơi tôi sẽ tới và tôi lại ra đi.
Tôi lên đường đi Ba-tư, sau khi qua nhiều tỉnh tôi tới một bến cảng và lên tàu. Chúng tôi gương buồm, qua rất nhiều cảng đất đai màu mỡ và một vài cảng ở phương Đông thì một ngày nọ tàu gặp một trận bão lớn xé rách những cánh buồm của chúng tôi thành nghìn mảnh. Tàu không thể điều khiển được nữa, đụng phải đá ngầm chìm lỉm, rất nhiều người trong số chúng tôi bị chết đuối.
Tôi cùng một số lái buôn và thuỷ thủ khác có may mắn là bám vào được những tấm ván tàu. Sóng đánh dạt chúng tôi vào một hòn đảo gần đó. Khi chúng tôi tới bờ thì rất nhiều người mọi đen to lớn tới vây quanh chúng tôi. Họ túm từng người trong chúng tôi, chia nhau và mang về nhà. Tại đây chúng tôi bị tọng thức ăn vào miệng trong mười ngày như người ta thường vỗ béo gia súc. Về phần mình, tôi trở thành lờ đờ, suy nhược, một tình hình có lợi cho tôi. Vì đây là những người mọi ăn thịt người, sau khi ăn thịt các bạn tôi, thấy tôi gầy yếu, chúng dự định bỏ mặc tôi chết.
Từ lúc ấy, tôi được tự do, chúng không để ý đến việc đi đứng của tôi nữa. Cái đó cho tôi cơ hội trốn khỏi làng mọi ấy. Sau tám ngày đi bộ, tới gần biển thì bất chợt tôi gặp những người da trắng như tôi đang bận rộn hái hồ tiêu, loại cây có rất nhiều trong vùng này. Khi gặp tôi, họ hỏi tôi bằng tiếng ả rập là tôi ở đâu tới và định đi đâu. Hài lòng vì được nghe tiếng mẹ đẻ của mình, tôi làm thoả mãn sự tò mò của họ bằng cách kể lại chúng tôi bằng cách nào tôi thoát khỏi tay những tên mọi đen tàn ác một cách kỳ diệu như vậy.
Tôi ở lại với họ cho tới khi họ đã hái được một khối lượng lớn hồ tiêu mong muốn. Sau đó tôi theo họ lên con tàu đã đưa họ tới đây để trở lại hòn đảo của họ. Họ đưa tôi tới trình diện vua của họ là một hoàng tử hiền từ. Ngài nhẫn nại nghe tôi kể lại cuộc phiêu lưu của mình một cách đáng ngạc nhiên, thích thú. Nhà vua ra lệnh cho tôi áo, quần, chăm sóc tôi cho tôi ở cùng những người trong gia đình ngài. Một thời gian sau, nhà vua tin tưởng ở tôi, có ý định cưới vợ cho tôi, và giữ tôi ở lại trên đảo của ngài.
Vì không thể trái ý vua, tôi kết hôn với một thiếu nữ xinh đẹp, khôn ngoan và giàu có. Sau lễ cưới, tôi về sống với nàng, một cuộc sống hạnh phúc hoàn toàn. Tôi đang ở trong tình cảnh ấy thì người vợ của người hàng xóm tôi qua đời. Người đàn bà rất thân mật với vợ tôi lăn ra ốm và chết rất nhanh. Tôi tới chia buồn và thấy ông hàng xóm đang trong tình trạng phiền não.
- Trời sẽ phù hộ cho bác - Tôi nói với ông ta - Người sẽ cho bác sống lâu...
- Than ôi! - Người ấy trả lời tôi - Làm thế nào mà tôi có thể hưởng được lời chúc của bác? Tôi chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa để sống thôi vì người ta sẽ chôn tôi cùng với vợ tôi. Theo phong tục của tổ tiên chúng tôi đã đặt ra cho hòn đảo này, không ai được vi phạm, là người chồng phải bị chôn sống theo người vợ đã chết và người vợ phải chôn sống với người chồng đã chết. Không có cách nào cứu người ấy đươc, mọi người đều phải chấp hành cái luật ấy.
Khi nghe được sự dã man kỳ lạ ấy, toàn thân tôi run lên trong khi người nhà, bạn bè, hàng xóm tới nơi để dự đám tang. Người ta liệm xác người vợ bằng những áo quần đẹp như áo quần cưới và người ta cũng trang điểm cho người chết nhiều đồ trang sức đắt tiền. Người ta đặt xác chết vào một chiếc quan tài để ngỏ và đám tang lễ ra đi.
Người ta lên một ngọn núi cao, và khi tới nơi họ nhấc một phiến đá che một cái giếng sâu lên và hạ quan tài xuống. Sau đó người chồng ôm hôn bố mẹ, bạn bè và không chống đối khi người ta đặt anh vào một chiếc quan tài khác cùng với một hũ nước, bảy cái bánh nhỏ; sau đó người ta dùng thừng để hạ quan tài xuống như cách hạ quan tài người chết. Quả núi chạy dài tới biển và giếng rất sâu: có nghĩa là không thể ra khỏi một khi bị thả xuống cái lỗ sâu hoắm này. Đám tang kết thúc, người ta lại khiêng phiến đá che miệng giếng lại.
Tôi buồn bã trở về nhà sau khi chứng kiến cảnh hãi hùng vừa rồi. Sự sợ hãi vợ tôi sẽ chết trước tôi, người ta sẽ chôn sống tôi cùng với nàng làm tôi đau đớn. Lúc ấy thì có phương thuốc nào chữa trị không? Cần phải kiên tâm và tuân theo ý muốn của Thượng đế. Tôi run lên khi thấy vợ tôi khó ở. Nhưng than ôi, sau đó là sự sợ hãi hoàn toàn, vợ tôi lăn ra ốm và qua đời sau đó vài ngày. Anh xem thử tôi đau đớn đến nhường nào. Bị chôn sống thì chẳng khác gì bị thú dữ ăn thịt; nhứng lại phải như thế! Nhà vua cùng triều thần và cả những người danh tiếng trong thành phố đi đưa tang chúng tôi.
Trước khi lên núi, tôi có ý định làm mủi lòng những người đi theo; nhưng khi kêu ca cũng không thấy ai chú ý, ngược lại với họ vội vàng hạ huyệt xác vợ tôi, sau đó đến lượt tôi cùng với vò nước và bảy chiếc bánh nhỏ. Sau cái nghi lễ quái ác ấy, họ khiêng phiến đá lấp miệng giếng mặc những lời kêu gào dữ dội của tôi.
Khi xuống tới đáy giếng, nhờ chút ánh sáng từ bên trên rọi xuống, tôi đi thăm căn hầm. Đây là một cái hang khá rộng, sâu khoảng năm chục cẳng tay. Một mùi hôi thối kinh tởm bốc lên bốc lên từ những xác chết ở bên phải, bên trái tôi. Cũng có những người sắp qua đời bị chôn sống trước tôi. Tôi ra khỏi quan tài, tránh xa những xác chết vừa đi vừa bịt miệng lại. Tuy thất vọng, nhưng tình yêu cuộc sống vẫn còn trong tâm trí, tôi quyết định kéo dài những ngày sống sót trong chừng mực có thể. Tôi sống một thời gian với số nước và bánh chôn theo khi đã dùng hết, tôi nằm dài trên đất để chuẩn bị chết. Bất chợt tôi thấy người ta nhấc phiến đá che miệng giếng lên. Người ta chôn một người chết và một người còn sống. Người chết là đàn ông. Rất tự nhiên là cần phải có quyết định cao nhất khi người ta lâm vào cảnh bất hạnh. Lúc người ta hạ người đàn bà xuống, tôi lại gần chỗ quan tài; và khi người ta lấp miệng giếng bằng phiến đá. tôi đập vào đầu người phụ nữ đáng thương bằng một khúc xương người mang theo. Người đàn bà chết hoặc là tôi đã giết chết người đàn bà ấy. Với hành đồng vô nhân đạo ấy tôi có nước và bánh sống thêm được vài ngày nữa.
Sau đó người ta lại thả xuống giếng một người đàn bà chết và một người đàn ông còn sống, tôi cũng giết người đàn ông bằng cách ấy. Và may mẵn cho tôi, lúc này trên thành phố, có nạn dịch nên tôi không thiếu thức ăn. Một hôm, trong khi hạ sát một người đàn bà tôi nghe thấy có tiếng bước chân một con vật nào đó đang chạy trốn.
Tôi đuổi theo con vật. Đôi lúc nó cũng đứng lại thở phì phò, và lại chạy biến khi tôi tới gần. Tôi đuổi rất lâu, rất xa cho tới lúc tôi thấy một ánh sáng nhỏ như một vì sao. Tôi đi tới chỗ có ánh sáng đó và cuối cùng tôi thấy mộtcon vật chui khỏi một cửa hang nhỏ. Cố gắng lách mình khỏi cửa hang ấy và tôi thấy mình đang đứng trên một bờ biển. Anh hãy hình dung sự vui mừng của tôi lúc này! Tôi đi dọc bờ biển, cảm ơn Thượng đế đã cho tôi dịp may này! Tôi trở về hang đá lấy nước và bánh ra dùng.
Tôi trở vào hang một lần nữa, sờ soạng các quan tài để lấy những viên kim cương, đã quý, ngọc trai, vòng vàng và cả những vải vóc quý có thể tìm được. Tôi mang tất cả những thứ đó ra bờ biển và gói thành nhiều gói lớn.
Sau hai hoặc ba ngày, tôi nhìn thấy một con tàu như vừa ra khỏi một cảng nào đó, đang chạy gần bờ. Tôi ra hiệu cho tàu bằng cách vẫy khăn và kêu thật to. Người ta nhìn thấy tôi, cho một chiếc sà-lúp và cứu. Trả lời những câu hỏi của các thuỷ thủ tôi nói mình bị đắm tàu cùng với những hàng hoá này. May mắn cho tôi, mọi người không nghi ngờ gì cả, mang giúp số hàng hoá của tôi lên tàu.
Tàu chúng tôi đi qua rất nhiều đảo. Khi tới đảo Quả Chuông, chúng tôi lên bờ đổi hàng lấy chì, mía ấn độ và long não. Chúng tôi lại gương buồm để tới những đảo khác. Cuối cùng thì tôi trở về Bát-đa với vô vàn của cải. Để cảm ơn Thượng Đế đã cứu giúp tôi, tôi tổ chức những cuộc cứu người nghèo khổ, làm nhà cho họ trú ngụ. Tôi cũng biếu cha mẹ tôi, bạn bè tôi và đối xử thân tình với họ.
Xanh-bat kể hết câu chuyện về cuộc hành trình thứ tư của mình, làm những người nghe thấy ngạc nhiên hơn ba chuyện trước đó. Sauđó ông lại tiếp tục câu chuyện
Cuộc hành trình thứ năm của thuỷ thủ Xanh-bat
Sự vui thú - Ông nói - Cũng xoá bỏ trong ký ức những gian nan và đau khổ mà tôi đã phải chịu đựng, nhưng không thể loại bỏ được ý muốn làm một chuyến đi nữa của tôi. Lần này vì không muốn phụ thuộc vào một thuyền trưởng, tôi tậu một con tàu dưới quyền điều khiển của mình vàbỏ tiền ra thuê đoàn thuỷ thủ. Khi mọi việc đã xong, tôi xếp hàng hóa của nhiều nước lên tàu.
Chúng tôi kéo buồm khi có gió thuận chiều. Sau khi đi nhiều ngày, nơi đậu đầu tiên của chúng tôi là một hòn đảo hoang, ở đó chúng tôi thấy trứng của con chim thần to như quả trứng mà các bạn nghe tôi kể trước đây. Trứng sắp nở, một con chim nhỏ đã thò mỏ ra khỏi quả trứng.
Mặc những lời khuyên can của tôi, các bạn tôi đã đập vỡ quả trứng bằng rìu và xả thịt con chim con ra thành từng miếng nhỏ, sau đó họ nướng thịt chim trên lửa. Mọi người vừa ăn uống xong thì trên trời xuất hiện hai đám mây lớn. Theo kinh nghiệm, viên thuyền trưởng biết rõ sẽ có chuyện gì xảy ra vì đây là chim bố mẹ. Ông ra lệnh cho tất cả mọi người lên tàu để tránh nạn sắp tới. Làm theo lời ông, chúng tôi lên tàu và giương buồm chạy.
Lúc này hai con chim thần đã bay sà xuống và kêu lên những tiếng ghê rợn, khủng khiếp hơn. Sau đó mỗi con chân quặp một tảng đá lớn bay lên. Khi tới tàu của chúng tôi, một con chim thả rơi hoàn đá xuống, nhưng người lái tàu đã nhanh chóng đổi hưóng đi nên đá rơi xuống biển. Khốn khổ cho chúng tôi, con chim kia lại ném đá trúng giữa con tàu khiến vỡ thành trăm nghìn mảnh. Thuỷ thủ và lái buôn bị thương và bị chết đuối tất cả. Tôi cũng bị chìm xuống biển nhưng may mắn là bám được vào một mảnh gỗ thân tàu. Lúc thì bơi bằng tay này, lúc tay kia, nhờ vào gió và dòng nước, cuối cùng toi vào được hòn đảo có nước ngọt và trái cây.
Trong khi lang thang trên đảo, tôi gặp một ông già như bị què chân thì phải. Ông già ngồi bên bờ suối; lúc đầu tôi tưởng đây là người bị đắm tàu như tôi. Tôi lại gần, chào ông, nhưng ông già chỉ đáp lại bằng cái gật đầu. Tôi hỏi ông ta làm gì ở chốn này. Thay vì trả lời, ông già ra hiệu nhờ tôi cõng ông lội qua suối để ông đi hái quả. Tôi đã cõng ông già trên cổ và đi qua suối.
- Ông xuống đi! - Tôi bảo ông và cúi thấp mình xuống.
Nhưng đáng lẽ phải nhảy xuống đất, ông già mà tôi cứ tưởng là hom hem, yếu đuối, hai chân trước mặt tôi chỉ còn xương và da, vẫn chễm chệ ngồi trên cổ tôi, hai chân quặp chặt lấy cuống họng tôi như muốn làm cho tôi nghẹt thở. Sự sợ hãi làm tôi ngất đi.
Thấy tôi bị ngất, nhưng lão già khó chịu cứ quặp chặt lấy cổ tôi tuy có nới lỏng hơn để tôi thở được. Khi tôi tỉnh hẳn thì một chân lão đá vào bụng, chân kia đá vào sườn tôi, buộc tôi phải đứng lên. Khi tôi đứng lên được, lão buôc tôi phải tới bên những cây cao để hái quảe. Lão buộc tôi phải đi như vậy suốt ngày, tối đến khi tôi muốn ngủ, lão buộc tôi nằm xuống nhưng hai chân lão vẫn quặp chặt lấy cổ tôi. Buổi sáng hôm sau, lão đánh thức tôi dậy và lại đi như hôm trước bằng cách thúc chân vào bụng tôi. Trời ơi! Các bạn có thể hình dung được nỗi khốn khổ của tôi phải mang một gánh nặng như vậy mà không tài nào loại bỏ được không?
Một hôm, trên đường đi tôi thấy những vỏ trái bầu khô từ trên cây rơi xuống, tôi chọn một chiếc to nhất, mang rửa sạch và cho vào đó những trái nho chín, cất một chỗ. Hôm sau tôi cõng lão già đi qua đó, lấy trái bầu đưa lên miệng uống; đây là thứ rượu vang ngon nhất mà từ lâu tôi không còn nhớ nữa, nó đã làm tôi quên đi số phận đáng buồn của mình.
Lão già thấy rõ tác dụng của thứ nước đó đối với tôi bởi tôi khoẻ hẳn lên, cõng lão đi băng băng. Lão ra hiệu tôi đưa rượu cho lão uống. Tôi đưa bầu rượu cho lão, lão cầm lấy, vì thứ nước này rất ngon nên lão đã uống đến giọt cuối cùng. Sau đó, hơi rượu bốc lên đầu, lão bắt đầu hát theo cách của mình và nhấp nhổm trên cổ tôi. Sự nhảy nhót của lão cho tôi biết bụng lão chứa những gì, đôi chân lão bắt đầu lỏng ra tới mức lão không quặp vào cổ tôi nữa, tôi hất lão xuống đất, lão nằm bất động. Thế là tôi vác một hòn đá lớn đập vỡ đầu lão già.
Tôi vui sướng khi thấy mình vĩnh viễn đươc giải thoát khỏi lão già đáng nguyền rủa ấy và đi về phía biển. Tôi gặp môt jcon tàu đang ghé vào đảo để lấy nước và nghỉ ngơi chốc lát.
- Anh đã rơi vào tay của lão già biển - Những người trên tàu bảo tôi- Và anh là người đầu tiên không bị lão bóp cổ. Lão không buông tha ai khi đã rơi vào tay lão, và trên đảo này đã có những người chết dưới tay lão. Thuỷ thủ và lái buôn lên đảo phải đi thành từng đoàn.
Họ đưa tôi lên tàu. Sau một vài ngày trên biển chúng tôi tới đảo Cô-ma-ri. Tôi đi cùng với những người mò ngọc va làm chân mò thuê cho người ta. Họ cho một vài viên lớn và đẹp. Tôi lên một con tàu để trở về Bat-xô-ra, từ đấy tôi trở về Bát-đa. Tôi mang về một khoản tài sản lớn nhờ vào những viên ngọc kiếm được. Tôi trích từ đó ra một phần mười để làm việc từ thiện và nghỉ ngơi bằng nhiều hình thức giải trí khác nhau.
- Các ngài - Xanh-bat thở dài nói tiếp - Chắc chắn các ngài biết rõ tại sao sau năm lần đắm tàu với bao nhiêu gian nan mà tôi còn muốn làm giàu nữa. Tôi cũng lạ lùng cho bản thân và khi nghĩ tới, tôi cho rằng ngôi sao chiếu mệnh của tôi là như vậy. Dù sao đi nữa, sau một năm nghỉ ngơi, tôi lại chuẩn bị cho cuộc hành trình thứ sáu dù cho cha mẹ, bạn bè tôi van nài nhưng ho cũng không thể giữ nổi tôi.
Cuộc hành trình thứ sáu của thuỷ thủ Xanh-bat
Đáng lẽ đi qua vịnh Pec-xich, nhưng tôi vẫn đi qua nhiều tỉnh của Ba-tư và ấn độ, cuối cùng tôi tới một bến cảng và lên tàu mà viên thuyền trưởng đã quyết định sẽ đi một chuyến dài ngày. Thực ra chuyến đi đã quá dài vì lần cuối trên đường đi thuyền trưởng và thuỷ thủ mất phương hướng, chúng tôi không biết mình hiện ở đâu nữa. Con tàu bị dòng nước đưa tới chân một quả núi dốc đứng, đâm vào đó và vỡ tan. Nhưng chúng tôi đã kịp cứu người, chuyển lương thực, thực phẩm và hàng hoá quý nhất lên bờ. Bờ biển rải rác những mảnh vỡ của tàu bè, xương người, chúng tôi khiếp sợ cho rằng mình đã ra khỏi thế giới loài người rồi. Trên bờ biển ấy cũng có mặt phẳng xuôi ra biển, ngoài ra cũng có một sông nước ngọt chảy ngược vào một cái động tối đen, cửa động cao và rất rộng.
Để kết thúc phần mô tả nơi này thì có thể gọi đây là một vực thẳm vì không thấy cái gì trôi ra cả, tàu bè phải tránh xa cửa động ở một khoảng cách nào đó. Đỉnh núi thì không thể tới gần được, có thể nói rằng khi tới đây thì không có lối ra. Chúng tôi như những người mất trí, ngồi đợi cái chết tới từng ngày. Trước tiên chúng tôi chia đều nhau lương thực, thực phẩm; như vậy ai sống dài hoặc ngắn ngày sẽ tuỳ theo tình trạng sức khoẻ và cách dùng thức ăn của mình.
Người nào chết trước được những người khác chôn cất. Với tôi, tôi là người cuối cùng đi chôn bạn bè. Khi chôn xong người cuối cùng, tôi cho rằng mình không thể đi đâu được nữa. Nhưng thượng đế còn thương tôi, gợi ý cho tôi đi vào vực thẳm. Tới nơi tôi quan sát một cách kỹ lưỡng, tôi cho rằng dòng sông nhất định chảy ra một nơi nào đó. Tôi nhanh chóng đóng một cái bè, chất lên đó số hàng hoá và thức ăn còn lại của mình rồi tôi cho bè trôi theo dòng nước.
Vừa vào cửa động thì không còn ánh sáng nữa, tôi không biết bè mang tôi tới đâu. Tôi ở trên bè một vài ngày trong đêm tối như vậy. Tôi vẫn không hề thấy một chút ánh sáng nào. Có lúc tôi thấy trần động quá thấp, nếu không cúi xuống tôi có thể vỡ đầu.
Cuối cùng số thức ăn mang theo đã hết. Rồi dù chống cự thế nào, tôi cũng đã ngủ thiếp đi. Tôi không thể biết mình đã ngủ trong bao lâu, như khi tỉnh giấc tôi ngạc nhiên thấy mình đang ở giữa cánh đồng rộng, bè của tôi đã bị buộc vào bờ, xung quanh có rất nhiều người da đen. Thấy họ, tôi đứng lên và cúi chào.
Một người trong số họ biết tiếng A-rập tiến lên, bảo tôi:
- Anh bạn, không nên ngạc nhiên khi thấy chúng tôi. Chúng tôi là người ở làng bên con sông này, chúng tôi tới đây để lấy nước sông tưới cho đồng ruộng. Sông từ quả núi kia chảy ra, chúng tôi lấy nước bằng những con kênh nhỏ. Chúng tôi nhìn thấy bè của anh trôi trên sông, một người đã bơi ra kéo bè vào. Chúng tôi nghĩ rằng anh đã quá mệt nhọc. Hãy cho chúng tôi biết anh đã đi trên con sông này như thế nào, anh từ đâu tới và định đi đâu.
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện của mình và họ ngạc nhiên. Họ đưa tôi tới thành phố Xây-lan, vì tàu của chúng tôi đã đắm tại xứ sở này. Tới nơi người ta đưa tôi đến gặp nhà vua của họ, tôi phải thuật lại câu chuyện của mình cho nhà vua nghe. Ngài tỏ ra ngạc nhiên và thích thú, ra lệnh cho người ta phải viết lại câu chuyện của tôi bằng chứ vàng giữ lại trong phòng lưu trữ của vương quốc. Tôi xịn với nhà vua cho phép tôi trở về xứ sở, ngài đồng ý một cách niềm nở và đáng kính. Ngài buộc tôi phải nhận một số lớn quà tặng, lấy từ trong kho báu của mình. Ngài còn gửi tôi một số quà tặng khác cùng một lá thứ gửi cho Người dìu dắt các tín đồ, vua của chúng tôi.
- Nhờ ông thay mặt tôi dâng số tặng phẩm cùng bức thư này cho vua Ha-run-an Rat-xit và nói rõ tình thân thiện của tôi với Người.
Tôi hứa sẽ thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của ngài. Trước khi lên đường, nhà vua còn cho tìm viên thuyền trưởng và các lái buôn cùng đi trên tàu, dặn dò họ chăm sóc tôi chu đáo. Con tàu gương buồm, và sau một chuyến đi dài, tàu cặp cảng Bat-xô-ra, từ đó tôi trở về Bat-đa. Việc đầu tiên khi về tới nhà là phải hoàn thành nhiệm vụ mà tôi đã nhận làm.
Tôi cầm lá thư của nhà vua Xây-lan tới cổng thành của Người dìu dắt các tín đồ, có người trong gia đình tôi mang quà tặng đi theo. Tôi nói với một viên quan về việc tôi tới trước ngai vàng của nhà vua. Tôi làm lễ và sau khi nói lời chúc tụng, tôi trình lên nhà vua lá thư cùng những tặng phẩm. Sau khi đọc thư vua Xây-lan, người hỏi tôi có phải chính tay hoàng tử trẻ tuổi và giàu có ấy viết bức thư này không.
- Muôn tâu Người dắt dẫn các tín đồ - Tôi thưa với Người - Tôi xin đảm với Hoàng thượng rằng vua Xây-lan không tự kiêu về sự giàu có và sự cao quý của mình; tôi là người làm chứng. Không thể nói hết về sự tráng lệ của lâu đài của ông ta. Khi hoàng tử xuất hiện trước dân chúng, ngài ngồi trên một ngai vàng ở lưng voi, đi giữa hai hàng bộ trưởng, quần thần và những người khác trong triều. Đi trước con voi là một sĩ quan cầm một ngọn giáo bằng vàng, đi sau voi là một người mang một cây gậy cũng bằng vàng, đầu gậy có một viên ngọc bích lớn sáng lấp lánh. Nhà vua có một đội cận vệ một nghìn người, mặc toàn đồ dạ và lụa dát vàng, ngồi trên lưng những con voi choàng vải thêu đắt tiền. Viên sĩ quan đi trước voi thỉnh thoảng hô to: "Đây là vị Hoàng đế vĩ đại, nhà vua mạnh nhất, đáng sợ nhất của ấn độ, có lâu đài được trang điểm bằng một trăm nghìn vòng hoa kim cương! Đây là nhà vua đã đăng quang, người vĩ đại không kém Xa-lô-mông và Mi-ra-giơ"
Nhà vua rất hài lòng về bản báo cáo của tôi. Ngài tặng tôi nhiều báu vật. Khi về nhà tôi từ bỏ ý nghĩ tiếp tục làm các cuộc hành trình khác. Một mặt, vì tôi đã đến tuổi cần được nghỉ ngơi, mặt khác, tôi không muốn gặp những tai hoạ như tôi đã từng gặp, để sống yên ổn những ngày còn lại trong đời mình. Lúc này, ngày tôi thết đãi vài người bạn, một viên sĩ quan của triều đình tới theo lệnh của nhà vua, truyền tôi phải đi theo ông ta vào triều ngay lập tức.
- Xanh-bat - Nhà vua nói khi tôi tới trước mặt ngài - Ta rất cần anh, anh phải giúp ta một việc là mang một bức thư và tặng phẩm của ta tới vua Xây-lan, cần phải đáp ứng lại thịnh tình của nhà vua.
Mệnh lệnh của người là một cú sét đánh vào đầu tôi.
- Muôn tâu Người dìu dắt các tín đồ, tôi sẵn sàng chấp hành mọi mệnh lệnh của Hoàng thượng, nhưng tôi xin ngài nghĩ lại cho việc tôi đã quá mệt mỏi và khốn khổ. Vả lại tôi đã có nguyện vọng không bao giờ rời khỏi thành Bat-đa này nữa.
Và tôi kể cho nhà vua nghe một cách chi tiết những cuộc phiêu lưu của mình, ngài đã kiên tâm ngồi nghe cho đến hết.
- Ta công nhận- Nhà vua nói - Đây là những câu chuyện kỳ lạ. Nhưng đây chỉ là một chuyến đi Xây-lan, hoàn thành nhiệm vụ ta giao cho anh. Sau đó anh hoàn toàn tự do trở về. Nghĩ xem, ta cũng cần phải xứng với chức vị của mình, trả ơn cho nhà vua của hòn đảo ấy chứ.
Trước sự nài nỉ của nhà vua, tôi đã phải nói là sẽ sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của ngài. Nhà vua rất vui mừng và gọi người giao cho tôi một ngàn đồng tiền vàng làm lộ phí.
Cuộc hành trình thứ bảy của thuỷ thủ Xanh-bat
Tôi để ra một vài ngày chuẩn bị cho chuyến đi - Xanh-bat tiếp tục kể - Tôi tới Bát-xô-ra và lên tàu với lá thư tự tay nhà vua viết cùng các quà biếu của người. Chuyến đi rất thuận lợi tôi đã nhanh chóng tới Xây-lân. Tàu vừa cập bến, người ta đã nhanh chóng đưa tôi vào triều. Tôi kính cẩn chào và chúc tụng nhà vua theo thủ tục. Nhà vua nhận ra tôi ngay và tỏ ý vui mừng khi gặp lại tôi. Tôi ngợi ca và cảm ơn lòng tốt của người đối với tôi và trình lên ngài lá thư cùng những quà tặng mang theo.
Vua Xây-lan rất hài lòng khi thấy vua nước tôi trả lời người một cách thân mật, đáp lại thịnh tình của ngài. ít ngày sau cuộc gặp ấy, tôi xin phép nhà vua được ra về. Nhà vua chập nhận một cách bất đắc dĩ và tặng tôi một số lớn báu vật. Tôi lên tàu và định bụng về thẳng Bát-đa. Nhưng tôi đã thất vọng, thượng đế đã quyết định một cách khác hẳn.
