Những Điệp Vụ Bí Ẩn
16-30
16 - VASMUS (sinh năm1883)
điệp viên ngoại giao ở xứ Ba Tư
Vasmus sinh năm 1883. Không ai biết gì về xuất xứ cũng
như những năm tháng thanh niên của ông. Chỉ biết rằng năm 1914 ông giữ một
chức vụ không cao lắm, nhưng cũng có uy tín là lãnh sự ở Bushir. Ông là nhà
Đông phương học, ông biết tiếng Farsi cổ điển giỏi như tiếng mẹ đẻ, lại biết
cả thổ ngữ của các bộ lạc nằm rải rác trên một vùng rộng lớn của Ba Tư. Về
bản chất ông là nhà thực dân thời đại Victoria. Ông cho rằng thế giới này
phải thuộc về những người da trắng, tốt nhất là thuộc về người Đức. Ông say
mê phương Đông theo một cách riêng. Vilhem II, khi tuyên bố mình là người
"bảo vệ Koran", đã biết đến những thành tích của ông lãnh sự đầy
nghị lực trong việc thiết lập những quan hệ tốt đẹp với "người bản
xứ". Theo chỉ thị riêng của ông, Vasmus được thăng cấp và được tăng tiền
để tuyên truyền và lập đại diện.
Trước Đại chiến I Ba Tư là một nước lạc hậu, phần lớn dân cư mù chữ,
họ còn tin rằng vũ trụ này bao gồm rất nhiều những khối đồng tâm mà trung tâm
là Trái Đất. ảnh hưởng của các siêu cường Nga, Anh, Đức là đáng kể, những
nước này thường coi mình là chủ nhân của nhiều vùng đất. Lúc đó đã có
"cuộc chiến tranh dầu mỏ" không tuyên chiến giữa người Đức và người
Anh. Theo một Hiệp định quốc tế thì để duy trì trật tự ở vùng có dầu, người
ta đã thành lập một đội sen đầm trung lập, nòng cốt là các đạo quân Thuỵ
Điển, nhưng Vasmus đã kịp nắm được những đạo quân này. Khi chiến tranh nổ ra,
người Anh tuyên bố rằng sự việc này vi phạm thô bạo quyền trung lập của Ba Tư
và dùng quân đội để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình.
Những nơi người Anh đến thì các nhà ngoại giao Đức phải rời bỏ ngay.
Vasmus kiên quyết chống lại việc đó và bị người Anh bắt giam, bị coi như một
"người ngoại quốc không có thiện cảm và thù địch" và bị quản thúc
tại nhà, tài sản bị tịch thu và phải đưa cùng với ông về sở chỉ huy Anh. Đêm
trước khi xảy ra sự kiện đó ông rất lo cho sức khoẻ con ngựa đua của ông.
Cùng với hai người lính canh, ông xuống chuồng ngựa và phát hiện thấy con
ngựa có chứng bệnh lạ của vùng bản xứ, đòi phải có sự quan tâm thường xuyên
và uống thuốc luôn. Suốt đêm, cứ 10-20 phút ông lại được hai người lính hộ
tống xuống thăm ngựa. Cuối cùng, một trong hai người lính bảo: "Nếu ông
yêu nó đến thế thì ông đi một mình!". Ông chỉ cần có thế. Lần cuối cùng
xuống chuồng ngựa ông lấy trong đống cỏ khô một cái túi đã giấu sẵn từ trước
trong đó có 140 ngàn đồng mark vàng, nhảy lên lưng con ngựa hoàn toàn khoẻ
mạnh của mình trốn biệt.
Trong số các công tước địa phương ở vùng núi mà ông chạy đến hồi đó có
những người bạn hùng mạnh, hiếu chiến và có một điều không kém phần quan
trọng là họ được trả công rất hậu hĩ. Họ là những người có ảnh hưởng vượt ra
ngoài lãnh địa của mình. Nhờ họ giúp đỡ Vasmus tiến hành một cuộc đấu tranh
không cân sức chống lại đế chế Anh. Ông hoạt động như một nhân vật chủ yếu
của cơ quan mật vụ Đức, người lãnh đạo hoạt động tình báo quân sự và chính
trị trong khu vực vịnh Ba Tư. Nhưng ông coi đây không chỉ là việc thu thập
thông tin cho tổng tư lệnh quân đội Đức vùng Viễn Đông, tướng Liman fon
Sanders. Kế hoạch của ông rộng lớn hơn thế: ông muốn thu gom toàn bộ vùng Nam
Ba Tư vào phạm vi ảnh hưởng của Đức, ngăn không cho người Anh lạm dụng dầu mỏ
khu vực Ba Tư, thúc đẩy các bộ lạc vùng núi tích cực đấu tranh chống lại quân
Anh.
Để củng cố thêm vị trí của mình, Vasmus đi một bước chưa từng có: ông
lấy con gái của một thủ lĩnh Ba Tư có thanh thế. Ông coi sự kiện này không
những chỉ là sự kết hợp hai trái tim yêu, mà còn là sự kết hợp "hai nòi
giống vĩ đại", biểu tượng của sự thống nhất Đức-Ba Tư. Theo tục lệ địa
phương, chi phí cho đám cưới thuộc về bố cô dâu, nhưng Vasmus khăng khăng
nhận lấy phần ấy (tức là thuộc về cơ quan mật vụ). Bố cô dâu và nhiều vị khách
cả thượng lưu cũng như bình dân đều được tặng quà tương xứng với vị thế và
"giá trị" của họ. Phụ tá trung thành của Vasmus, một người Đức tên
là Brugman, trong khi đi phân phát quà, đã tuyển mộ luôn những người được
tặng. Sau này tình báo Anh khẳng định rằng một nửa số khách ấy đã được tuyển
dụng vào mạng lưới mật thám của Vasmus trải rộng giữa ấn Độ, Xuyê, các bờ
sông Tigr, Efrat và vịnh Ba Tư.
Nhìn từ góc độ tình báo thì khoảng không gian mà Vasmus quản lý có địa
hình rất thuận lợi. Cứ mỗi tháng hai lần tình báo Anh lại in ra một bản đồ có
đánh dấu vị trí quân địch trên chiến trường phương Đông. Không phải ngẫu
nhiên, trong vòng 4 năm một khu vực lớn của Ba Tư, rộng bằng cả Pháp và Anh
cộng lại, được đánh dấu mầu đỏ với một chữ trong vòng tròn "Vasmus".
Vasmus đã thuê nhiều tầu nhỏ kiểm tra mọi con đường giữa ấn Độ và châu
Âu qua các biển Cận Đông. Bằng cách đó ông luôn luôn nắm được mọi việc vận
chuyển quân đội và hàng hoá. Mạng lưới điệp viên của ông lan đến cả những
đường thông tin của các đoàn quân viễn chinh của các nước đồng minh. Họ thu
được thông tin ở Palestin, Dardanella, Mesopotami, thậm chí ở cả Đông Phi và
Armeni thuộc Thổ.
Thành công to lớn, thậm chí có thể coi là chiến lược của ông, là giúp được
cho tướng Kolmar Vilgelm Leopold fon der Golts chỉ huy đạo quân Thổ số 6 và
các quân đoàn hợp nhất Đức-Thổ ở Mesopotami. Nhân viên của ông biết tất cả
mọi mánh khoé của tướng Anh Charles Taunsgend, người mà trong cuộc tấn công
Bagdad đã lãnh đạo một cánh quân đi dọc triền sông Tigr. Ông đã đánh tan các đạo
quân Thổ ở Kut-el-Amara. Để phát huy thành tích, Taunsgend đột nhập vào
Ktezifon. Nơi đây hai cánh quân của Thổ thuộc liên quân "Iraq" đang
chờ đợi ông, đứng đầu là tướng Golts, nhờ Vasmus đã báo trước hướng tấn công
của quân Anh. Trận chiến đấu ở Ktezifon ngày 23 tháng 11 năm 1915 bất phân
thắng bại, nhưng Taunsgend phải rút về Kut-el-Amara, nơi quân Thổ đã bao vây
sẵn. Mọi mưu đồ từ phía quân Nga lẫn phía quân Anh muốn giúp đỡ đoàn quân mắc
hãm này đều vô hiệu. Tướng Anh Persi Lake được chỉ định làm tổng tư lệnh quân
đội ở Mesopotami cũng hoạt động một cách thụ động. Các điệp viên của Vasmus
báo cáo rằng lực lượng của ông ta còn ít; lương thực, đạn dược, thuốc men đều
thiếu thốn, hơn thế nữa, các đường giao thông đều bị các bộ lạc đã phục vụ
cho Vasmus tấn công. Thông tin này cho phép Golts tập trung mọi lực lượng bao
vây pháo đài, không sợ Lake nữa. Một điệp viên của Vasmus còn cung cấp những
thông tin quan trọng: lo sợ việc gia tăng ảnh hưởng của người Nga ở
Mesopotami, Lake đã gạt bỏ yêu cầu muốn kết hợp với quân Anh ở Ba Tư và tiến
hành các hoạt động quân sự phối hợp chống lại quân Thổ của bộ chỉ huy Nga.
Đã bốn lần Lake cố đem sức tàn để giải thoát cho Taunsgend, nhưng
không có kết quả. Sau 143 ngày bị bao vây, các nguồn lương thực và đạn pháo
đã cạn kiệt, ngày 29 tháng 4 năm 1916, cùng với 3 ngàn quân Anh và 6 ngàn
quân Ấn Độ, Taunsgend đành phải giao nộp vũ khí ra hàng. Mesopotami là chiến
trường duy nhất mà quân Thổ không bị thiệt hại.
Muốn loại trừ được đối thủ lợi hại như Vasmus, người Anh đã treo
thưởng đến 3000 bảng Anh cho ai bắt sống hoặc giết chết được ông. Tiền thưởng
ngày càng tăng lên, đến năm 1917 đã tăng tới 5 lần. Thật kỳ lạ, khoản tiền
thưởng to lớn ấy chỉ làm cho người ta hoảng sợ: ở phương Đông mạng sống con
người được đánh giá không cao, và không ai tin rằng một cái đầu lại trị giá
đến như vậy.
Năm 1916, Vasmus muốn gây bạo loạn trong các bộ tộc ở Afganistan để
đánh lừa quân Anh. Ông bỏ ra rất nhiều vàng, nhưng không thành công. Nhưng
tình báo đường biển của ông lại hoạt động tốt, họ cung cấp thông tin về các
chuyến vận chuyển quân sự đi từ ấn Độ, Australia và Tân Tây Lan. Năm 1916,
ông trang bị cho những bộ tộc thượng võ để họ kìm chân hàng ngàn lính Anh.
Người Anh đành phải đưa về vịnh Ba Tư 4 chiếc tầu quân sự chở quân tuần tiễu
và tiến hành phong toả đường biển. Đoàn tầu này được gọi là "Hạm đội
Vasmus", chúng có nhiệm vụ chặn bắt những chiếc thuyền buồm mang tin tức
tình báo và quân trang quân bị về cho Vasmus.
Tuy nhiên, nước Đức ngày càng suy yếu và vị thế của Vasmus cũng suy
yếu theo. Ông phải thường xuyên lên gân đội quân của mình bằng những thông
tin giả tạo về chiến thắng của quân Đức. Một lần ông tung tin rằng quân Đức
đã chiếm được nước Anh, vua George đã bị treo cổ. Những người ở Ba Tư rất
tin.
Vasmus lại có một kế hoạch mới. Ông nhờ một người vừa là bạn, vừa là
trợ lý Brugman đến ấn Độ để lôi kéo giới lãnh đạo. Người Anh đã bẻ gẫy hoạt
động này, họ bắt được Brugman và giam ông ta "đến khi chiến tranh kết
thúc". Trước đó họ cũng đã bắt được một đồng sự đáng tin cậy khác của
ông là bác sĩ Thuỵ Điển Lindberg. Thế là Vasmus chỉ còn lại một mình giữa
những bộ tộc đã bắt đầu có thái độ thù địch đối với ông. Từ châu Âu luôn luôn
dội tới những tin tức về sự suy yếu của nước Đức, còn các thủ lĩnh ở Ba
Tư thì đã nghiêng về phía những người chiến thắng.
Đến cuối năm 1918, nước Đức đã đứng bên bờ vực thất bại. Không còn ai
tin Vasmus nữa. Các chủ nợ bắt đầu quấy nhiễu ông. Tháng 11 năm 1918, khi
được tin ngừng bắn, bố vợ ông là Akhram đã khuyên ông chạy trốn. Vasmus biệt
tăm, từ đó không ai biết tin tức gì về ông.
|
17 - WILHELM LEMAN (1884
- 1942)
nguyên mẫu của “17 khoảnh khắc mùa xuân”
Các khán giả bộ phim truyền hình nhiều tập "Mười bảy khoảnh
khắc mùa xuân" thường hỏi: "Trong thực tế có nhân vật Stirlit hay
không? Hoặc có một điệp viên Xô Viết nằm vùng nào khác được lấy làm nguyên
mẫu cho nhân vật này không?" Nếu đã hỏi như vậy thì có thể trả lời
thẳng: "Không. Thật đáng tiếc là không có một điệp viên nằm vùng nào,
không có một sĩ quan tình báo Xô Viết chuyên nghiệp nào trong giới thân cận
của Miller hoặc Sellenberg cũng như trong bộ máy đầu não của cơ quan an
ninh Hitler nói chung".