Ba hoặc bốn ngày sau khi tàu rời khỏi cảng, chúng tôi bị bọn cướp biển tấn công. ít nhất là để cướp con tàu của chúng tôi, trong khi chúng tôi không có vũ khí tự vệ trong tay. Chúng tôi bị tước sạch và bị mang bán đi như những nô lệ trên một hòn đảo rất xa. Nói về tôi, tôi rơi vào tay một người lái buôn giàu có. Mua tôi xong, mang tôi về nhà, ông cho tôi ăn uống đầy đủ và ăn vận sạch sẽ. Một vài ngày sau, ông đưa tôi một cây cung và những mũi tên, cho tôi ngồi trên lưng voi phía sau ông, đưa tôi vào một khu rừng lớn, cách thành phố nhiều tiếng đồng hồ đi đường. Cuối cùng, tới một gốc cây to, ông ta bảo tôi xuống.
- Anh hãy trèo lên cây này - Người lái buôn nói - Và bắn vào những con voi đi qua. Nếu có con nào ngã xuống, quay về báo cho tôi.
Sau khi để lại thức ăn cho tôi, ông ta quay về, còn tôi thì ngồi nấp trên cây suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời mọc, tôi thấy một đàn voi đi tới. Tôi bắn chúng bằng nhiều mũi tên và có một con voi ngã xuống. Những con khác bỏ chạy, tôi trở về báo tin cho ông chủ, ông ta khen ngợi sự khéo léo của tôi. Chúng tôi cùng vào rừng, đào một cái hố, chôn con voi chết xuống. Chủ tôi định bụng sẽ trở lại khi thịt voi đã rữa ra để lấy đôi ngà của nó đem đi bán.
Tôi tiếp tục nghề săn bắn dó trong hai tháng, hầu như tôi đã bắn được mói ngày một con. Một buổi sáng kia, đáng lẽ đi ngang qua chỗ tôi nấp thì đàn voi xông thẳng vào thân cây phía trên tôi đang ngồi. Những con voi nhìn thẳng vào tôi và giơ cao vòi lên. Trước cảnh lạ lùng ấy tôi sợ hãi ngồi yên và đánh rơi cả cung tên. Con voi lớn nhất lấy vòi quật bật rễ cây lên. Tôi rơi xuống đất, nhưng con vật đã đỡ lấy tôi bằng vòi và đặt tôi lên lưng nó. Con voi ấy cõng tôi đi trước, những con khác đi sau, dẫn tôi đến một nơi vắng vẻ, đặt tôi xuống, sau đó lại dẫn cả đàn voi đi. Tôi đứng lên và nhận ra đây là quả đồi dài và rất rộng, trên mặt đất toàn là xương và ngà voi.
Không nghi ngờ gì nữa, đây là một nghĩa địa của voi, những con voi kia mang tôi tới đây chắc chắn là báo tin cho tôi, mong tôi từ bỏ công việc tàn sát chúng. Tôi lên đường, sau một ngày, một đêm, về tới nhà ông chủ, người cứ tưởng rằng tôi đã chết rồi. Câu chuyện của tôi làm ông suy nghĩ tợn; hôm sau chúng tôi cùng tới quả đồi ấy, ông rất vui khi thấy sự thật đúng như những điều tôi đã nói.
- Anh bạn - Ông bảo tôi - Sau khi khám phá ra việc này, tôi không muốn coi anh như nô lệ của tôi nữa. Tôi tuyên bố trước thượng đế là trả tự do cho anh. Anh đã mang lại cho tôi một tài sản không thể tưởng tượng nổi; tôi không chỉ có đủ ngà voi đẻ giải phóng số nô lệ của mình mà còn có thể làm cho cả thành phố này giàu lên theo cách của anh! Không nên nghĩ rằng tôi trả ơn chỉ bằng cách trả tự do cho anh, tôi còn muốn chia cho anh số tài sản này nữa kia.
- Sự tự do mà ông trao cho tôi là đủ để tặng thưởng cho tôi rồi - Tôi nói với ông chủ- Còn về hạnh phúc mang lại cho ông và dân chúng thành phố này thì tôi xin phép đổi lấy việc các ông cho tôi được về xứ sở của mình.
- Đây - Ông nói - Sắp có đợt gió mùa thuận lợi cho chuyến tàu bán ngà voi, toi sẽ gặp lại anh sau đó và tôi sẽ đưa tiền để anh về.
Chúng tôi chất ngà voi lên lưng voi và trở về thành phố. Tôi ở lại để đợi gió mùa. Trong thời gian ấy chúng tôi tới quả đồi để chuyên chở ngà voi về. Rất nhiều lái buôn trong thành phố cũng tới để nhặt ngà voi, vì việc này không thể giữ kín mãi được.
Cuối cùng thì cũng có tàu, ông chủ tôi lựa chon con tàu tôi sẽ đi, chất xuống đây một nửa số ngà voi thu được để thưởng công cho tôi. Tôi ra đi giữa những tiếng hoan hô tưng bừng của dân thành phố. Tàu chúng tôi sau đó cập một bến cảng của ấn độ; tại đây để tránh những bất trắc của đường biển tới Bát-xô-ra, tôi bán số ngà voi đi và trở về theo đường bộ. Tôi được một số tiền lớn sau khi bán ngà voi. Tôi đã mua rất nhiều hang hiếm, quý để làm quà tặng, và sau khi đã đóng gói hàng, tôi nhập vào một đoàn lái buôn. Thời gian đi đường rất lâu và tôi vất vả; nhưng tôi kiên nhẫn chịu đựng vì biết rằng lúc này tôi không còn sợ gió bão, cướp biển, thú dữ ăn thịt người cũng như mọi tai hoạ mà tôi đã trải qua nữa.
Tất cả những gian nan đó đã chấm dứt: tôi đã về đến Bat-đa. Tôi đến trình diện nhà vua báo cáo về nhiệm vụ sứ thần của mình. Ngài nói chuyến đi dài ngày của tôi đã gây cho ngài sự lo lắng, tuy nhiên ngài bao giờ cũng hy vọng Thượng đế không bỏ rơi tôi. Tôi ra về trong vinh hạnh và với những tặng phẩm của ngài, tới nhà tôi tặng tất cả các thứ đó cho gia đình, thân quyến và bạn bè tôi.
Tới đây, Xanh-bat kết thúc việc kể lại hành trình thứ bảy của mình.
Thế nào, anh bạn - Xanh-bat nói với Hin-bat - Anh có thấy ai chịu đau khổ như tôi, và có công bằng không khi tôi có một cuộc sống dễ chịu và yên ổn như thế này sau những công việc đã làm cho mình?
Hin-bat tới gần và hôn tay ông:
- Thưa đức ông - Anh ta trả lời- Ngài đã chịu rất nhiều tai hoạ khủng khiếp và những vất vả của tôi không thể nào so sánh được với những gian nan của ngài. Ngài xứng đáng không chỉ với cuộc sống thanh bình mà ngài có thể tự hào với những của cải đã có vì ngài đã sử dụng chúng một cách hào hiệp. Ngài hãy tiếp tục sống trong sự vui vẻ cho đến cuối đời.
Xanh-bat cho người phu khuân vác nhiều đồng tiền vàng mà ông kiếm được trong những chuyến đi, nhận anh vào số bạn bè hàng ngày của mình, bảo anh bỏ nghê khuân vác để tới nhà ông dùng bữa hàng ngày. Hin-bat đã giữ kỷ niệm về Xanh-bat, người thuỷ thủ, trong suốt cuộc đời mình.
Ngạc nhiên, anh bước tới gần một vài người hầu ăn vận sang trọng và hỏi một người trong số họ rằng ông chủ ngôi nhà này tên là gì.
- Thế nào! - Người hầu trả lời - anh sống ở Bat-đa mà không biết đây là nhà của đức ông Xanh-bat, người thuỷ thủ, người đã có mặt trên khắp đại dương có mặt trời chiếu sáng ư?
Anh phu khuân vác đã từng được nghe về sự giàu có của Xanh-bat, ngửa mặt lên trời kêu lên:
- Hỡi đấng sáng tạo ra muôn loài, ngài hãy nhìn xem sự khác nhau giữa Xanh-bat và tôi! Ông ta đã làm gì để có một số phận dễ chịu đến như vậy? Tôi đã làm gì để chịu một định mệnh hà khắc đến nhường này?
Anh ta chìm sâu vào những ý nghĩ buồn thảm của mình thì có một người đày tớ từ trong nhà bước ra, cầm lấy tay anh và nói:
- Hãy đi theo tôi, chủ tôi, đức ông Xanh-bat, muốn nói chuyện với anh.
Người ấy đưa anh vào một gian phòng lớn có rất nhiều khách khứa trước những bàn ăn có đủ cao lương mỹ vị. ở chỗ ngồi danh dự có một ông già đáng kính, râu bạc trắng, đằng sau có có những sĩ quan và quân hầu đang tấp nập phục vụ. Ông già ấy là Xanh-bat. Anh phu khuân vác run rẩy chào mọi người, nhưng Xanh-bat đã bảo anh bước tới và ngồi phía bên phải ông, ông cũng tiếp thức ăn và rót cho anh những thứ rượu vang hảo hạng.
Khi ăn uống xong, Xanh-bat, người đã được nghe những lời phàn nàn của anh phu khuân vác khốn khổ ngoài cửa sổ, cầm lấy tay anh và hỏi anh đang có những điều gì phiền muộn.
- Trời ơi - Đỏ mặt lên vì ngượng ngùng, Hin-bat trả lời- xin thú thật với ngài, sự mệt nhọc đã làm tôi cáu kỉnh, thốt ra những lời vô ý mà tôi mong được ngài tha lỗi cho.
- Không nên nghĩ như vậy - Xanh-bat nói tiếp - Tôi không đến nỗi bất công để anh bực mình đâu; nhưng tôi phải giúp anh để xóa sự hiểu lầm về tôi. Chắc rằng anh đã nghĩ là tôi được như bây giờ không phải làm gì, không có một khó nhọc nào mà lại được nghỉ ngơi đầy đủ như bây giờ, anh nhầm rồi! Chắc hẳn anh cũng đã được nghe một cách không đầy đủ những cuộc phiêu lưu, những nguy hiểm trên biển trong bảy cuộc hành trình mà tôi đã trải qua, và vì lúc này là cơ hội tốt, tôi sẽ kể cho anh biết một cách chính xác. Tôi cho rằng anh không phật ý khi nghe tôi nói...
Sau khi tĩnh tâm một lát, Xanh-bat bắt đầu kể chuyện của mình.
Cuộc hành trình thứ nhất của thuỷ thủ Xanh-bat
Tôi đã thừa hưởng của gia đình tôi một gia tài lớn, trong đó tôi dành phần lớn cho sự ăn chơi phung phí thời tuổi trẻ của mình. Nhưng tôi đã nhanh chóng nhận ra sự mù quáng của tôi, hiểu rằng lúc trở về già mà nghèo khổ là cái đáng phàn nàn cuối cùng của tất cả mọi sự khốn khổ, và tôi quyết định làm cho số tiền ít ỏi còn lại của mình sinh sôi nảy nở thêm. Tôi tới Bat-xô-ra, một thành phố buôn bán nằm giữa sôn Ti-grơ và sông Ơ-phrat, xuống một con tàu mà tôi cùng với những người lái buôn khác chung vốn kinh doanh.
Chúng tôi gương buồm, qua vịnh Pec-xich để tới miền đông ấn độ, ghé vào nhiều đảo nhỏ trên đường đi để bán hoặc để đổi hàng. Một ngày nọ, biển lặng, tàu giong buồm đưa chúng tôi tới một hòn đảo nằm ngang mặt nước, có màu xanh như một đồng cỏ. Tôi nằm trong số những người lên bờ với sự cho phép của viên thuyền trưởng. Nhưng trong khi chúng tôi đang nghỉ ngơi sau khi ăn uống thì hòn đảo rung lên, hất ngã chúng tôi một cách dữ dội.
Từ trên tàu mọi người gọichúng tôi trở lại gấp, nếu không sẽ gặp nguy khốn, vì nơi chúng tôi đứng trên hòn đảo, nói cho đúng ra là trên lưng cá voi; khi cá lặn sâu xuống nước thì tôi chỉ kịp bám vào một khúc gỗ từ tàu mang lên để đốt lửa.
Tưởng rằng tất cả hànhh khách đã lên tàu, lợ dụng lúc có gió đúng hướng nổi lên, viên thuyền trưởng ra lệnh nhổ neo, giương buồm tiếp tục cuộc hành trình ,và con tàu nhanh chóngđi xa. Tôi phó mặc thân phận mình cho những con sóng, phó mặc cuộc đời trong buổi chiều còn lại và cái đêm tiếp đó. Sáng hôm sau khi tôi hoàn toàn đuối sức, không còn hy vọng gì trong việc giữ lấy mạng sống thì may mắn sóng đã đưa tôi vào một hòn đảo. Bờ thì dốc đứng và lởm chởm những đá, nhưng tôi đã thành công trong việc leo lên để rồi nằm lăn ra bất tỉnh trên mặt đất cho đến khi mặt trời lên cao.
Khi sức khoẻ trở lại, tôi đi lang thang trên đảo. Tới một đồng cỏ đẹp, tôi thấy đàng xa có một con ngựa cái buộc vào một cái cọc. Cùng lúc ấy tôi nghe tiếng người nói ở dưới đất. Một lát sau người ấy hiện ra hỏi tôi là ai. Tôi kể lại sự việc đã xảy ra với mình; sau đó người ấy dẫn tôi vào một cái hang, trong ấy còn có những người khác nữa.
Họ cho tôi biết họ là những người chăn ngựa của vua Mi-ra-giơ, vua của hòn đảo này; hàng năm vào mùa này, họ phải mang ngựa tới đây để chăn thả và họ phải để phòng ngựa biển xông lên ăn thịt ngựa của nhà vua. Họ nói thêm là ngày mai họ phải đi, nếu tôi đến chậm một hôm, thì chắc chắn là tôi sẽ bị nguy khốn vì dân cư ở cách đây rất xa mà tôi không thể đi nếu không có người dẫn đường. Khi mọi người nói tới đây thì con ngựa biển vọt lên, xông vào con ngựa cái để ăn thịt; nhưng những người chăn ngựa hò la ầm ỹ, nó phải bỏ con mồi và lặn xuống biển.
Hôm sau họ lên đường để về kinh thành đảo cùng với đàn ngựa và tôi đi theo mọi người. Tới nơi, vua Mi-ra-giơ, người tôi tới trình diện, hỏi sự ngẫu nhiên nào mà tôi đến xứ sở của ngài. Câu chuyện về nỗi bất hạnh của tôi làm nhà vua thương cảm; ngài ra lệnh cho người ta phải chăm sóc tôi, cho tôi những thứ cần dùng và mọi người đã thực hiện một cách chu đáo.
Vì là lái buôn nên tôi thường tìm gặp những người cùng nghề. Tôi tìm những người nước ngoài để hỏi thăm tin tức từ Bat-đa, để xem có ai về thì tôi cùng về với họ. Một hôm có một con tàu cập bến. Sau khi thả neo người ta khuân vác hàng hoá lên bờ. Khi nhìn những kiện hàng, những mảnh giấy ghi tên chủ hàng dán trên đó, tôi thấy có tên tôi. Sau khi xem xét kỹ, tôi không nghi ngờ rằng đây là hàng hoá của tôi đã xếp xuống tàu ở Bat-xô-ra.
Những người quen biết tôi trên tàu tới chúc mừng tôi, biểu thị sự vui mừng của họ khi gặp lại tôi. Viền thuyền trưởng ôm lấy tôi:
- Lạy trời phù hộ - Ông nói - Anh đã thoát khỏi tai nạn lớn! Tôi không thể nói rõ là tôi đã hối tiếc như thế nào. Đây là của cải của anh; anh hãy nhận lấy, chúng thuộc về anh; dùng chúng thế nào là tuỳ anh.
Tôi cảm ơn ông ta, tôi khen ngợi lòng trung thực của ông; và để đền ơn, tôi đề nghị ông nhận một số hàng mà tôi biếu ông, nhưng ông từ chối.
Tôi chọn những thứ quí giá trong số hàng hoá của mình tặng vua Mi-ra-giơ để cảm ơn lòng hiếu khách của ngài. Sau đó tôi từ biệt nhà vua, lên con tàu ấy trở về. Trước khi đi, tôi đã đổi hàng của mình với những bến cảng khác. Tôi mang về gỗ lô hội, gỗ đàn hương, long não, quả nhục đậu khấu, vỏ đinh hương, hồ tiêu, gừng, và đinh.
Cuối cùng chúng tôi trở về Bat-xô-ra và từ đấy tôi về Bat-đa với số tiền khoảng một trăm nghìn đồng tiền vàng. Gia đình vui mừng thấy tôi trở về. Tôi mua nô lệ, ruộng đất và xây một ngôi nhà đẹp. Tôi đã lập nghiệp như vậy, định bụng quên đi những đau khổ mà mình đã trải qua và hưởng thụ những thú vui của cuộc đời. Nhưng những ý định khôn ngoan đó không bền lâu, anh sẽ thấy ở câu chuyện sau.
Cuộc hành trình thứ hai của thuỷ thủ Xanh-bat
- Thật vậy - Xanh-bat nói tiếp - Tôi đã buồn chán với cuộc sống lười biếng ngay sau đó. ý thích đi đây, đi đó và buôn bán trên biển lại cuốn hút tôi. Tôi mua hàng hoá làm một chuyến đi như mong muốn và tôi lại xuống tàu cùng với các bạn hàng mà tôi đã hiểu rõ lòng trung thực của họ.
Chúng tôi đi từ đảo này sang đảo khác, thực hiện những cuộc đổi hàng có lợi. Một hôm chúng tôi lên một hòn đảo có nhiều cây ăn quả nhưng hoang vắng không có dấu chân người. Trong khi người khác hái hoa, tôi lấy rượi vang mang teo ra và ngồi xuống dưới bóng cây. Tôi ăn một bữa thịnh soạn mà tôi có được, sau đó, không nghĩ ngợi gì, tôi ngủ rất say.
Tôi đã ngủ trong bao lâu. Tôi không rõ. Nhưng khi tỉnh giấc thì tôi không thấy con tàu đã thả neo đâu cả: nó đã giương tất cả các cánh buồm, ra khơi rất nhanh tới mức chỉ một thoáng sau nó đã mất hút khỏi tầm nhìn của tôi. Thoạt tiên, tôi cảm thấy có thể chết vì thất vọng. Sau đó tôi phó mặc cho ý muốn của thượng đế, và, không hiểu lúc ấy nghĩ như thế nào, tôi trèo lên một cây cao để nhìn xung quanh. Thấy ở phía xa có một vật màu trắng, tôi tụt xuống khỏi cây, mang theo một số thức ăn còn lại, tôi bước theo hướng ấy.
Gần tới nơi, tôi thấy đây là một vật tròn rất lớn, hoàn toàn nhẵn nhụi. Tôi đi xung quanh vật ấy nhưng không tìm thấy cửa, tôi thấy cũng không thể trèo lên được tuy nó là vật đặc. Đi vòng quanh nó có tới năm chục bước chân.
Mặt trời sắp lặn. Cảnh vật bỗng tối sầm như có đám mây lướt qua. Nếu tôi thấy lạ lùng về sự tối tăm ấy thì tôi cũng ngạc nhiên thấy một con chim lớn đang lượn trên đầu tôi. Tôi nhớ lại câu chuyện về con chim thần mà những người thuỷ thủ đã nói chuyện với nhau, và tôi cho rằng vật tròn màu trắng lớn kia là trứng con chim này. Thật vậy, con chim đã hạ cánh xuống để ấp trứng. Thấy vậy, tôi bám chặt vào quả trứng tới mức chân con chim như một thân cây đứng sừng sững trước mặt tôi.
Tôi buộc người tôi vào chân con chim bằng chiếc khăn trùm đầu của mình với hy vọng khi chim bay đi, nó sẽ mang tôi ra khỏi cái đảo hoang vắng này. Đúng thế, sau môt đêm ấp trứng, sáng sớm hôm sau chim thần nhấc tôi bay cao, cao tới mức tôi không nhìn thấy quả đất ở đâu nữa; sau đó chim đột ngột xuống thấp với tốc độ đáng sợ.
Xuống tới đất, tôi nhanh chóng cởi chiếc khăn chân con chim. Vừa cởi xong thì chim mổ một con rắn dài không thể tưởng tượng nổi và dùng mỏ quặp lấy con rắn và bay đi.
Nơi mà con chim đặt tôi xuống là một thung lũng rất sâu, xung quanh có núi cao bao bọc, cao tới mức những ngọn núi chìm vào trong mây, núi đứng sát vào nhau tới mức không có con đường nào dẫn lên núi cả. Đối với tôi đây quả là một sự bối rối; và so sánh với hòn đảo hoang vu tôi vừa rời khỏi thì tôi thấy không có gì thay đổi.
Đi xem xét trong thung lũng, tôi thấy nhiều viên kim cương nằm rải rác khắp nơi, có những viên rất lớn, đang lúc thất vọng, tôi bước qua chúng mà không muốn nhặt lên. Cuối cùng, vì quá mệt nhọc, tôi ngồi sụp xuống và ngủ sau khi ăn hết số thức ăn ít ỏi còn lại. Đang ngủ thì có một vật rơi mạnh xuống bên cạnh khiến tôi tỉnh giấc. Đâu là một tảng thịt tươi lớn, cùng lúc ấy tôi cũng thấy những tảng khác từ trên núi rơi xuống.
Tôi cũng từng được nghe, nhưng không mấy tin tưởng, rằng có những người lái buôn tới thung lũng này trong mùa đại bàng nuôi con; họ xả thịt ra thành từng mảnh và ném xuống thung lũng; những viên kim cương găm vào thịt. Chim đại bàng tha thịt về tổ nuôi con. Những người lái buôn chạy tới hò reo ầm ỹ để đuổi chim đi và gỡ những viên kim cương găm trên miếng thịt. Với mưu kế ấy, người ta có thể lấy đươc kim cương từ thung lũng sâu mà không một ai có thể xuống được.
Câu chuyện đó làm tôi tưởng tượng ra cách thoát khỏi cái vực thẳm này. Tôi bắt đầu nhặt những viên kim cương lớn nhìn thấy và cho tất cả vào chiếc túi da đựng thức ăn của mình. Tôi vác tảng thịt dài nhất, dùng chiếc khăn buộc chặt nó vào người và nằm sấp xuống đất.
Nằm được một lúc thì những con đại bàng sà xuống, quắp lấy những tảng thịt tha đi; và một trong số những con chim lớn nhất tha tôi cùng miếng thịt buộc trên người bay lên một đỉnh núi cao nơi có tổ của nó. Những người lái buôn nhanh chóng hò reo để chim sợ bay đi; và khi chim rời khỏi mồi, họ chạy tới bên tôi, ngạc nhiên nhìn thấy tôi và càng ngạc nhiên hơn khi tôi kể lại chuyện mình. Sáng kiến can đảm cũng như sự thành công của tôi khiến họ phải chìm sâu vào sự thán phục.
Họ đưa tôi về nơi ở của họ. Tại đây tôi mở chiếc túi của minh ra; những viên kim cương lớn làm mọi người ngạc nhiên và họ đã phải thú nhận trong đời mình họ chưa nhìn thấy một viên kim cương nào lớn đến như vậy. Tôi yêu cầu người lái buôn đã tới tổ chim để cứu nạn tôi chọn một viên mà ông ta ưng ý. Vì người ấy chỉ lấy một viên nhỏ; và vì tôi bảo ông cứ lấy đừng ngại ngùng gì thì ông ta nói:
- Không, tôi thích viên này, nó khá quý đối với tôi, nó sẽ giúp tôi đỡ vất vả trên con đường lập nghiệp của mình.
Tôi ngủ lại một đêm cùng với những người lái buôn và hôm sau chúng tôi lên đường. Qua cảng thứ nhất thì chúng tôi đến đảo Rô-ha, nơi có cây, mà người ta lấy dầu long não. Cây rất lớn, đến mức hàng trăm người có thể ngôi dưới bóng râm của nó. Tôi đổi một vài viên kim cương lấy một số hàng hoá tốt. Từ đấy, chúng tôi đến các đảo khác, qua nhiều thành phố buôn bán phát đạt và cuối cùng chúng tôi đến Bat-xô-ra, từ đó tôi trở về Bat-đa. Trước hết, tôi bỏ tiền ra cứu giúp những người nghèo khó, sau đó tôi hưởng thụ số của cải rất lớn của mình. Trong cuộc sống yên ả, tôi bắt đầu quên những hiểm nguy của hai cuộc hành trình đã qua. Và anh có thể thấy ngay tôi sẽ làm những gì.
Cuộc hành trình thứ ba của thủy thủ Xanh-bat
Vì đang trong tuổi thanh xuân, tôi thấy buồn rầu khi phải sống trong cảnh nhàn nhã. Tôi đã rời Bat-đa để tới Bat-xô-ra với những hàng hoá của xứ sở mình. Tại đây tôi xuống tàu cùng với các bạn buôn khác. Cuộc đi biển lòng vòng đầu tiên của chúng tôi khá dài vì chúng tôi đã đậu ở nhiều cảng, tiến hành những cuộc buôn bán lớn.
Một hôm chúng tôi đang lênh đênh giữa biển cả thì bị một cơn bão lớn tấn công làm lạc đường. Sau nhiều ngày, tàu tới gần một bến cảng và viên thuyền trưởng bảo chúng tôi:
- Hòn đảo này là của những người dã man, mình đầy lông lá; chúng sắp sửa tấn công chúng ta. Vì chúng là những người lùn nên chúng ta không thể chống lại nổi, chúng đông như một đàn châu chấu, nếu chúng ta giết một thì hàng trăm đứa khác sẽ giết chúng ta.
Ngay lập tức chúng tôi thấy một đám đông không đếm xuể, những ngươi dã man xấu xí, minh đầy lông màu hung, chỉ cáo khoảng hai bộ (đơn vị đo lường cũ khoảng 66 cm - ND). Chúng nhảy xuống bơi và bao vây con tàu của chúng tôi. Chúng leo lên các dây dợ trên tàu, lên tận boong thượng, xé những cánh buồm, cắt đứt dây neo và kéo tàu vào đất liền, sau đó buộc chúng tôi rời khỏi tàu. Chúng kéo con tàu đến một hòn đảo nơi chúng vừa xuất phát.
Chúng tôi đi khỏi cảng, cuối cùng đến một dinh thự lớn thì dừng chân. Đây là một lâu đài xây dựng cahức chắn và rất cao, có cửa bằng gỗ mun với hai cánh mà chúng tôi mở ra rất dễ dàng. Chúng tôi bước vào sân, thấy trước mặt một phòng lớn một bên có một đống xương người. Trước cảnh ấy, đầu gối của chúng tôi như đã rời khỏi chân. Chúng tôi ngôi bệt xuống đất với một sự kinh hãi chết chóc.
Mặt trời vừa lặn thì cánh cổng bật mở với tiếng động rất lớn, ngay sau đó chúgn tôi thấ bộ mặt một người đen xỉn cao như một cây cọ. Người ấy có một con mắt ở giữa trán, đỏ lòm như một cục than hồng, răgn rất dài và nhọn nhô ra nh mõm ngựa và môi dưới trễ xuống tận ngực. Đôi tai như ta ivoi phủ lẫp hai vai. Móng tay dài và nhọn như móng chân chim lớn. Nhìn thấy tên khổng lồ khủng khiếp ấy chúng tôi ngất đi như là đã chết rồi.
Khi tỉnh lại, chúng tôi thấy tên khổng lồ đang ngồi ở phòng bên nhìn chúng tôi bằng con mắt độc nhất của hắn. Sau khi cân nhắc, nó bước tới chúng tôi, thò ta ra túm lấy gáy tôi nhấc lên và quay người tôi để nhìn mọi phía như người chủ cửa hàng thịt xem cái đầu cừu của mình. Nhìn kỹ, hắn thấy tôi gày gò, chỉ có da bọc xương, hắn ném tôi xuống. Hắn lần lượt nhấc những người khác lên để quan sát cùng với cách ấy. Ông thuyền trưởng là người béo nhất trong bọn, hắn mnắm ông bằng một tay như người ta nắm láy con chim sẻ, rồi hắn lấy xiên sắt xiên dọc người ông, đưa lên lửa nướgn ông. Cuối cùng hắn vào phòng riêng ăn thịt người cùng với món cháo của hắn. Ăn xong, hắn lăn ra ngủ, ngáy như sấm động. Hắn ngủ cho đến sáng hôm sau. Chúng tôi thì không thể nào ngủ được. Chúng tôi đã qua một đêm sợ hãi ghê ghớm mà người ta có thể phát điên lên được. Sáng, tên khổng lồ bỏ đi, để mặc chúng tôi trong lâu đài.