Tuy nhiên, trong đời thực có một người đã từng làm việc trong bộ máy
đầu não đó và biết được những bí mật của nó. Ông không phải là một tình báo
viên Xô Viết chuyên nghiệp nhưng là một điệp viên đáng tin cậy của cơ quan
tình báo Xô Viết. Tên ông là Wilhelm Leman, còn bí danh là
"Braitenbac". Dưới đây là câu chuyện về ông.
Wilhelm Leman sinh năm 1884 trong gia đình một giáo viên sinh sống
tại một thị trấn nhỏ ở ngoại vi thành phố Leipsig. Tuy lấy tên theo tên của
vua Wilhelm nhưng suốt đời ông mang tên Willi và chính họ tên này -
Willi Leman - hiện diện trong các tài liệu của cơ quan tình báo Xô Viết.
Năm 18 tuổi, ông tình nguyện gia nhập hải quân và phục vụ trong binh chủng
này gần mười năm. Ông đã tham gia nhiều chuyến viễn dương, đã chứng kiến
trận đánh Xuxim, rồi bị bãi chức thượng sĩ pháo binh và vào làm trong ngành
cảnh sát Berlin. Tại đây, cấp trên nhận thấy ông là người tận tuỵ và có
năng lực, do đó ông được đưa vào phòng phản gián của sở cảnh sát Berlin.
Trong những năm Thế chiến thứ nhất và những năm tiếp theo, Willi Leman tỏ
ra là một nhân viên phản gián thông minh và khôn ngoan, ông được thăng cấp,
được thực hiện những vụ điều tra quan trọng và thực tế là biết rõ mọi công
việc của phòng phản gián.
Ông được coi là người không mắc chứng háo danh, có thái độ tỉnh táo
đối với tiền bạc và không hề có bất kỳ một đam mê tệ hại hoặc "mối dan
díu tội lỗi" nào. Năm 1928, khi một người bạn của ông lâm vào tình thế
khó khăn, ông đã khuyên người này nên làm việc cho cơ quan đại diện toàn
quyền của Liên Xô ở Berlin. Người đó làm theo lời khuyên của ông và trở
thành điệp viên của cơ quan tình báo Xô Viết A-70 (về sau, người này bị
tách khỏi những công việc quan trọng do sử dụng quá "tự do" những
khoản tiền nhận được và vì vậy có thể gây nghi ngờ).
Năm 1929, khi chính Willi túng bấn tiền nong thì ông cũng hành động
hệt như vậy. Sau khi được tuyển mộ, ông mang bí danh A-201 hoặc
"Braitenbac". Cần lưu ý rằng mặc dù tiền bạc là yếu tố hết sức
quan trọng thúc đẩy ông hợp tác với tình báo Xô Viết nhưng cũng như nhiều
điệp viên khác, ông quyết định như vậy còn là do ông căm ghét chủ nghĩa
quốc xã. Ông coi cuộc chiến tranh chống Liên Xô là tội ác.
Do vị trí làm việc của Willi hết sức quan trọng nên Trung Tâm và cơ
quan tình báo Xô Viết ở Berlin lập tức chăm lo đến việc "giấu
kín" ông. Trung Tâm quyết định ông chỉ cung cấp những tin nào mà ông
có thể khai thác được nhờ chức trách của ông, không cần ông phải săn tìm
những bí mật của người khác. Mặc dù tin tức dưới dạng tài liệu bao giờ cũng
được dành ưu tiên trong hoạt động gián điệp nhưng đối với
"Braitenbac" thì cơ quan an ninh Xô Viết không đòi hỏi ông chuyển
giao tài liệu mà thoả mãn với những tin ông truyền đạt bằng miệng. Và bởi
vì những điệp viên "hợp pháp", tức là những nhân viên chính thức
của các cơ quan Xô Viết, có thể bị mật vụ Đức theo dõi nên việc liên lạc
với ông được thực hiện chủ yếu là thông qua các điệp viên nằm vùng. Ông
được chuẩn bị sẵn hộ chiếu để có thể khẩn cấp ra nước ngoài, đồng thời
chuẩn bị cả những tín hiệu báo động khi nguy hiểm.
Năm 1930, những khả năng gián điệp của "Braitenbac" được
mở rộng thêm - ông được giao nhiệm vụ "chăm sóc" sứ quán Xô Viết
ở Berlin, do đó, ông nắm chắc mọi hành động được hoạch định và tiến hành
nhằm chống lại sứ quán Xô Viết và các nhân viên sứ quán. Ông cũng biết được
tất cả các điệp viên được sử dụng trong những hành động ấy. Vào cuối năm
1932, ông còn được trao nhiệm vụ theo dõi giới gián điệp Ba Lan và không
phải ngẫu nhiên mà điệp viên Ba Lan Iurek Susnovski đã sửng sốt khi thấy cơ
quan tình báo Xô Viết biết quá rõ về y khi bị thẩm vấn tại Moscva trong
những năm 1939 - 1940.
Sau khi Hitler lên nắm chính quyền ở Đức vào năm 1933, phòng phản
gián của "Braitenbac" thành lập một ban riêng để đấu tranh với
"gián điệp cộng sản". Ngày 26 tháng 4 năm 1933, phòng phản gián
của Willi Leman sáp nhập vào cơ quan cảnh sát quốc gia (Gestapo) mới thành
lập. Vậy là ông trở thành nhân viên Gestapo, và đến ngày 20 tháng 4 năm
1934, nhân dịp sinh nhật Hitler, ông được lấy vào đơn vị SS và được thăng
chức.
Năm 1934, điệp viên "Braitenbac" được phép bắt liên lạc
với điệp viên nằm vùng Vaxili Zarubin. Trung Tâm đòi hỏi ngày càng nhiều
tin tức vượt ra ngoài khả năng chức vụ của ông. Nhưng ông vẫn thu thập được
những tin tức ấy, chẳng hạn, ông đã kiếm được cho bộ phận giải mã Xô Viết
bản gốc các bức điện của Gestapo, ông cũng đã thông báo nhiều chi tiết công
nghệ về những loại tên lửa mà nhà thiết kế Danberg đã từng nghiên cứu trước
khi bị bắt, ông còn làm rõ được việc hai điệp viên nằm vùng bị Gestapo bắt
có bị tình báo Đức tuyển mộ lại hay không.
Tháng 12 năm 1935, Willi Leman cùng nhiều quan chức cao cấp của cơ
quan phản gián Đức đi thăm những nhà máy và thao trường tuyệt mật chuyên
sản xuất và thử nghiệm các loại vũ khí mới nhất, bởi lẽ, vốn là nhân viên
phản gián, họ phải biết những gì mà họ cần bảo vệ. "Braitenbac"
đã miêu tả lại tỷ mỉ cho cơ quan tình báo Xô Viết những gì ông đã nhìn thấy
cũng như hàng loạt những thông số tác chiến - kỹ thuật mà ông thu lượm được
từ các nhà chuyên gia.
Chiến công có ý nghĩa quan trọng hơn nữa là mật báo của
"Braitenbac" về việc người kỹ sư trẻ Verne fon Braun sáng chế ra
một loại vũ khí chưa từng có cho tới thời điểm ấy, đó là loại tên lửa sử
dụng nhiên liệu lỏng tầm xa có thể lên đến hàng trăm cây số. Một bản báo
cáo đặc biệt về vấn đề này đã được đệ trình lên Stalin, Vorosilov,
Tukhasevxki. Ban lãnh đạo Tổng cục Tình báo Xô Viết đánh giá cao tài liệu
này và soạn riêng một bản câu hỏi để làm rõ các thông số kỹ thuật.
Năm 1936, "Braitenbac" thông báo vị trí của năm thao trường
mật chuyên thử nghiệm vũ khí mới, chuyển tin tức về hệ thống các công sự
mạnh nằm dọc theo biên giới Đức-Ba Lan, về việc chế tạo loại xe bọc thép và
máy bay tiêm kích mới của hãng Haiken, về loại thép bọc máy bay, về loại xe
tăng phun lửa, về loại chất lỏng có thể bốc cháy, về việc chế tạo đội tầu
ngầm tại mười tám xưởng đóng tầu.
Cũng vào cuối năm 1941, ban lãnh đạo nước Đức phát xít áp dụng những biện
pháp đặc biệt để bảo vệ bí mật quốc gia trong lĩnh vực nghiên cứu và sản
xuất các loại vũ khí mới, tuy nhiên "Braitenbac" vẫn tiếp tục
chuyển cho cơ quan tình báo Xô Viết nhiều tin tức về những thành tựu của
Đức trong lĩnh vực quân sự. Chẳng hạn, lần đầu tiên người ta biết về những
cuộc thí nghiệm được tiến hành dưới sự kiểm soát của đích thân Hering nhằm
điều chế xăng từ than đá và về việc xây dựng một nhà máy bí mật sản xuất
chất độc.
"Braitenbac" cũng thu thập được và chuyển cho tình báo Xô
Viết bản báo cáo đặc biệt quan trọng năm 1937 "Về việc tổ chức hệ
thống quốc phòng của nước Đức".
"Braitenbac" được cơ quan Gestapo đánh giá rất cao, bằng
chứng là vào dịp lễ Giáng sinh năm 1936, ông được tặng tấm chân dung Hitler
có chữ ký của y và bằng khen, ngoài ông ra, chỉ có ba nhân viên Gestapo nữa
được hưởng vinh dự này.
Trong đời ông đã xẩy ra một trường hợp chỉ chút nữa là dẫn đến thất
bại. Một người bạn thông báo cho ông là ông bị theo dõi vì bị nghi ngờ có
quan hệ với cơ quan đại diện thương mại Xô Viết. Thật may mắn là kẻ theo
dõi đã không phát hiện được mối quan hệ của ông với tình báo Xô Viết. Nhưng
ít lâu sau mới biết rằng việc theo dõi ông là do lầm lẫn - người cần theo
dõi không phải là ông mà là một Leman khác cùng họ tên với ông, người này
bị người tình cũ theo dõi vì ghen tuông.
Tháng 3 năm 1943, Zarubin rời nước Đức, mối liên lạc với
"Braitenbac" được vợ người điệp viên nằm vùng Corotcov là Maria
Vincovưxkaia duy trì thông qua bà chủ căn phòng bí mật Clemans. Nhưng đến
cuối năm 1938 thì cả mối liên lạc này cũng bị đứt đoạn bởi vì người điệp
viên duy nhất lãnh đạo Maria là A. I. Agaian qua đời trong lúc làm phẫu
thuật.
Năm 1939, Trung Tâm soạn thảo một báo cáo về hoạt động của
"Braitenbac" trong đó nói rằng ông đã "chuyển cho chúng ta
một số lượng lớn những tài liệu đích thực và những tin tức cá nhân làm sáng
tỏ cơ cấu, đội ngũ cán bộ và hoạt động của tổ chức Gestapo, cũng như của
tình báo quân sự Đức. "Braitenbac"đã báo trước cho chúng ta về
những cuộc bắt bớ và khiêu khích đang chuẩn bị nhằm vào các điệp viên nằm
vùng và điệp viên "hợp pháp" của chúng ta ở Berlin. Ông đã cung
cấp cho chúng ta tin tức về những nhân vật đang bị Gestapo theo dõi cũng
như về những vụ điều tra mà chúng ta quan tâm. Cơ quan tình báo chưa bao
giờ có bất kỳ nghi ngờ gì về lòng trung thực của người điệp viên này".
Vậy là "Braitenbac" bị mất liên lạc.
Vào cuối tháng 6 năm 1940, một người lạ mặt bỏ vào hòm thư của sứ
quán Xô Viết ở Berlin một bức thư gửi tùy viên quân sự Xô Viết. Tác giả bức
thư đề nghị khôi phục lại mối liên lạc với mình đã bị gián đoạn vào năm
1939, đồng thời nêu rõ mật khẩu liên lạc qua điện thoại, thời gian và địa
điểm gặp gỡ. Người đó viết: "Nếu không khôi phục lại được liên lạc thì
công việc của tôi ở Gestapo sẽ mất hết ý nghĩa".
Dĩ nhiên bức thư này không thể không gây nghi ngờ: phải chăng
"Braitenbac" lại đã xuất hiện và liệu ông có đóng vai trò một kẻ
mạo danh không? Nhưng niềm tin vào lòng trung thành của ông đã chiến thắng.
Trung Tâm đã cử một nhân viên của mình là Corotcov đến Berlin và Corotcov
đã khôi phục lại mối liên lạc với "Braitenbac", đồng thời giới
thiệu ông với người điệp viên trẻ Boris Giuravlev để tiếp tục làm việc.
"Braitenbac" đã vài lần cảnh báo về mối nguy cơ ngày càng
tăng của việc nước Đức phát xít tấn công Liên Xô. Vào tháng 3 năm 1941, ông
thông báo về việc cơ quan tình báo Đức đang khẩn trương củng cố một đơn vị
chống phá nước Nga, đang thực hiện những biện pháp động viên trong bộ máy
nhà nước, tiếp đó, vào cuối tháng 5 ông thông báo về việc cơ quan tình báo
Đức đã lập lịch trực suốt ngày đêm của các nhân viên. Trong cuộc gặp gỡ
cuối cùng với Giuravlev vào ngày 19 tháng 3 năm 1941, ông báo tin Gestapo
đã nhận được mệnh lệnh gửi cho các đơn vị quân đội phát xít, trong đó có
nói rõ là những hành động chiến sự chống Liên Xô sẽ bắt đầu sau 3 giờ sáng
ngày 22 tháng 6 năm 1941.