Chúng tôi đông và chỉ có một kẻ thù nhưng chúng tôi chưa kịp nghĩ đến việc thoát thân bằng cách giết tê nkhổng lồ. Lợi dụng lúc hắn vắng nhà, chúng tôi ra bờ biển đóng rất nhiều bè, mỗi chiếc có thẻ chở được ba người.
Chiều xuống chúng tôi trở về lâu đài, gã khổng lồ cũng về sau chúng tôi một lúc lâu .Chúng tôi lại phải chứng kiến cảnh một người bạn nữa của chúng tôi bị nướng chín. Sau khi kết thúc bữa ăn ghê tởm ấy, gã khổng lồ nằm xuống và ngủ. Khi thấy gã bắt đầu ngáy theo thói quen, chín người khỏe nhất trong chúng tôi và tôi, mỗi người lấy một cái xiên sắt cho vào lửa nung đỏ lê, sau đó chúgn tôi cùng đâm vào mắt tên khổng lồ làm cho nó vỡ ra.
Sự đau đớn khiến hắn kêu lên những tiếng ghê rợn. Gã đứng phắt lên, giơ tay ra mọi phía mong túm được ai đó trong số chúgn tôi; nhưng chúng tôi đã cso thời gain tránh xa gã và nằm rạp xuống đất cách xa tầm tay của gã. Thất bại trong việc bắt chúng tôi, tên khổng lồ loạng choạng đi khỏi lâu đài với những tiếng kêu đau đớn.
Chúng tôi nhanh chóng chạy ra bờ biển đợi trời sáng và lắng nghe động tĩnh về gã khổng lồ. Nếu không nghe thấy tiếng kêu đó thì đó là dấu hiệu của việc hắn đã chết; và trong trường hợp ấy thì chúng tôi có thể ở lại đảo mà không phải dùng tới những cái mảng đầy rủi ro kia nữa. Nhưng khi trời vừa hửng sáng, chúng tôi thấy kẻ thù tàn ác của mình và nhiều tên khác nữa đang vội vàng chạy tới
Cuộc hành trình thứ tư của thuỷ thủ Xanh-bat
Sự hài lòng và những thích thú sau chuyến đi thứ ba không đủ để tôi từ bỏ ý định tiếp tục đi nữa. Tôi sắp xếp công việc, mua hàng hoá cho những nơi tôi sẽ tới và tôi lại ra đi.
Tôi lên đường đi Ba-tư, sau khi qua nhiều tỉnh tôi tới một bến cảng và lên tàu. Chúng tôi gương buồm, qua rất nhiều cảng đất đai màu mỡ và một vài cảng ở phương Đông thì một ngày nọ tàu gặp một trận bão lớn xé rách những cánh buồm của chúng tôi thành nghìn mảnh. Tàu không thể điều khiển được nữa, đụng phải đá ngầm chìm lỉm, rất nhiều người trong số chúng tôi bị chết đuối.
Tôi cùng một số lái buôn và thuỷ thủ khác có may mắn là bám vào được những tấm ván tàu. Sóng đánh dạt chúng tôi vào một hòn đảo gần đó. Khi chúng tôi tới bờ thì rất nhiều người mọi đen to lớn tới vây quanh chúng tôi. Họ túm từng người trong chúng tôi, chia nhau và mang về nhà. Tại đây chúng tôi bị tọng thức ăn vào miệng trong mười ngày như người ta thường vỗ béo gia súc. Về phần mình, tôi trở thành lờ đờ, suy nhược, một tình hình có lợi cho tôi. Vì đây là những người mọi ăn thịt người, sau khi ăn thịt các bạn tôi, thấy tôi gầy yếu, chúng dự định bỏ mặc tôi chết.
Từ lúc ấy, tôi được tự do, chúng không để ý đến việc đi đứng của tôi nữa. Cái đó cho tôi cơ hội trốn khỏi làng mọi ấy. Sau tám ngày đi bộ, tới gần biển thì bất chợt tôi gặp những người da trắng như tôi đang bận rộn hái hồ tiêu, loại cây có rất nhiều trong vùng này. Khi gặp tôi, họ hỏi tôi bằng tiếng ả rập là tôi ở đâu tới và định đi đâu. Hài lòng vì được nghe tiếng mẹ đẻ của mình, tôi làm thoả mãn sự tò mò của họ bằng cách kể lại chúng tôi bằng cách nào tôi thoát khỏi tay những tên mọi đen tàn ác một cách kỳ diệu như vậy.
Tôi ở lại với họ cho tới khi họ đã hái được một khối lượng lớn hồ tiêu mong muốn. Sau đó tôi theo họ lên con tàu đã đưa họ tới đây để trở lại hòn đảo của họ. Họ đưa tôi tới trình diện vua của họ là một hoàng tử hiền từ. Ngài nhẫn nại nghe tôi kể lại cuộc phiêu lưu của mình một cách đáng ngạc nhiên, thích thú. Nhà vua ra lệnh cho tôi áo, quần, chăm sóc tôi cho tôi ở cùng những người trong gia đình ngài. Một thời gian sau, nhà vua tin tưởng ở tôi, có ý định cưới vợ cho tôi, và giữ tôi ở lại trên đảo của ngài.
Vì không thể trái ý vua, tôi kết hôn với một thiếu nữ xinh đẹp, khôn ngoan và giàu có. Sau lễ cưới, tôi về sống với nàng, một cuộc sống hạnh phúc hoàn toàn. Tôi đang ở trong tình cảnh ấy thì người vợ của người hàng xóm tôi qua đời. Người đàn bà rất thân mật với vợ tôi lăn ra ốm và chết rất nhanh. Tôi tới chia buồn và thấy ông hàng xóm đang trong tình trạng phiền não.
- Trời sẽ phù hộ cho bác - Tôi nói với ông ta - Người sẽ cho bác sống lâu...
- Than ôi! - Người ấy trả lời tôi - Làm thế nào mà tôi có thể hưởng được lời chúc của bác? Tôi chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa để sống thôi vì người ta sẽ chôn tôi cùng với vợ tôi. Theo phong tục của tổ tiên chúng tôi đã đặt ra cho hòn đảo này, không ai được vi phạm, là người chồng phải bị chôn sống theo người vợ đã chết và người vợ phải chôn sống với người chồng đã chết. Không có cách nào cứu người ấy đươc, mọi người đều phải chấp hành cái luật ấy.
Khi nghe được sự dã man kỳ lạ ấy, toàn thân tôi run lên trong khi người nhà, bạn bè, hàng xóm tới nơi để dự đám tang. Người ta liệm xác người vợ bằng những áo quần đẹp như áo quần cưới và người ta cũng trang điểm cho người chết nhiều đồ trang sức đắt tiền. Người ta đặt xác chết vào một chiếc quan tài để ngỏ và đám tang lễ ra đi.
Người ta lên một ngọn núi cao, và khi tới nơi họ nhấc một phiến đá che một cái giếng sâu lên và hạ quan tài xuống. Sau đó người chồng ôm hôn bố mẹ, bạn bè và không chống đối khi người ta đặt anh vào một chiếc quan tài khác cùng với một hũ nước, bảy cái bánh nhỏ; sau đó người ta dùng thừng để hạ quan tài xuống như cách hạ quan tài người chết. Quả núi chạy dài tới biển và giếng rất sâu: có nghĩa là không thể ra khỏi một khi bị thả xuống cái lỗ sâu hoắm này. Đám tang kết thúc, người ta lại khiêng phiến đá che miệng giếng lại.
Tôi buồn bã trở về nhà sau khi chứng kiến cảnh hãi hùng vừa rồi. Sự sợ hãi vợ tôi sẽ chết trước tôi, người ta sẽ chôn sống tôi cùng với nàng làm tôi đau đớn. Lúc ấy thì có phương thuốc nào chữa trị không? Cần phải kiên tâm và tuân theo ý muốn của Thượng đế. Tôi run lên khi thấy vợ tôi khó ở. Nhưng than ôi, sau đó là sự sợ hãi hoàn toàn, vợ tôi lăn ra ốm và qua đời sau đó vài ngày. Anh xem thử tôi đau đớn đến nhường nào. Bị chôn sống thì chẳng khác gì bị thú dữ ăn thịt; nhứng lại phải như thế! Nhà vua cùng triều thần và cả những người danh tiếng trong thành phố đi đưa tang chúng tôi.
Trước khi lên núi, tôi có ý định làm mủi lòng những người đi theo; nhưng khi kêu ca cũng không thấy ai chú ý, ngược lại với họ vội vàng hạ huyệt xác vợ tôi, sau đó đến lượt tôi cùng với vò nước và bảy chiếc bánh nhỏ. Sau cái nghi lễ quái ác ấy, họ khiêng phiến đá lấp miệng giếng mặc những lời kêu gào dữ dội của tôi.
Khi xuống tới đáy giếng, nhờ chút ánh sáng từ bên trên rọi xuống, tôi đi thăm căn hầm. Đây là một cái hang khá rộng, sâu khoảng năm chục cẳng tay. Một mùi hôi thối kinh tởm bốc lên bốc lên từ những xác chết ở bên phải, bên trái tôi. Cũng có những người sắp qua đời bị chôn sống trước tôi. Tôi ra khỏi quan tài, tránh xa những xác chết vừa đi vừa bịt miệng lại. Tuy thất vọng, nhưng tình yêu cuộc sống vẫn còn trong tâm trí, tôi quyết định kéo dài những ngày sống sót trong chừng mực có thể. Tôi sống một thời gian với số nước và bánh chôn theo khi đã dùng hết, tôi nằm dài trên đất để chuẩn bị chết. Bất chợt tôi thấy người ta nhấc phiến đá che miệng giếng lên. Người ta chôn một người chết và một người còn sống. Người chết là đàn ông. Rất tự nhiên là cần phải có quyết định cao nhất khi người ta lâm vào cảnh bất hạnh. Lúc người ta hạ người đàn bà xuống, tôi lại gần chỗ quan tài; và khi người ta lấp miệng giếng bằng phiến đá. tôi đập vào đầu người phụ nữ đáng thương bằng một khúc xương người mang theo. Người đàn bà chết hoặc là tôi đã giết chết người đàn bà ấy. Với hành đồng vô nhân đạo ấy tôi có nước và bánh sống thêm được vài ngày nữa.
Sau đó người ta lại thả xuống giếng một người đàn bà chết và một người đàn ông còn sống, tôi cũng giết người đàn ông bằng cách ấy. Và may mẵn cho tôi, lúc này trên thành phố, có nạn dịch nên tôi không thiếu thức ăn. Một hôm, trong khi hạ sát một người đàn bà tôi nghe thấy có tiếng bước chân một con vật nào đó đang chạy trốn.
Tôi đuổi theo con vật. Đôi lúc nó cũng đứng lại thở phì phò, và lại chạy biến khi tôi tới gần. Tôi đuổi rất lâu, rất xa cho tới lúc tôi thấy một ánh sáng nhỏ như một vì sao. Tôi đi tới chỗ có ánh sáng đó và cuối cùng tôi thấy mộtcon vật chui khỏi một cửa hang nhỏ. Cố gắng lách mình khỏi cửa hang ấy và tôi thấy mình đang đứng trên một bờ biển. Anh hãy hình dung sự vui mừng của tôi lúc này! Tôi đi dọc bờ biển, cảm ơn Thượng đế đã cho tôi dịp may này! Tôi trở về hang đá lấy nước và bánh ra dùng.
Tôi trở vào hang một lần nữa, sờ soạng các quan tài để lấy những viên kim cương, đã quý, ngọc trai, vòng vàng và cả những vải vóc quý có thể tìm được. Tôi mang tất cả những thứ đó ra bờ biển và gói thành nhiều gói lớn.
Sau hai hoặc ba ngày, tôi nhìn thấy một con tàu như vừa ra khỏi một cảng nào đó, đang chạy gần bờ. Tôi ra hiệu cho tàu bằng cách vẫy khăn và kêu thật to. Người ta nhìn thấy tôi, cho một chiếc sà-lúp và cứu. Trả lời những câu hỏi của các thuỷ thủ tôi nói mình bị đắm tàu cùng với những hàng hoá này. May mắn cho tôi, mọi người không nghi ngờ gì cả, mang giúp số hàng hoá của tôi lên tàu.
Tàu chúng tôi đi qua rất nhiều đảo. Khi tới đảo Quả Chuông, chúng tôi lên bờ đổi hàng lấy chì, mía ấn độ và long não. Chúng tôi lại gương buồm để tới những đảo khác. Cuối cùng thì tôi trở về Bát-đa với vô vàn của cải. Để cảm ơn Thượng Đế đã cứu giúp tôi, tôi tổ chức những cuộc cứu người nghèo khổ, làm nhà cho họ trú ngụ. Tôi cũng biếu cha mẹ tôi, bạn bè tôi và đối xử thân tình với họ.
Xanh-bat kể hết câu chuyện về cuộc hành trình thứ tư của mình, làm những người nghe thấy ngạc nhiên hơn ba chuyện trước đó. Sauđó ông lại tiếp tục câu chuyện
Cuộc hành trình thứ năm của thuỷ thủ Xanh-bat
Sự vui thú - Ông nói - Cũng xoá bỏ trong ký ức những gian nan và đau khổ mà tôi đã phải chịu đựng, nhưng không thể loại bỏ được ý muốn làm một chuyến đi nữa của tôi. Lần này vì không muốn phụ thuộc vào một thuyền trưởng, tôi tậu một con tàu dưới quyền điều khiển của mình vàbỏ tiền ra thuê đoàn thuỷ thủ. Khi mọi việc đã xong, tôi xếp hàng hóa của nhiều nước lên tàu.
Chúng tôi kéo buồm khi có gió thuận chiều. Sau khi đi nhiều ngày, nơi đậu đầu tiên của chúng tôi là một hòn đảo hoang, ở đó chúng tôi thấy trứng của con chim thần to như quả trứng mà các bạn nghe tôi kể trước đây. Trứng sắp nở, một con chim nhỏ đã thò mỏ ra khỏi quả trứng.
Mặc những lời khuyên can của tôi, các bạn tôi đã đập vỡ quả trứng bằng rìu và xả thịt con chim con ra thành từng miếng nhỏ, sau đó họ nướng thịt chim trên lửa. Mọi người vừa ăn uống xong thì trên trời xuất hiện hai đám mây lớn. Theo kinh nghiệm, viên thuyền trưởng biết rõ sẽ có chuyện gì xảy ra vì đây là chim bố mẹ. Ông ra lệnh cho tất cả mọi người lên tàu để tránh nạn sắp tới. Làm theo lời ông, chúng tôi lên tàu và giương buồm chạy.
Lúc này hai con chim thần đã bay sà xuống và kêu lên những tiếng ghê rợn, khủng khiếp hơn. Sau đó mỗi con chân quặp một tảng đá lớn bay lên. Khi tới tàu của chúng tôi, một con chim thả rơi hoàn đá xuống, nhưng người lái tàu đã nhanh chóng đổi hưóng đi nên đá rơi xuống biển. Khốn khổ cho chúng tôi, con chim kia lại ném đá trúng giữa con tàu khiến vỡ thành trăm nghìn mảnh. Thuỷ thủ và lái buôn bị thương và bị chết đuối tất cả. Tôi cũng bị chìm xuống biển nhưng may mắn là bám được vào một mảnh gỗ thân tàu. Lúc thì bơi bằng tay này, lúc tay kia, nhờ vào gió và dòng nước, cuối cùng toi vào được hòn đảo có nước ngọt và trái cây.
Trong khi lang thang trên đảo, tôi gặp một ông già như bị què chân thì phải. Ông già ngồi bên bờ suối; lúc đầu tôi tưởng đây là người bị đắm tàu như tôi. Tôi lại gần, chào ông, nhưng ông già chỉ đáp lại bằng cái gật đầu. Tôi hỏi ông ta làm gì ở chốn này. Thay vì trả lời, ông già ra hiệu nhờ tôi cõng ông lội qua suối để ông đi hái quả. Tôi đã cõng ông già trên cổ và đi qua suối.
- Ông xuống đi! - Tôi bảo ông và cúi thấp mình xuống.
Nhưng đáng lẽ phải nhảy xuống đất, ông già mà tôi cứ tưởng là hom hem, yếu đuối, hai chân trước mặt tôi chỉ còn xương và da, vẫn chễm chệ ngồi trên cổ tôi, hai chân quặp chặt lấy cuống họng tôi như muốn làm cho tôi nghẹt thở. Sự sợ hãi làm tôi ngất đi.
Thấy tôi bị ngất, nhưng lão già khó chịu cứ quặp chặt lấy cổ tôi tuy có nới lỏng hơn để tôi thở được. Khi tôi tỉnh hẳn thì một chân lão đá vào bụng, chân kia đá vào sườn tôi, buộc tôi phải đứng lên. Khi tôi đứng lên được, lão buôc tôi phải tới bên những cây cao để hái quảe. Lão buộc tôi phải đi như vậy suốt ngày, tối đến khi tôi muốn ngủ, lão buộc tôi nằm xuống nhưng hai chân lão vẫn quặp chặt lấy cổ tôi. Buổi sáng hôm sau, lão đánh thức tôi dậy và lại đi như hôm trước bằng cách thúc chân vào bụng tôi. Trời ơi! Các bạn có thể hình dung được nỗi khốn khổ của tôi phải mang một gánh nặng như vậy mà không tài nào loại bỏ được không?
Một hôm, trên đường đi tôi thấy những vỏ trái bầu khô từ trên cây rơi xuống, tôi chọn một chiếc to nhất, mang rửa sạch và cho vào đó những trái nho chín, cất một chỗ. Hôm sau tôi cõng lão già đi qua đó, lấy trái bầu đưa lên miệng uống; đây là thứ rượu vang ngon nhất mà từ lâu tôi không còn nhớ nữa, nó đã làm tôi quên đi số phận đáng buồn của mình.
Lão già thấy rõ tác dụng của thứ nước đó đối với tôi bởi tôi khoẻ hẳn lên, cõng lão đi băng băng. Lão ra hiệu tôi đưa rượu cho lão uống. Tôi đưa bầu rượu cho lão, lão cầm lấy, vì thứ nước này rất ngon nên lão đã uống đến giọt cuối cùng. Sau đó, hơi rượu bốc lên đầu, lão bắt đầu hát theo cách của mình và nhấp nhổm trên cổ tôi. Sự nhảy nhót của lão cho tôi biết bụng lão chứa những gì, đôi chân lão bắt đầu lỏng ra tới mức lão không quặp vào cổ tôi nữa, tôi hất lão xuống đất, lão nằm bất động. Thế là tôi vác một hòn đá lớn đập vỡ đầu lão già.
Tôi vui sướng khi thấy mình vĩnh viễn đươc giải thoát khỏi lão già đáng nguyền rủa ấy và đi về phía biển. Tôi gặp môt jcon tàu đang ghé vào đảo để lấy nước và nghỉ ngơi chốc lát.
- Anh đã rơi vào tay của lão già biển - Những người trên tàu bảo tôi- Và anh là người đầu tiên không bị lão bóp cổ. Lão không buông tha ai khi đã rơi vào tay lão, và trên đảo này đã có những người chết dưới tay lão. Thuỷ thủ và lái buôn lên đảo phải đi thành từng đoàn.
Họ đưa tôi lên tàu. Sau một vài ngày trên biển chúng tôi tới đảo Cô-ma-ri. Tôi đi cùng với những người mò ngọc va làm chân mò thuê cho người ta. Họ cho một vài viên lớn và đẹp. Tôi lên một con tàu để trở về Bat-xô-ra, từ đấy tôi trở về Bát-đa. Tôi mang về một khoản tài sản lớn nhờ vào những viên ngọc kiếm được. Tôi trích từ đó ra một phần mười để làm việc từ thiện và nghỉ ngơi bằng nhiều hình thức giải trí khác nhau.
- Các ngài - Xanh-bat thở dài nói tiếp - Chắc chắn các ngài biết rõ tại sao sau năm lần đắm tàu với bao nhiêu gian nan mà tôi còn muốn làm giàu nữa. Tôi cũng lạ lùng cho bản thân và khi nghĩ tới, tôi cho rằng ngôi sao chiếu mệnh của tôi là như vậy. Dù sao đi nữa, sau một năm nghỉ ngơi, tôi lại chuẩn bị cho cuộc hành trình thứ sáu dù cho cha mẹ, bạn bè tôi van nài nhưng ho cũng không thể giữ nổi tôi.
Cuộc hành trình thứ sáu của thuỷ thủ Xanh-bat
Đáng lẽ đi qua vịnh Pec-xich, nhưng tôi vẫn đi qua nhiều tỉnh của Ba-tư và ấn độ, cuối cùng tôi tới một bến cảng và lên tàu mà viên thuyền trưởng đã quyết định sẽ đi một chuyến dài ngày. Thực ra chuyến đi đã quá dài vì lần cuối trên đường đi thuyền trưởng và thuỷ thủ mất phương hướng, chúng tôi không biết mình hiện ở đâu nữa. Con tàu bị dòng nước đưa tới chân một quả núi dốc đứng, đâm vào đó và vỡ tan. Nhưng chúng tôi đã kịp cứu người, chuyển lương thực, thực phẩm và hàng hoá quý nhất lên bờ. Bờ biển rải rác những mảnh vỡ của tàu bè, xương người, chúng tôi khiếp sợ cho rằng mình đã ra khỏi thế giới loài người rồi. Trên bờ biển ấy cũng có mặt phẳng xuôi ra biển, ngoài ra cũng có một sông nước ngọt chảy ngược vào một cái động tối đen, cửa động cao và rất rộng.
Để kết thúc phần mô tả nơi này thì có thể gọi đây là một vực thẳm vì không thấy cái gì trôi ra cả, tàu bè phải tránh xa cửa động ở một khoảng cách nào đó. Đỉnh núi thì không thể tới gần được, có thể nói rằng khi tới đây thì không có lối ra. Chúng tôi như những người mất trí, ngồi đợi cái chết tới từng ngày. Trước tiên chúng tôi chia đều nhau lương thực, thực phẩm; như vậy ai sống dài hoặc ngắn ngày sẽ tuỳ theo tình trạng sức khoẻ và cách dùng thức ăn của mình.
Người nào chết trước được những người khác chôn cất. Với tôi, tôi là người cuối cùng đi chôn bạn bè. Khi chôn xong người cuối cùng, tôi cho rằng mình không thể đi đâu được nữa. Nhưng thượng đế còn thương tôi, gợi ý cho tôi đi vào vực thẳm. Tới nơi tôi quan sát một cách kỹ lưỡng, tôi cho rằng dòng sông nhất định chảy ra một nơi nào đó. Tôi nhanh chóng đóng một cái bè, chất lên đó số hàng hoá và thức ăn còn lại của mình rồi tôi cho bè trôi theo dòng nước.
Vừa vào cửa động thì không còn ánh sáng nữa, tôi không biết bè mang tôi tới đâu. Tôi ở trên bè một vài ngày trong đêm tối như vậy. Tôi vẫn không hề thấy một chút ánh sáng nào. Có lúc tôi thấy trần động quá thấp, nếu không cúi xuống tôi có thể vỡ đầu.
Cuối cùng số thức ăn mang theo đã hết. Rồi dù chống cự thế nào, tôi cũng đã ngủ thiếp đi. Tôi không thể biết mình đã ngủ trong bao lâu, như khi tỉnh giấc tôi ngạc nhiên thấy mình đang ở giữa cánh đồng rộng, bè của tôi đã bị buộc vào bờ, xung quanh có rất nhiều người da đen. Thấy họ, tôi đứng lên và cúi chào.
Một người trong số họ biết tiếng A-rập tiến lên, bảo tôi:
- Anh bạn, không nên ngạc nhiên khi thấy chúng tôi. Chúng tôi là người ở làng bên con sông này, chúng tôi tới đây để lấy nước sông tưới cho đồng ruộng. Sông từ quả núi kia chảy ra, chúng tôi lấy nước bằng những con kênh nhỏ. Chúng tôi nhìn thấy bè của anh trôi trên sông, một người đã bơi ra kéo bè vào. Chúng tôi nghĩ rằng anh đã quá mệt nhọc. Hãy cho chúng tôi biết anh đã đi trên con sông này như thế nào, anh từ đâu tới và định đi đâu.
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện của mình và họ ngạc nhiên. Họ đưa tôi tới thành phố Xây-lan, vì tàu của chúng tôi đã đắm tại xứ sở này. Tới nơi người ta đưa tôi đến gặp nhà vua của họ, tôi phải thuật lại câu chuyện của mình cho nhà vua nghe. Ngài tỏ ra ngạc nhiên và thích thú, ra lệnh cho người ta phải viết lại câu chuyện của tôi bằng chứ vàng giữ lại trong phòng lưu trữ của vương quốc. Tôi xịn với nhà vua cho phép tôi trở về xứ sở, ngài đồng ý một cách niềm nở và đáng kính. Ngài buộc tôi phải nhận một số lớn quà tặng, lấy từ trong kho báu của mình. Ngài còn gửi tôi một số quà tặng khác cùng một lá thứ gửi cho Người dìu dắt các tín đồ, vua của chúng tôi.
- Nhờ ông thay mặt tôi dâng số tặng phẩm cùng bức thư này cho vua Ha-run-an Rat-xit và nói rõ tình thân thiện của tôi với Người.
Tôi hứa sẽ thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của ngài. Trước khi lên đường, nhà vua còn cho tìm viên thuyền trưởng và các lái buôn cùng đi trên tàu, dặn dò họ chăm sóc tôi chu đáo. Con tàu gương buồm, và sau một chuyến đi dài, tàu cặp cảng Bat-xô-ra, từ đó tôi trở về Bat-đa. Việc đầu tiên khi về tới nhà là phải hoàn thành nhiệm vụ mà tôi đã nhận làm.
Tôi cầm lá thư của nhà vua Xây-lan tới cổng thành của Người dìu dắt các tín đồ, có người trong gia đình tôi mang quà tặng đi theo. Tôi nói với một viên quan về việc tôi tới trước ngai vàng của nhà vua. Tôi làm lễ và sau khi nói lời chúc tụng, tôi trình lên nhà vua lá thư cùng những tặng phẩm. Sau khi đọc thư vua Xây-lan, người hỏi tôi có phải chính tay hoàng tử trẻ tuổi và giàu có ấy viết bức thư này không.
- Muôn tâu Người dắt dẫn các tín đồ - Tôi thưa với Người - Tôi xin đảm với Hoàng thượng rằng vua Xây-lan không tự kiêu về sự giàu có và sự cao quý của mình; tôi là người làm chứng. Không thể nói hết về sự tráng lệ của lâu đài của ông ta. Khi hoàng tử xuất hiện trước dân chúng, ngài ngồi trên một ngai vàng ở lưng voi, đi giữa hai hàng bộ trưởng, quần thần và những người khác trong triều. Đi trước con voi là một sĩ quan cầm một ngọn giáo bằng vàng, đi sau voi là một người mang một cây gậy cũng bằng vàng, đầu gậy có một viên ngọc bích lớn sáng lấp lánh. Nhà vua có một đội cận vệ một nghìn người, mặc toàn đồ dạ và lụa dát vàng, ngồi trên lưng những con voi choàng vải thêu đắt tiền. Viên sĩ quan đi trước voi thỉnh thoảng hô to: "Đây là vị Hoàng đế vĩ đại, nhà vua mạnh nhất, đáng sợ nhất của ấn độ, có lâu đài được trang điểm bằng một trăm nghìn vòng hoa kim cương! Đây là nhà vua đã đăng quang, người vĩ đại không kém Xa-lô-mông và Mi-ra-giơ"
Nhà vua rất hài lòng về bản báo cáo của tôi. Ngài tặng tôi nhiều báu vật. Khi về nhà tôi từ bỏ ý nghĩ tiếp tục làm các cuộc hành trình khác. Một mặt, vì tôi đã đến tuổi cần được nghỉ ngơi, mặt khác, tôi không muốn gặp những tai hoạ như tôi đã từng gặp, để sống yên ổn những ngày còn lại trong đời mình. Lúc này, ngày tôi thết đãi vài người bạn, một viên sĩ quan của triều đình tới theo lệnh của nhà vua, truyền tôi phải đi theo ông ta vào triều ngay lập tức.
- Xanh-bat - Nhà vua nói khi tôi tới trước mặt ngài - Ta rất cần anh, anh phải giúp ta một việc là mang một bức thư và tặng phẩm của ta tới vua Xây-lan, cần phải đáp ứng lại thịnh tình của nhà vua.
Mệnh lệnh của người là một cú sét đánh vào đầu tôi.
- Muôn tâu Người dìu dắt các tín đồ, tôi sẵn sàng chấp hành mọi mệnh lệnh của Hoàng thượng, nhưng tôi xin ngài nghĩ lại cho việc tôi đã quá mệt mỏi và khốn khổ. Vả lại tôi đã có nguyện vọng không bao giờ rời khỏi thành Bat-đa này nữa.