Ngay tối hôm đó, tin này đã được chuyển về Moscva.
Đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng với "Braitenbac". Sau khi
chiến tranh kết thúc, vợ ông là Margarita kể lại rằng vào tháng 12 năm
1942, chồng bà được khẩn cấp gọi đến nơi làm việc rồi không trở về nữa. Về
sau, một đồng nghiệp của ông báo tin cho bà biết là ông đã bị Gestapo xử
bắn.
Trong tập hồ sơ "Braitenbac" hiện đang được lưu trữ tại
kho lưu trữ Cục Tình báo Đối ngoại có một bản báo cáo cho biết ông bị một
điệp viên có bí danh là "Bec" tố giác. "Bec" được tung
vào hậu phương phát xít rồi sa vào tay Gestapo. Bản báo cáo viết rằng
"Theo lệnh của Gestapo, "Bec" đã duy trì liên lạc qua điện
đài với Moscva từ ngày 14 tháng 10 năm 1942 đến ngày 12 tháng 4 năm 1944,
chuyển đi những tin tức do nhân viên Gestapo viết sẵn, kết quả là vào tháng
12 năm 1942, điệp viên "Braitenbac" của các cơ quan an ninh Liên
Xô đã bị bắt và bị xử bắn".
Trong các hồ sơ của Gestapo cũng như trong các tài liệu lưu trữ của
Đức mà Liên Xô thu được không hề có bất kỳ chỉ dẫn gì về việc Willi Leman
bị điều tra và đem ra xét xử. Vụ việc của ông không được công bố và thậm
chí, chắc chắn là không được báo cáo lên Hitler. Đó là tháng 12 năm 1942,
trong cơn giận dữ vì thất bại ở Stalingrad, Hitler có thể trút nỗi giận dữ
lên đầu bọn trùm Gestapo, bởi lẽ, một kẻ thù như Leman đã xâm nhập được vào
tận trái tim của đế chế thứ ba. Chắc hẳn vì hiểu như vậy nên những tên trùm
Gestapo đã đem bắn "Braitenbac" mà không cần xét xử hoặc đã đầy
ải ông trong chốn lao tù. Mà biết đâu, tên trùm Gestapo Miller đã bắn chết
ông ngay trong phòng làm việc của y.
18- WILLIAM VARVIC
CORCORAN (sinh năm 1884)
người cứu London khỏi tên lửa Đức Quốc xã
Ông được mệnh danh là "bậc thày số một của
nghệ thuật tình báo Mỹ" và được coi là người đã có công cứu London
thoát khỏi những quả tên lửa FAU của phát xít Đức bởi vì ông đã phát hiện
ra nơi đóng căn cứ quân sự của Đức trên đảo Penemuyde thuộc biển Baltic.
Ngay sau chiến tranh, ông cũng đã phát hiện ra nơi lẩn trốn của một trong
những tội phạm chiến tranh là Joahim fon Rippbentrop, bộ trưởng ngoại
giao của nước Đức phát xít.
William Corcoran sinh năm 1884 ở Washington. ng tốt
nghiệp trường đại học Georgetao - cái nôi
của nhiều nhà ngoại giao Mỹ. Sau đó, ông tốt nghiệp trường đại học ở
Lille (Pháp) và thông thạo tiếng Pháp như một người Pháp thực thụ - một
phẩm chất hiếm có đối với các nhà ngoại giao Mỹ.
Bố mẹ ông chết sớm, ông được thừa hưởng một tài sản giàu có và ông
biết tận hưởng thú vui chơi ngựa, chơi ô tô, thuyền buồm và cuộc sống
phóng đãng.
Cuộc sống của ông thay đổi hẳn khi số phận đưa đẩy ông gặp được
một nữ tu sĩ Thiên Chúa giáo, người về sau trở thành mẹ nuôi của ông tuy
ông không theo đạo. ng vứt bỏ mọi thú vui quen
thuộc, vả lại, vào quãng thời gian đó, ông cũng đã phung phí gần hết tài
sản thừa kế giàu có của bố mẹ ông để lại.
Đúng lúc đó, chủ bút tờ "Washington Post" mời ông làm
phóng viên. Ông lang thang khắp thành phố tìm kiếm những vụ việc đáng chú
ý, miêu tả cuộc sống của bọn trộm cắp và những chính khách bán mình. Vốn
căm thù sâu sắc chủ nghĩa quân phiệt Phổ nên khi chiến tranh thế giới thứ
nhất bùng nổ, ông vứt bỏ công việc phóng viên và ghi tên vào đội quân
viễn chinh Pháp ở hải ngoại. Sau khi Mỹ tham chiến, ông chuyển sang đội
quân viễn chinh Mỹ. Tại đây, ông trở thành thượng uý và đồng thời làm
biên tập viên một tờ báo dành cho binh sĩ Mỹ. Đến cuối chiến tranh, ông
được tặng thưởng huân chương Thập Tự chiến đấu, huy chương của Pháp và
được cấp giấy chứng nhận không có khả năng lao động do thương tật.
Năm tháng trôi qua. Năm 1936, William Corcoran đến Thuỵ Điển và
đảm nhận một chức vụ khiêm nhường là tổng lãnh sự ở thành phố Gorteborg.
Nhiệm vụ của ông là cấp visa, đăng ký kết hôn và thừa kế, nhưng thực ra
ông là điệp viên của cơ quan tình báo Mỹ. Ông bắt đầu làm việc cho tình
báo Mỹ trước khi đến Thuỵ Điển khá lâu. ng đã từng đến Cancutta,
Bombay, Madras, Varsava, Angie, Gibranta, Giamaica và Tây Ban Nha. Ông
là "con sói cô độc", hoạt động một mình, không có cấp trên
và cấp dưới, có thể nói ông là "điệp viên tự thân".
Nhờ tính xởi lởi, quảng giao, ông có nhiều bạn bè người Thuỵ Điển.
Với sự giúp đỡ của họ, ông đã làm quen được với thuyền trưởng của tất cả
những con tàu đi lại giữa Thuỵ Điển và Đức. Bởi vậy ông có đầy đủ thông
tin về tình hình các cảng thuộc biển Baltic. Một lần cơ quan phản gián
Đức nghe nói đến những mối liên hệ bí mật của lãnh sự Mỹ và gửi công hàm
phản kháng đến nhà cầm quyền Thuỵ Điển. William Corcoran bị khiển trách
nhẹ, nhưng chính Thuỵ Điển cũng thực sự quan tâm đến những gì đang xẩy ra
trên bờ biển Baltic, bởi vậy, việc khiển trách kia chỉ mang tính chất
thuần tuý hình thức, và người Thuỵ Điển hoàn toàn không can thiệp vào
hoạt động của William.
Nhưng ông thay đổi chiến thuật. Nhờ quen biết các chủ tàu và các thuyền
trưởng, ông thiết lập được mối tiếp xúc với các thuỷ thủ, các thợ máy,
các đầu bếp, các chiêu đãi viên, và ông bắt đầu được họ cung cấp tin tức.
Vài tháng sau, ông vén được một bức màn bí mật mà lúc đầu ông
không thể xâm nhập nổi. Những người ông quen biết kể cho ông nghe về hàng
chục canô và thuyền máy sắp sửa lên đường tới một địa điểm nào đó nằm
cách Stettin chừng sáu mươi hải lý về mạn Đông Bắc. Ít lâu sau, ông biết
rằng nơi đó là một hòn đảo nhỏ có tên là Penemuyde, và ông đề nghị các
bạn mình xác định chính xác tọa độ của hòn đảo đó trên bản đồ. ng còn
biết được một chi tiết nữa: không một ai làm việc trên đảo được phép rời
khỏi đảo và không một ai được phép đến thăm đảo.
Có hôm, một quả bom nổ ngay trên ngưỡng cửa nhà ông nhưng ông được
vô sự. Báo chí Thuỵ Điển viết rằng cơ quan mật vụ Đức đã lập kế hoạch bắt
cóc và thủ tiêu William Corcoran vì tội "chọc mũi vào việc của người
khác". Ông bị coi là "tên mật thám Mỹ" nguy
hiểm nhất. Một số người còn đồn đại là vào những ngày đó, báo
"Sự thật" của Liên Xô dường như có đăng bài của đại sứ Liên Xô
tại Thuỵ Điển, trong đó, bà đại sứ Alecxandra Colotai gọi ông là
"bậc thầy tình báo số một của chú Sam". Nhưng lời đồn đại đó
chắc chắn chỉ là hành động khiêu khích của tình báo Đức.
Tuy nhiên, William cũng không tin chắc hòn đảo Penemuyde lại là
nơi Hitler dùng làm địa điểm chế tạo loại vũ khí mà y dự định sẽ sử dụng
để kết thúc chiến tranh trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ.
Ông tiếp tục công việc bàn giấy chán ngắt nhưng
nhờ đó, ông đã kiếm được bản sao những khoản thanh toán của công ty SKF,
công ty chuyên cung cấp ổ bi từ nước Thuỵ Điển trung lập sang nước Đức
đang có chiến tranh. Biết được tin này, các nước Đồng minh
đã yêu cầu Thuỵ Điển phải ngừng ngay lập tức việc cung cấp đó. Không ai
chứng minh được việc rò rỉ tin này là do bàn tay của William Corcoran
(thật ra ông cũng không đánh cắp những tài liệu ấy), "tội" đánh
cắp tài liệu và để tài liệu ấy rò rỉ sang phương Tây đã khiến một người
Na y và hai người Thuỵ Điển bị kết án ba năm tù.
Theo chỉ dẫn của William Corcoran, máy bay đồng minh giờ đây bay
lượn suốt ngày đêm trên bầu trời đảo Penemuyde để chụp ảnh từ trên không,
đồng thời nguỵ trang các chuyến bay của mình bằng những trận không kích
Berlin và Stettin.
Trong khi ấy, ban lãnh đạo nước Đức phát xít vẫn tin chắc rằng
không một ai hay biết gì về đảo Penemuyde và những gì che giấu trên đảo.
Chúng đủ thông minh để không sử dụng pháo phòng không chống lại các máy
bay đồng minh vì cho rằng những khu rừng rậm rạp đủ sức che kín những gì
đang diễn ra trên đảo.
Tuy nhiên, ngày càng xuất hiện nhiều bức ảnh cũng như ngày càng
nhiều những tin tức của các thuỷ thủ về những vụ nổ bí ẩn trên hòn đảo
nhỏ đó. Cuối tháng 7 năm 1941, William Corcoran thông báo cho London biết
về tất cả những gì ông tìm hiểu được về đảo Penemuyde. (Cũng nên biết
thêm rằng tin tức của William Corcoran không phải là duy nhất).
Đêm 16 rạng ngày 17 tháng 8 năm 1941, sáu trăm máy bay ném bom
hạng nặng của Anh xuất hiện trên bầu trời đảo Penemuyde. Bọn Đức cho rằng
những máy bay đó đang bay đến Berlin hoặc Stettin như thường lệ, nhưng
lần này chúng đã lầm. Toàn bộ sáu trăm máy bay Anh đã giáng một đòn khủng
khiếp lên đảo - cuộc không kích dữ dội kéo dài suốt 40 phút. Bốn mươi
phân xưởng lắp ráp biến thành đống đổ nát, các phòng thí nghiệm bị phá
huỷ, năm mươi toà nhà bị hư hại. Trong số bảy nghìn nhà khoa học và kỹ sư
thì năm nghìn bị chết. Trong số những người bị chết có cả thiếu tướng
Volfrank fon Same-Glidenxki, giám đốc các công việc nghiên cứu và kỹ
thuật, tướng Esoneke, tham mưu trưởng không quân Đức, tướng Erner Udet,
viên phi công nổi tiếng được coi là con át chủ bài của nước Đức phát xít.
Người Anh mất bốn mươi mốt máy bay trên đường trở về.
Theo ý kiến của thủ tướng Anh Churchill thì đây là một trong những
bước ngoặt của chiến tranh. Trung tâm tên lửa của Đức bị loại khỏi vòng
chiến, điều đó không những đã cứu nước Anh và rất có thể, còn ngăn chặn
được việc loại tên lửa có cánh của Đức không kích miền duyên hải phía
Đông nước Mỹ. Nhờ công lao đó, William Corcoran được khen thưởng một cách
xứng đáng tuy quả thật là sau chiến thắng đó ông vẫn không nhận thức được
hết ý nghĩa của biến cố vừa xẩy ra.
Sau khi kết thúc chiến tranh, William Corcoran vẫn tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ của một lãnh sự. Tuy nhiên, nếu không có sự can thiệp của
ông thì tên tội phạm chiến tranh Ribbentrop sẽ có thể sống cho đến cuối
đời một cách bình yên tại một nơi đâu đó ở Argentina. Câu chuyện xẩy ra
như sau.
Chiếc tàu thuỷ chở khách "Greeneshall" treo cờ Hội Chữ
Thập đỏ cập bến cảng Geteborg. Trong số hành khách có một phụ nữ tên
là
Ienke. Bà ta khai là vợ của một nhà ngoại giao kiêm cố vấn thương mại tại
sứ quán Đức ở Ancara, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng sau khi tìm hiểu bản danh
sách hành khách, William Corcoran dự đoán rằng chồng bà ta chắc chắn phải
biết một điều gì đó về nơi ở của đại sứ Đức fon Panen. Ông phát
hiện ra rằng Ienke là em gái của Ribbentrop. Bà ta được bố trí đến ở tại
một khách sạn của Geteborg dưới sự giám sát của cảnh sát. Vốn thông thạo
tiếng Pháp, William Corcoran đến thăm bà ta, đóng vai một phần tử ủng hộ
Petin và Lavan nên phải chạy trốn khỏi nước Pháp. Ông nói
rằng ông muốn đào thoát sang Argentina, rằng ông có nhiều người bạn đáng
tin cậy ở Đức sẵn sàng giúp đỡ ông trong việc này. Ông dò hỏi là bà Ienke
có muốn anh trai mình cũng sang Nam Mỹ hay không.
- Liệu ông có thể giúp tôi đến Đức được không? - Ienke hỏi.
William Corcoran hứa là sẽ làm hết khả năng của ông.
Khi ấy, bà ta tâm sự với ông rằng khi Rippbentrop còn là một người
chào hàng bình thường chuyên buôn bán Sâm Panh thì y có một người bạn
chuyên buôn bán rượu ở Hamburg. Bà ta muốn đến thăm người này vì bà ta
tin rằng ông ta sẽ giúp bà ta tìm ra được anh trai.
Nên biết rằng vào thời kỳ đó Ribbentrop là đối tượng truy tìm của tất cả
các cơ quan tình báo trên khắp thế giới.
Những "người bạn Thuỵ Điển" tổ chức cho Ienke một chuyến
đi tới Đức. Bà ta được phép rời Thuỵ Điển và đến khu vực nước Đức bị
người Anh chiếm đóng. Bà ta dễ dàng tìm thấy nhà kinh doanh rượu quen
biết ở Hamburg. Người này tiếp đón bà ta, cho bà ta ăn uống rồi báo tin
về nơi ẩn trốn của anh trai bà ta - y đang ở trong căn hộ gần đấy. Bà ta
lập tức đến địa chỉ đó mà không ngờ rằng đã dẫn theo mấy viên cảnh sát
của quân đội Đồng minh. Họ liền bắt giữ tên cựu bộ trưởng ngoại giao của
nước Đức phát xít. Về sau, y bị toà án Niu Ramber kết án tử hình và bị
treo cổ.
William Corcoran còn có công đánh đắm vài chiếc tàu Đức tại các
cảng Cattegat và Scaterac. Lãnh sự Đức ở Na Uy trở thành điệp viên của
ông, và nhờ sự giúp đỡ của ông ta mà William Corcoran đã xác định được vị
trí của cơ sở xăng dầu và nhà máy nước nặng cũng như biết được lộ trình
của các tàu biển. Thông qua các thuỷ thủ quen biết, William Corcoran cũng
phát hiện được những cơ sở xăng dầu ở cửa sông Ode, cách Penemuyde ba
mươi dặm. Những cơ sở này cũng bị ném bom.
Nhưng William coi công lao lớn nhất của mình là cứu thoát được
tính mạng của năm nghìn người chạy khỏi nước Đức. Hầu hết họ được ông đưa
sang Mỹ, ông không từ chối giúp đỡ một người nào.
Năm 1946, William Corcoran về hưu và sống bình yên giữa đàn con
cháu cho đến cuối đời tại một thị trấn nhỏ ở Mỹ cách thủ đô Washington
không xa.
|
|
|
19-ROBERT BRUCE
LOCKHARD (1887 - 1970)
điệp vụ “âm mưu của ba đại sứ”
Nhà tình báo Anh Lockhard nổi
tiếng một thời sau vụ "Âm mưu lật đổ của các ngài đại sứ" năm
1918. Nhưng hoạt động tình báo của ông khởi đầu sớm hơn nhiều.
Robert Bruce Lockhard sinh ngày 2 tháng 9 năm 1887 ở Austruter
thuộc lãnh địa bá tước Faif. Cha ông là giáo viên tiểu học, tổ tiên nhà
ông đều là người Scotland. "Trong tôi không hề có dòng máu người
Anh" - Lockhard nhớ lại. Ông du học ở Berlin rồi sang Paris. Sau khi
có được học vấn thuộc nhiều lĩnh vực ông trở về Anh quốc để chuẩn bị sang
ấn Độ làm công chức nhà nước. Nhưng mọi việc diễn ra khác hẳn: Chú ông đã
vẽ ra một viễn cảnh hấp dẫn khiến người cháu nhanh chóng quyết định đi
làm ăn ở quần đảo Malaixia xa xôi để kiếm được những khoản lợi nhuận kếch
sù. Đến làm việc ở những đồn điền cao su, ông phải học từ đầu những điều
sơ đẳng nhất của công việc kế toán và văn phòng. ở đây ông đã tích lũy
được những kinh nghiệm đầu tiên của nghề báo chí. Thể thao và văn học
cuốn hút ông và làm ông tránh xa được "ba cái hàng ngày quấy nhiễu
ta" của Á Đông là thuốc phiện, rượu và đàn bà. Ông là người thích đi
đây đó, ban đêm ông thường đi vào những khu rừng rậm để quen dần với sự
hiểm nguy. Nhưng Lockhard đã phải sớm rời bỏ Malaixia ra đi chỉ vì đã dan
díu với quận chúa cháu vua Hồi.
Khi về nước, Lockhard mới 23 tuổi. Năm 1911, nhờ cha tiến cử và
bản thân tỏ rõ năng lực qua cuộc sát hạch, ông được nhận vào làm việc ở
Vụ lãnh sự Bộ Ngoại giao. Kinh qua một năm công tác Lockhard được đề bạt
là phó lãnh sự ở Moscva. Trước ngày lên đường sang nước Nga Lockhard gặp một
cô gái người Australia. Hai người đính hôn và năm sau thì làm lễ cưới.
Ba năm sau, năm 1915, Lockhard được bổ nhiệm làm tổng lãnh sự Anh
quốc ở Moscva. Ông là chứng nhân tận mắt sự sụp đổ của chế độ Nga hoàng ở
nước Nga. Năm 1917 Lockhard làm quen với Kerenxki và Savincov.
Tháng 9 năm 1917 Lockhard bị triệu hồi về nước vì một lý do rất vớ
vẩn: ông có quan hệ đi lại với "một cô gái Do Thái" và câu
chuyện bị vỡ lở ra ngoài. Cái cớ triệu hồi về nước lại nói ông bị bệnh,
nên khi vừa đặt chân về tới London ông liền đi đến vùng núi chữa bệnh.
Thời gian này ở nước Nga nổ ra cuộc Cách mạng Tháng mười. Lockhard lại
rất cần thiết cho công việc với tư cách là một chuyên gia về nước Nga.
Ông đã phát biểu rằng Lenin và Troski không phải là những điệp viên của Đức
và rằng "thật là điên rồ nếu không đặt quan hệ với những người đang
nắm trong tay vận mệnh của nước Nga".
Tháng 1 năm 1918 Lockhard trở lại nước Nga. "Tôi nhận được
những chỉ thị rất lờ mờ. Tôi không được trao bất kỳ một quyền nào cả.
Nhiệm vụ của tôi là móc nối quan hệ..." - Lockhard nhớ lại.
Lockhard có những ưu đãi ngoại giao nhất định, như có thể sử dụng
mật mã và giao thông viên ngoại giao. Nhà ngoại giao Xô Viết đầu tiên ở
London Litvinov có thư giới thiệu Lockhard với Troski, phụ trách Bộ Dân uỷ
Ngoại giao. Do chuyện tình cờ mà Lockhard đặt chân đến Petrograd. Ông
được đón tiếp chu đáo như một người có cảm tình với những đảng viên
bolsevich.
Bấy giờ vừa đúng lúc các Đại sứ quán của phe Đồng minh rút khỏi
nước Nga Xô Viết. Các nước Đồng minh cho rằng những người bolsevich chỉ
trụ vững được vài tuần là cùng. Lockhard ở lại Petrograd. Ông cho rằng
những người bolsevich về nội lực mạnh hơn rất nhiều so với nhận định về
họ ở London và rằng ở nước Nga không có lực lượng nào có thể thay thế họ.
ở lại Petrograd cùng với Lockhard có tùy viên hải quân, đại úy Cromi,
người không muốn Hạm đội Baltic rơi vào tay quân Đức cùng một số sĩ quan
và quan chức của cơ quan phản gián.
Ít lâu sau V.I.Lenin đã tiếp Lockhard ở Cung điện Smonưi. Cùng dự
buổi tiếp có Troski, nhân vật mà theo ý kiến của Lockhard là "người
không đủ sức đưa ra những ý kiến đối lập với Lenin, cũng giống như con bọ
chét thì không thể đối chọi được với con voi". Lenin nói chuyện với
Lockhard rất cởi mở, Người trả lời tất cả các câu hỏi của Lockhard và hứa
đảm bảo an toàn cá nhân cho ông cũng như điều kiện để ông rời khỏi nước
Nga bất kỳ lúc nào.
Lúc bấy giờ Lockhard cũng có cuộc gặp gỡ với cô Mura Benkendorf -
Budberg sau này là điệp viên và cũng là tình nhân của ông. Một thời gian
sau đó Mura cũng là tình nhân của Gorki và Wells.
Ngày 15 tháng 3 năm 1918, Lockhard chuyển về Moscva. Tại đây ông
gặp lại nhiều người bạn, trong đó có tướng Lavernhi, công sứ Pháp, thiếu
tá Mỹ Riggs. Họ thỏa thuận với nhau về chính sách sẽ thực hiện là chỉ
"can thiệp khi có sự đồng ý của những người bolsevich", trong
khi đó thì có một số vị đại sứ của các nước Đồng minh như Mỹ và Pháp
không bắt nhịp với các sự kiện lại có quan điểm ngược lại là "can
thiệp bất chấp sự đồng ý của những người bolsevich".
Tháng 5 năm đó điệp viên Anh lừng danh Sidney Reilly đến Moscva.
Reilly hoạt động độc lập mặc dù Lockhard không hài lòng. Một trong những
việc làm của Lockhard trong thời gian này là đã cấp thị thực của Anh quốc
cho Kerenxki mặc giả quân phục lính Secbi mang hộ chiếu người Secbi. Nhờ
thế Kerenxki đã trốn thoát ra nước ngoài qua Murmansk.
Cuối tháng 5 năm 1918, Lockhard được gọi về Vologda. ở đây các vị
đại sứ các nước Đồng minh khẳng định lại quan điểm "can thiệp bất
chấp sự đồng ý của những người bolsevich". Sự việc diễn ra trùng hợp
với cuộc bạo loạn của người Tiệp Khắc ở Sibia. Theo sự chỉ đạo của Chính
phủ Anh, Lockhard kịch liệt phản đối âm mưu giải giáp đối với người Tiệp
Khắc và cản trở họ trở về nước. Chính Lockhard thừa nhận rằng kể từ thời
điểm đó ông "đã gắn mình với phong trào chống lại Chính phủ thực tế
của nước Nga". Giờ đây ông đã trở thành người ủng hộ chính sách can
thiệp và lật đổ chính phủ của những người bolsevich. Lockhard hoạt động
tích cực, có những cuộc tiếp xúc với các lực lượng chống bolsevich, bí
mật trao đổi thư từ với các thủ lĩnh của phong trào Bạch vệ, thiết lập
quan hệ với "Trung tâm" và "Liên minh Phục hưng nước
Nga" chống Xô Viết do Savincov thành lập. Trong số những người tham
gia vào âm mưu lật đổ có đại úy Pháp Vertimon và công sứ Mỹ Kalamatiano
Fried.
Ngày 6 tháng 7 năm 1918, một âm mưu đảo chính được thi hành.
Savincov được người Pháp xúi giục đã chiếm Iiaroslav, ở Moscva trở nên
hỗn loạn, những người Tiệp Khắc tấn công ở phía Tây chiếm được Simbirsk.
Ngày 4 tháng 8 quân đội các nước Đồng minh đổ bộ vào Arkhanghelsk
bắt đầu cuộc can thiệp. Lockhard đã làm mọi việc để giúp đỡ cuộc can
thiệp từ bên trong, cung cấp tài chính cho các lực lượng chống chính phủ
ở địa phương. Không có tiền mặt, Lockhard viết văn bản cam kết sẽ trả
tiền ở London. Đồng thời Lockhard cũng chuẩn bị rời khỏi Moscva.
Ngày 15 tháng 8 có người đến gặp Lockhard, xưng danh là Smidkhen
nhưng thực ra là nhân viên Treca - Ia. Buikis, cùng đi có E. Berdin
(không phải Ia.K.Berdin, sau này là Cục trưởng trinh sát của Hồng quân).
Smidkhen trao cho Lockhard bức thư của đại úy Cromi gửi, trong thư viên
đại uý hải quân viết là hy vọng sẽ "đóng sập cửa lại trước khi rời
khỏi nước Nga". Smidkhen giải thích rằng những người lính bộ binh
Latvia đã chán cảnh cầm súng chiến đấu vì những người bolsevich. Họ rất
muốn trở về Tổ quốc và đề nghị Lockhard ủng hộ nguyện vọng của họ, làm
công văn yêu cầu lên tướng Puli là tư lệnh quân ở Arkhanghelsk mà họ muốn
chạy sang nếu như phải ra mặt trận.