Và tôi kể cho nhà vua nghe một cách chi tiết những cuộc phiêu lưu của mình, ngài đã kiên tâm ngồi nghe cho đến hết.
- Ta công nhận- Nhà vua nói - Đây là những câu chuyện kỳ lạ. Nhưng đây chỉ là một chuyến đi Xây-lan, hoàn thành nhiệm vụ ta giao cho anh. Sau đó anh hoàn toàn tự do trở về. Nghĩ xem, ta cũng cần phải xứng với chức vị của mình, trả ơn cho nhà vua của hòn đảo ấy chứ.
Trước sự nài nỉ của nhà vua, tôi đã phải nói là sẽ sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của ngài. Nhà vua rất vui mừng và gọi người giao cho tôi một ngàn đồng tiền vàng làm lộ phí.
Cuộc hành trình thứ bảy của thuỷ thủ Xanh-bat
Tôi để ra một vài ngày chuẩn bị cho chuyến đi - Xanh-bat tiếp tục kể - Tôi tới Bát-xô-ra và lên tàu với lá thư tự tay nhà vua viết cùng các quà biếu của người. Chuyến đi rất thuận lợi tôi đã nhanh chóng tới Xây-lân. Tàu vừa cập bến, người ta đã nhanh chóng đưa tôi vào triều. Tôi kính cẩn chào và chúc tụng nhà vua theo thủ tục. Nhà vua nhận ra tôi ngay và tỏ ý vui mừng khi gặp lại tôi. Tôi ngợi ca và cảm ơn lòng tốt của người đối với tôi và trình lên ngài lá thư cùng những quà tặng mang theo.
Vua Xây-lan rất hài lòng khi thấy vua nước tôi trả lời người một cách thân mật, đáp lại thịnh tình của ngài. ít ngày sau cuộc gặp ấy, tôi xin phép nhà vua được ra về. Nhà vua chập nhận một cách bất đắc dĩ và tặng tôi một số lớn báu vật. Tôi lên tàu và định bụng về thẳng Bát-đa. Nhưng tôi đã thất vọng, thượng đế đã quyết định một cách khác hẳn.
Ba hoặc bốn ngày sau khi tàu rời khỏi cảng, chúng tôi bị bọn cướp biển tấn công. ít nhất là để cướp con tàu của chúng tôi, trong khi chúng tôi không có vũ khí tự vệ trong tay. Chúng tôi bị tước sạch và bị mang bán đi như những nô lệ trên một hòn đảo rất xa. Nói về tôi, tôi rơi vào tay một người lái buôn giàu có. Mua tôi xong, mang tôi về nhà, ông cho tôi ăn uống đầy đủ và ăn vận sạch sẽ. Một vài ngày sau, ông đưa tôi một cây cung và những mũi tên, cho tôi ngồi trên lưng voi phía sau ông, đưa tôi vào một khu rừng lớn, cách thành phố nhiều tiếng đồng hồ đi đường. Cuối cùng, tới một gốc cây to, ông ta bảo tôi xuống.
- Anh hãy trèo lên cây này - Người lái buôn nói - Và bắn vào những con voi đi qua. Nếu có con nào ngã xuống, quay về báo cho tôi.
Sau khi để lại thức ăn cho tôi, ông ta quay về, còn tôi thì ngồi nấp trên cây suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời mọc, tôi thấy một đàn voi đi tới. Tôi bắn chúng bằng nhiều mũi tên và có một con voi ngã xuống. Những con khác bỏ chạy, tôi trở về báo tin cho ông chủ, ông ta khen ngợi sự khéo léo của tôi. Chúng tôi cùng vào rừng, đào một cái hố, chôn con voi chết xuống. Chủ tôi định bụng sẽ trở lại khi thịt voi đã rữa ra để lấy đôi ngà của nó đem đi bán.
Tôi tiếp tục nghề săn bắn dó trong hai tháng, hầu như tôi đã bắn được mói ngày một con. Một buổi sáng kia, đáng lẽ đi ngang qua chỗ tôi nấp thì đàn voi xông thẳng vào thân cây phía trên tôi đang ngồi. Những con voi nhìn thẳng vào tôi và giơ cao vòi lên. Trước cảnh lạ lùng ấy tôi sợ hãi ngồi yên và đánh rơi cả cung tên. Con voi lớn nhất lấy vòi quật bật rễ cây lên. Tôi rơi xuống đất, nhưng con vật đã đỡ lấy tôi bằng vòi và đặt tôi lên lưng nó. Con voi ấy cõng tôi đi trước, những con khác đi sau, dẫn tôi đến một nơi vắng vẻ, đặt tôi xuống, sau đó lại dẫn cả đàn voi đi. Tôi đứng lên và nhận ra đây là quả đồi dài và rất rộng, trên mặt đất toàn là xương và ngà voi.
Không nghi ngờ gì nữa, đây là một nghĩa địa của voi, những con voi kia mang tôi tới đây chắc chắn là báo tin cho tôi, mong tôi từ bỏ công việc tàn sát chúng. Tôi lên đường, sau một ngày, một đêm, về tới nhà ông chủ, người cứ tưởng rằng tôi đã chết rồi. Câu chuyện của tôi làm ông suy nghĩ tợn; hôm sau chúng tôi cùng tới quả đồi ấy, ông rất vui khi thấy sự thật đúng như những điều tôi đã nói.
- Anh bạn - Ông bảo tôi - Sau khi khám phá ra việc này, tôi không muốn coi anh như nô lệ của tôi nữa. Tôi tuyên bố trước thượng đế là trả tự do cho anh. Anh đã mang lại cho tôi một tài sản không thể tưởng tượng nổi; tôi không chỉ có đủ ngà voi đẻ giải phóng số nô lệ của mình mà còn có thể làm cho cả thành phố này giàu lên theo cách của anh! Không nên nghĩ rằng tôi trả ơn chỉ bằng cách trả tự do cho anh, tôi còn muốn chia cho anh số tài sản này nữa kia.
- Sự tự do mà ông trao cho tôi là đủ để tặng thưởng cho tôi rồi - Tôi nói với ông chủ- Còn về hạnh phúc mang lại cho ông và dân chúng thành phố này thì tôi xin phép đổi lấy việc các ông cho tôi được về xứ sở của mình.
- Đây - Ông nói - Sắp có đợt gió mùa thuận lợi cho chuyến tàu bán ngà voi, toi sẽ gặp lại anh sau đó và tôi sẽ đưa tiền để anh về.
Chúng tôi chất ngà voi lên lưng voi và trở về thành phố. Tôi ở lại để đợi gió mùa. Trong thời gian ấy chúng tôi tới quả đồi để chuyên chở ngà voi về. Rất nhiều lái buôn trong thành phố cũng tới để nhặt ngà voi, vì việc này không thể giữ kín mãi được.
Cuối cùng thì cũng có tàu, ông chủ tôi lựa chon con tàu tôi sẽ đi, chất xuống đây một nửa số ngà voi thu được để thưởng công cho tôi. Tôi ra đi giữa những tiếng hoan hô tưng bừng của dân thành phố. Tàu chúng tôi sau đó cập một bến cảng của ấn độ; tại đây để tránh những bất trắc của đường biển tới Bát-xô-ra, tôi bán số ngà voi đi và trở về theo đường bộ. Tôi được một số tiền lớn sau khi bán ngà voi. Tôi đã mua rất nhiều hang hiếm, quý để làm quà tặng, và sau khi đã đóng gói hàng, tôi nhập vào một đoàn lái buôn. Thời gian đi đường rất lâu và tôi vất vả; nhưng tôi kiên nhẫn chịu đựng vì biết rằng lúc này tôi không còn sợ gió bão, cướp biển, thú dữ ăn thịt người cũng như mọi tai hoạ mà tôi đã trải qua nữa.
Tất cả những gian nan đó đã chấm dứt: tôi đã về đến Bat-đa. Tôi đến trình diện nhà vua báo cáo về nhiệm vụ sứ thần của mình. Ngài nói chuyến đi dài ngày của tôi đã gây cho ngài sự lo lắng, tuy nhiên ngài bao giờ cũng hy vọng Thượng đế không bỏ rơi tôi. Tôi ra về trong vinh hạnh và với những tặng phẩm của ngài, tới nhà tôi tặng tất cả các thứ đó cho gia đình, thân quyến và bạn bè tôi.
Tới đây, Xanh-bat kết thúc việc kể lại hành trình thứ bảy của mình.
Thế nào, anh bạn - Xanh-bat nói với Hin-bat - Anh có thấy ai chịu đau khổ như tôi, và có công bằng không khi tôi có một cuộc sống dễ chịu và yên ổn như thế này sau những công việc đã làm cho mình?
Hin-bat tới gần và hôn tay ông:
- Thưa đức ông - Anh ta trả lời- Ngài đã chịu rất nhiều tai hoạ khủng khiếp và những vất vả của tôi không thể nào so sánh được với những gian nan của ngài. Ngài xứng đáng không chỉ với cuộc sống thanh bình mà ngài có thể tự hào với những của cải đã có vì ngài đã sử dụng chúng một cách hào hiệp. Ngài hãy tiếp tục sống trong sự vui vẻ cho đến cuối đời.
Xanh-bat cho người phu khuân vác nhiều đồng tiền vàng mà ông kiếm được trong những chuyến đi, nhận anh vào số bạn bè hàng ngày của mình, bảo anh bỏ nghê khuân vác để tới nhà ông dùng bữa hàng ngày. Hin-bat đã giữ kỷ niệm về Xanh-bat, người thuỷ thủ, trong suốt cuộc đời mình.
Ba nhà sư khất thực
Ở Bát-đa, dưới triều
vua Ha-run-an Rát-xít có một người phu khuân vác đáng mến vì sự thông minh và
tính tình vui vẻ của mình.
Một buổi sáng kia, anh ta đang đứng chờ xem có ai nhờ anh giúp việc có ai giúp việc không thì có một phu nhân còn rất trẻ, đeo một chàng mạng lớn bằng the tới nơi và hỏi anh bằng giọng êm ái:
- Nghe đây, anh khuân vác, cầm lấy cái thúng và đi theo ta!
Người phu khuân vác rất lấy làm vinh hạnh đôi thúng lên đầu, đi theo người phụ nữ và nói:
- Ôi một ngày sung sướng, ôi một ngày có cuộc gặp gỡ tốt đẹp!
Sau khi mua những thức ăn ngon lành, một khối lượng rất lớn khiến người phu khuân vác phải còng lưng để mang chiếc thúng trên vai, người phu nhân trẻ tuổi ấy tới trước một ngôi nhà sang trọng, mặt trước có những cây cột rất đẹp, một bộ cửa bằng ngà trên đó có một tấm biển mang hàng chữ vàng: "Ai nói những chuyện không liên quan gì tới mình sẽ nghe được những lời không hài lòng". Họ dừng lại, người phụ nữ gõ lên cánh cửa mấy tiếng nhẹ nhàng. Một phu nhân khác ra mở cửa, và người khuân vác, khi nhìn thấy người phụ nữ này, đã suýt để rơi chiếc thúng với tất cả những gì đựng bên trong. Sự xuất hiện ấy quá bất chợt: anh chưa bao giờ thấy một sắc đẹp tương tự như người đứng trước mặt mình.
Hai người mời anh vào nhà, sau khi đi qua một phòng xép tới một cái sân rộng thông với nhiều phòng ngang nhau. ở cuối sân có một bộ bàn ghế sô-pha rất đẹp, ở giữa có một cây cột bằng gỗ mun gắn những viên ngọc kim cương sáng lấp lánh. Người khuân vác trao hàng và nín thở trước quang cảnh lộng lẫy ấy.
Nhưng cái làm anh chú ý hơn cả là sự xuất hiện của phu nhân thứ ba, đẹp hơn cả người thứ hai mà anh vừa nhìn thấy.
Qua cách xưng hô của hai người kia với phu nhân này, anh cho đây là người chủ chính, anh đã không nhầm. Người ấy tên là Zô-bê-ít; người ra mở cửa là Xa-phi; và A-min là người đi chợ mua thức ăn. Trong khi A-min và Xa-phi đi lấy thức ăn trong thúng ra thì Zô-bê-ít hiền lành lấy tiền trả cho người phu khuân vác rất hậu.
Người này rõ ràng đã rât thoả mãn nhưng còn chần chừ chưa chịu đi khi thấy ba sắc đẹp ấy đang tập trung tại đây.
- Anh còn đợi gì nữa? - Nàng Zô-bê-ít hỏi - Anh chưa được trả đủ tiền công hay sao?
- Thưa bà - Người phu khuân vác nói - Không phải cái đó giữ tôi lại, tôi đã được trả công nhiều hơn sự khó nhọc của mình; tôi chỉ ngạc nhiên không thấy một người nam giới nào giữa ba phu nhân sắc đẹp hiếm có. Tha lỗi cho tôi về sự không kín đáo này.
Anh ta đọc luôn một câu ca dao của những người ở Bát-đa, nói rằng bàn ăn không đủ bốn người thì không tốt, và kết luận râừng các bà có ba người, tất nhiên các bà cần một người thứ tư. Các phu nhân không những không bực mình mà còn bật cười với câu nói của anh.
- Anh bạn - Nàng Zô-bê-ít bảo anh - Anh đã đi xa hơn sự thiếu kín đáo đấy, nhưng tôi muốn cho anh biết rằng chúng tôi là ba chị em ruột, chúng tôi sinh sống một cách bí mật mà mọi người không biết tí gì. Chúng tôi rất muốn mời anh ở lại dùng bữa, vì thấy anh là người thật thà, nhưng với điều kiện anh không được hỏi chúng tôi điều gì, anh phải giữ đúng phép lịch sự và tính trung thực.
Người phu khuân vác long trọng cam kết và cúi mình trước ba vị phu nhân để cám ơn đã cho cái vinh dự ấy với một người thuộc tầng lớp anh. Sau đó A-min mang thức ăn đặt trên bàn; và sau khi nàng đã thắp sáng nhiều ngọn nến làm bằng nhựa cây lô hội và hổ phách xám toả ra mùi hương dễ chịu và ánh sáng mát dịu, nàng ngồi xuống cùng với các chị và anh phu khuân vác. Họ bắt đầu ăn, uống, hát và ngâm thơ. Các phu nhân muốn làm cho anh say dưới lý do mời anh uống để mừng cho sức khoẻ của họ. Những lời nói tốt được thốt ra một cách hào hứng. Cuối cùng họ thấy mình là người vui vẻ nhất trên đời thì có tiếng gõ cửa.
Xa-phi chạy ra cửa sau đó quay lại.
- Thưa các chị- Nàng nói - Đây là dịp tốt để làm cho buổi tối của chúng ta thêm vui vẻ. Trước cửa nhà chúng ta có ba nhà sư khất thực; trông cách ăn vận có vẻ là người như thế. Nhưng cái sẽ làm chúng ta ngạc nhiên là cả ba đều chột một mắt bên phải, râu, tóc và lông mày cạo nhẵn. Họ nói là mình vừa tới Bát-đa lạ lẫm và trời tối, họ không biết sẽ nghỉ ở đâu nên gõ cửa nhà chúng ta yêu cầu vì tình thương của Thượng đế nhân đức cho họ tạm trú lại. Họ rất trẻ và tỏ ra lễ phép; hình như rất thông minh nữa. Em không thể không buồn cười về những bộ mặt ngộ nghĩnh và giống nhau của họ. Các chị có cho họ vào nhà không?
- Cho họ vào - Zô-bê-ít nói - Nhưng phải nhớ căn dặn họ không được nói những gì không liên quan đến họ, bảo họ đọc kỹ hàng chữ trên tấm biển trước cửa.
Nghe vậy, Xa-phi chạy ra mở cửa, và ngay sau đó, nàng trở vào mang the oba nhà sư khất thực khiêm tốn cúi chào họ trước khi vào trong phòng. Khi họ đã ngồi vào bàn, các phu nhân mang thức ăn ra cho họ. Họ ăn uống giữ gìn ý tứ, không nói một lời nào, nhưng đến cuối bữa, họ đề nghị với các phu nhân cho họ được hoà nhạc nếu nhà có nhạc cụ. Nàng Xa-phi xinh đẹp mang ra cho họ một cây sáo dân tộc, một cây sáo Ba-tư và một cái trống xứ Ba-xcơ. Mỗi người nhận ở tay nàng một nhạc cụ ưa dùng, họ bắt đầu chơi một giai điệu. Các phu nhân biết phần lời hát theo. Tiếng nhạc, tiếng hát càng ngày càng lớn và đang lúc náo nhiệt thì có tiếng gõ cửa. Xa-phi ngừng hát chạy ra.
Cần phải biết thêm nay vua Ha-run an Rát-xít theo thói quen của mình, đi vi hành từ chập tối, theo sau có quan thủ hiến Gia-pha và viên tổng quản Mét-rua. Cả ba dều cải trang thành lái buôn. Khi đi qua chỗ này, tiếng cười lớn, quay lại nói với quan thủ hiến:
- Gõ cửa nhà này, họ làm gì mà ầm ỹ lên như vậy; chúng ta phải vào xem sao.
Và quan thủ hiến đã gõ cửa nhà các phu nhân theo lệnh của nhà vua. Xa-phi mở cửa, dưới ánh sáng của cây nến quan thủ hiến thấy đây là một phụ nữ rất đẹp. Ngài làm đúng vai trò của mình, cung kính cúi chào và lễ phép nói:
- Thưa phu nhân, chúng tôi là ba lái buôn ở Mu-xun mới tới đây chừng mươi ngày. Tối nay chúng tôi tới chơi nhà một bạn hàng ở Bát-đa theo lời mời của ông ta. Vì không thuộc đường đi, khi trở về chúng tôi bị lạc, không thể tìm ra nơi tạm trú của mình được. Chúng tôi xin các phu nhân làm ơn cho nghỉ lại đây trong một pohòng xép nào đó, được không?
Xa-phi quay ra xin ý kiến các chị; họ đồng ý cho ba người lái buôn vào nhà. Nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản được Xa-phi dẫn vào chào các phu nhân, các nhà sư khất thực và anh phu khuân vác một cách lịch thiệp.
- Các vị là những vị khách nồng hậu - Zô-bê-ít nói với họ - Nhưng trước hết, chắc các vị không phiền lòng khi tôi yêu cầu một ân huệ.
- Ân huệ nào thưa bà? - Người thủ hiến lại hỏi - Liệu người ta có thể từ chối một điều gì đó với các phu nhân xinh đẹp không? Zô-bê-ít nói tiếp:
- ở đây chỉ cần mắt chứ không cần lưỡi, các vị không được nói đến những gì không liên quan tới các vị, vì sợ rằng các vị đã phải nghe những lời không mấy hài lòng.
- Chúng tôi vâng lời bà - Ngài thủ hiến đáp - Chúng tôi không phải là những người thóc mách, cũng không phải là những người tò mò.
Nói xong mọi người ngồi xuống và người ta uống chúc mừng những vị khách mới tới. Trong khi ngài thủ hiến tiếp chuyện các phu nhân thì đức vua vẫn ngắm nhìn những sắc đẹp khác thường, sự vui vẻ và trí thông minh của các bà. Mặt khác nhà vua cũng rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy ba nhà sư khất thực đều chột mắt bên phải cả. Chuyện này cũng dễ hỏi, nhưng người ta đã cấm không được nói. Và còn rất nhiều điều đáng ngạc nhiên trong tối nay.
Lúc này, Zô-bê-ít đứng lên, thở dài và bước ra khỏi phòng nói:
- Bây giờ chúng ta phải làm bổn phận của mình...
Nàng vào phòng bên, một lát sau bước ra, tay cầm hai sợi dây buộc cổ hai con chó đen đi theo. Tay kia nàng lấy một chiếc roi đánh hai con chó rất đau mặc cho chúng kêu rền rĩ rất đáng thương. Xong việc, nàng ôm lấy những con vật khốn khổ và cùng khóc với chúng sau đó lại nhốt chúng vào phòng cũ.
Ba nhà sư khất thực, nhà vua cũng như những người đi theo, người phu khuân vác đều ngạc nhiên về hình phạt này, nhưng vì đã cam kết ngậm miệng nên họ không thể đặt ra câu hỏi được. Zô-bê-ít đứng lặng một lúc giữa nhà cho đỡ mệt.
- Chị thân mến - Nàng Xa-phi xinh đẹp nói- Xin mời chị về chỗ để em làm bổn phận của em, được chứ?
- Phải - Zô-bê-ít trả lời và ngồi vào chỗ.
Xa-phi cầm lấy cây lư cầm dạo một vài nốt sau đó cất tiếng hát có đàn đệm theo. Nàng hát một bài hát về sự đau khổ của nỗi cách xa một cách rất tình cảm khiến mọi người thích thú. Nàng hát và chơi đàn rất lâu. Sau đó đến lượt A-min thay phiên cầm lấy đàn hát tiếp cùng với đề tài ấy, cuối cùng vì quá cảm động nàng ngất đi. Khi ngã xuống thảm, vai áo nàng bị rách để lộ ra một vết ghê sợ đối với các vị khách.
Trong khi Zô-bê-ít và Xa-phi chăm sóc người bị ngất thì một trong số nhà sư khất thực không thể nén nổi nữa buột miệng nói:- Thà rằng ngủ ngoài trời còn hơn là vào nhà này nếu chúng ta biết trước là sẽ có những cảnh tượng ấy.
Nghe thấy vậy nhà vua quay sang và nhà sư khất thực và phu khuân vác.
- Thế là thế nào? - Ngài hỏi họ.
- Trời ơi, chúng tôi cũng không hiểu gì hơn ông.
- Sao, các vị không là người trong nhà này ư? Các vị không biết gì về hai con chó cái đen và về người phụ nữ có những vết sẹo trên vai ư?
- Trời ơi- Các nhà sư khất thực lại nói - Cả đời chúng tôi chưa bước chân vào đây, chúng tôi tới đây trước các ông một lúc thôi.
Việc đó càng làm cho nhà vua ngạc nhiên hơn.
- Nghe đây - Nhà vua nói với mọi người - ở đây có bảy người đàn ông mà chỉ có ba phụ nữ, chúng ta sẽ buộc họ phải nói rõ những điều chúng ta muốn biết. Nếu họ từ chối thì chúng ta sẽ cưỡng bức họ.
Khi trở lại chỗ ngồi, Zô-bê-ít đã nghe thấy những lời cuối cùng ấy và nàng trở nên rất giận dữ, vỗ mạnh tay ba cái, nàng kêu to:
- Ra đây mau!
Ngay lập tức, một cánh cửa bật mở và bảy tên nô lệ da đen, lực lưỡng, kiếm trên tay, xông vào, mỗi tên túm lấy một người, quật xuống đất và lôi ra giữa nhà. Nhà vua khốn khổ, ngài thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác thấy mình sắp phải trả giá bằng mạng sống cho sự tò mò ấy, nhưng trước khi nhận được phát kiếm chết người thì một trong những tên nô lệ nói với Zô-bê-ít và các cô em:
- Kính thưa các chủ nhân đáng kính, các ngài ra lệnh cho chúng tôi chặt đầu họ chứ?
- Khoan - Zô-bê-ít trả lời - Ta cần thẩm vấn họ trước đó.
Và quay sang các vị khách:
- Trả lời cho chúng ta rõ các người là ai, nếu không các người chỉ còn một thời gian ngắn để sống thôi. Ta đã tưởng các ngươi thật thà cũng như những người thật thà cũng như những người chức dịch ở đất nước này. Các người đã không giữ lời, đã muốn biết những bí mật của chúng ta.
Trước hết nàng hỏi ba vị nhà sư khất thực, thấy họ đều chột một mắt nàng hỏi họ có phải là anh em không.
- Không, thưa phu nhân - Người thứ ba nói - Cũng có thể nói ngay với bà rằng chúng tôi không phải là thường dân mà là con những vị vua có danh tiếng trên thế gian này.
Nghe tới đây Zô-bê-ít bớt giận:
- Để họ được tự do - Nàng nói với những tên nô lệ - Nhưng các người hãy hãy cứ ngồi đấy. Người nào kể rõ câu chuyện mình và nói rõ những lý do đến ngôi nhà này thì không bị xử tội và muốn đi đâu thì đi. Nhưng ta sẽ không tha cho người nào từ chối chúng ta sự thoả mãn ấy.
Ba nhà sư khất thực, nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản và anh phu khuân vác ngồi trên thảm giữa nhà trước mặt ba phu nhân ngồi trên ghế sô-pha và các nô lệ của họ.
Anh phu khuân vác lên tiếng đầu tiên:
- Thưa phu nhân - Anh nói - Bà đã biết câu chuyện của tôi và lý do tôi đến ngôi nhà này. Em gái bà đã thuê tôi mang hàng cho bà ấy, tôi đã đi theo bà ấy từ cửa hàng này sang cửa hàng khác, sau đó tôi tới nhà bà và bà đã có lòng tốt đón tiếp tôi. Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn này.
Khi người phu khuân vác nói xong, Zô-bê-ít hài lòng nói:
- Thôi anh đi ngay để chúng ta không bao giờ nhìn thấy anh nữa.
- Thưa bà- Người phu khuân vác nói- Xin bà cho tôi ngồi lại. Thật là không công bằng là sau khi đã kể chuyện mình mà tôi lại không được nghe chuyện các vị kia.
Zô-bê-ít chấp nhận điều này, anh phu khuân vác tới ngồi bên mép ghế sô-pha, vui mừng vì thoát khỏi vòng nguy hiểm. Sau anh ta, một trong ba nhà sư khuất phục bắt đầu kể chuyện mình.
Một buổi sáng kia, anh ta đang đứng chờ xem có ai nhờ anh giúp việc có ai giúp việc không thì có một phu nhân còn rất trẻ, đeo một chàng mạng lớn bằng the tới nơi và hỏi anh bằng giọng êm ái:
- Nghe đây, anh khuân vác, cầm lấy cái thúng và đi theo ta!
Người phu khuân vác rất lấy làm vinh hạnh đôi thúng lên đầu, đi theo người phụ nữ và nói:
- Ôi một ngày sung sướng, ôi một ngày có cuộc gặp gỡ tốt đẹp!
Sau khi mua những thức ăn ngon lành, một khối lượng rất lớn khiến người phu khuân vác phải còng lưng để mang chiếc thúng trên vai, người phu nhân trẻ tuổi ấy tới trước một ngôi nhà sang trọng, mặt trước có những cây cột rất đẹp, một bộ cửa bằng ngà trên đó có một tấm biển mang hàng chữ vàng: "Ai nói những chuyện không liên quan gì tới mình sẽ nghe được những lời không hài lòng". Họ dừng lại, người phụ nữ gõ lên cánh cửa mấy tiếng nhẹ nhàng. Một phu nhân khác ra mở cửa, và người khuân vác, khi nhìn thấy người phụ nữ này, đã suýt để rơi chiếc thúng với tất cả những gì đựng bên trong. Sự xuất hiện ấy quá bất chợt: anh chưa bao giờ thấy một sắc đẹp tương tự như người đứng trước mặt mình.
Hai người mời anh vào nhà, sau khi đi qua một phòng xép tới một cái sân rộng thông với nhiều phòng ngang nhau. ở cuối sân có một bộ bàn ghế sô-pha rất đẹp, ở giữa có một cây cột bằng gỗ mun gắn những viên ngọc kim cương sáng lấp lánh. Người khuân vác trao hàng và nín thở trước quang cảnh lộng lẫy ấy.
Nhưng cái làm anh chú ý hơn cả là sự xuất hiện của phu nhân thứ ba, đẹp hơn cả người thứ hai mà anh vừa nhìn thấy.
Qua cách xưng hô của hai người kia với phu nhân này, anh cho đây là người chủ chính, anh đã không nhầm. Người ấy tên là Zô-bê-ít; người ra mở cửa là Xa-phi; và A-min là người đi chợ mua thức ăn. Trong khi A-min và Xa-phi đi lấy thức ăn trong thúng ra thì Zô-bê-ít hiền lành lấy tiền trả cho người phu khuân vác rất hậu.
Người này rõ ràng đã rât thoả mãn nhưng còn chần chừ chưa chịu đi khi thấy ba sắc đẹp ấy đang tập trung tại đây.
- Anh còn đợi gì nữa? - Nàng Zô-bê-ít hỏi - Anh chưa được trả đủ tiền công hay sao?
- Thưa bà - Người phu khuân vác nói - Không phải cái đó giữ tôi lại, tôi đã được trả công nhiều hơn sự khó nhọc của mình; tôi chỉ ngạc nhiên không thấy một người nam giới nào giữa ba phu nhân sắc đẹp hiếm có. Tha lỗi cho tôi về sự không kín đáo này.
Anh ta đọc luôn một câu ca dao của những người ở Bát-đa, nói rằng bàn ăn không đủ bốn người thì không tốt, và kết luận râừng các bà có ba người, tất nhiên các bà cần một người thứ tư. Các phu nhân không những không bực mình mà còn bật cười với câu nói của anh.
- Anh bạn - Nàng Zô-bê-ít bảo anh - Anh đã đi xa hơn sự thiếu kín đáo đấy, nhưng tôi muốn cho anh biết rằng chúng tôi là ba chị em ruột, chúng tôi sinh sống một cách bí mật mà mọi người không biết tí gì. Chúng tôi rất muốn mời anh ở lại dùng bữa, vì thấy anh là người thật thà, nhưng với điều kiện anh không được hỏi chúng tôi điều gì, anh phải giữ đúng phép lịch sự và tính trung thực.
Người phu khuân vác long trọng cam kết và cúi mình trước ba vị phu nhân để cám ơn đã cho cái vinh dự ấy với một người thuộc tầng lớp anh. Sau đó A-min mang thức ăn đặt trên bàn; và sau khi nàng đã thắp sáng nhiều ngọn nến làm bằng nhựa cây lô hội và hổ phách xám toả ra mùi hương dễ chịu và ánh sáng mát dịu, nàng ngồi xuống cùng với các chị và anh phu khuân vác. Họ bắt đầu ăn, uống, hát và ngâm thơ. Các phu nhân muốn làm cho anh say dưới lý do mời anh uống để mừng cho sức khoẻ của họ. Những lời nói tốt được thốt ra một cách hào hứng. Cuối cùng họ thấy mình là người vui vẻ nhất trên đời thì có tiếng gõ cửa.
Xa-phi chạy ra cửa sau đó quay lại.
- Thưa các chị- Nàng nói - Đây là dịp tốt để làm cho buổi tối của chúng ta thêm vui vẻ. Trước cửa nhà chúng ta có ba nhà sư khất thực; trông cách ăn vận có vẻ là người như thế. Nhưng cái sẽ làm chúng ta ngạc nhiên là cả ba đều chột một mắt bên phải, râu, tóc và lông mày cạo nhẵn. Họ nói là mình vừa tới Bát-đa lạ lẫm và trời tối, họ không biết sẽ nghỉ ở đâu nên gõ cửa nhà chúng ta yêu cầu vì tình thương của Thượng đế nhân đức cho họ tạm trú lại. Họ rất trẻ và tỏ ra lễ phép; hình như rất thông minh nữa. Em không thể không buồn cười về những bộ mặt ngộ nghĩnh và giống nhau của họ. Các chị có cho họ vào nhà không?
- Cho họ vào - Zô-bê-ít nói - Nhưng phải nhớ căn dặn họ không được nói những gì không liên quan đến họ, bảo họ đọc kỹ hàng chữ trên tấm biển trước cửa.
Nghe vậy, Xa-phi chạy ra mở cửa, và ngay sau đó, nàng trở vào mang the oba nhà sư khất thực khiêm tốn cúi chào họ trước khi vào trong phòng. Khi họ đã ngồi vào bàn, các phu nhân mang thức ăn ra cho họ. Họ ăn uống giữ gìn ý tứ, không nói một lời nào, nhưng đến cuối bữa, họ đề nghị với các phu nhân cho họ được hoà nhạc nếu nhà có nhạc cụ. Nàng Xa-phi xinh đẹp mang ra cho họ một cây sáo dân tộc, một cây sáo Ba-tư và một cái trống xứ Ba-xcơ. Mỗi người nhận ở tay nàng một nhạc cụ ưa dùng, họ bắt đầu chơi một giai điệu. Các phu nhân biết phần lời hát theo. Tiếng nhạc, tiếng hát càng ngày càng lớn và đang lúc náo nhiệt thì có tiếng gõ cửa. Xa-phi ngừng hát chạy ra.
Cần phải biết thêm nay vua Ha-run an Rát-xít theo thói quen của mình, đi vi hành từ chập tối, theo sau có quan thủ hiến Gia-pha và viên tổng quản Mét-rua. Cả ba dều cải trang thành lái buôn. Khi đi qua chỗ này, tiếng cười lớn, quay lại nói với quan thủ hiến:
- Gõ cửa nhà này, họ làm gì mà ầm ỹ lên như vậy; chúng ta phải vào xem sao.
Và quan thủ hiến đã gõ cửa nhà các phu nhân theo lệnh của nhà vua. Xa-phi mở cửa, dưới ánh sáng của cây nến quan thủ hiến thấy đây là một phụ nữ rất đẹp. Ngài làm đúng vai trò của mình, cung kính cúi chào và lễ phép nói:
- Thưa phu nhân, chúng tôi là ba lái buôn ở Mu-xun mới tới đây chừng mươi ngày. Tối nay chúng tôi tới chơi nhà một bạn hàng ở Bát-đa theo lời mời của ông ta. Vì không thuộc đường đi, khi trở về chúng tôi bị lạc, không thể tìm ra nơi tạm trú của mình được. Chúng tôi xin các phu nhân làm ơn cho nghỉ lại đây trong một pohòng xép nào đó, được không?
Xa-phi quay ra xin ý kiến các chị; họ đồng ý cho ba người lái buôn vào nhà. Nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản được Xa-phi dẫn vào chào các phu nhân, các nhà sư khất thực và anh phu khuân vác một cách lịch thiệp.
- Các vị là những vị khách nồng hậu - Zô-bê-ít nói với họ - Nhưng trước hết, chắc các vị không phiền lòng khi tôi yêu cầu một ân huệ.
- Ân huệ nào thưa bà? - Người thủ hiến lại hỏi - Liệu người ta có thể từ chối một điều gì đó với các phu nhân xinh đẹp không? Zô-bê-ít nói tiếp:
- ở đây chỉ cần mắt chứ không cần lưỡi, các vị không được nói đến những gì không liên quan tới các vị, vì sợ rằng các vị đã phải nghe những lời không mấy hài lòng.
- Chúng tôi vâng lời bà - Ngài thủ hiến đáp - Chúng tôi không phải là những người thóc mách, cũng không phải là những người tò mò.
Nói xong mọi người ngồi xuống và người ta uống chúc mừng những vị khách mới tới. Trong khi ngài thủ hiến tiếp chuyện các phu nhân thì đức vua vẫn ngắm nhìn những sắc đẹp khác thường, sự vui vẻ và trí thông minh của các bà. Mặt khác nhà vua cũng rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy ba nhà sư khất thực đều chột mắt bên phải cả. Chuyện này cũng dễ hỏi, nhưng người ta đã cấm không được nói. Và còn rất nhiều điều đáng ngạc nhiên trong tối nay.
Lúc này, Zô-bê-ít đứng lên, thở dài và bước ra khỏi phòng nói:
- Bây giờ chúng ta phải làm bổn phận của mình...
Nàng vào phòng bên, một lát sau bước ra, tay cầm hai sợi dây buộc cổ hai con chó đen đi theo. Tay kia nàng lấy một chiếc roi đánh hai con chó rất đau mặc cho chúng kêu rền rĩ rất đáng thương. Xong việc, nàng ôm lấy những con vật khốn khổ và cùng khóc với chúng sau đó lại nhốt chúng vào phòng cũ.
Ba nhà sư khất thực, nhà vua cũng như những người đi theo, người phu khuân vác đều ngạc nhiên về hình phạt này, nhưng vì đã cam kết ngậm miệng nên họ không thể đặt ra câu hỏi được. Zô-bê-ít đứng lặng một lúc giữa nhà cho đỡ mệt.
- Chị thân mến - Nàng Xa-phi xinh đẹp nói- Xin mời chị về chỗ để em làm bổn phận của em, được chứ?
- Phải - Zô-bê-ít trả lời và ngồi vào chỗ.
Xa-phi cầm lấy cây lư cầm dạo một vài nốt sau đó cất tiếng hát có đàn đệm theo. Nàng hát một bài hát về sự đau khổ của nỗi cách xa một cách rất tình cảm khiến mọi người thích thú. Nàng hát và chơi đàn rất lâu. Sau đó đến lượt A-min thay phiên cầm lấy đàn hát tiếp cùng với đề tài ấy, cuối cùng vì quá cảm động nàng ngất đi. Khi ngã xuống thảm, vai áo nàng bị rách để lộ ra một vết ghê sợ đối với các vị khách.
Trong khi Zô-bê-ít và Xa-phi chăm sóc người bị ngất thì một trong số nhà sư khất thực không thể nén nổi nữa buột miệng nói:- Thà rằng ngủ ngoài trời còn hơn là vào nhà này nếu chúng ta biết trước là sẽ có những cảnh tượng ấy.
Nghe thấy vậy nhà vua quay sang và nhà sư khất thực và phu khuân vác.
- Thế là thế nào? - Ngài hỏi họ.
- Trời ơi, chúng tôi cũng không hiểu gì hơn ông.
- Sao, các vị không là người trong nhà này ư? Các vị không biết gì về hai con chó cái đen và về người phụ nữ có những vết sẹo trên vai ư?
- Trời ơi- Các nhà sư khất thực lại nói - Cả đời chúng tôi chưa bước chân vào đây, chúng tôi tới đây trước các ông một lúc thôi.
Việc đó càng làm cho nhà vua ngạc nhiên hơn.
- Nghe đây - Nhà vua nói với mọi người - ở đây có bảy người đàn ông mà chỉ có ba phụ nữ, chúng ta sẽ buộc họ phải nói rõ những điều chúng ta muốn biết. Nếu họ từ chối thì chúng ta sẽ cưỡng bức họ.
Khi trở lại chỗ ngồi, Zô-bê-ít đã nghe thấy những lời cuối cùng ấy và nàng trở nên rất giận dữ, vỗ mạnh tay ba cái, nàng kêu to:
- Ra đây mau!
Ngay lập tức, một cánh cửa bật mở và bảy tên nô lệ da đen, lực lưỡng, kiếm trên tay, xông vào, mỗi tên túm lấy một người, quật xuống đất và lôi ra giữa nhà. Nhà vua khốn khổ, ngài thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác thấy mình sắp phải trả giá bằng mạng sống cho sự tò mò ấy, nhưng trước khi nhận được phát kiếm chết người thì một trong những tên nô lệ nói với Zô-bê-ít và các cô em:
- Kính thưa các chủ nhân đáng kính, các ngài ra lệnh cho chúng tôi chặt đầu họ chứ?
- Khoan - Zô-bê-ít trả lời - Ta cần thẩm vấn họ trước đó.
Và quay sang các vị khách:
- Trả lời cho chúng ta rõ các người là ai, nếu không các người chỉ còn một thời gian ngắn để sống thôi. Ta đã tưởng các ngươi thật thà cũng như những người thật thà cũng như những người chức dịch ở đất nước này. Các người đã không giữ lời, đã muốn biết những bí mật của chúng ta.
Trước hết nàng hỏi ba vị nhà sư khất thực, thấy họ đều chột một mắt nàng hỏi họ có phải là anh em không.
- Không, thưa phu nhân - Người thứ ba nói - Cũng có thể nói ngay với bà rằng chúng tôi không phải là thường dân mà là con những vị vua có danh tiếng trên thế gian này.
Nghe tới đây Zô-bê-ít bớt giận:
- Để họ được tự do - Nàng nói với những tên nô lệ - Nhưng các người hãy hãy cứ ngồi đấy. Người nào kể rõ câu chuyện mình và nói rõ những lý do đến ngôi nhà này thì không bị xử tội và muốn đi đâu thì đi. Nhưng ta sẽ không tha cho người nào từ chối chúng ta sự thoả mãn ấy.
Ba nhà sư khất thực, nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản và anh phu khuân vác ngồi trên thảm giữa nhà trước mặt ba phu nhân ngồi trên ghế sô-pha và các nô lệ của họ.
Anh phu khuân vác lên tiếng đầu tiên:
- Thưa phu nhân - Anh nói - Bà đã biết câu chuyện của tôi và lý do tôi đến ngôi nhà này. Em gái bà đã thuê tôi mang hàng cho bà ấy, tôi đã đi theo bà ấy từ cửa hàng này sang cửa hàng khác, sau đó tôi tới nhà bà và bà đã có lòng tốt đón tiếp tôi. Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn này.
Khi người phu khuân vác nói xong, Zô-bê-ít hài lòng nói:
- Thôi anh đi ngay để chúng ta không bao giờ nhìn thấy anh nữa.
- Thưa bà- Người phu khuân vác nói- Xin bà cho tôi ngồi lại. Thật là không công bằng là sau khi đã kể chuyện mình mà tôi lại không được nghe chuyện các vị kia.
Zô-bê-ít chấp nhận điều này, anh phu khuân vác tới ngồi bên mép ghế sô-pha, vui mừng vì thoát khỏi vòng nguy hiểm. Sau anh ta, một trong ba nhà sư khuất phục bắt đầu kể chuyện mình.
Chuyện
nhà sư khất thực thứ nhất
Thưa phu nhân - Nhà sư nói
với Zô-bê-ít - Để bà hiểu tại sao tôi lại mất con mắt bên phải cùng lý do tôi
buộc phải mang áo nhà sư khất thực, tôi phải nói ngay tôi là con trai một vị
vua. Đức vua, cha tôi, có một người em cũng làm vua như ngài ở một nước láng
giềng. Chú tôi rất yêu thương tôi từ lúc tôi còn ít tuổi vì ngài không có con.
Khi tôi học xong và khi cha tôi cho tôi được tự do, thì hàng năm tôi vẫn đi thăm chú tôi và ở lại nước này một hoặc hai tháng sau đó tôi về với cha tôi. Đôi khi tôi cũng đi tới các vùng lân cận. Sau chuyến đi cuối cùng ấy, khi về kinh thành của cha tôi, tôi thấy trước cổng có năm trăm lính cận vệ đầy đủ vũ khí bao vây lấy tôi một cách dữ tợn. Tôi hỏi viên chỉ huy lý do của việc này. Viên chỉ huy nói: Bây giờ quân đội thuộc quyền chỉ huy của ngài thủ hiến, người thay thế cha ngài vừa mới qua đời, tôi sẽ bắt giam ngài để đợi lệnh của nhà vua mới.
Nói xong lính cận vệ túm lấy tôi, mang tôi đến trước mặt kẻ chiếm ngôi. Tên thủ hiến phiến loạn có một mối hận thù với tôi từ lâu. Đây là đầu đuôi câu chuyện: Khi còn rất nhỏ, tôi thích bắn nỏ. Một lần, nấp ở tầng dưới lâu đài, tôi đang ngắm bắn. Có một con chim bay qua, tôi bắn, nhưng trượt và mũi tên ngẫu nhiên đâm vào mắt của viên thủ hiến ấy vừa đi qua, và lão bị chột. Khi thấy sự kiện thảm thương ấy tôi đã tới xin lỗi viên thủ hiến, tự tôi đến xin lỗi; những lão ta vẫn giữ mối thù này. Lão đối xử một cách dã man với tôi khi đã nắm được quyền hành. Lão túm lấy tôi như một kẻ điên rồ, chọc móng tay váo mắt tôi và lôi con ngươi ra. Thế là sau vụ này tôi thành người chột mắt.
Những kẻ cướp ngôi không chỉ tàn ác như vậy. Lão nhốt tôi vào một thùng gỗ, sai lính mang vào rừng chém đầu tôi sau đó để chim ác rỉa xác tôi. Người đao phủ đi theo một người cưỡi ngựa áp tải chiễc thùng gỗ và dừng lại để thi hành mệnh lệnh ấy khi vào tới rừng. Nhưng những lời khẩn cầu và nước mắt của tôi đã làm họ mủi lòng.
- Đi đi - Anh ta bảo tôi - Đi khỏi vương quốc này và không bao giờ trở lại đây nữa vì ngài sẽ chết ở đây và ngài cũng là nguyên nhân cái chết của tôi nữa.
Tôi cảm tạ anh ta về ân huệ ấy, tôi chỉ có một mình, tôi mất một mắt và cố tránh một tai hoạ lớn hơn.
Trong tình cảnh ấy, tôi đã phải đi rất lâu, đêm đi ngày tránh vào những nơi hẻo lánh, theo sức khoẻ của mình. Cuối cùng thì tôi cũng đã đến nước của chú tôi. Tôi kể cho ngài nghe những biến cố bi thảm đã xảy ra ở vương quốc cha tôi và lý do sự tàn tật của tôi. Ngài an ủi tôi và long trọng tuyên bố tôi là người kế nghiệp của ngài trước các triều thần.
Chúng tôi sống yên ổn trong một vài năm. Chú tôi vẫn nhớ tới cha tôi, cho tôi tham gia vào công việc triều chính làm tôi vô cùng vinh hạnh. Một hôm chúng tôi đang ngồi ở sân lâu đài thù nghe tiếng kèn, tiếng trống và tất cả những âm thanh của chiến tranh. Một đám bụi dày nổi lên, trời tối sầm, chúng tôi hiểu ra một đội quân lớn đang xông tới! Chính là lão thủ hiến đã cướp ngôi cha tôi, cướp vương quốc của người và nay muốn cướp vương quốc của nhà vua, chú tôi, với một đội quân đông dày đặc.
Chỉ có đội cận vệ ít ỏi trong tay, chú tôi không thể chống lại số kẻ thù đông như vậy. Chúng tràn ngập thành phố, và vì các cổng thành không kịp đóng, chúng tràn vào cả vào lâu đài chú tôi. Chú tôi chống trả một cách can đảm, nhưng ngài đã chết sau khi tiêu diệt được khá nhiều quân địch. Phần tôi, tôi cũng đã đánh được một lúc lâu, nhưng thấy đuối sức, tôi rút lui và may mắn thoát được trên một khúc ngoẹo trên đường. Tôi tới trú tại nhà một viên sĩ quan mà sự trung thành tôi đã biết rõ.
Đau đơn về thể xác, bị tước đoạt mọi của cải, tôi đi đến một mưu kế, nó là nguồn gốc giữ được tính mạng của tôi. Tôi cạo râu tóc và khoác áo nhà sư khất thực, ra khỏi thành phố mà không ai nhận ra. Sau đó tôi ra khỏi vương quốc của chú tôi bằng những con đường vắng vẻ.
Sau nhiều tháng đi như vậy, tôi đến cổng thành của vương quốc này vào buổi chiều. Tôi dừng bước và đang xem nên đi đâu, thì gặp nhà sư khất thực này. Anh ta chào tôi và tôi chào lại. "Thấy anh, tôi biết anh cũng là người lạ như tôi". Anh ta trả lời và tôi đã không nhầm. Cũng lúc ấy nhà sư khất thực thư ba đi tới. Chúng tôi chào nhau và biết anh ta mới tới Bát-đa lần đầu. Như là anh em, chúng tôi kết nghĩa và quyết định sống bên nhau.
Trời tối, không biết đi đâu trong thành phố xa lạ này, chúng tôi đành đi lang thang. Một sự may mắn cho chúng tôi là đã tới trước cửa nhà phu nhân và chúng tôi gõ cửa, bà đã nhận chúng tôi với tấm lòng thân ái, từ thiện, chúng tôi không thể nào không cảm ơn bà. Đấy, thưa bà, cái mà bà đòi hỏi, tôi đã trả lời, tại sao tôi mất con mắt bên phải, tại sao tôi cạo trọc râu tóc và tại sao tôi tới đây.
- Đủ rồi - Zô-bê-ít nói - Chúng tôi hài lòng, người đi đâu thì đi.
Nhà sư khất thực xin với Zô-bê-ít cho anh ta ở lại để nghe câu chuyện của hai nhà sư anh em, sau khi được phép, anh ta ngồi lên ghế sô-pha. Nhà sư khất thực thứ hai bắt đầu kể chuyện của mình với Zô-bê-ít.
Khi tôi học xong và khi cha tôi cho tôi được tự do, thì hàng năm tôi vẫn đi thăm chú tôi và ở lại nước này một hoặc hai tháng sau đó tôi về với cha tôi. Đôi khi tôi cũng đi tới các vùng lân cận. Sau chuyến đi cuối cùng ấy, khi về kinh thành của cha tôi, tôi thấy trước cổng có năm trăm lính cận vệ đầy đủ vũ khí bao vây lấy tôi một cách dữ tợn. Tôi hỏi viên chỉ huy lý do của việc này. Viên chỉ huy nói: Bây giờ quân đội thuộc quyền chỉ huy của ngài thủ hiến, người thay thế cha ngài vừa mới qua đời, tôi sẽ bắt giam ngài để đợi lệnh của nhà vua mới.
Nói xong lính cận vệ túm lấy tôi, mang tôi đến trước mặt kẻ chiếm ngôi. Tên thủ hiến phiến loạn có một mối hận thù với tôi từ lâu. Đây là đầu đuôi câu chuyện: Khi còn rất nhỏ, tôi thích bắn nỏ. Một lần, nấp ở tầng dưới lâu đài, tôi đang ngắm bắn. Có một con chim bay qua, tôi bắn, nhưng trượt và mũi tên ngẫu nhiên đâm vào mắt của viên thủ hiến ấy vừa đi qua, và lão bị chột. Khi thấy sự kiện thảm thương ấy tôi đã tới xin lỗi viên thủ hiến, tự tôi đến xin lỗi; những lão ta vẫn giữ mối thù này. Lão đối xử một cách dã man với tôi khi đã nắm được quyền hành. Lão túm lấy tôi như một kẻ điên rồ, chọc móng tay váo mắt tôi và lôi con ngươi ra. Thế là sau vụ này tôi thành người chột mắt.
Những kẻ cướp ngôi không chỉ tàn ác như vậy. Lão nhốt tôi vào một thùng gỗ, sai lính mang vào rừng chém đầu tôi sau đó để chim ác rỉa xác tôi. Người đao phủ đi theo một người cưỡi ngựa áp tải chiễc thùng gỗ và dừng lại để thi hành mệnh lệnh ấy khi vào tới rừng. Nhưng những lời khẩn cầu và nước mắt của tôi đã làm họ mủi lòng.
- Đi đi - Anh ta bảo tôi - Đi khỏi vương quốc này và không bao giờ trở lại đây nữa vì ngài sẽ chết ở đây và ngài cũng là nguyên nhân cái chết của tôi nữa.
Tôi cảm tạ anh ta về ân huệ ấy, tôi chỉ có một mình, tôi mất một mắt và cố tránh một tai hoạ lớn hơn.
Trong tình cảnh ấy, tôi đã phải đi rất lâu, đêm đi ngày tránh vào những nơi hẻo lánh, theo sức khoẻ của mình. Cuối cùng thì tôi cũng đã đến nước của chú tôi. Tôi kể cho ngài nghe những biến cố bi thảm đã xảy ra ở vương quốc cha tôi và lý do sự tàn tật của tôi. Ngài an ủi tôi và long trọng tuyên bố tôi là người kế nghiệp của ngài trước các triều thần.
Chúng tôi sống yên ổn trong một vài năm. Chú tôi vẫn nhớ tới cha tôi, cho tôi tham gia vào công việc triều chính làm tôi vô cùng vinh hạnh. Một hôm chúng tôi đang ngồi ở sân lâu đài thù nghe tiếng kèn, tiếng trống và tất cả những âm thanh của chiến tranh. Một đám bụi dày nổi lên, trời tối sầm, chúng tôi hiểu ra một đội quân lớn đang xông tới! Chính là lão thủ hiến đã cướp ngôi cha tôi, cướp vương quốc của người và nay muốn cướp vương quốc của nhà vua, chú tôi, với một đội quân đông dày đặc.
Chỉ có đội cận vệ ít ỏi trong tay, chú tôi không thể chống lại số kẻ thù đông như vậy. Chúng tràn ngập thành phố, và vì các cổng thành không kịp đóng, chúng tràn vào cả vào lâu đài chú tôi. Chú tôi chống trả một cách can đảm, nhưng ngài đã chết sau khi tiêu diệt được khá nhiều quân địch. Phần tôi, tôi cũng đã đánh được một lúc lâu, nhưng thấy đuối sức, tôi rút lui và may mắn thoát được trên một khúc ngoẹo trên đường. Tôi tới trú tại nhà một viên sĩ quan mà sự trung thành tôi đã biết rõ.
Đau đơn về thể xác, bị tước đoạt mọi của cải, tôi đi đến một mưu kế, nó là nguồn gốc giữ được tính mạng của tôi. Tôi cạo râu tóc và khoác áo nhà sư khất thực, ra khỏi thành phố mà không ai nhận ra. Sau đó tôi ra khỏi vương quốc của chú tôi bằng những con đường vắng vẻ.
Sau nhiều tháng đi như vậy, tôi đến cổng thành của vương quốc này vào buổi chiều. Tôi dừng bước và đang xem nên đi đâu, thì gặp nhà sư khất thực này. Anh ta chào tôi và tôi chào lại. "Thấy anh, tôi biết anh cũng là người lạ như tôi". Anh ta trả lời và tôi đã không nhầm. Cũng lúc ấy nhà sư khất thực thư ba đi tới. Chúng tôi chào nhau và biết anh ta mới tới Bát-đa lần đầu. Như là anh em, chúng tôi kết nghĩa và quyết định sống bên nhau.
Trời tối, không biết đi đâu trong thành phố xa lạ này, chúng tôi đành đi lang thang. Một sự may mắn cho chúng tôi là đã tới trước cửa nhà phu nhân và chúng tôi gõ cửa, bà đã nhận chúng tôi với tấm lòng thân ái, từ thiện, chúng tôi không thể nào không cảm ơn bà. Đấy, thưa bà, cái mà bà đòi hỏi, tôi đã trả lời, tại sao tôi mất con mắt bên phải, tại sao tôi cạo trọc râu tóc và tại sao tôi tới đây.
- Đủ rồi - Zô-bê-ít nói - Chúng tôi hài lòng, người đi đâu thì đi.
Nhà sư khất thực xin với Zô-bê-ít cho anh ta ở lại để nghe câu chuyện của hai nhà sư anh em, sau khi được phép, anh ta ngồi lên ghế sô-pha. Nhà sư khất thực thứ hai bắt đầu kể chuyện của mình với Zô-bê-ít.
Chuyện
nhà sư khất thực thứ hai
- Thưa phu nhân - Anh ta nói
- Vâng lệnh bà ,và muốn nói rõ tại sao tôi chột mắt bên phải, tôi phải kể cho
bà nghe về cuộc đời của mình. Từ tuổi ấu thơ, nhà vua cha tôi nhận thấy tôi là
một đứa trẻ thông minh, nên cố gắng chăm lo cho tôi học hành. Tôi giỏi về môn
viết chữ và vượt hẳn vị thày dạy viết tài giỏi có tiếng trong vương quốc. Nhà
vua ấn độ biết tôi có tài viết lách nói với cha tôi ngài sẽ rất sung sướng tiếp
tôi ở xứ sở của mình. Cho rằng không gì tốt hơn đối với một vị hoàng tử vào
tuổi tôi đi ra nước ngoài, cha tôi gửi tôi tới đấy với chức vụ sứ thần, cùng
một đoàn tuỳ tùng khiêm tốn.
Đi đường được một tháng thì một hôm chúng tôi thấy từ xa, một đám mây bụi tung lên trong đó năm mươi người cưỡi ngựa vũ khĩ trang bị đến tận răng. Đó là những tên cướp đang phóng ngựa tới chỗ chúng tôi. Chúng tôi không chỉ có mười con ngựa chở hành lý và quà biếu mà tôi phải mang tới nhà vua ấn độ theo lệnh của cha tôi, mặt khác chúng tôi có rất ít người, bà cũng biết là những tên kẻ cướp ấy có thể nghiền nát chúng tôi là chắc chắn. Tôi chạy trốn vào một cái hang, ngủ đêm tại dó sau khi ăn vài quả rừng hái ở dọc đường.
Hôm sau tôi tiếp tục đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Sau một tháng tôi tới thành phố giàu có và đông dân, hình như lúc này cũng đang trong mùa xuân. Không biết tìm ai, tôi đến gặp một ông thợ may đang khâu vá trong cửa hiệu, tôi kể cho ông nghe câu chuyện của mình. Ông nghe chăm chú và tỏ ra thương cảm đối với tôi.
- Anh hãy giữ - Ông ta nói - Không để ai biết câu chuyện anh vừa kể với tôi, vì nhà vua của vương quốc này là kẻ thù của vua cha anh, chắc chắn ông ta sẽ tống anh vào tù khi anh thấy ở đây.
Tôi cảm ơn ông thợ may và hứa với ông ta làm theo đúng những lời khuyên của ông. Vì thấy tôi đói nên ông đã cho tôi ăn và thu xếp cho tôi một nơi nghỉ.