Lockhard thảo luận tình hình với tướng Lavernhi và tổng lãnh sự Pháp
Grenar. Họ đồng ý với đề nghị của lính bộ binh người Latvia. Lockhard
viết thư gửi tướng Puli và chuyển cho Smidkhen. Số phận tiếp theo của
những người Latvia được trao cho điệp viên Anh Sidney Reilly. Reilly có ý
định nếu được sự giúp đỡ của đồng nghiệp thì sẽ làm bạo động sau khi
Lockhard và một số quan chức ngoại giao khác rời Moscva. Nhưng Lockhard
không ủng hộ ý định đó của Reilly và từ đó hai người không gặp nhau nữa.
Ngày 30 tháng 8 năm 1918 một tên khủng bố đã giết chết người đứng
đầu cơ quan Treca Petrograd Uritski. Ngày hôm sau nữ đảng viên xã hội
cách mạng Fani Kaplan đã ám sát Lenin. Ngay trong đêm đó Lockhard cùng
người phụ tá bị bắt và giải đến cơ quan Treca. Cô Mura, tình nhân của
Lockhard, ngủ đêm tại nhà ông cũng bị giải đến cơ quan Treca.
Sau một hồi chờ đợi rất lâu Lockhard bị đưa sang phòng hỏi cung.
Phó chủ tịch cơ quan Treca toàn Nga Peters chỉ hỏi có ba câu: "Ông
có biết Kaplan, người đàn bà này không?", "Reilly ở đâu?"
và "Đây là bức thư của ông viết?" đồng thời đưa ra bức thư của
Lockhard viết cho tướng Puli. Lockhard không trả lời. Ông biết rõ là
người ta định gán cho ông việc mưu sát Lenin. Ông được trả về phòng giam.
Nhờ được phép đi vệ sinh Lockhard đã tiêu huỷ được những trang giấy ghi mật
mã kẹp trong sổ tay.
Sáng hôm sau Lockhard và người phụ tá được thả. Lockhard đến Đại
sứ quán Hà Lan, tại đây ông mới biết tin đại úy hải quân Cromi đã bị bắn
chết trong lúc bắn nhau khi máy bay oanh tạc Lãnh sự quán ở Petrograd.
Trên các báo đều đăng tin với hàng tít nổi bật "Âm mưu lật đổ
của Lockhard". Các nước Đồng minh bị buộc tội có âm mưu lật đổ Chính
phủ bằng cách mua chuộc đơn vị lính đồn trú Latvia. Mặc dù vậy Lockhard
vẫn được tự do và thậm chí còn nhiều lần đến Bộ Dân uỷ Ngoại giao đề nghị
thả cô tình nhân Mura. ở Bộ Dân uỷ Ngoại giao người ta không giúp được
gì, Lockhard phải đích thân đến gặp phó chủ tịch Treca toàn Nga Peters.
Lockhard được hứa sẽ xem xét việc thả cô Mura, nhưng Peters buộc phải bắt
giam Lockhard. Lockhard bị giam giữ đúng một tháng. Sáu ngày đầu ông bị
giam ở Lubianka, sau đó ông bị giải đến điện Cremli, nơi điều kiện giam
giữ tiện nghi hơn. Hàng ngày Lockhard được phát báo chí để đọc, nhờ đó
Lockhard biết tin rằng ở London để trả đũa người ta đã tống giam nhà ngoại
giao Xô Viết Litvinov. Cô Mura, tình nhân của Lockhard, được Peters thả
ra thậm chí còn cho phép mang quà cho Lockhard đang bị giam giữ.
Cuối tháng 9 Lockhard được thả. Phó chủ tịch cơ quan Treca toàn Nga
Peters đề nghị Lockhard ở lại nước Nga Xô Viết. Lockhard suy nghĩ rất
nhiều về lời đề nghị của Peters. Ông không muốn dứt bỏ cô tình nhân Mura
nhưng ông cũng không muốn mình là nguyên nhân làm cho tình hình quốc tế
phức tạp thêm. Ông không thể trở thành người bolsevich được.
Hai ngày sau, tháng 10 năm 1918, Lockhard rời khỏi Moscva
cùng với những quan chức Anh và Pháp cũng vừa được thả ra sau một thời
gian bị giam giữ.
Đó là tất cả về cái giả thuyết "âm mưu lật đổ của
Lockhard" được chính ông trình bày trong cuốn "Nội tình của câu
chuyện".
Sau khi về Anh quốc, Lockhard làm khá nhiều nghề. Ông viết báo,
sáng tác văn học, thậm chí còn viết cả kịch bản phim cho Hollywood. Ông
sống 7 năm ở Tiệp Khắc, học tiếng Tiệp, quen biết nhiều nhà lãnh đạo của
nước này.
Tháng 9 năm 1939, "Đại úy R.Bruce Lockhard" chính thức
được mời làm việc cho Vụ Tình báo chính trị Bộ Ngoại giao. Lockhard vì
thế đã đi công cán đến nhiều nước như Tiệp Khắc, Hungari, Nam Tư,
Bungari, Rumani, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiệm vụ của Lockhard là hàng tuần
tổng hợp tình hình chính trị của các nước này báo cáo về cho bộ trưởng.
Sau đó ít lâu Lockhard được cử làm phái viên của Chính phủ Anh bên cạnh
Chính phủ Tiệp Khắc lưu vong với chức danh "điệp báo viên Anh
quốc". Lockhard phản đối chức danh này vì nó gợi lại những kỷ niệm buồn
trong thời gian ông làm việc ở Moscva. Nhưng sau đó vài ba năm Lockhard
được đề bạt: năm 1941 - 1945 ông làm giám đốc Vụ tuyên truyền và tình báo
Bộ Ngoại giao.
Khi Đức quốc xã tấn công Liên Xô, việc đầu tiên mà Lockhard đã làm
được là trong các lễ nghi chính thức bài Quốc tế ca
"L’internationale" được cử hành, tuy trước đó bị cấm ở Anh
quốc.
Mặc dù ở Nga Lockhard bị tuyên bố "ngoài vòng pháp luật"
nhưng ông lại có quan hệ rất tốt đẹp với vị đại sứ Liên Xô Maiski.
Lockhard là người tích cực ủng hộ việc mở mặt trận thứ hai và tăng cường
giúp đỡ Liên Xô.
Trong giác thư gửi Chính phủ Anh quốc Lockhard yêu cầu công nhận
nước Nga là đối tác bình đẳng trong việc thảo luận chiến lược chiến
tranh, ổn định tình hình hậu chiến tranh và nước Nga phải được coi là một
cường quốc. Bản dự thảo của Lockhard đưa ra được Iden và Roosevelt ủng hộ
và được dùng làm cơ sở cho Hiệp ước liên minh giữa Liên Xô, Mỹ và Anh
quốc.
|
20 - VILHELM CANARIS
(1888 - 1945)
trùm quân báo quốc xã bị Hitler treo cổ
Tầm vóc nhỏ bé,
hay chuyện, mềm mỏng trong quan hệ giao thiệp, có mái tóc đen nhưng sớm
bạc, nét mặt đặc trưng dân vùng Nearian - đó là miêu tả của những người
đương thời về con người này.
Xuất thân của đô đốc thủy sư Valter Vilhelm Canaris không rõ ràng,
quá khứ lẫn lộn. Theo một số lời kể thì tổ tiên của hắn là người
Italia, những nguồn tin khác lại khẳng định là người Hy Lạp. Nguồn
thông tin này lại rẽ làm hai hướng. Theo hướng thứ nhất, ông tổ của
Canaris là Constantin Canaris, nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào
giải phóng dân tộc Hy Lạp những năm 1820, một thủy thủ, người đã làm nổ
tung hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ. Nguồn thông tin này phát ra chính từ miệng
hoàng đế Vilhelm II khi ông này đọc một tài liệu có nhắc tên gã thủy
thủ trẻ Vilhelm Canaris: "Chẳng phải anh bạn Canaris đây là hậu
duệ của người anh hùng dân tộc trong chiến tranh giành độc lập Hy Lạp
sao?"
Bản thân Canaris không bao giờ phủ nhận quan hệ họ hàng với vị
anh hùng dân tộc mà chỉ mỉm cười khi người ta hỏi về điều này. Nhưng
nguồn tin đúng hơn có lẽ là từ những người khẳng định tổ tiên của hắn
là dân tiểu thương từ Hy Lạp đã đến Đức hồi thế kỉ XIX và trở nên giàu
có ở đây. Điều đó mang lại cho hắn khả năng được gia nhập phục vụ trong
đơn vị hải quân uy tín thuộc Hạm đội Hoàng gia.
Hồi đầu Thế chiến I, Vilhelm là hạ sĩ quan trên tuần dương hạm
"Dresden" chuyên thực hiện những vụ đột kích trên Đại Tây
Dương, đánh đắm tàu buôn của đối phương. Canaris không được chú ý bởi
các chiến tích nhưng hắn được đánh giá là người có khả năng tìm kiếm ở
những cảng trung lập ngôn ngữ chung với những người cung cấp và chính
quyền sở tại để họ không những không gây trở ngại mà còn phối hợp cung
cấp cho "Dresden" mọi thứ cần thiết. Ngoài ra hắn còn biết
tung tin giả về hành trình tiếp tục của tuần dương hạm
"Dresden", và khi nó đến gần người Anh rồi thì người Anh lại
tìm kiếm "Dresden" ở một nơi nào đó khác. Nhưng bất chấp
những mánh khóe của Canaris, "Dresden" vẫn bị phát hiện tại
một trong vô số các vịnh của bờ biển Chile.
Sau khi "Dresden" bị đánh đắm, Canaris đã chạy thoát.
Người ta không rõ lắm về hành tung thời kì này của Canaris. Một số
người cho rằng hắn đã sang Mỹ, từ đó liên lạc với fon Papen đang là tùy
viên quân sự và công sứ tại Washington. Trước năm 1916, Canaris trốn ở
Mỹ, thực hiện nhiệm vụ do Papen giao phó và tham gia tổ chức một số vụ
nổ và phóng hỏa. Năm 1916, thoát không bị vạch mặt, hắn chạy sang
Madrid. Còn theo những nguồn tin khác, sau khi tuần dương hạm
"Dresden" bị đánh đắm, Canaris đã lên một chiếc tàu Anh với
hộ chiếu giả của Chile mang tên Rid Rosos trở về châu Âu. Hắn đóng giả
làm một công dân Chile và hoạt động chống quân liên minh suốt năm 1915.
Hắn trợ giúp cho các bộ tộc Ả Rập ở Marocco và Tây Phi, kích động họ
nổi dậy chống lại Anh và Pháp. Hắn chuẩn bị các vụ phá hoại ngầm và
hình như đã làm nổ tung chín chiếc tàu của Anh. Ngoài ra, hắn còn tuyển
mộ nhiều điệp viên, trong đó có nàng Mata Hari lừng danh. Người ta cũng
kể chuyện rằng khi bị giam trong nhà tù của Italia, Canaris đã bóp cổ
chết vị linh mục đến thuyết giáo và đổi áo quần, hóa trang trốn thoát.
Canaris thích nghe những chuyện thêu dệt về hành tung của mình, không
bao giờ phủ nhận hay khẳng định điều gì mà chỉ mỉm cười hết sức bí ẩn.
Hồi cuối Thế chiến I có thời gian hắn đã làm việc trên tàu ngầm,
sau đó trở thành chỉ huy trên thiết giáp hạm "Slezvig". Mặc
dù là sĩ quan hải quân nhưng Canaris luôn dính líu đến hoạt động tình
báo. Hắn sẵn sàng thực hiện những nhiệm vụ bí mật, biết mọi chuyện và
thông báo tin mới cho bạn bè của mình. Đồng sự gọi hắn là
"Kiker" (Gã nghe lén). Nếu nói về quan điểm chính trị thì
Canaris là kẻ căm ghét những người bolsevich, ngả theo chủ nghĩa quốc
xã. Như mọi nhà hoạt động của nước Đức quốc xã khác có quá khứ đáng ngờ
(ví dụ Haydrich có cha là người lai Do Thái, Canaris biết rõ điều này
và đã dùng bí mật đó để đe dọa Haydrich; còn chính bản thân Sykelgruber
cũng có chuyện không ổn với các cụ tổ của mình...), Canaris là một tên
Đức quốc xã đặc biệt hăng hái. Năm 1919, hắn trở thành nhân viên tình
báo Đức, hay nói đúng hơn là của ngành phản gián. Trong vai trò này hắn
đã tham gia vào các vụ sát hại những lãnh tụ của đảng
"Spartac" (Đảng Cộng sản) Đức như Carl Libknecht "khi
ông ta đang tìm cách chạy trốn" và Roza Lucxamburg trên đường đến
nhà tù. Hắn cung cấp hộ chiếu cho bọn giết người và giúp chúng lẩn
trốn.
Sau đó hắn tiến hành các cuộc đàm phán về việc đóng tại Tây Ban
Nha, Hà Lan và Nhật Bản tàu ngầm cho nước Đức. Theo hiệp ước Versaille,
Đức bị cấm sở hữu hạm đội tàu ngầm.