Vài hôm sau, thấy tôi đã hồi sức sau một chuyến đi dài ngày, ông thợ may mua cho tôi một cái rìu, một cuộn dây thừng và một bộ quần áo ngắn rồi nói rằng những người nghèo khó ở đây kiếm sống bằng cách đi đốn củi và yêu cầu tôi cũng làm như vậy, ông nhờ những người đốn củi trong vùng giúp đỡ tôi. Họ dẫn tôi vào rừng từ sáng sớm, tôi đội trên đầu một bó củi lớn về bán được nửa đồng tiền vàng của xứ này. Dần dần tôi kiếm đủ tiền trả cho ông thợ may số tiền mà ông đã ứng ra để chi tiêu cho tôi.
Tôi sống bằng cách đó trong một năm trời cho đến một ngày kia, theo thói quen, tôi vào khoảnh rừng nhiều cây để đốn củi. Khi đang đánh bật rễ một cây, tôi thấy một chiếc vòng bằng kim loại gắn trên một chiếc nắp cũng bằng thứ kim loại ấy. Tôi bới đất xung quanh và nhấc cái nắp lên thì thấy dưới đó có những bậc thang. Tôi xuống thang mang theo chiếc rìu. Khi tới chân thang tôi thấy một lâu đài lớn có những chiếc cột bằng đá vân, bên trong có những chiếc lọ và đầu cột bằng vàng đặc. Trong khi tôi đang mê mải nhìn thì một phu nhân ở phòng bên bất chợt bước ra. Tôi lễ phép chào nàng.
- Anh là ai, là người hay thần? - Nàng hỏi tôi.
- Thưa bà- Tôi nói - Tôi là người.
- Do sự tình cờ nào mà anh tới đây?- Nàng thở dài hỏi tôi - Tôi ở đây đã hai mươi nhăm năm nay, trong suốt thời gian đó anh là người đàn ông đầu tiên mà tôi gặp
Với vẻ đẹp lộng lẫy, tính hiền hậu và thật thà trong sự đón tiếp ấy, tôi hoàn toàn yên tâm. Tôi kể cho nàng nghe những chuyện kỳ lạ nào khiến tôi từ một hoàng tử trở thành người kiếm củi và tại sao tôi vào được cái nhà giam này.
- Ôi hoàng tử - Nàng lại thở dài - Đúng đây là một nhà giam. Chàng có nghe thấy nói về nhà vua vĩ đại Ê-pi-tim-ma-rút, vua của đảo Gỗ Mun, gọi như vậy vì trên đảo này có rất nhiều loại gỗ ấy, bao giờ chưa?
Thiếp là công chúa con vua. Một vị thần đã bắt và nhốt thiếp vào đây.
Thiếp không thể nào tự an ủi được, nhưng thời gian và sự cần thiết đã làm thiếp phải nhìn và phải chịu đau đớn với con quỷ ấy. Cứ mười ngày một lần hắn về đây xem thiếp có mặt ở nhà không và mang thức ăn về. Khi nào cần gọi hắn, bất kể là ngày hay đêm, thiếp chỉ cần đụng vào lá bùa treo trước cửa phòng mình, thì tức khắc hắn trở về. Hắn đã đi được bốn ngày, thiếp phải đợi hắn trong sáu ngày nữa. Do đó tại sao chàng có thể ở lại đây cùng thiếp mà không e ngại gì. Trong khi nàng dẫn tôi đi thăm lâu đài, do vô ý, tôi đã đá phải lá bùa làm nó rách thành nhiều mảnh. Ngay lập tức cả lâu đài rung chuyển từ nền móng với những tiếng động ghê ghớm, tiếp theo là những tia chớp loè trong đêm tối.
- Chàng chạy mau! - Công chúa kêu lên - Nếu không vị thần sẽ giết chết nàng.
Tôi làm theo lời nàng, nhưng vì quá hốt hoảng nên tôi đã bỏ quên chiếc rìu và đôi giày ở lại. Tôi vừa leo lên khỏi thang gác, chiếc cầu thang mà tôi đã xuống, thì nóc lâu đài mở toang, một vị thần xuất hiện.
- Đã có chuyện gì xảy ra và tại sao nàng gọi ta về? - Hắn hỏi công chúa bằng giọng giận dữ.
- Không có chuyện gì cả - Nàng trả lời - Khi thiếp đi ngang qua đây, do vô ý bước hụt ngã nên lá bùa bị rách. Không có chuyện gì khác.
- Mi là đứa nói dối vụng về! Tại sao có chiếc rìu và đôi giày ở đây?
- Thiếp chưa bao giờ trông thấy chúng - Công chúa trả lời - Có thể là do thuận tay, người mang nó ở đâu về mà không biết.
Vị thần ấy trả lời bằng những câu nguyền rủa và những cú đánh mà từ xa tôi nghe thấy rất rõ. Tôi hạ chiếc nắp hầm và phủ đất lên, trở về thành phố với bó củi mà không biết phải là gì tuy rất thương công chúa.
Sau đó chừng một tiếng đồng hồ từ lúc về đến nhà thì ông thợ may vào phòng tôi nói:
- Có một ông già mà tôi không quen tới đây với chiếc rìu và đôi giày của anh, nói là nhặt được ở trên đường. Ông ta bảo đã được các bạn anh cho biết anh đang ở đây. Ông ta muốn tự tay giao những thứ đó cho anh, anh ra nói chuyện với ông ấy.
Nghe thấy vậy, mặt tôi tái xanh, người run lẩy bẩy. Ông thợ may hỏi tại sao thì cửa bật mở. Ông già sốt ruột không thể chờ nữa, xuất hiện với chiễc rìu và đôi giày của tôi. Đó là vị thần đã bắt cóc nàng công chúa trên đảo Gỗ Mun, cải trang như vậy để đi tìm tôi.
- Ta là thần - Hắn bảo tôi - Con trai của thần Ê-blít, là vua của các thần. Đây có phải là chiếc rìu của nhà ngươi không?
Không để tôi có thời gian trả lời, hắn túm ngang người tôi mang ra khỏi phòng và bay lên không trung, với tốc độ chóng mặt, cuối cùng đỗ xuống lâu đài dưới đất của hắn. Công chúa đảo Gỗ Mun đang sống dở, chết dở nằm trên mặt đất, nước mắt đầm đìa.
- Đồ điên đảo - Vị thần chỉ tay vào tôi- Mi có biết người này không?
Nàng buồn bã nhìn tôi, trả lời không ngập ngừng:
- Tôi không biết, tôi chưa nhìn thấy người này bao giờ
- Nếu vậy - Vị thần rút kiếm ra và nói - Nếu đúng là không biết hắn thì mi cầm thanh kiếm này và chặt đầu hắn đi!
- Than ôi!- Công chúa nói - Làm thế nào mà ta làm theo lệnh của ngươi được? Ngươi đánh ta khiến ta không nhấc nổi cánh tay lên nữa.
Vị thần quay sang phía tôi:
- Còn mi, mi có biết nó không?
- Làm thế nào mà tôi biết được- Tôi trả lời - Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người này.
- Nếu vậy - Hắn nói tiếp - Cầm lấy thanh kiếm này và chặt đầu nó đi. Đó là cái giá để trả tự do cho nhà ngươi.
- Tôi sẽ vĩnh viễn bị nguyền rủa nếu tôi hèn nhát giết người phụ nữ đang trong tình trạng hấp hối như thế này. Ngươi muốn làm gì thì làm, tuỳ ý, nhưng ta không thể làm theo lệnh dã man ấy.
- Ta thấy rõ - Vị thần nói - Các ngươi đang chế giễu ta, cả hai đứa. Ta phải xét xử không trậm chễ.
Dứt lời, vị thần giơ kiếm lên và đâm trúng tim nàng công chúa khốn khổ khiến nàng chết ngay lập tức.
- Giết cả ta nữa đi- Tôi bảo hắn- Ta sẵn sàng nhận nhát kiếm, ta coi đây là ân huệ với ta mà ngươi có thể làm được.
- Việc trả thù của ta không phải như thế - Hắn đáp - Ta muốn biến nhà người thành chó, thành lừa, thành sư tử, hoặc thành chim là tuỳ ý của ta, nhưng ta muốn để mi tự lựa chọn.
Những lời nói đó cho tôi một vài hy vọng lay chuyển hắn.
- Ôi vị thần - Tôi xin ngài bớt giận; vì ngài không muốn giết tôi, xin cứ để nguyên thân hình tôi, chứ đừng biến tôi thành những con vật như vậy.
- Không- Hắn cười nói - Ta phải cho mi biết là ta có những pháp thuật gì.
Nói xong hắn xách ngang người tôi bay lên một đỉnh núi rất cao. Tới nơi, hắn bốc một nắm đất, lẩm bẩm những lời gì đó mà tôi không hiểu, sau đó ném vào người tôi.
- Hãy bỏ bộ mặt người- Hắn bảo tôi - Mang lấy bộ mặt khỉ!
Nói xong hắn biến mất, tôi ở lại trên đỉnh núi một mình và biến thành khỉ, đau đớn trên một xứ sở xa lạ, không biết rằng mình đang ở gần hay ở xa vương quốc của cha tôi.
Tôi xuống núi, tới một đồng bằng bên bờ biển. Tôi ra tận mép biển. Biển lặng sóng, tôi nhìn thấy một con tàu cách đất liền chừng một nửa hải lý. Để không bỏ lỡm một dịp may, tôi lấy một cành câu to, mang ra biển, ngồi lên trên và với một cây gậy tôi chèo.
Khi tới gần con tàu thì thuỷ thủ và hành khách chạy tới mạn tàu. Tôi bám vào một sợi dây và trèo lên boong tàu. Vì không thể nói được nên tôi lầm vào tình trạng bối rối ghê ghớm. Những người lái buôn mê tín cho rằng tôi mang nỗi bất hạnh đến cho chuyến đi nếu để lại tôi trên tàu, họ nói: "Tôi sẽ giết nó bằng cái bơi chèo"; Người kia nói: "Tôi sẽ cho nó một mũi tên xuyên qua người"; người khác nữa lại nói: "Ném nó xuống biển". Tôi chạy đến bên ông thuyền trưởng, bám lấy áo ông trong tư thế van nài khiến ông cảm động, nhất là khi thấy tôi khóc, ông bảo vệ tôi, nhận tôi làm con nuôi của đoàn thuỷ thủ. Tàu đi tiếp chừng năm chục ngày thì tới một cảng của một thành phố xinh đẹp, đông dân, buôn bán sầm uất. Đây là thủ đô của một nước lớn. Một vài sĩ quan của nhà vua lên tàu, tập hợp các lái buôn và thuỷ thủ lại, nói với mọi người như sau:
- Nhà vua của chúng tôi có một vị thủ hiến viết chữ rất đẹp; vị quan ấy vừa qua đời cách đây mấy hôm, nhà vua rất buồn phiền về việc này. Ngài có lời hứa long trọng rằng sẽ trao chức thủ hiến cho ai viết được chữ đẹp như người quá cố. Rất nhiều người đã tới viết thử nhưng cho đến nay, trong toàn vương quốc, chưa có ai xứng đáng với chức vị ấy. Các người có muốn tới viết thử không?
Nhiều lái buôn cho rằng chữ mình đẹp, muốn đạt được cái ngôi thứ cao trọng ấy, tới viết những gì mà họ muốn. Khi mội người đã viết hết, tôi tiến lên cầm lấy cuộn giấy mà một người đang cầm trên tay. Mọi người, nhất là các lái buôn vừa viết thử, tưởng rằng tôi muốn xé cuộn giấy hoặc ném nó xuống biển, đều kêu ầm lên, nhưng viên thuyền trưởng đã đứng ra bảo vệ tôi một lần nữa.
- Để yên cho nó viết! - Ông nói - Nếu nó bôi bẩn tờ giấy, tôi hứa với các bạn là tôi sẽ trừng phạt nó ngay tức khắc...
Thấy mọi người không phản đối, tôi cầm lấy bút và viết lên giấy sáu kiểu chữ khác nhau thường dùng của người A-rập, trong mỗi kiểu chữ tôi viết một đoạn thơ hai câu hoặc một bài thơ tứ tuyệt ca tụng nhà vua. Chữ viết của tôi không chỉ đẹp vượt xa những người lái buôn mà còn vượt cả những người viết đẹp nhất trong vương quốc này, tôi dám nói như vậy. Khi tôi viết xong, các viên sĩ quan cảm thấy ngượng ngùng trước tài năng của tôi, cuộn tờ giấy lại, mang về trình với nhà vua. Nhà vua ngạc nhiên, không thể không cho đòi tôi tới.
- Mang ngay tức khắc con khỉ quý, hiếm ấy tới đây - Ngài nói.
Các sĩ quan trở lại con tàu, mặc cho tôi một tấm áo gấm, mang tôi lên bờ, và đặt tôi lên một con ngựa của chính nhà vua. Tôi đi qua thành phố đông nghịt người, vì đã có tiếng đồn là nhà vua đã chọn một con khỉ làm quan thủ hiến của mình. Nhà vua đón tôi một cách vui vẻ, cho tôi ngồi cùng bàn ăn với ngài và thán phục tôi, một con vật, khéo tay và thông minh đến như vậy. Sau khi đã thử thách, tôi qua nhiều việc làm khác nhau, nhà vua ra hiệu hỏi tôi có biết chơi không, tôi gật đầu tỏ ý muốn đấu cờ với ngài, tôi cúi đầu xuống, đặt tay lên đầu, ra hiệu rằng tôi sẵn sàng nhận cái vinh hạnh đó. Ngài thắng tôi ván thứ nhất nhưng tôi thắng tiếp ngài ván thứ hai, thứ ba, tới mức ngài không muốn chỉ một mình chứng kiến sự kiện kỳ lạ ấy mà còn cho gọi công chúa, con gái ngài là phu nhân Sắc đẹp, tới.
Viên tổng quản chạy đi, một lát sau trở lại cùng với công chúa. Nàng đeo chàng mạng, nhưng khi bước vào phòng nàng bỏ mạng ra và hỏi vua cha:
- Muôn tâu, có lẽ Hoàng thượng đã quên. Con lấy làm lạ tại sao vua cha lại cho con tới trước mặt một người lạ như thế này. Đúng đây là một con khỉ nhìn vẻ bề ngoài, nhưng thực ra đây là một hoàng tử trẻ tuổi con một vị vua. Chàng đã bị biến thành khỉ do phép lạ. Một vị thần, con trai của phu nhân Ê-blit, đã làm việc này sau khi đã giết chết công chúa con vua đảo Gỗ Mun.
Ngạc nhiên về lời tâu ấy, nhà vua quay về phía tôi, ra hiệu cho tôi, hỏi những lời của công chúa con gái mình vừa nói có đúng không, tôi đặt tay lên đầu ra hiệu rằng công chúa đã nói đúng.
- Con gái thân yêu- Nhà vua nói- Tại sao con biết đây là một vị hoàng tử bị hoá phép thành khỉ?
- Muôn tâu hoàng thượng. Hoàng thượng cần nhớ rằng lúc bé con đã ở bên một bà già. Bà ấy là một nhà ả thuật có tài; bà đã dạy con bảy mươi phép khoa học ấy. Con có thể mang lâu đài của cha ra giữa đại dương hoặc tới núi Cô- ca-dơ. Cũng nhờ phép khoa học ấy con biết ai đã bị hoá phép thành con vật.
- Nếu như vậy - Nhà vua nói - Con có thể làm hoàng tử trở lại nguyên hình được không?
- Được. Muôn tâu Hoàng thượng- Công chúa trả lời - Con có thể làm cho hoàng tử trở lại hình hài cũ được.
- Con làm đi- Nhà vua nói - Con sẽ làm ta hài lòng vì ta muốn vị thủ hiến sau này của ta kết duyên cùng con.
Nàng công chúa đọc thần chú với một ngôn ngữ khó hiểu, sau đó nàng đọc kinh Cô-ran. Bỗng nhiên trời đất tối sầm và bộ máy tạo hoá như tan biến. Chúng tôi quá sợ hãi và càng sợ hãi hơn khi thấy vị thần, con trai phu nhân Ê-blít, bỗng nhiên xuất hiện dưới dạng một con sư tử lớn. Khi thấy công chúa nó mở ngoác mồm xông vào để xé xác nàng. Nhưng công chúa đã đề phòng, nàng nhảy lùi một bước và có thời gian để nhổ một sợi tóc nói một vài câu gì đó, thế là biến vị thần thành một cơn lốc lửa quay cuồng, cơn lốc lửa biến đi mất khi nàng thổi vào nó một hơi rất mạnh.
Nhưng ngay lúc đó cơn lốc lửa quay lại chui vào trong phòng chúng tôi đang ngồi,
chúng tôi bị lửa vây quanh. Chúng tôi sẽ bị thiêu cháy nếu công chúa không kịp thời tới ứng cứu. Tuy nhiên nhà vua cũng đã bị cháy râu, viên tổng quản bị ngất đi, còn tôi bị tia lửa bắn vào con mắt bên phải bị chột. Nhà vua và tôi bị tia lửa bắn vào con mắt bên phải nên bị chột. Nhà vua và tôi tưởng mình sẽ nguy khốn thì nghe thấy tiếng reo hò: "Thắng lợi rồi! Thắng lợi rồi!", nhìn ra chúng tôi thấy vị thần cháy thành than.
Không để mất thời gian, tiến lại phía chúng tôi, yêu cầu người ta mang đến cho mình một chén nước công chúa đọc mấy câu thần chú, sau đó hắt nước vào người tôi và nói:
- Nếu mi bị phù phép thành khỉ thì hãy biến người thành như trước kia!
Công chúa vừa nói hết câu thì lập tức tôi trở lại thành người như cũ và bị chột một mắt. Nhưng tôi chưa kịp vui mừng thì một tia lửa từ xác vị thần rơi đúng vào công chúa và thiêu cháy nàng trong chớp mắt.
Sự đau buồn vì mất người con gái làm cho vua ốm liệt giường trong một tháng ròng, còn tôi trong thời gian ấy phải ở lại trong lâu đài theo lệnh của nhà vua. Khi chưa bình phục hẳn ngài đã cho gọi tôi tới.
- Hoàng tử - Ngài nói - Hãy nghe lệnh của ta đây: nếu ngươi không làm theo thì người sẽ bị mất mạng.
Tôi cam đoan sẽ làm theo mệnh lệnh của nhà vua.
- Xưa nay ta vẫn sống trong sự bình yên hoàn toàn, không có một tai hoạ nào xảy đến với ta. Việc ngươi tới đây làm nảy nở thêm hạnh phúc cho ta. Nhưng rồi con gái ta đã chết, ngôi báu của nó không còn nữa. Ta còn sống thì đây là một sự kỳ diệu. Ngươi là nguyên nhân của tất cả những bất hạnh ấy, điều mà ta không thể nào tự an ủi được. Đó là lý do tại sao ngươi phải ra đi, và ra đi ngay lập tức: Ta sẽ rất sầu não nếu ngươi còn ở đây ngươi sẽ gây cho ta những bất hạnh khác nữa.
Tôi muốn nói, nhưng không dám mở miệng trước những lời giận dữ ấy và tôi đã phải rời khỏi lâu đài của nhà vua. Bị hắt hủi, bị đuổi đi, bị mọi người bỏ rơi, tôi cạo râu tóc, mặc áo nhà sư khất thực vào người. Tôi vừa đi vừa khóc, không phải cho số phận của mình mà cho hai công chúa xinh đẹp vì tôi đã chết một cách thảm thương. Tôi đi qua nhiều xứ sở xa lạ và cuối cùng quyết định tới Bát-đa trong hy vọng kể lại cho Người dìu dắt các tín đồ ở đây câu chuyện kỳ lạ này. Tôi tới đây lúc chiều nay, và người tôi gặp đầu tiên là nhà sư khất thực anh em, người kể chuyện của mình trước tôi. Bà đã biết đoạn cuối, thưa phu nhân, đó là lý do mà tôi tới đây.
- Đúng thế - Zo-bê-ít nói - Bây giờ ngươi đi đâu thì đi, ta cho phép
Đáng lẽ ra đi thì nhà sư khất thực lại xin được ở lại như nhà sư khất thực thứ nhất và sau đó, anh ta lên ngồi ghế bên người bạn của mình. Nhà sư khất thực thứ ba thấy đến lượt mình quay về phía Zô-bê-ít và bắt đầu kể chuyện.
Đi đường được một tháng thì một hôm chúng tôi thấy từ xa, một đám mây bụi tung lên trong đó năm mươi người cưỡi ngựa vũ khĩ trang bị đến tận răng. Đó là những tên cướp đang phóng ngựa tới chỗ chúng tôi. Chúng tôi không chỉ có mười con ngựa chở hành lý và quà biếu mà tôi phải mang tới nhà vua ấn độ theo lệnh của cha tôi, mặt khác chúng tôi có rất ít người, bà cũng biết là những tên kẻ cướp ấy có thể nghiền nát chúng tôi là chắc chắn. Tôi chạy trốn vào một cái hang, ngủ đêm tại dó sau khi ăn vài quả rừng hái ở dọc đường.
Hôm sau tôi tiếp tục đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Sau một tháng tôi tới thành phố giàu có và đông dân, hình như lúc này cũng đang trong mùa xuân. Không biết tìm ai, tôi đến gặp một ông thợ may đang khâu vá trong cửa hiệu, tôi kể cho ông nghe câu chuyện của mình. Ông nghe chăm chú và tỏ ra thương cảm đối với tôi.
- Anh hãy giữ - Ông ta nói - Không để ai biết câu chuyện anh vừa kể với tôi, vì nhà vua của vương quốc này là kẻ thù của vua cha anh, chắc chắn ông ta sẽ tống anh vào tù khi anh thấy ở đây.
Tôi cảm ơn ông thợ may và hứa với ông ta làm theo đúng những lời khuyên của ông. Vì thấy tôi đói nên ông đã cho tôi ăn và thu xếp cho tôi một nơi nghỉ.
Vài hôm sau, thấy tôi đã hồi sức sau một chuyến đi dài ngày, ông thợ may mua cho tôi một cái rìu, một cuộn dây thừng và một bộ quần áo ngắn rồi nói rằng những người nghèo khó ở đây kiếm sống bằng cách đi đốn củi và yêu cầu tôi cũng làm như vậy, ông nhờ những người đốn củi trong vùng giúp đỡ tôi. Họ dẫn tôi vào rừng từ sáng sớm, tôi đội trên đầu một bó củi lớn về bán được nửa đồng tiền vàng của xứ này. Dần dần tôi kiếm đủ tiền trả cho ông thợ may số tiền mà ông đã ứng ra để chi tiêu cho tôi.
Tôi sống bằng cách đó trong một năm trời cho đến một ngày kia, theo thói quen, tôi vào khoảnh rừng nhiều cây để đốn củi. Khi đang đánh bật rễ một cây, tôi thấy một chiếc vòng bằng kim loại gắn trên một chiếc nắp cũng bằng thứ kim loại ấy. Tôi bới đất xung quanh và nhấc cái nắp lên thì thấy dưới đó có những bậc thang. Tôi xuống thang mang theo chiếc rìu. Khi tới chân thang tôi thấy một lâu đài lớn có những chiếc cột bằng đá vân, bên trong có những chiếc lọ và đầu cột bằng vàng đặc. Trong khi tôi đang mê mải nhìn thì một phu nhân ở phòng bên bất chợt bước ra. Tôi lễ phép chào nàng.
- Anh là ai, là người hay thần? - Nàng hỏi tôi.
- Thưa bà- Tôi nói - Tôi là người.
- Do sự tình cờ nào mà anh tới đây?- Nàng thở dài hỏi tôi - Tôi ở đây đã hai mươi nhăm năm nay, trong suốt thời gian đó anh là người đàn ông đầu tiên mà tôi gặp
Với vẻ đẹp lộng lẫy, tính hiền hậu và thật thà trong sự đón tiếp ấy, tôi hoàn toàn yên tâm. Tôi kể cho nàng nghe những chuyện kỳ lạ nào khiến tôi từ một hoàng tử trở thành người kiếm củi và tại sao tôi vào được cái nhà giam này.
- Ôi hoàng tử - Nàng lại thở dài - Đúng đây là một nhà giam. Chàng có nghe thấy nói về nhà vua vĩ đại Ê-pi-tim-ma-rút, vua của đảo Gỗ Mun, gọi như vậy vì trên đảo này có rất nhiều loại gỗ ấy, bao giờ chưa?
Thiếp là công chúa con vua. Một vị thần đã bắt và nhốt thiếp vào đây.
Thiếp không thể nào tự an ủi được, nhưng thời gian và sự cần thiết đã làm thiếp phải nhìn và phải chịu đau đớn với con quỷ ấy. Cứ mười ngày một lần hắn về đây xem thiếp có mặt ở nhà không và mang thức ăn về. Khi nào cần gọi hắn, bất kể là ngày hay đêm, thiếp chỉ cần đụng vào lá bùa treo trước cửa phòng mình, thì tức khắc hắn trở về. Hắn đã đi được bốn ngày, thiếp phải đợi hắn trong sáu ngày nữa. Do đó tại sao chàng có thể ở lại đây cùng thiếp mà không e ngại gì. Trong khi nàng dẫn tôi đi thăm lâu đài, do vô ý, tôi đã đá phải lá bùa làm nó rách thành nhiều mảnh. Ngay lập tức cả lâu đài rung chuyển từ nền móng với những tiếng động ghê ghớm, tiếp theo là những tia chớp loè trong đêm tối.
- Chàng chạy mau! - Công chúa kêu lên - Nếu không vị thần sẽ giết chết nàng.
Tôi làm theo lời nàng, nhưng vì quá hốt hoảng nên tôi đã bỏ quên chiếc rìu và đôi giày ở lại. Tôi vừa leo lên khỏi thang gác, chiếc cầu thang mà tôi đã xuống, thì nóc lâu đài mở toang, một vị thần xuất hiện.
- Đã có chuyện gì xảy ra và tại sao nàng gọi ta về? - Hắn hỏi công chúa bằng giọng giận dữ.
- Không có chuyện gì cả - Nàng trả lời - Khi thiếp đi ngang qua đây, do vô ý bước hụt ngã nên lá bùa bị rách. Không có chuyện gì khác.
- Mi là đứa nói dối vụng về! Tại sao có chiếc rìu và đôi giày ở đây?
- Thiếp chưa bao giờ trông thấy chúng - Công chúa trả lời - Có thể là do thuận tay, người mang nó ở đâu về mà không biết.
Vị thần ấy trả lời bằng những câu nguyền rủa và những cú đánh mà từ xa tôi nghe thấy rất rõ. Tôi hạ chiếc nắp hầm và phủ đất lên, trở về thành phố với bó củi mà không biết phải là gì tuy rất thương công chúa.
Sau đó chừng một tiếng đồng hồ từ lúc về đến nhà thì ông thợ may vào phòng tôi nói:
- Có một ông già mà tôi không quen tới đây với chiếc rìu và đôi giày của anh, nói là nhặt được ở trên đường. Ông ta bảo đã được các bạn anh cho biết anh đang ở đây. Ông ta muốn tự tay giao những thứ đó cho anh, anh ra nói chuyện với ông ấy.
Nghe thấy vậy, mặt tôi tái xanh, người run lẩy bẩy. Ông thợ may hỏi tại sao thì cửa bật mở. Ông già sốt ruột không thể chờ nữa, xuất hiện với chiễc rìu và đôi giày của tôi. Đó là vị thần đã bắt cóc nàng công chúa trên đảo Gỗ Mun, cải trang như vậy để đi tìm tôi.
- Ta là thần - Hắn bảo tôi - Con trai của thần Ê-blít, là vua của các thần. Đây có phải là chiếc rìu của nhà ngươi không?
Không để tôi có thời gian trả lời, hắn túm ngang người tôi mang ra khỏi phòng và bay lên không trung, với tốc độ chóng mặt, cuối cùng đỗ xuống lâu đài dưới đất của hắn. Công chúa đảo Gỗ Mun đang sống dở, chết dở nằm trên mặt đất, nước mắt đầm đìa.
- Đồ điên đảo - Vị thần chỉ tay vào tôi- Mi có biết người này không?
Nàng buồn bã nhìn tôi, trả lời không ngập ngừng:
- Tôi không biết, tôi chưa nhìn thấy người này bao giờ
- Nếu vậy - Vị thần rút kiếm ra và nói - Nếu đúng là không biết hắn thì mi cầm thanh kiếm này và chặt đầu hắn đi!
- Than ôi!- Công chúa nói - Làm thế nào mà ta làm theo lệnh của ngươi được? Ngươi đánh ta khiến ta không nhấc nổi cánh tay lên nữa.
Vị thần quay sang phía tôi:
- Còn mi, mi có biết nó không?
- Làm thế nào mà tôi biết được- Tôi trả lời - Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người này.
- Nếu vậy - Hắn nói tiếp - Cầm lấy thanh kiếm này và chặt đầu nó đi. Đó là cái giá để trả tự do cho nhà ngươi.
- Tôi sẽ vĩnh viễn bị nguyền rủa nếu tôi hèn nhát giết người phụ nữ đang trong tình trạng hấp hối như thế này. Ngươi muốn làm gì thì làm, tuỳ ý, nhưng ta không thể làm theo lệnh dã man ấy.
- Ta thấy rõ - Vị thần nói - Các ngươi đang chế giễu ta, cả hai đứa. Ta phải xét xử không trậm chễ.
Dứt lời, vị thần giơ kiếm lên và đâm trúng tim nàng công chúa khốn khổ khiến nàng chết ngay lập tức.
- Giết cả ta nữa đi- Tôi bảo hắn- Ta sẵn sàng nhận nhát kiếm, ta coi đây là ân huệ với ta mà ngươi có thể làm được.
- Việc trả thù của ta không phải như thế - Hắn đáp - Ta muốn biến nhà người thành chó, thành lừa, thành sư tử, hoặc thành chim là tuỳ ý của ta, nhưng ta muốn để mi tự lựa chọn.
Những lời nói đó cho tôi một vài hy vọng lay chuyển hắn.
- Ôi vị thần - Tôi xin ngài bớt giận; vì ngài không muốn giết tôi, xin cứ để nguyên thân hình tôi, chứ đừng biến tôi thành những con vật như vậy.
- Không- Hắn cười nói - Ta phải cho mi biết là ta có những pháp thuật gì.
Nói xong hắn xách ngang người tôi bay lên một đỉnh núi rất cao. Tới nơi, hắn bốc một nắm đất, lẩm bẩm những lời gì đó mà tôi không hiểu, sau đó ném vào người tôi.
- Hãy bỏ bộ mặt người- Hắn bảo tôi - Mang lấy bộ mặt khỉ!
Nói xong hắn biến mất, tôi ở lại trên đỉnh núi một mình và biến thành khỉ, đau đớn trên một xứ sở xa lạ, không biết rằng mình đang ở gần hay ở xa vương quốc của cha tôi.
Tôi xuống núi, tới một đồng bằng bên bờ biển. Tôi ra tận mép biển. Biển lặng sóng, tôi nhìn thấy một con tàu cách đất liền chừng một nửa hải lý. Để không bỏ lỡm một dịp may, tôi lấy một cành câu to, mang ra biển, ngồi lên trên và với một cây gậy tôi chèo.
Khi tới gần con tàu thì thuỷ thủ và hành khách chạy tới mạn tàu. Tôi bám vào một sợi dây và trèo lên boong tàu. Vì không thể nói được nên tôi lầm vào tình trạng bối rối ghê ghớm. Những người lái buôn mê tín cho rằng tôi mang nỗi bất hạnh đến cho chuyến đi nếu để lại tôi trên tàu, họ nói: "Tôi sẽ giết nó bằng cái bơi chèo"; Người kia nói: "Tôi sẽ cho nó một mũi tên xuyên qua người"; người khác nữa lại nói: "Ném nó xuống biển". Tôi chạy đến bên ông thuyền trưởng, bám lấy áo ông trong tư thế van nài khiến ông cảm động, nhất là khi thấy tôi khóc, ông bảo vệ tôi, nhận tôi làm con nuôi của đoàn thuỷ thủ. Tàu đi tiếp chừng năm chục ngày thì tới một cảng của một thành phố xinh đẹp, đông dân, buôn bán sầm uất. Đây là thủ đô của một nước lớn. Một vài sĩ quan của nhà vua lên tàu, tập hợp các lái buôn và thuỷ thủ lại, nói với mọi người như sau:
- Nhà vua của chúng tôi có một vị thủ hiến viết chữ rất đẹp; vị quan ấy vừa qua đời cách đây mấy hôm, nhà vua rất buồn phiền về việc này. Ngài có lời hứa long trọng rằng sẽ trao chức thủ hiến cho ai viết được chữ đẹp như người quá cố. Rất nhiều người đã tới viết thử nhưng cho đến nay, trong toàn vương quốc, chưa có ai xứng đáng với chức vị ấy. Các người có muốn tới viết thử không?
Nhiều lái buôn cho rằng chữ mình đẹp, muốn đạt được cái ngôi thứ cao trọng ấy, tới viết những gì mà họ muốn. Khi mội người đã viết hết, tôi tiến lên cầm lấy cuộn giấy mà một người đang cầm trên tay. Mọi người, nhất là các lái buôn vừa viết thử, tưởng rằng tôi muốn xé cuộn giấy hoặc ném nó xuống biển, đều kêu ầm lên, nhưng viên thuyền trưởng đã đứng ra bảo vệ tôi một lần nữa.
- Để yên cho nó viết! - Ông nói - Nếu nó bôi bẩn tờ giấy, tôi hứa với các bạn là tôi sẽ trừng phạt nó ngay tức khắc...
Thấy mọi người không phản đối, tôi cầm lấy bút và viết lên giấy sáu kiểu chữ khác nhau thường dùng của người A-rập, trong mỗi kiểu chữ tôi viết một đoạn thơ hai câu hoặc một bài thơ tứ tuyệt ca tụng nhà vua. Chữ viết của tôi không chỉ đẹp vượt xa những người lái buôn mà còn vượt cả những người viết đẹp nhất trong vương quốc này, tôi dám nói như vậy. Khi tôi viết xong, các viên sĩ quan cảm thấy ngượng ngùng trước tài năng của tôi, cuộn tờ giấy lại, mang về trình với nhà vua. Nhà vua ngạc nhiên, không thể không cho đòi tôi tới.
- Mang ngay tức khắc con khỉ quý, hiếm ấy tới đây - Ngài nói.
Các sĩ quan trở lại con tàu, mặc cho tôi một tấm áo gấm, mang tôi lên bờ, và đặt tôi lên một con ngựa của chính nhà vua. Tôi đi qua thành phố đông nghịt người, vì đã có tiếng đồn là nhà vua đã chọn một con khỉ làm quan thủ hiến của mình. Nhà vua đón tôi một cách vui vẻ, cho tôi ngồi cùng bàn ăn với ngài và thán phục tôi, một con vật, khéo tay và thông minh đến như vậy. Sau khi đã thử thách, tôi qua nhiều việc làm khác nhau, nhà vua ra hiệu hỏi tôi có biết chơi không, tôi gật đầu tỏ ý muốn đấu cờ với ngài, tôi cúi đầu xuống, đặt tay lên đầu, ra hiệu rằng tôi sẵn sàng nhận cái vinh hạnh đó. Ngài thắng tôi ván thứ nhất nhưng tôi thắng tiếp ngài ván thứ hai, thứ ba, tới mức ngài không muốn chỉ một mình chứng kiến sự kiện kỳ lạ ấy mà còn cho gọi công chúa, con gái ngài là phu nhân Sắc đẹp, tới.
Viên tổng quản chạy đi, một lát sau trở lại cùng với công chúa. Nàng đeo chàng mạng, nhưng khi bước vào phòng nàng bỏ mạng ra và hỏi vua cha:
- Muôn tâu, có lẽ Hoàng thượng đã quên. Con lấy làm lạ tại sao vua cha lại cho con tới trước mặt một người lạ như thế này. Đúng đây là một con khỉ nhìn vẻ bề ngoài, nhưng thực ra đây là một hoàng tử trẻ tuổi con một vị vua. Chàng đã bị biến thành khỉ do phép lạ. Một vị thần, con trai của phu nhân Ê-blit, đã làm việc này sau khi đã giết chết công chúa con vua đảo Gỗ Mun.
Ngạc nhiên về lời tâu ấy, nhà vua quay về phía tôi, ra hiệu cho tôi, hỏi những lời của công chúa con gái mình vừa nói có đúng không, tôi đặt tay lên đầu ra hiệu rằng công chúa đã nói đúng.
- Con gái thân yêu- Nhà vua nói- Tại sao con biết đây là một vị hoàng tử bị hoá phép thành khỉ?
- Muôn tâu hoàng thượng. Hoàng thượng cần nhớ rằng lúc bé con đã ở bên một bà già. Bà ấy là một nhà ả thuật có tài; bà đã dạy con bảy mươi phép khoa học ấy. Con có thể mang lâu đài của cha ra giữa đại dương hoặc tới núi Cô- ca-dơ. Cũng nhờ phép khoa học ấy con biết ai đã bị hoá phép thành con vật.
- Nếu như vậy - Nhà vua nói - Con có thể làm hoàng tử trở lại nguyên hình được không?
- Được. Muôn tâu Hoàng thượng- Công chúa trả lời - Con có thể làm cho hoàng tử trở lại hình hài cũ được.
- Con làm đi- Nhà vua nói - Con sẽ làm ta hài lòng vì ta muốn vị thủ hiến sau này của ta kết duyên cùng con.
Nàng công chúa đọc thần chú với một ngôn ngữ khó hiểu, sau đó nàng đọc kinh Cô-ran. Bỗng nhiên trời đất tối sầm và bộ máy tạo hoá như tan biến. Chúng tôi quá sợ hãi và càng sợ hãi hơn khi thấy vị thần, con trai phu nhân Ê-blít, bỗng nhiên xuất hiện dưới dạng một con sư tử lớn. Khi thấy công chúa nó mở ngoác mồm xông vào để xé xác nàng. Nhưng công chúa đã đề phòng, nàng nhảy lùi một bước và có thời gian để nhổ một sợi tóc nói một vài câu gì đó, thế là biến vị thần thành một cơn lốc lửa quay cuồng, cơn lốc lửa biến đi mất khi nàng thổi vào nó một hơi rất mạnh.
Nhưng ngay lúc đó cơn lốc lửa quay lại chui vào trong phòng chúng tôi đang ngồi,
chúng tôi bị lửa vây quanh. Chúng tôi sẽ bị thiêu cháy nếu công chúa không kịp thời tới ứng cứu. Tuy nhiên nhà vua cũng đã bị cháy râu, viên tổng quản bị ngất đi, còn tôi bị tia lửa bắn vào con mắt bên phải bị chột. Nhà vua và tôi bị tia lửa bắn vào con mắt bên phải nên bị chột. Nhà vua và tôi tưởng mình sẽ nguy khốn thì nghe thấy tiếng reo hò: "Thắng lợi rồi! Thắng lợi rồi!", nhìn ra chúng tôi thấy vị thần cháy thành than.
Không để mất thời gian, tiến lại phía chúng tôi, yêu cầu người ta mang đến cho mình một chén nước công chúa đọc mấy câu thần chú, sau đó hắt nước vào người tôi và nói:
- Nếu mi bị phù phép thành khỉ thì hãy biến người thành như trước kia!
Công chúa vừa nói hết câu thì lập tức tôi trở lại thành người như cũ và bị chột một mắt. Nhưng tôi chưa kịp vui mừng thì một tia lửa từ xác vị thần rơi đúng vào công chúa và thiêu cháy nàng trong chớp mắt.
Sự đau buồn vì mất người con gái làm cho vua ốm liệt giường trong một tháng ròng, còn tôi trong thời gian ấy phải ở lại trong lâu đài theo lệnh của nhà vua. Khi chưa bình phục hẳn ngài đã cho gọi tôi tới.
- Hoàng tử - Ngài nói - Hãy nghe lệnh của ta đây: nếu ngươi không làm theo thì người sẽ bị mất mạng.
Tôi cam đoan sẽ làm theo mệnh lệnh của nhà vua.
- Xưa nay ta vẫn sống trong sự bình yên hoàn toàn, không có một tai hoạ nào xảy đến với ta. Việc ngươi tới đây làm nảy nở thêm hạnh phúc cho ta. Nhưng rồi con gái ta đã chết, ngôi báu của nó không còn nữa. Ta còn sống thì đây là một sự kỳ diệu. Ngươi là nguyên nhân của tất cả những bất hạnh ấy, điều mà ta không thể nào tự an ủi được. Đó là lý do tại sao ngươi phải ra đi, và ra đi ngay lập tức: Ta sẽ rất sầu não nếu ngươi còn ở đây ngươi sẽ gây cho ta những bất hạnh khác nữa.
Tôi muốn nói, nhưng không dám mở miệng trước những lời giận dữ ấy và tôi đã phải rời khỏi lâu đài của nhà vua. Bị hắt hủi, bị đuổi đi, bị mọi người bỏ rơi, tôi cạo râu tóc, mặc áo nhà sư khất thực vào người. Tôi vừa đi vừa khóc, không phải cho số phận của mình mà cho hai công chúa xinh đẹp vì tôi đã chết một cách thảm thương. Tôi đi qua nhiều xứ sở xa lạ và cuối cùng quyết định tới Bát-đa trong hy vọng kể lại cho Người dìu dắt các tín đồ ở đây câu chuyện kỳ lạ này. Tôi tới đây lúc chiều nay, và người tôi gặp đầu tiên là nhà sư khất thực anh em, người kể chuyện của mình trước tôi. Bà đã biết đoạn cuối, thưa phu nhân, đó là lý do mà tôi tới đây.
- Đúng thế - Zo-bê-ít nói - Bây giờ ngươi đi đâu thì đi, ta cho phép
Đáng lẽ ra đi thì nhà sư khất thực lại xin được ở lại như nhà sư khất thực thứ nhất và sau đó, anh ta lên ngồi ghế bên người bạn của mình. Nhà sư khất thực thứ ba thấy đến lượt mình quay về phía Zô-bê-ít và bắt đầu kể chuyện.
Chuyện
nhà sư khất thực thứ ba
Tôi tên là A-dip - Anh ta
nói - Và tôi là con một nhà vua tên là Cát-xíp. Sau khi cha tôi qua đời, vì
thích đi du lịch, tôi cho đóng một đội tàu hạ thuỷ lên bờ biển đảo của chúng
tôi để đi thăm hỏi những người dưới quyền. Những chuyến đi trước đã cho tôi một
vài kinh nghiệm về nghề hàng hải nên nay tôi có ý định đi khám phá những vùng
ngoài đảo của mình. Sau khi đóng xong mười con tàu chúng tôi ra đi.
Chuyến đi của chúng tôi bình an vô sự trong bốn chục ngày; nhưng tới đêm ngày thứ bốn mươi mốt, bão táp nổi lên dữ dội khiến mười con tàu tách rời nhau, mỗi tàu đi một ngả. Con tàu của tôi bị sóng dữ nhấn chìm xuống biển sâu. Mọi người đều bị chết đuối; nhưng khi thượng đế đã thương hại tôi, tôi bám vào được một mảnh ván, gió đưa tôi vào một hòn đảo nhiều cây. Quá mệt nhọc, tôi nằm lăn ra ngủ bên bờ biển.
Hôm sau tôi lùng sục trên đảo nhưng không thấy dấu vết nào là có người ở đây. Tôi tìm nơi thuận tiện để ở lại và hy vọng thấy được một cánh buồm ở nơi chân trời.
Tôi sống trong tình cảnh buồn thảm ấy trong một tháng ròng. Thời gian ấy tôi thấy nước biển ngày càng hạ dần xuống, hòn đảo ngày càng lớn lên. Cuối cùng tôi thấy hòn đảo của tôi nối với đất liền bằng một con sông nhỏ. Tôi lội qua sông, nước chỉ lên tới đầu gối. Tôi đi rất lâu trên cát và đã thấm mệt. Cuối cùng tôi tới được một nơi cao ráo, đã rất xa biển, thì bất chợt tôi thấy từ xa một mảng trời đỏ rực như đang có một đám cháy lớn. Tôi tiến lại phía đó, khi tới gần tôi thấy mình đã nhầm. Cái mà tôi cho là lửa thì đó là một lâu đài bằng đồng hồ đỏ, ánh sáng mặt trời chiếu làm ta có cảm giác như nó đang bốc cháy.
Tôi dừng bước trước lâu đài, đang ngồi để ngắm kiểu kiến trúc của nó, thì thấy mười người con trai đang đi dạo. Họ ăn vận chỉnh tề, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là họ đều chột mắt bên phải cả. Đi theo họ là một ông già đạo mạo vóc người coa lớn.
Tôi rất lấy làm lạ vì tại sao lại một lúc gặp nhiều người chột mắt đến như vậy, mà đều chột mắt bên phải cả. Trong khi tôi đang cố gắng suy nghĩ về hiện tượng lạ lùng này thì họ đến bên tôi chào hỏi vui vẻ. Sau đó họ hỏi tôi lý do nào khiên tôi tới đây. Tôi kể chuyện đắm tàu, chuyện mình đã sống đơn độc quá lâu khiến họ vô cùng thương cảm. Sau đó, những vị lãnh chúa trẻ ấy mời tôi vào lâu đài của họ. Tôi nhận lời mời, chúng tôi đi qua một dãy hành lang của nhiều phòng lớn và phóng xép, cuối cùng vào một phòng lớn có mười chiếc ghế sô-pha bọc vải xanh xếp thành vòng tròn, ở giữa vòng tròn có một chiếc ghế cùng màu nhưng lớn hơn dành cho ông già mười chàng trai ngồi trên những chiếc ghế kia.
- Anh bạn - Một người trong số họ bảo tôi - Anh hãy ngồi trên tấm thảm ở giữa nhà, và đừgn hỏi những gì không liên quan đến anh, cả việc tại sao chúng tôi đều chột ở mắt phải. Không nên tò mò, nếu không sự tàn tật ấy cũng xảy ra với anh.
Ông già không ngồi lâu, ông đứng lên và đi ra, nhưng sau đó lạu trở vài mang cháo chia cho mười người. Ông già đưa suất ăn cho tôi như những người khác; cuối bữa, ông già tiếp chúng tôi mỗi người một cốc rượu vang.
Đến khuya, trong lúc chúng tôi đang ngồi yên lặng thì ông già đi vào phòng bên, khi đi ra đội trên đầuu một mâm phủ vải xanh, trên đó có mười cái bát. Ông đặt trước mặt mỗi người một cái bát trong đó có tro than, bột màu đen trộn lẫn vào nhau. Mỗi người cầm lấy chiếc bát của mình và bôi tro lên mặt, trông sợ đến phát khiếp. Sau khi làm nhem nhuốc mặt mày họ bắt đầu khóc lóc, than vãn, đám tay vào đầu, vào ngực, miệng nhắc đi nhắc lại : "Đây là kết quả của sự lười biếng và thói ăn chơi của chúng tôi!"
Họ làm việc này hầu như suốt đêm. Khi kết thúc, ông già mang nước ra cho họ rửa tay, rửa mặt, họ thay áo quần cũng bị bôi bẩn bằng bộ sạch sẽ, như là họ chưa tứng làm cái việc lạ lùng mà tôi vừa là khán giả.
Cảnh ấy diễn ra vào đêm hôm sau và những đêm tiếp theo đó, tới mức tôi không thể cưỡng lại tính tò mò của mình, tôi hỏi họ hoặc họ cho tôi biết rõ câu chuyện, hoặc là chỉ đường cho tôi về vương quốc của mình. Tôi nói là tôi không thể sống mãi với họ mà mỗi đêm lại xảy ra cái cảnh ấy trong khi tôi chẳng biết lý do của nó.
Một trong các vị lãnh chúa ấy nói thay mọi người:
- Nếu các anh muốn bị bất hạnh như chúng tôi thì anh chỉ cần nói, chúng tôi sẽ thoả mãn cái mà anh yêu cầu. Nhưng chúng tôi khuyên anh nên tò mò ít thôi, nếu không anh sẽ bị chột như chúng tôi.
- Mặc kệ! - Tôi trả lời - Tôi xin tuyên bố rằng, nếu tai họa ấy đến với tôi, tôi không coi các anh là thủ phạm, tôi tự chịu trách nhiệm.
Anh ta còn bảo tôi, nếu khi tôi bị hỏng mắt, thì tôi không hy vọng gì ở lại đây với họ bởi số người của họ đã đủ rồi, không thể tăng thêm nữa. Tôi vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Mười người con trai thấy không lay chuyển được nguyện vọng của tôi, họ đi chọc tiết một con cừu, lột da nó, đưa cho tôi một con dao và nói:
- Cầm lấy con dao này, chúng tôi sẽ cho anh biết anh sẽ dùng nó để làm gì. Chúng tôi sẽ cho anh vào tấm da cừu và khâu lại, sau đó chúng tôi sẽ đặt anh ở trước lâu đài và ra về. Một con chim rất lớn, người ta gọi là chim thần, sẽ bay tới và sẽ quắp anh bay lên tận mây xanh. Nhưng không nên sợ hãi. Nó sẽ hạ cánh đặt anh lên một đỉnh núi cao. Tới nơi, anh lấy dao rạch tấm da cừu và thoát ra. Chim thần sẽ bay đi thấy người và để anh được tự do. Từ đấy anh sẽ đến một lâu đài rất lớn, có gắn vàng, kim cương và đá quý. Anh tới trước cửa, cửa để ngỏ, và đi vào. Mọi người chúng tôi đã tới lâu đài ấy, nhưng chúng tôi sẽ không nói với anh những gì chúng tôi đã nhìn thấy, anh tự tìm hiểu lấy. Cái mà chúng tôi có thể nói là tại đấy chúng tôi đã mất con mắt bên phải và hình phạt mà anh đã chứng kiến cũng từ đấy mà ra.
Tôi chui vào tấm da cừu, các anh khâu giúp lại, mang tôi ra trước lâu đài, đặt xuống, sau đó rút lui. Chim thần nhanh chóng bay tới, lao xuống quắp lấy tấm da cừu bằng những móng sắc và mang tôi tới một đỉnh núi cao.
Khi được đặt xuống đất, tôi đã kịp thời sử dụng con dao, rạch tấm da cừu và chui ra, chim thần bay mất khi nhìn thấy tôi. vì sốt ruột muốn tới ngay lâu đài, tôi bước nhanh nhưng cũng mất nửa ngày trời mới tới được. Cửa để mở. Tôi bước vào thấy một cái sân rất rộng, xung quanh có chín mươi chín cây cột bằng gỗ trầm hương và một cây cột bằng vàng đúc, không kể những cầu thang rất đẹp dẫn lên các lâu phía trên. Một trăm lối đi dẫn ra những khu vườn hoa, nhưng kho tàng đầy của quý.
Tôi đi qua một cửa để ngỏ gần đấy vào trong một phòng lớn, có bốn chục cô gái rất xinh đẹp mà trí tưởng tượng của tôi không thể đạt được đến điểm ấy, đang ngồi. Họ ăn vận kiều diễm. Tất cả đều đứng lên khi thấy tôi, không đợi những lời ngợi khen của tôi, họ tỏ ra rất vui mừng:
- Thưa đức ông, hãy là vị khách nồng hậu! Đã từ lâu chúng em trông đợi một hiệp sĩ như chàng. Phong cách của chàng lộ rõ những đức tính chúng em hằng mong muốn. Chúng em hy vọng rằng chàng không thấy chúng em là không xứng đáng với chàng.
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện về tôi cho tới chiều tối. Thế là những cô gái này mang tới rất nhiều nến làm sáng rực những bức tường căn phòng; trong khi các cô khác dọn bàn ăn, đặt lên đó những quả khô, mứt kẹo và những thức ăn ngon; các cô khác nữa thì chơi âm nhạc. Tất cả đã sẵn sàng để mời tôi ngồi vào bàn. Các cô cùng ngồi với tôi, và chúng tôi ăn uống rất lâu. Sau đó các cô chơi nhạc và cất tiếng hát thành một dàn hợp xướng êm ái. Các cô khác bắt đầu khiêu vũ, từng đôi một, hết người này đến người khác nhảy một điệu nhảy đẹp nhất thế gian.
Đã quá nửa đêm, tất cả những cuộc vui ấy chấm dứt, một nàng quay sang phía tôi và nói:
- Chàng đã mệt vì đi đường hôm nay, đã đến lúc chàng đi nghỉ. Phòng ngủ của chàng đã được chuẩn bị và chúng em mong rằng chàng có một giấc ngủ ngon lành.
Đúng là tôi đã có một giấc ngủ ngon. Tôi chỉ thức dậy vào lúc mặt trời mọc hôm sau. Khi tôi vừa ăn vận xong thì bồn chục cô gái tràn vào phòng tôi, đầm đìa nước mắt thay vì sự vui vẻ như tối hôm qua. Các cô lần lượt tới ôm hôn tôi hết người này đến người khác.
- Tạm biệt hoàng tử thân yêu, tạm biệt! Chúng em phải đi.
Nước mắt của họ làm tôi đau đớn. Tôi yêu cầu các cô cho tôi biết rõ nguyên nhân của sự buồn rầu của họ.
- Thế này- Một người trong các cô nói - Để chàng thoả mãn em phải nói ngay rằng chúgn em là những công chúa, con gái các nhà vua. Chúng em sống ở đây như chàng đã thấy; nhưng mỗi năm chúng em phải vắng nơi này bốn chục ngày vì những bổn phận cần thiết mà không thể tiết lộ được. Sau đo chúng em lại trở về lâu đài. Hôm qua là hết hạn một năm và hôm nay chúng em phải tạm biệt chàng; mà chàng vừa mới tới, đây là lý do sự buồn rầu của chúng em. Trước khi đi, chúng em để lại cho chàng tất cả những chùm chìa khoá của một trăm cánh cửa để chàng có thể đi thăm, làm dịu nỗi buồn đơn độc khi chúng em không có mặt ở đây. Nhưng vì sự an toàn và lợi ích của chàng, chúng em dặn chàng là không nên mở cánh cửa bằng vàng. Nếu chàng mở nó thì chúng ta không bao giờ gặp mặt nhau nữa và sự sợ hãi làm chúng em càng thêm đau đớn. Hy vọng chàng nhớ kỹ lời dặn của chúng em. Nó sẽ cho chúng ta sự nghỉ ngơi thanh thản và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Chúng em mong chàng đừng phạm sai lầm, để chúng em có được sự an ủi sau bốn chục ngày. Chúng em có thể mang chiếc chìa khoá cánh cửa bằng vàng đi, nhưng điều đó sợ làm phật ý một hoàng tử như chàng, tỏ ra không tin vào sự thận trọng và tư cách của chàng.
Lời nói của nàng công chúa xinh đẹp đã gây cho tôi một sự đau buồn thực sự Tôi nói với các nàng là sự vắng mặt của họ gây ra cho tôi nhiều phiền muộn. Tôi cảm ơn sự chăm sóc của họ với tô, những lời họ dặn dò tôi. Cuộc chia tay của chúng tôi diễn ra rất cảm động, tôi ôm hôn từng cô, cô này đến cô khác; sau đó họ ra đi, một mình tôi ở lại lâu đài.
Tôi hứa với mình là không được quên lời dặn dò quan trọng mà các nàng đã nói: không bao giờ được mở cánh cửa bằng vàng. Tôi cầm chìa khoá mở các cánh cửa vào thăm các phòng có rất nhiều vật quý, hiếm của lâu đài. Nhưng vì ham biết rõ nên tôi đã mở chín mươi chín cánh cửa trong ba mươi chín ngày. Chỉ còn một cánh cửa bị cấm. Đến ngày thứ bốn mươi kể từ lúc các nàng công chúa kiều diễm ra đi. Ngày mai họ sẽ về và sự thích thú gặp lại họ không át nổi tính tò mò của tôi. Nhưng sự yếu hèn ấy đã làm tôi ân hận suốt đời, tôi đã làm theo ý định của mình.
Tôi mở cánh cửa định mệnh ấy. Tôi thấy bên trong là một phòng rộng, mái vòm cuốn, trên sàn là những cây nghệ. Rất nhiều cây cắm nến bằng vàng đúc trên có những ngọn nến đang cháy tỏa ra một hương thơm hổ phách, soi sáng rực gian phòng. ánh sáng còn được tăng thêm bởi các ngọn đèn thắp bằng dầu thơm. Trong tất cả những vật quý ở đây, cái làm tôi chú ý là một con ngựa đen tuyệt đẹp, con vật quý ấy mà người ta chưa từng thấy trên đời này. Tôi lại gần nó để ngắm kỹ, tôi thấy nó đã được đóng đủ yên cương bằng vàng, một máng cỏ bằng vàng đựng lúa mạch và hạt vừng một bên, bên kia là chậu nước thơm mùi hoa hồng. Tôi nắm lấy dây cương, mang con ngựa ra khỏi phòng để nhìn kỹ hơn. Tôi nhảy lên lưng ngựa, thú nó đi nhưng vì ngựa không động đậy, tôi lấy que đập ruồi nhặt được ở trong phòng vụt nó.
Khi vừa chạm vào người, ngựa hý vang, dang cánh, đôi cánh mà tôi không chú ý, bay tít lên mây xanh. Tôi phải bám chặt lấy cổ con ngựa để giữ cho được thăng bằng. Ngựa bay xuống đất rồi đậu trên nóc một lâu đài, tại đây không đợi tôi kịp nhảy xuống, nó rùng mình hất tôi ngã xuống đất, lông đuôi của nó đập làm vỡ con mắt bên phải của tôi.