Năm 1920, Canaris tham gia vào vụ "đảo chính Kappov"
chống nền quân chủ và nhằm thiết lập chế độ độc tài của giới chóp bu
quân sự nhưng không thành công. Sau đó có thời gian hắn buộc phải từ
nhiệm và chỉ trở lại giữ chức chỉ huy căn cứ hải quân ở Swinemunde khi
Hitler nắm quyền. Nhưng hắn không ngồi lâu ở vị trí đó. Cuối năm 1934,
đại úy cấp I Patsyg bị miễn chức chỉ huy ban quân báo. Còn ngày 5 tháng
1 năm 1935 phó đô đốc thủy sư Vilhelm Canaris được chỉ định vào vị trí
đó. Cơ quan tình báo quân sự Đức – gọi là Abver - chia làm ba bộ phận.
Abver-I chuyên thu thập thông tin từ cơ quan tình báo Đức và nước
ngoài, Abver-II chuyên hoạt động phá hoại ngầm, còn Abver-III là bộ
phận phản gián trên lãnh thổ Đức.
Hitler cảm thấy mình vẫn chưa vững chân lắm và buộc phải nhượng
bộ các tướng, nên trong giai đoạn đầu dành cho các Abver quyền độc lập
hoàn toàn. Hitler triệu Canaris lên, thảo luận rất lâu với hắn và trao
trách nhiệm xây dựng Abver thành một tổ chức hùng mạnh không thua kém
bất kì cơ quan tình báo của các quốc gia phương Tây nào.
Một trong các hoạt động lớn nhất của Canaris ở giai đoạn đầu là
vụ ủng hộ tướng Franco phát động cuộc nổi loạn của phe phát xít chống
chính phủ nước cộng hòa.
Quan hệ hợp tác bí mật của Canaris với gã thiếu tá trẻ Franco
khởi đầu từ năm 1916, khi Canaris đang tổ chức các cuộc bạo loạn của
những bộ tộc Ả Rập. Sau hai mươi năm đôi bạn cũ gặp lại nhau. Biết tin
về cuộc nổi loạn, Canaris gác những việc khác sang một bên và dồn toàn
lực để vận động giới quyền lực Đức giúp đỡ Franco tối đa. Hitler và
Hering nhanh chóng hiểu ra những mối lợi mà chúng có thể kiếm được từ
thắng lợi của Franco là: tiêu diệt nước Cộng hòa Tây Ban Nha, thiết lập
chế độ độc tài có liên hệ tinh thần gần gũi với Đức, sở hữu những bàn
đạp quân sự quan trọng nhất từ Tây Nam châu Âu.
Cuối tháng 7 năm 1936 trong cuộc họp có Hitler tham gia, Hering,
bộ trưởng quốc phòng, nguyên soái Bloomberg và thủy sư đô đốc Canaris
đã cùng thông qua quyết định mang tính nguyên tắc về việc ủng hộ
Franco. Sau đó Canaris bay sang Italia. Tại đó, với sự hỗ trợ của viên
tướng đồng nghiệp Roatt, Canaris đã thuyết phục được cả Mussolini giúp
đỡ tướng Franco. Trở lại Đức, Canaris bắt đầu tổ chức hoạt động cung
cấp vũ khí và đạn dược cho quân Franco. "Con cáo quỷ quyệt"
Canaris cũng thu xếp việc cung cấp vũ khí cho cả quân cộng hòa mà thực
ra là những tên vô dụng, đào ngũ hay đặc biệt đã tha hóa trong thời kì
Thế chiến I. Để thực hiện việc đó Canaris xây dựng các công ty cung cấp
tại Tiệp Khắc, Phần Lan, Ba Lan và Hà Lan.
Canaris nhiều lần bay sang Tây Ban Nha gặp gỡ với Franco, phối
hợp việc tham gia hoạt động chiến đấu của quân đoàn không quân
"Condor" (Đức) và giải quyết những vấn đề khác trong tương
trợ chiến đấu, cùng với Franco đi thanh sát các mặt trận. Hắn đồng thời
chỉ đạo việc đưa chuyên viên quân sự vào Tây Ban Nha, một công tác được
thực hiện hết sức bí mật (người ta biết được có những sĩ quan Đức đã bị
kết án tử hình do thông báo cho gia đình về việc họ được điều đi đâu).
Toàn bộ ba mươi hai tháng chiến tranh Tây Ban Nha, Canaris luôn ở
"tiền tiêu". Chính hắn đã biết thuyết phục Franco tán thành
công ước chống Quốc tế Cộng sản. Sự hỗ trợ của nước Đức dành cho chế độ
Franco ước tính khoảng năm tỉ mark.
Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở Tây Ban Nha khi Hitler nghĩ tới
việc thôn tính nước Áo. Trong chiến dịch này, Abver và đích thân
Canaris đóng vai trò không kém phần quan trọng. Vấn đề ở chỗ là trong
thời gian này nước Đức gần như không sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh,
mà thực hiện vụ "sáp nhập" lại là điều Hitler hết sức mong
muốn. Do vậy Canaris được ủy thác việc tiến hành các biện pháp bóp méo,
xuyên tạc thông tin nhằm làm giới lãnh đạo Áo hoảng sợ và buộc phải
chấp nhận các điều kiện của Đức. Không hề có các cuộc di chuyển và tập
trung quân Đức trên biên giới nước Áo khi đó, nhưng Canaris đã biết
cách tung tin vịt về các cuộc tập dượt quân sự và khả năng chiến đấu
cao của quân đội Đức. Tin đồn đã gây ảnh hưởng quyết định đến động thái
của chính phủ Áo và dư luận quốc tế. Tất cả đều tin rằng tiềm lực quân
sự của Đức thực sự lớn. Nước Áo buông xuôi, còn tiếp đó đã là Hiệp ước
Munchen.
Nhưng đây lại là thời điểm Canaris bắt đầu cảm thấy nghi ngờ
tính chất đúng đắn trong đường lối chiến tranh của Hitler. Hắn ta, cũng
như những bạn bè của hắn trong giới tướng lĩnh, hoàn toàn không theo
chủ nghĩa hòa bình. Đơn giản là chúng nhận thấy nước Đức chưa sẵn sàng
cho chiến tranh xâm lược, và trong tương lai xa các kế hoạch của Hitler
nhất định phá sản. Thực sự chưa xảy ra một vụ phản loạn nhưng những kẻ
mưu loạn thì đã tồn tại và chuẩn bị để thực hiện nó. Từ thời gian này
bắt đầu con đường sáu năm Canaris tham gia vào những vụ âm mưu chống
Hitler khiến rốt cục đã bị bắt và chết. Trong các hoạt động theo hướng
đó có việc phái Evald Kleist sang London vào năm 1938 nhằm tiến hành
các cuộc mật đàm. Người này bay sang Anh một cách công khai trên chiếc
máy bay U-52, và điều này không thể che mắt Gestapo. Tuy nhiên khi đó
các cuộc mật đàm là không cần thiết bởi vì người Anh đã tự đến với
Hitler và thực chất là bật đèn xanh cho Thế chiến II.
Ngay trước Thế chiến II Canaris ở vào một tình cảnh bất thường:
một mặt hắn là lãnh đạo cơ quan tình báo quân sự của quốc gia gây chiến
và đã chỉ đạo hoạt động của cơ quan này đạt nhiều thành tích, mặt khác
lại đồng lõa và giúp đỡ kẻ thù. Nghịch lí ở chỗ Canaris tuy chống
Hitler nhưng lại tận tụy làm việc, ra sức hoàn thiện cơ cấu của Abver,
gửi ra nước ngoài và tuyển mộ ở đó nhiều cơ sở tình báo gián điệp. Tổ
chức của Canaris mặc dù vậy không đông đảo bằng Gestapo, toàn bộ số
lượng thành viên cho đến năm 1943 chỉ có ba mươi nghìn người, trong đó
có tám nghìn sĩ quan.
Canaris đã đặt từ trước chiến tranh những trung tâm tình báo
chính của mình ở thủ đô các nước trung lập như: Madrid, Liabon, Bern,
Ancara, Stockholm và cả ở Budapest. Xuất phát bởi lí do là các thành
phố này chưa chắc đã bị chiếm đóng trong tiến trình chiến tranh bởi
phía này hay phía kia nên các thương nhân, nhà ngoại giao, công chức và
phóng viên là những gián điệp trá hình có thể tự do đến đó. Những trung
tâm tình báo tạm thời được hắn tổ chức ở Brussel, Varsava, Sofia,
Bucarest, Gaaga và Paris, là những thành phố trong trường hợp chiến
tranh có thể trở thành các thủ đô thù địch, còn sau đó sẽ bị chiếm
đóng. Do vậy hắn xây dựng tại đó những nhóm tình báo tác chiến trong
trường hợp quân Đức tấn công xâm nhập. Những nhóm tương tự được hắn xây
dựng tại các thủ đô vùng Baltich. Và còn một Trung tâm quan trọng nữa
mà gã đô đốc năng nổ đã tổ chức ở Vatican, thành phố-quốc gia có đại
diện tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Nước Đức đã kí các hiệp ước về phối hợp hoạt động quân báo với
các quốc gia vùng Baltich. Những công dân Baltich theo lệnh của bọn Đức
đã cài gián điệp của Canaris vào các cơ quan tình báo ở Caunas, Riga và
Tallin. Tại các thành phố này và ở Gaaga cơ quan của Canaris hàng ngày
nhận được báo cáo về hoạt động của tình báo Anh.
Là người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự, Canaris khi đó cũng
là phó chỉ huy thứ nhất của tướng Katel - chỉ huy Bộ tổng tham mưu các
Lực lượng vũ trang Đức, do đó việc soạn vạch tất cả các kế hoạch xâm
lược của Hitler đều diễn ra với sự trực tiếp tham gia của hắn.
Trong giai đoạn "cuộc chiến tranh kì
quặc" (tháng 9-1939 - tháng 5-1940) các gián điệp của Abver đã
thu thập được thông tin chi tiết về tình hình ở hậu phương của quân
đội Đồng minh, tình trạng cầu cống, đường sá, hệ thống phòng vệ. Diễn
ra cuộc chiến tranh gián điệp và phản gián, cơ quan chuyên trách của
Abver đã khám phá và vô hiệu hóa nhiều điệp viên của phe Đồng minh.
Abver còn có nhiệm vụ đánh cắp quân phục đặc chủng từ các kho quân sự
của Bỉ và Hà Lan. Những thứ này cần để làm phục trang cho lính chiến
tiền tiêu Đức khi cần bất ngờ chiếm lĩnh cầu qua sông Maas và Mozel.
Và khi "cuộc chiến tranh kì quặc" kết thúc, quân Đức tiến
vào Bỉ và Hà Lan thì những cây cầu này đã bị những "kẻ mặc quân
phục quân Đồng minh" chiếm giữ và chờ quân đội Đức tiến vào.
Nhiều cuộc phá hoại đã phá hủy toàn bộ hệ thống phòng ngự của quân
Đồng minh, hệ thống tiếp tế và đường thông tin liên lạc.
Chiến dịch chiếm Na Uy của quân Đức vào tháng 4 năm 1940 là
một trong những hoạt động quan trọng nhất giai đoạn đầu chiến tranh.
Thừa lệnh quốc trưởng, thông qua cơ quan tình báo của mình, Canaris
thu thập tất cả những số liệu cần thiết để tiến hành thành công chiến
dịch này. Nhưng mặt khác, qua người của mình hắn cũng cảnh báo cả
người Anh lẫn người Na Uy. Hiển nhiên là hắn không hề mong quân Đức
thất bại nhưng cho rằng sự xuất hiện của hạm đội Anh ở bờ biển Na Uy
sẽ buộc Hitler phải từ bỏ ý định của mình. Tuy nhiên khi cần hành
động, Canaris đã thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ trực tiếp của mình.
Chính Abver đã điều tàu Đức đến Oslo và chỉ đạo hoạt động của các tùy
viên quân sự Đức trong phối hợp với các sĩ quan nội ứng Na Uy chuẩn
bị bảo vệ sứ quán Đức. Chúng chuẩn bị điều kiện cho không quân nhảy
dù chiếm Oslo nếu hạm đội Đức không hoàn thành nhiệm vụ. Không phải ngẫu
nhiên mà sau các sự kiện ở Na Uy, Canaris từ phó đô đốc được thăng
lên đô đốc.
Khi Hitler chỉ định chính xác ngày tháng tấn công sang phía
Tây là mùng 10 tháng 5 năm 1940, Canaris lại một lần nữa quyết định
báo trước cho quân Đồng minh. Hắn phái viên sĩ quan Joseph Muller của
mình đến Rome và báo chính xác ngày tháng đó cho một trong số các nhà
cựu ngoại giao của Vatican. Đại sứ Bỉ đã kịp thời thông báo vào ngày
1 tháng 5 cho chính phủ nước mình. Nhưng như chuyện vẫn thường xảy
ra, thông tin bị bỏ qua, và cuộc tấn công của quân Đức diễn ra vào
đúng ngày ấn định.
Nhưng với lịch sử điều này vẫn là bài toán chưa rõ lời giải.
Vấn đề là ở chỗ Canaris thông báo cả cho Thụy Sĩ về ngày tháng dự
định tấn công của quân Đức. Không hiểu đây có phải là mánh khóe để
quân Đồng minh chờ đợi đòn đánh từ cả hai sườn và phải phân tán lực
lượng của mình?
Sau khi Pháp đầu hàng, Hitler ra lệnh chuẩn bị kế hoạch đổ bộ
vào Anh mang tên "Sư tử biển". Nhưng sau hai tháng hắn ta
đã thực sự không quan tâm đến ý tưởng đó nữa. Những báo cáo của
Canaris phóng đại nhiều lần khả năng phòng thủ của Anh đã đặc biệt
tạo điều kiện để quốc trưởng đi đến quyết định như vậy.
Tình báo Anh cảnh báo Đồng minh của mình: "Đừng làm hại
Canaris. Sự bại lộ của ông ta sẽ hết sức nghiêm trọng và ảnh hưởng
đến chúng ta".
Nhưng nếu đánh giá tình hình một cách sâu xa cặn kẽ hơn thì
điều đó căn bản cũng không do Canaris. Hitler đã xây dựng những kế
hoạch khác - vì phải để mắt sang phía Đông, nơi đối thủ chính của
nước Đức phát xít là Liên Xô đang bí mật xây dựng phòng tuyến. Các
cuộc đàm phán về cuộc đổ bộ trước mắt xuống nước Anh vẫn tiếp diễn
nhưng thực ra chỉ là mánh khóe để che giấu ý định thật của Hitler.
Canaris và Abver do hắn lãnh đạo nhận được lệnh tăng cường tối
đa hoạt động tình báo và phá hoại chống Liên Xô. Những mệnh lệnh cũng
được ban xuống các cơ quan ngoại biên và đơn vị quân đội.
Những chứng cứ đáng quan tâm về vấn đề này được phó ban phá
hoại của Abver là Stolse khai trước tòa án Nuremberg như sau:
"Mệnh lệnh chỉ rõ ràng nhằm mục đích giáng một đòn chớp nhoáng
chống Liên Xô, Abver-II trong khi tiến hành hoạt động phá hoại phải
lệnh cho các gián điệp của mình kích động thù hận dân tộc giữa các
dân tộc Liên Xô. Đặc biệt riêng tôi đã truyền chỉ thị cho các điệp
viên Đức và thủ lĩnh Quốc xã Ucraina Melnik (có biệt danh là
"Lãnh sự I") và Bander về việc tổ chức ngay lập tức sau khi
Đức tiến công vào Liên Xô những hoạt động khiêu khích tại Ucraina với
mục đích phá hoại hậu cứ gần nhất của quân đội Xô Viết, đồng thời thuyết
phục dư luận quốc tế về sự tan rã đang diễn ra ở hậu phương Xô
Viết".
Tình báo quân sự Đức do Canaris lãnh đạo đã thu thập được khối
lượng thông tin hết sức lớn về Liên Xô và các lực lượng vũ trang của
quốc gia này. Kết quả là đầu năm 1941 cơ quan của Canaris đã chuẩn bị
và ban hành những thông báo mật của Bộ tổng tham mưu Đức về
"Tình hình các lực lượng vũ trang Liên Xô đến ngày 1 tháng 1 năm
1941" với đánh giá về dự trữ của cải vật chất và người của đất
nước Xô Viết cũng như tinh thần chiến đấu và tình trạng đạo đức của
Hồng quân.
Từ trước chiến tranh, các nhân viên chuyên trách việc tuyển mộ
của bọn phát xít đã lùng sục tìm kiếm đám Bạch vệ lưu vong trung
thành khắp châu Âu. Giữa tháng 6 năm 1941 diễn ra hoạt động rải gián
điệp ồ ạt. Chỉ trong bốn ngày, từ 18 đến 21 tháng 6, và chỉ theo
hướng Minsk đã có hàng chục nhóm bị bắt và vô hiệu hóa hoạt động. Đêm
rạng sáng ngày 22 tháng 6 Abver lại tung qua biên giới bằng đường bộ
và hàng không một số lượng đáng kể những nhóm phá hoại nhỏ ăn mặc dân
sự và giả trang Hồng quân. Quân phát xít đã đạt được một số thành
tích như: phá hoại thông tin liên lạc ở một vài khu vực riêng rẽ, xây
dựng được những điểm đổ bộ quân, lật tàu. Tại một số địa phương lan
truyền các tin đồn thất thiệt. Tại Moscva và các vùng ngoại ô Moscva
có một vài nhóm gián điệp được ném vào với nhiệm vụ tổ chức phá hoại
hàng loạt, làm nổ tung tuyến đường cao tốc Uglitr - Moscva. Phần lớn
bọn phá hoại đã bị bắt, và ổ gián điệp cần được bổ sung.
Ervin Stolse đề nghị Canaris chú ý đến những tù binh chiến
tranh và tuyển mộ gián điệp ở các trại tập trung. Tuy nhiên ý đồ này
thất bại. Hitler hết sức tức giận đã viết trong huấn lệnh ngày 18
tháng 12 năm 1941: "Bọn tù binh, đặc biệt là thế hệ trẻ, trung
thành tuyệt đối với bolsevich. Chúng có khả năng làm bất cứ chuyện
gì." Khi đó Abver liền từ bỏ các biện pháp tuyển mộ "nhân
đạo". Tù binh bị đặt trước hai sự lựa chọn: hoặc chết dưới làn
đạn, đói khát và bệnh tật, hoặc đồng ý làm việc cho tình báo phát
xít. Bọn phát xít đặc biệt chú trọng đến việc kích động chủ nghĩa dân
tộc, đặc biệt đối với người Ucraina, người Hồi giáo và Gruzia. Những
kẻ đồng ý hợp tác sẽ được kiểm tra kĩ lưỡng và gửi vào các trường
huấn luyện hoạt động tình báo. Nhưng thực tế đã chứng tỏ rằng khi đặt
hi vọng tìm kiếm tay chân trong các tù binh, Canaris đã tính nhầm.
Hơn nửa số gián điệp phá hoại được tung vào hậu phương Xô Viết đã ra
đầu thú. Cả âm mưu lôi kéo bọn tội phạm vào hoạt động tình báo (để
tung sang bên kia đường biên mặt trận) cũng phá sản vì bọn này chỉ
thuận làm việc cho người Đức ở hậu phương của chúng trong vai trò
lính tiễu phạt và cảnh binh, còn hoạt động ở hậu phương Xô Viết thì
không.
Gặp khó khăn trong việc tuyển mộ những tên phá hoại, cơ quan tình báo
quyết định thực hiện một kế hoạch kì quặc: dùng trẻ em cho hoạt động
này, chủ yếu là những trẻ em trong các trại trẻ mồ côi vô thừa nhận
đưa về Đức. Trường huấn luyện trẻ em phá hoại nằm ở Hamfurt, gần
Kasseli. Những cậu bé thích hợp được đào tạo như những "đứa con
của nước Đại Đức" sẽ được nuôi dưỡng và phát triển những bản
năng khác bình thường. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 8 và 1 tháng 9 năm
1943 có những nhóm trẻ em tầm tuổi mười ba đến mười lăm được thả dù
xuống hậu phương của Hồng quân từ Kaliningrad cho đến Kharcov. Chúng
được trang bị mìn ngụy trang thành những cục than đá để có thể ném
vào toa than xe lửa chạy hơi nước hay vào các kho chứa than. Nhưng cả
chiến dịch này cũng thất bại. Tất cả lũ trẻ mang chất nổ nhảy dù
xuống đều đến đầu thú tại các đơn vị quân đội, công an, các cơ quan
an ninh quốc gia.
Khi chiến tranh nổ ra, Canaris ở mặt trận phía Đông và cùng
với quân đội tấn công đến tận sát Moscva. Chỉ tại đó hắn ta mới thấy
những hiểu biết của giới lãnh đạo nước Đức và của chính bản thân mình
về sức mạnh và dự trữ của Hồng quân là sai lầm đến mức độ nào. Hắn đã
cảnh báo cấp lãnh đạo tối cao rằng quân Đức sẽ không bao giờ có thể
chiếm được Moscva. Hắn cũng có lời báo trước tương tự vào năm sau
trong mùa khởi đầu cuộc tấn công Kavkaz. Hitler bỏ qua ý kiến đó
nhưng bắt đầu "để mắt đến Canaris".
Abver cũng tìm cách triển khai mạng lưới rộng khắp mặt trận
phía Đông. Một trong các hoạt động đó là chiến dịch mà cơ quan tình
báo Liên Xô gọi theo mã danh là "Tu viện". Chiến dịch này
do người đứng đầu Cục 4 là tướng Sudoplatov chỉ huy.
Bản chất của chiến dịch này nói gọn là: điệp viên Liên Xô
"Geine", tức Alekxandr Demianov, về sau này là thành viên
của chiến dịch "Berezino" đã "chạy" sang phía
quân Đức vào tháng 2 năm 1942, được "tuyển mộ" và ném trở
về hậu phương của Hồng quân. Có huyền thoại kể rằng anh đã lọt vào
dưới trướng của tướng Saposnikov, và "moi" được những thông
tin mới, "giá trị" nhất. Không chỉ Abver, mà cả Bộ chỉ huy
quân sự phát xít Đức đều tin chắc rằng chính chúng đã "cài"
"Geine" vào vị trí này. Về sau người ta còn biết rằng cấp
chỉ huy tối cao trong quân đội Đức không thông qua quyết định khi
chưa nhận được báo cáo của "Geine". Anh được đánh giá gần
như là nguồn cung cấp thông tin trực tiếp duy nhất từ Moscva. Cơ quan
tình báo Anh cũng biết Abver của Đức có một gián điệp hết sức giá trị
ở Moscva. Năm 1943 thủ tướng Anh Churchill thậm chí còn thông báo cho
Stalin rằng: "Trong Bộ tổng tham mưu Hồng quân có một gián điệp
của Đức". Chiến dịch "Tu viện" đóng vai trò có thể nói
là hết sức to lớn, đặc biệt trong hoạt động chuẩn bị cho cuộc phản
công của quân Xô Viết ở ngoại ô Stalingrad, cũng như trong trận
Cursk. Ở trận phản công ngoại ô Stalingrad quân Đức bị thuyết phục
rằng Hồng quân đang chuẩn bị đánh ngoại ô Rjev (Thậm chí tướng K.
Jukov đã di chuyển đến đó), còn trong trận Cursk - ý đồ phòng ngự tích
cực và tiếp đó là kế hoạch phản công quyết liệt đã được giữ kín.
Không có gì lạ là sự thất bại của Abver đã khiến Hitler không
hài lòng. Có thể do cố tình hoặc do sự lười biếng của đám gián điệp
mà Canaris thất bại ở khắp các mặt trận: thường thường thông tin của
hắn không khớp với thực tế. Bên cạnh đó, Gestapo bắt đầu nghi ngờ
Canaris. Một vài cộng sự của hắn bị bãi miễn chức vụ, bị bắt và kết
tội quan hệ bí mật với người Anh. Tháng 1 năm 1944 Gestapo tiến hành
thanh trừng những người Đức bất mãn với chế độ Hitler. Trong số họ có
bạn bè và những kẻ cùng tư tưởng với Canaris. Tình hình khiến vị trí
của hắn thực sự lung lay. Nhưng bão tố thực sự nổ ra sau bản báo cáo
của Canaris gửi Hitler về tình hình mặt trận Nga tháng 2 năm 1944.
Khi nghe bản báo cáo, quốc trưởng ban đầu nhìn chòng chọc Canaris,
sau đó đột ngột đập bàn, nhảy xổ vào viên đô đốc và túm lấy cổ áo
hắn:
- Ông làm sao vậy, thử chứng minh rằng tôi đã bại trận à?! -
như nổi cơn điên, Hitler gầm lên.
Canaris lập tức bị truất chức. Mọi chuyện cũng chấm hết đối
với Abver. Cơ quan tình báo quân sự bị chuyển vào tay Himmler. Tên
này từ đó trở đi lãnh đạo cơ quan tình báo duy nhất của nước Đức phát
xít. Canaris bị chỉ định một chức vụ thứ yếu nào đó trong quân đội ở
ban quân nhu. Bạn bè thân thiết khuyên hắn cùng với gia đình chạy
sang Tây Ban Nha nương náu tướng Franco, nhưng hắn không nghe.
Tháng 6 năm 1944 xảy ra vụ mưu sát Hitler và âm mưu đảo chính nhà
nước. Canaris không tham gia nhưng có biết chuyện. Khi biết việc
không thành, Canaris lập tức đến nhiệm sở và kịp thời kí tên dưới bức
điện gửi quốc trưởng chúc mừng vụ thoát chết may mắn. Không hề tìm
cách ẩn trốn, hắn tiếp tục làm việc ở cơ quan quản lí kinh tế. Hai
ngày sau vụ mưu sát, Canaris bị đích thân người kế nhiệm của mình là
Sellenberg bắt.
Gestapo tiến hành cuộc điều tra hết sức kĩ lưỡng - bởi vì
không đơn giản khi xử tử hình một người nổi tiếng, bạn của tướng
Franco, hơn nữa sự tham gia của hắn vào vụ mưu loạn không có ai xác
nhận. Sau đó chúng tìm được một số chứng cớ riêng rẽ về các cuộc tiếp
xúc với người Anh. Canaris bị chuyển đến pháo đài Flossenburg, bị cùm
chân suốt ngày đêm.