Đó là lý do tại sao tôi bị chột mắt. Tôi nhớ rất rõ những lời các chàng trai nói trước đây. Con ngựa lại bay đi. Tôi buồn bã đứng lên, ân hận về tai hoạ mà mình tự chuốc lấy. Tôi đi xuống sân, tay ôm lấy con mắt đang rất đau. Vào gian phòng lớn, thấy mười chàng trai đang ngồi trên những chiếc ghế thấp, điều làm tôi hiểu đây là lâu đài- nơi tôi đã bị chim thần quắp đi.
- Mười chàng trai chột mắt tới gặp tôi. Họ không ngạc nhiên khi thấy tôi trở về cũng như thấy tôi bị hỏng mắt.
- Tôi sẽ sai lầm nếu tố cáo bạn về bất hạnh của mình - Tôi bảo họ - Tôi đã tự gây ra và tự mình phải chịu trách nhiệm.
- Những gì đã xảy ra với anh thì cũng đã xảy đến với chúng tôi. Chúng ta sẽ rất hạnh phúc, cả cuộc đời của chúng ta sẽ được bảo đảm, nếu chúng ta không mở cánh cửa vàng ấy trong khi các công chúa vắng mặt. Anh cũng không khôn ngoan hơn chúng tôi bởi vậy anh cũng phải chịu sự trừng phạt như chúng tôi. Chúng tôi rất muốn nhận anh vào nhóm chúng tôi để ăn chay, sám hối như chúng tôi đang làm mà chúng tôi cũng không biết thời hạn của nó là bao lâu. Nhưng chúng tôi cũng tuyên bố cái lý do không nhận anh được. Do đó, anh phải đi thôi, hãy tới gặp nhà vua ở Bát-đa, người sẽ quyết định số phận của anh.
Họ chỉ đường cho tôi và tôi chia tay họ. Trên đường đi, toi đã cạo râu tóc và khoác ao nhà sư khất thực. Tôi đã đi rất lâu. Cuối cùng thì tôi tới thành phố này chiều nay. Tôi đã gặp hai nhà sư anh em, cả hai cũng là những người mới tới đây. Chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy ai cũng hỏng mắt bên phải cả. Nhưng không có thời gian để hỏi han nhau chuyện này, cái quan trọng là đi tìm chỗ nghỉ và ba đã là người hào hiệp cho chúng tôi được tạm trú.
Nhà sư khất thực thứ ba đã kể xong chuyện của mình, Zô-bê-ít lên tiếng:
- Được - Nàng nói - Cả ba được tự do, các người đi đâu thì đi.
- Thưa phu nhân - Một người trong số họ nói - Xin bà cho chúng tôi ngồi lại và tha lỗi về sự tò mò của chúng tôi, cho chúng tôi được nghe chuyện của các vị đây chưa nói.
Zô-bê-ít quay sang nhìn nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản.
Quan thủ hiển Gia-pha nói thay những người cùng đi.
- Thưa phu nhân, như đã nói thay bà trước đây, chúng tôi là những lái buôn ở Mu-xun, chúng tôi tới Bát-đa để mua hàng và trú tại một nơi tạm trú của khách thương. Chúng tôi tới ăn chiều tại nhà của một người bạn hàng ở Bát-đa, sau khi ăn uống no say ông ta cho mời những người khiêu vũ và ca sĩ tới. Vì làm ồn ào nên quân lính đã tới bắt đi một số. May mắn chúng tôi thoát được, nhưng vì đã khuya, chúng tôi bị lạc đường và chúng tôi không biết đêm nay nghỉ ở đâu. Sự may mắn run rủi cho chúng tôi thấy nhà của phu nhân đang đàn hát và cuối cùng chúng tôi đã gõ cửa.
- Được rồi - Zô-bê-ít bảo họ - Ta tha cho các người, nhưng với điều kiện tất cả các người phải đi khỏi đây ngay lập tức, và các người đi đâu là tuỳ ý các người.
Nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác đều không dám nói gì bởi còn bảy tên nô lệ có vũ khí buộc họ phải thận trọng. Khi họ đã ra khỏi nhà, cánh cửa đã khép lại sau lưng họ, nhà vua nói với ba nhà sư khất thực mà vẫn giữ bí mật bản thân mình:
- Còn các ngài, các ngài là người lạ, mới tới thành phố, các ngài định đi đâu trong đêm nay?
- Thưa ngài - Họ trả lời - Đó là cái đang làm chúng tôi băn khoăn nhất.
- Các ngài hãy đi theo chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp các ngài lúc cơ nhỡ này.
Rồi nhà vua nói nhỏ với quan thủ hiến:
- Mang họ về nhà ông. Và sáng mai ông mang họ tới gặp ta. Ta muôn viết tập truyện phiêu lưu, những câu chuyện của họ xứng đáng có chỗ trong biên niên sử của triều đại ta.
Quan thủ hiến dẫn ba nhà sư khất thưc đi theo ông ta, viên tổng quản Mét-rua đưa nhà vua về lâu đài, con anh phu khuân vác về nhà mình. Đêm ấy nhà vua không thể nào ngủ được, tâm trí ngài vẫn bị khuyâý động về những chuyện tai nghe mắt thấy tối nay.
Sáng hôm sau nhà vua cho gọi quan thủ hiến tới:
- Những việc mà chúng ta cần giải quyết hôm nay thì không nhiều lắm. Ngài nói - Đó là chuyện ba người phụ nữ và hai con chó cái đen là đủ. Đầu óc ta không thể thanh thản khi có nhữn chuyện không hiểu được ấy. Cho gọi các phu nhân ấy tới, cũng đưa cả ba nhà sư khất thực vào đây nữa.
Một khắc đồng hồ sau tất cả đã đứng cúi chào trước mặt nhà vua. Họ không ngờ đây lại là người lái buôn ở Mu-xun mà mình ngồi kề bên tối hôm qua. Trước tiên nhà vua quay sang các phu nhân:
- Các phu nhân cao quý - Ngài bảo họ - Có thể là ta đã làm các người ngạc nhiên khi cải trang thành người lái buôn để tới nhà các vị tối qua. Không nên e sợ là ta đã bực mình, chi rằng ta gọi các người tới đây để tỏ sự giận hờn. Các người yên tâm, hãy tin rằng ta đã quên chuyện quá khứ và ta rất hài lòng về tư cách của các người. Ta muốn rằng tất cả các phu nhân ở thành Bát-đa này có được sự khôn ngoan của các người mà ta đã chứng kiến. Ta nhớ mãi sự bình tĩnh trước hành vi bất lịch sự mà ta đã phạm phải. Hôm qua ta là lái buôn ở Mu-xun, lúc này ta là vua Ha-run-an Rat-xít, nhà vua thứ năm của nhà Ap-ba, người giữ vị trí nhà tiên tri vĩ đại của chúng ta. Ta chỉ yêu cầu các người cho ta biết các người là ai, tại sao một con trong các người sau khi đã hành hạ hai con đen lại khóc với chúng, tại sao trên vai của một trong các người lại đầy vết sẹo như vậy.
Chuyến đi của chúng tôi bình an vô sự trong bốn chục ngày; nhưng tới đêm ngày thứ bốn mươi mốt, bão táp nổi lên dữ dội khiến mười con tàu tách rời nhau, mỗi tàu đi một ngả. Con tàu của tôi bị sóng dữ nhấn chìm xuống biển sâu. Mọi người đều bị chết đuối; nhưng khi thượng đế đã thương hại tôi, tôi bám vào được một mảnh ván, gió đưa tôi vào một hòn đảo nhiều cây. Quá mệt nhọc, tôi nằm lăn ra ngủ bên bờ biển.
Hôm sau tôi lùng sục trên đảo nhưng không thấy dấu vết nào là có người ở đây. Tôi tìm nơi thuận tiện để ở lại và hy vọng thấy được một cánh buồm ở nơi chân trời.
Tôi sống trong tình cảnh buồn thảm ấy trong một tháng ròng. Thời gian ấy tôi thấy nước biển ngày càng hạ dần xuống, hòn đảo ngày càng lớn lên. Cuối cùng tôi thấy hòn đảo của tôi nối với đất liền bằng một con sông nhỏ. Tôi lội qua sông, nước chỉ lên tới đầu gối. Tôi đi rất lâu trên cát và đã thấm mệt. Cuối cùng tôi tới được một nơi cao ráo, đã rất xa biển, thì bất chợt tôi thấy từ xa một mảng trời đỏ rực như đang có một đám cháy lớn. Tôi tiến lại phía đó, khi tới gần tôi thấy mình đã nhầm. Cái mà tôi cho là lửa thì đó là một lâu đài bằng đồng hồ đỏ, ánh sáng mặt trời chiếu làm ta có cảm giác như nó đang bốc cháy.
Tôi dừng bước trước lâu đài, đang ngồi để ngắm kiểu kiến trúc của nó, thì thấy mười người con trai đang đi dạo. Họ ăn vận chỉnh tề, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là họ đều chột mắt bên phải cả. Đi theo họ là một ông già đạo mạo vóc người coa lớn.
Tôi rất lấy làm lạ vì tại sao lại một lúc gặp nhiều người chột mắt đến như vậy, mà đều chột mắt bên phải cả. Trong khi tôi đang cố gắng suy nghĩ về hiện tượng lạ lùng này thì họ đến bên tôi chào hỏi vui vẻ. Sau đó họ hỏi tôi lý do nào khiên tôi tới đây. Tôi kể chuyện đắm tàu, chuyện mình đã sống đơn độc quá lâu khiến họ vô cùng thương cảm. Sau đó, những vị lãnh chúa trẻ ấy mời tôi vào lâu đài của họ. Tôi nhận lời mời, chúng tôi đi qua một dãy hành lang của nhiều phòng lớn và phóng xép, cuối cùng vào một phòng lớn có mười chiếc ghế sô-pha bọc vải xanh xếp thành vòng tròn, ở giữa vòng tròn có một chiếc ghế cùng màu nhưng lớn hơn dành cho ông già mười chàng trai ngồi trên những chiếc ghế kia.
- Anh bạn - Một người trong số họ bảo tôi - Anh hãy ngồi trên tấm thảm ở giữa nhà, và đừgn hỏi những gì không liên quan đến anh, cả việc tại sao chúng tôi đều chột ở mắt phải. Không nên tò mò, nếu không sự tàn tật ấy cũng xảy ra với anh.
Ông già không ngồi lâu, ông đứng lên và đi ra, nhưng sau đó lạu trở vài mang cháo chia cho mười người. Ông già đưa suất ăn cho tôi như những người khác; cuối bữa, ông già tiếp chúng tôi mỗi người một cốc rượu vang.
Đến khuya, trong lúc chúng tôi đang ngồi yên lặng thì ông già đi vào phòng bên, khi đi ra đội trên đầuu một mâm phủ vải xanh, trên đó có mười cái bát. Ông đặt trước mặt mỗi người một cái bát trong đó có tro than, bột màu đen trộn lẫn vào nhau. Mỗi người cầm lấy chiếc bát của mình và bôi tro lên mặt, trông sợ đến phát khiếp. Sau khi làm nhem nhuốc mặt mày họ bắt đầu khóc lóc, than vãn, đám tay vào đầu, vào ngực, miệng nhắc đi nhắc lại : "Đây là kết quả của sự lười biếng và thói ăn chơi của chúng tôi!"
Họ làm việc này hầu như suốt đêm. Khi kết thúc, ông già mang nước ra cho họ rửa tay, rửa mặt, họ thay áo quần cũng bị bôi bẩn bằng bộ sạch sẽ, như là họ chưa tứng làm cái việc lạ lùng mà tôi vừa là khán giả.
Cảnh ấy diễn ra vào đêm hôm sau và những đêm tiếp theo đó, tới mức tôi không thể cưỡng lại tính tò mò của mình, tôi hỏi họ hoặc họ cho tôi biết rõ câu chuyện, hoặc là chỉ đường cho tôi về vương quốc của mình. Tôi nói là tôi không thể sống mãi với họ mà mỗi đêm lại xảy ra cái cảnh ấy trong khi tôi chẳng biết lý do của nó.
Một trong các vị lãnh chúa ấy nói thay mọi người:
- Nếu các anh muốn bị bất hạnh như chúng tôi thì anh chỉ cần nói, chúng tôi sẽ thoả mãn cái mà anh yêu cầu. Nhưng chúng tôi khuyên anh nên tò mò ít thôi, nếu không anh sẽ bị chột như chúng tôi.
- Mặc kệ! - Tôi trả lời - Tôi xin tuyên bố rằng, nếu tai họa ấy đến với tôi, tôi không coi các anh là thủ phạm, tôi tự chịu trách nhiệm.
Anh ta còn bảo tôi, nếu khi tôi bị hỏng mắt, thì tôi không hy vọng gì ở lại đây với họ bởi số người của họ đã đủ rồi, không thể tăng thêm nữa. Tôi vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Mười người con trai thấy không lay chuyển được nguyện vọng của tôi, họ đi chọc tiết một con cừu, lột da nó, đưa cho tôi một con dao và nói:
- Cầm lấy con dao này, chúng tôi sẽ cho anh biết anh sẽ dùng nó để làm gì. Chúng tôi sẽ cho anh vào tấm da cừu và khâu lại, sau đó chúng tôi sẽ đặt anh ở trước lâu đài và ra về. Một con chim rất lớn, người ta gọi là chim thần, sẽ bay tới và sẽ quắp anh bay lên tận mây xanh. Nhưng không nên sợ hãi. Nó sẽ hạ cánh đặt anh lên một đỉnh núi cao. Tới nơi, anh lấy dao rạch tấm da cừu và thoát ra. Chim thần sẽ bay đi thấy người và để anh được tự do. Từ đấy anh sẽ đến một lâu đài rất lớn, có gắn vàng, kim cương và đá quý. Anh tới trước cửa, cửa để ngỏ, và đi vào. Mọi người chúng tôi đã tới lâu đài ấy, nhưng chúng tôi sẽ không nói với anh những gì chúng tôi đã nhìn thấy, anh tự tìm hiểu lấy. Cái mà chúng tôi có thể nói là tại đấy chúng tôi đã mất con mắt bên phải và hình phạt mà anh đã chứng kiến cũng từ đấy mà ra.
Tôi chui vào tấm da cừu, các anh khâu giúp lại, mang tôi ra trước lâu đài, đặt xuống, sau đó rút lui. Chim thần nhanh chóng bay tới, lao xuống quắp lấy tấm da cừu bằng những móng sắc và mang tôi tới một đỉnh núi cao.
Khi được đặt xuống đất, tôi đã kịp thời sử dụng con dao, rạch tấm da cừu và chui ra, chim thần bay mất khi nhìn thấy tôi. vì sốt ruột muốn tới ngay lâu đài, tôi bước nhanh nhưng cũng mất nửa ngày trời mới tới được. Cửa để mở. Tôi bước vào thấy một cái sân rất rộng, xung quanh có chín mươi chín cây cột bằng gỗ trầm hương và một cây cột bằng vàng đúc, không kể những cầu thang rất đẹp dẫn lên các lâu phía trên. Một trăm lối đi dẫn ra những khu vườn hoa, nhưng kho tàng đầy của quý.
Tôi đi qua một cửa để ngỏ gần đấy vào trong một phòng lớn, có bốn chục cô gái rất xinh đẹp mà trí tưởng tượng của tôi không thể đạt được đến điểm ấy, đang ngồi. Họ ăn vận kiều diễm. Tất cả đều đứng lên khi thấy tôi, không đợi những lời ngợi khen của tôi, họ tỏ ra rất vui mừng:
- Thưa đức ông, hãy là vị khách nồng hậu! Đã từ lâu chúng em trông đợi một hiệp sĩ như chàng. Phong cách của chàng lộ rõ những đức tính chúng em hằng mong muốn. Chúng em hy vọng rằng chàng không thấy chúng em là không xứng đáng với chàng.
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện về tôi cho tới chiều tối. Thế là những cô gái này mang tới rất nhiều nến làm sáng rực những bức tường căn phòng; trong khi các cô khác dọn bàn ăn, đặt lên đó những quả khô, mứt kẹo và những thức ăn ngon; các cô khác nữa thì chơi âm nhạc. Tất cả đã sẵn sàng để mời tôi ngồi vào bàn. Các cô cùng ngồi với tôi, và chúng tôi ăn uống rất lâu. Sau đó các cô chơi nhạc và cất tiếng hát thành một dàn hợp xướng êm ái. Các cô khác bắt đầu khiêu vũ, từng đôi một, hết người này đến người khác nhảy một điệu nhảy đẹp nhất thế gian.
Đã quá nửa đêm, tất cả những cuộc vui ấy chấm dứt, một nàng quay sang phía tôi và nói:
- Chàng đã mệt vì đi đường hôm nay, đã đến lúc chàng đi nghỉ. Phòng ngủ của chàng đã được chuẩn bị và chúng em mong rằng chàng có một giấc ngủ ngon lành.
Đúng là tôi đã có một giấc ngủ ngon. Tôi chỉ thức dậy vào lúc mặt trời mọc hôm sau. Khi tôi vừa ăn vận xong thì bồn chục cô gái tràn vào phòng tôi, đầm đìa nước mắt thay vì sự vui vẻ như tối hôm qua. Các cô lần lượt tới ôm hôn tôi hết người này đến người khác.
- Tạm biệt hoàng tử thân yêu, tạm biệt! Chúng em phải đi.
Nước mắt của họ làm tôi đau đớn. Tôi yêu cầu các cô cho tôi biết rõ nguyên nhân của sự buồn rầu của họ.
- Thế này- Một người trong các cô nói - Để chàng thoả mãn em phải nói ngay rằng chúgn em là những công chúa, con gái các nhà vua. Chúng em sống ở đây như chàng đã thấy; nhưng mỗi năm chúng em phải vắng nơi này bốn chục ngày vì những bổn phận cần thiết mà không thể tiết lộ được. Sau đo chúng em lại trở về lâu đài. Hôm qua là hết hạn một năm và hôm nay chúng em phải tạm biệt chàng; mà chàng vừa mới tới, đây là lý do sự buồn rầu của chúng em. Trước khi đi, chúng em để lại cho chàng tất cả những chùm chìa khoá của một trăm cánh cửa để chàng có thể đi thăm, làm dịu nỗi buồn đơn độc khi chúng em không có mặt ở đây. Nhưng vì sự an toàn và lợi ích của chàng, chúng em dặn chàng là không nên mở cánh cửa bằng vàng. Nếu chàng mở nó thì chúng ta không bao giờ gặp mặt nhau nữa và sự sợ hãi làm chúng em càng thêm đau đớn. Hy vọng chàng nhớ kỹ lời dặn của chúng em. Nó sẽ cho chúng ta sự nghỉ ngơi thanh thản và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Chúng em mong chàng đừng phạm sai lầm, để chúng em có được sự an ủi sau bốn chục ngày. Chúng em có thể mang chiếc chìa khoá cánh cửa bằng vàng đi, nhưng điều đó sợ làm phật ý một hoàng tử như chàng, tỏ ra không tin vào sự thận trọng và tư cách của chàng.
Lời nói của nàng công chúa xinh đẹp đã gây cho tôi một sự đau buồn thực sự Tôi nói với các nàng là sự vắng mặt của họ gây ra cho tôi nhiều phiền muộn. Tôi cảm ơn sự chăm sóc của họ với tô, những lời họ dặn dò tôi. Cuộc chia tay của chúng tôi diễn ra rất cảm động, tôi ôm hôn từng cô, cô này đến cô khác; sau đó họ ra đi, một mình tôi ở lại lâu đài.
Tôi hứa với mình là không được quên lời dặn dò quan trọng mà các nàng đã nói: không bao giờ được mở cánh cửa bằng vàng. Tôi cầm chìa khoá mở các cánh cửa vào thăm các phòng có rất nhiều vật quý, hiếm của lâu đài. Nhưng vì ham biết rõ nên tôi đã mở chín mươi chín cánh cửa trong ba mươi chín ngày. Chỉ còn một cánh cửa bị cấm. Đến ngày thứ bốn mươi kể từ lúc các nàng công chúa kiều diễm ra đi. Ngày mai họ sẽ về và sự thích thú gặp lại họ không át nổi tính tò mò của tôi. Nhưng sự yếu hèn ấy đã làm tôi ân hận suốt đời, tôi đã làm theo ý định của mình.
Tôi mở cánh cửa định mệnh ấy. Tôi thấy bên trong là một phòng rộng, mái vòm cuốn, trên sàn là những cây nghệ. Rất nhiều cây cắm nến bằng vàng đúc trên có những ngọn nến đang cháy tỏa ra một hương thơm hổ phách, soi sáng rực gian phòng. ánh sáng còn được tăng thêm bởi các ngọn đèn thắp bằng dầu thơm. Trong tất cả những vật quý ở đây, cái làm tôi chú ý là một con ngựa đen tuyệt đẹp, con vật quý ấy mà người ta chưa từng thấy trên đời này. Tôi lại gần nó để ngắm kỹ, tôi thấy nó đã được đóng đủ yên cương bằng vàng, một máng cỏ bằng vàng đựng lúa mạch và hạt vừng một bên, bên kia là chậu nước thơm mùi hoa hồng. Tôi nắm lấy dây cương, mang con ngựa ra khỏi phòng để nhìn kỹ hơn. Tôi nhảy lên lưng ngựa, thú nó đi nhưng vì ngựa không động đậy, tôi lấy que đập ruồi nhặt được ở trong phòng vụt nó.
Khi vừa chạm vào người, ngựa hý vang, dang cánh, đôi cánh mà tôi không chú ý, bay tít lên mây xanh. Tôi phải bám chặt lấy cổ con ngựa để giữ cho được thăng bằng. Ngựa bay xuống đất rồi đậu trên nóc một lâu đài, tại đây không đợi tôi kịp nhảy xuống, nó rùng mình hất tôi ngã xuống đất, lông đuôi của nó đập làm vỡ con mắt bên phải của tôi.
Đó là lý do tại sao tôi bị chột mắt. Tôi nhớ rất rõ những lời các chàng trai nói trước đây. Con ngựa lại bay đi. Tôi buồn bã đứng lên, ân hận về tai hoạ mà mình tự chuốc lấy. Tôi đi xuống sân, tay ôm lấy con mắt đang rất đau. Vào gian phòng lớn, thấy mười chàng trai đang ngồi trên những chiếc ghế thấp, điều làm tôi hiểu đây là lâu đài- nơi tôi đã bị chim thần quắp đi.
- Mười chàng trai chột mắt tới gặp tôi. Họ không ngạc nhiên khi thấy tôi trở về cũng như thấy tôi bị hỏng mắt.
- Tôi sẽ sai lầm nếu tố cáo bạn về bất hạnh của mình - Tôi bảo họ - Tôi đã tự gây ra và tự mình phải chịu trách nhiệm.
- Những gì đã xảy ra với anh thì cũng đã xảy đến với chúng tôi. Chúng ta sẽ rất hạnh phúc, cả cuộc đời của chúng ta sẽ được bảo đảm, nếu chúng ta không mở cánh cửa vàng ấy trong khi các công chúa vắng mặt. Anh cũng không khôn ngoan hơn chúng tôi bởi vậy anh cũng phải chịu sự trừng phạt như chúng tôi. Chúng tôi rất muốn nhận anh vào nhóm chúng tôi để ăn chay, sám hối như chúng tôi đang làm mà chúng tôi cũng không biết thời hạn của nó là bao lâu. Nhưng chúng tôi cũng tuyên bố cái lý do không nhận anh được. Do đó, anh phải đi thôi, hãy tới gặp nhà vua ở Bát-đa, người sẽ quyết định số phận của anh.
Họ chỉ đường cho tôi và tôi chia tay họ. Trên đường đi, toi đã cạo râu tóc và khoác ao nhà sư khất thực. Tôi đã đi rất lâu. Cuối cùng thì tôi tới thành phố này chiều nay. Tôi đã gặp hai nhà sư anh em, cả hai cũng là những người mới tới đây. Chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy ai cũng hỏng mắt bên phải cả. Nhưng không có thời gian để hỏi han nhau chuyện này, cái quan trọng là đi tìm chỗ nghỉ và ba đã là người hào hiệp cho chúng tôi được tạm trú.
Nhà sư khất thực thứ ba đã kể xong chuyện của mình, Zô-bê-ít lên tiếng:
- Được - Nàng nói - Cả ba được tự do, các người đi đâu thì đi.
- Thưa phu nhân - Một người trong số họ nói - Xin bà cho chúng tôi ngồi lại và tha lỗi về sự tò mò của chúng tôi, cho chúng tôi được nghe chuyện của các vị đây chưa nói.
Zô-bê-ít quay sang nhìn nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản.
Quan thủ hiển Gia-pha nói thay những người cùng đi.
- Thưa phu nhân, như đã nói thay bà trước đây, chúng tôi là những lái buôn ở Mu-xun, chúng tôi tới Bát-đa để mua hàng và trú tại một nơi tạm trú của khách thương. Chúng tôi tới ăn chiều tại nhà của một người bạn hàng ở Bát-đa, sau khi ăn uống no say ông ta cho mời những người khiêu vũ và ca sĩ tới. Vì làm ồn ào nên quân lính đã tới bắt đi một số. May mắn chúng tôi thoát được, nhưng vì đã khuya, chúng tôi bị lạc đường và chúng tôi không biết đêm nay nghỉ ở đâu. Sự may mắn run rủi cho chúng tôi thấy nhà của phu nhân đang đàn hát và cuối cùng chúng tôi đã gõ cửa.
- Được rồi - Zô-bê-ít bảo họ - Ta tha cho các người, nhưng với điều kiện tất cả các người phải đi khỏi đây ngay lập tức, và các người đi đâu là tuỳ ý các người.
Nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác đều không dám nói gì bởi còn bảy tên nô lệ có vũ khí buộc họ phải thận trọng. Khi họ đã ra khỏi nhà, cánh cửa đã khép lại sau lưng họ, nhà vua nói với ba nhà sư khất thực mà vẫn giữ bí mật bản thân mình:
- Còn các ngài, các ngài là người lạ, mới tới thành phố, các ngài định đi đâu trong đêm nay?
- Thưa ngài - Họ trả lời - Đó là cái đang làm chúng tôi băn khoăn nhất.
- Các ngài hãy đi theo chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp các ngài lúc cơ nhỡ này.
Rồi nhà vua nói nhỏ với quan thủ hiến:
- Mang họ về nhà ông. Và sáng mai ông mang họ tới gặp ta. Ta muôn viết tập truyện phiêu lưu, những câu chuyện của họ xứng đáng có chỗ trong biên niên sử của triều đại ta.
Quan thủ hiến dẫn ba nhà sư khất thưc đi theo ông ta, viên tổng quản Mét-rua đưa nhà vua về lâu đài, con anh phu khuân vác về nhà mình. Đêm ấy nhà vua không thể nào ngủ được, tâm trí ngài vẫn bị khuyâý động về những chuyện tai nghe mắt thấy tối nay.
Sáng hôm sau nhà vua cho gọi quan thủ hiến tới:
- Những việc mà chúng ta cần giải quyết hôm nay thì không nhiều lắm. Ngài nói - Đó là chuyện ba người phụ nữ và hai con chó cái đen là đủ. Đầu óc ta không thể thanh thản khi có nhữn chuyện không hiểu được ấy. Cho gọi các phu nhân ấy tới, cũng đưa cả ba nhà sư khất thực vào đây nữa.
Một khắc đồng hồ sau tất cả đã đứng cúi chào trước mặt nhà vua. Họ không ngờ đây lại là người lái buôn ở Mu-xun mà mình ngồi kề bên tối hôm qua. Trước tiên nhà vua quay sang các phu nhân:
- Các phu nhân cao quý - Ngài bảo họ - Có thể là ta đã làm các người ngạc nhiên khi cải trang thành người lái buôn để tới nhà các vị tối qua. Không nên e sợ là ta đã bực mình, chi rằng ta gọi các người tới đây để tỏ sự giận hờn. Các người yên tâm, hãy tin rằng ta đã quên chuyện quá khứ và ta rất hài lòng về tư cách của các người. Ta muốn rằng tất cả các phu nhân ở thành Bát-đa này có được sự khôn ngoan của các người mà ta đã chứng kiến. Ta nhớ mãi sự bình tĩnh trước hành vi bất lịch sự mà ta đã phạm phải. Hôm qua ta là lái buôn ở Mu-xun, lúc này ta là vua Ha-run-an Rat-xít, nhà vua thứ năm của nhà Ap-ba, người giữ vị trí nhà tiên tri vĩ đại của chúng ta. Ta chỉ yêu cầu các người cho ta biết các người là ai, tại sao một con trong các người sau khi đã hành hạ hai con đen lại khóc với chúng, tại sao trên vai của một trong các người lại đầy vết sẹo như vậy.
Nghìn Lẻ Một Đêm 41-46
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]