Ngày 9 tháng 4 năm 1945, đúng một tháng trước khi kết thúc
chiến tranh, Canaris bị xử tử cùng với năm tù nhân khác. Một đao phủ
SS khai trước tòa rằng Canaris bị treo cổ bằng một vòng thép và chết
trong đau đớn chỉ sau nửa giờ. Thi thể của các tù nhân bị thiêu trên
đống lửa trong sân nhà tù. Cũng có tin đồn rằng Canaris vẫn còn sống
nhưng điều này bị phủ nhận.
Nhà nghiên cứu người Anh Cookridg viết về Canaris như sau:
"Hắn ta đã sát hại một cách tàn bạo hàng trăm con người, là một
kẻ đầy âm mưu và thủ đoạn"; còn Corte Riss, tác giả cuốn sách
“Tình báo tổng hợp” gọi Canaris là "kẻ giảo hoạt, quỷ quyệt,
khéo xoay xở và là tên phiêu lưu vô liêm sỉ". Và người ta còn
nói rằng nếu hắn không bị Hitler treo cổ thì tòa án Nuremberg cũng sẽ
phải làm việc này.
|
|
21 - LOUISA BETTINI
(ALISA DUYBUA)
(mất năm 1918)
thành công sau những trò đùa với cái chết
Nhiều
chuyên gia và sử học ngành tình báo coi Louisa Bettini là điệp viên
xuất sắc nhất trong Thế chiến thứ nhất.
Louisa de Bettini là một cô gái Pháp trẻ trung, xinh đẹp, người
tầm thước, dáng vẻ dịu dàng, tóc mầu hạt dẻ, mắt mầu tro lấp lánh, mặt
trái xoan, da mịn, đôi môi gợi cảm và một nụ cười mê hồn. Cô sinh ở
vùng Bắc Pháp, nhà cô ở Lille, bây giờ đã rơi vào tay quân Đức, cô đang
cố chạy về thành phố Sent-Omer ở Pháp, nơi mẹ cô đang ở. Cô tự hào về
nguồn gốc thượng lưu và trình độ văn hoá của mình, nói được cả tiếng
Anh lẫn tiếng Đức, nhưng lại nghèo khó. Trước chiến tranh cô làm gia sư
cho các gia đình giầu sang và có tước vị của Pháp và Đức, đã có lần cô
còn từ chối gia đình thừa kế ngai vàng Áo-Hung. Vì cô là dòng dõi quý
tộc nên mọi người coi cô là ngang hàng, tạo điều kiện cho cô đi những chuyến
đắt tiền khắp cả châu Âu, mời cô chơi bài với cả những khách quý tộc.
Nhưng bây giờ thì cô thất nghiệp.
Năm 1914, trong dòng người chạy loạn về phía biển La Manche cố
chiếm chỗ trên các con tầu Anh để trốn quân Đức lúc này đã chiếm được
Bỉ và tràn vào Pháp, tại một trạm kiểm soát, Louisa đã khiến bọn quân
cảnh kinh ngạc về chất lượng và số lượng thông tin cô cung cấp về quân
Đức mà một điệp viên chuyên nghiệp chưa chắc đã thu được. Cô được đề
nghị làm điệp viên, trở về Lille, tổ chức mạng lưới tình báo, gửi thông
tin về cho tướng French ở Sent-Omer và Trung tâm tình báo ở Folkston.
Khi cô hiểu thực chất công việc được đề nghị, cô hoảng sợ thật sự. Cô
biết bọn Đức trừng trị điệp viên thế nào, trình độ phản gián của chúng,
và biết mình sẽ ra sao nếu chúng bắt được, nhưng dòng máu dũng cảm
truyền thống nhắc cô phải làm một việc gì xứng đáng với cha ông.
Louisa sang Anh, qua Hà Lan lúc đó không bị chiếm đóng. Cô đến
một làng nhỏ có cái tên rất kêu "Phillipin" ở biên giới giữa
Hà Lan và nước Bỉ bị chiếm đóng. Trên suốt dọc biên giới bọn Đức chăng
hàng rào dầy đặc, có dây thép gai bắt điện cao thế, lúc tối có đèn pha.
Bên phía Bỉ cũng có dây thép dẫn điện, bẫy sập và các bãi mìn. Tất cả
đều được chuẩn bị chu đáo theo kiểu người Đức. Đến tối Louisa mặc bộ đồ
đen, đứng bên phía Hà Lan chờ người dẫn đường.
- Anh ta tên là Alfons Verstapen, người Bỉ, một tay buôn lậu
chuyên nghiệp. Chiến tranh biến anh thành người yêu nước. Anh rất thuộc
đường biên giới. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể tin vào lòng yêu nước
của anh, nhưng không biết anh ấy giữ mình thế nào trước một người con
gái xinh đẹp. Nếu cô cảm thấy có chút nghi ngờ thì chúng tôi sẽ tìm
người khác,- viên sĩ quan Anh nói.
Louisa vượt qua biên giới với người đó. Như một cái bóng, anh
lướt đến gần cô, nói mật khẩu, cô trả lời và thấy thoảng mùi thuốc lá.
Anh ta nhìn cô một chút rồi cầm lấy tay dẫn đi trên con đường rừng chật
hẹp không nói một lời. Đến sáng, mọi thứ đã ở phía sau, nhưng mỗi góc
phố đều có bọn tuần binh Đức. Chúng kiểm tra căn cước, "giấy thông
hành" và hỏi mục đích đi đâu. Hai người đều có giấy tờ chắc chắn.
Đến tối họ đến nhà Louisa. Sáng hôm sau Louisa mặc một bộ quần áo màu
sẫm nghiêm trang. Trong túi xách có giấy tờ mang tên cô thợ thêu đăng
ten và bán đăng ten Alisa Duybua.
Khắp nơi là bóng dáng quân xâm lược: tuần binh và bốt gác, bốt
gác và tuần binh. Nguy hiểm hơn cả là hệ thống phản gián, mà như cô
được biết, bọn Đức tung ra trên toàn bộ các vùng chiếm đóng. Phải dè
chừng không những là bọn Đức chuyên nghiệp và bọn tay sai, mà cả những
người hàng xóm yếu bóng vía. Cảm giác nguy hiểm làm trái tim cô đập
mạnh.
Alisa đi khắp thành phố và ngoại ô để bán đăng ten, nhưng thực
ra là để nắm tình hình và tìm người hỗ trợ. Trong một quán nhỏ cô gặp
người bán hàng trẻ tuổi cương nghị Maria Leonia Vanhut. Hai người thấy
mến nhau ngay. Alisa mời Maria giúp mình, chị đồng ý và nhận biệt danh
"Sharlotta", làm nghề bán rong phó mát. Alisa cũng đã mời
được những người trong thành phố Muskron - hai vợ chồng nhà hoá học De
Geyters, nhà của họ trở thành một trong những căn cứ bí mật. Trong
phòng thí nghiệm của ông bắt đầu có những đồ vật dị thường: máy chụp
ảnh các cỡ, máy phóng, các hoá chất để làm mực tàng hình, các bảng khắc
bằng thép, máy nén bằng tay có thể tháo lắp nhanh chóng, các vật liệu
sửa chữa radio. Chỉ cần bọn Đức phát hiện ra một thứ là chủ nhân gặp
lắm chuyện rầy rà. Tại thành phố Santes người vẽ bản đồ Pol Bernar đã
giúp cô bằng nét chữ và ngòi bút thư pháp của mình. Nhờ kính lúp, hệ
thống chữ tốc ký và mực không mầu ông đã giúp cô viết các báo cáo dài
đến 3000 chữ trên một tờ giấy bóng kính khổ nhỏ dán trên kính mắt.
Tổ chức của cô đã thu hút được những người thuộc các nghề nghiệp
và vị thế xã hội khác nhau ở nhiều thành phố tham gia. Số điệp viên gồm
38 người do cô trực tiếp điều khiển. Nhiều trường hợp cô phải tự làm
nhiệm vụ liên lạc. Alisa không chỉ quan tâm đến việc thu thập thông
tin, mà còn cả việc đảm bảo an toàn cho mọi người, làm sao để nếu có
người bị lộ thì những người khác vẫn hoạt động được. Cô thường nhắc đi
nhắc lại:
- Nếu ngày mai tôi hoặc một người nào đó bị quân Đức bắt được và
phải đối chất với người của ta thì trí nhớ của bạn phải ngừng làm việc.
Một người thất bại - không quan trọng. Người đó là ai - bạn không quen
và người đó phải chịu số phận của mình. Những lúc đó tình thương và
tình bạn chỉ có nghĩa là bản án tử hình đối với bạn và những người liên
lụy. Hãy nhớ như vậy.
Mọi người đều nhớ, chỉ riêng Alisa trong phút giây khủng khiếp
của đời mình thì lại quên.
Tổ chức bắt đầu hoạt động. Nhiệm vụ đầu tiên cũng đơn giản. Sau
những trận đánh dữ dội điều quan trọng đối với quân Đồng minh là phải
biết những tổn thất của quân Đức. Những đoàn xe chở thương binh đi qua
Lille. Cửa sổ những ngôi nhà hướng ra đường sắt bị bắt buộc phải che
màn kín suốt ngày đêm. Bất kỳ lúc nào thấy cửa hé mở hoặc có ánh đèn là
lính Đức có thể ập đến hoặc một viên đạn bay tới. Nhưng người ta đã
chọc thủng những tấm màn, qua lỗ nhỏ nhìn thấy đường sắt, mỗi đoàn xe
đi qua người quan sát đánh một ký hiệu riêng. Con số tính được người đó
báo cho Alisa và Alisa báo cho Bernar để ông viết vào báo cáo.
Khó khăn nhất đối với Alisa là quãng đường vượt qua nước Bỉ bị
chiếm đóng. Thường là tuần nào cô cũng phải đi cùng với một người trợ
giúp. Khó khăn thật sự xuất hiện khi bọn Đức hỏi cung kèm theo lục
soát. Nếu chúng thấy báo cáo tức là chết. Nhưng nhờ tài năng của Bernar
mà báo cáo ba ngàn chữ vẫn được chuyển qua kính mắt. Ông còn có thể bóc
ảnh trên thẻ căn cước, dán báo cáo xuống dưới rồi lại dán ảnh lên. Một
lần cô đang đi trên đường, tay cầm một cây đèn pin với một cây nến. Lúc
sắp bước vào một ngôi nhà cần thiết thì bọn tuần binh giữ lại. Cô biết
rằng người sắp khám cô là một mụ trước đây làm cai tù của Đức, biệt
hiệu "Con cóc". Alisa bình tĩnh tắt nến cho đỡ phí rồi mới
cho khám. "Con cóc" lột hết toàn bộ quần áo của cô, nhưng
không phát hiện được gì. Chỉ có điều mụ ta không biết nhìn vào lõi của
cây nến!
Một lần khác, cũng vào ban đêm, khi bọn tuần binh giữ Alisa, cô
đã kín đáo ném được một cuộn len đen vào bụi cây. Khám xong ít phút, cô
quay lại để lấy báo cáo.
Một lần vào buổi sáng trong một khách sạn cô rất sợ hãi. Tối hôm
trước cô để giầy ngoài cửa để đánh rửa. Sáng hôm sau thấy mất. Cô sợ
không phải vì mất giầy, mà vì trong đế có báo cáo! Quả thật là giầy đó
bị cảnh sát lấy đi. Chúng muốn kiểm tra mọi khách trọ, nhưng chúng giữ
giầy chỉ để khẳng định khách không đi đâu. Đến lượt Alisa bị hỏi, chúng
trả lại cô đôi giầy đã sạch sẽ tinh tươm, hỏi mấy câu rồi thả ra.
Các báo cáo được giấu trong nịt vú, mép váy, ve áo, lót giầy,
tay dù, ví đầm, các hộp bánh kẹo...
Đôi khi các cô gái còn phải vượt qua một kênh nước sâu. Alisa có
một bộ quần áo riêng mầu tối và nhẹ. Cô là một tay bơi giỏi, cô cõng
"Sharlotta" trên lưng rồi bơi sang.
Các "trò chơi" với quân cảnh Đức buộc họ mỗi lần phải
nghĩ ra một mẹo, không bao giờ được lặp lại. Một lần chuyến tầu hoả mà
các cô đi bị giữ lại giữa đường. Chúng khám xét toàn bộ từ toa đầu. Các
cô ở toa cuối. Các cô liền chui xuống gầm tầu, bất chấp tầu có thể lăn
bánh bất kỳ lúc nào, để lần lên toa đầu, là toa đã khám rồi. Trèo lên
rồi mà mãi mới hết sợ. Tại một khách sạn, nơi Alisa thường ở, bọn chúng
hay kiểm tra ban đêm. Alisa chọn khách sạn này vì chúng kiểm tra sơ sài
và kiểm tra đúng giờ. Khi có tín hiệu báo cảnh sát đến, cô mặc quần áo
đen, trèo qua cửa sổ lên mái rồi xuống sân đi trốn. Nhưng giường nệm
lại không dọn được nên dễ bị nghi. Cô bèn nhờ bà chủ sống với các con ở
phòng kế bên, khi nào có cảnh sát thì bà cho một thằng sang nằm vào
giường cô. Cảnh sát ngó vào thấy thằng bé liền bỏ đi. Kiểm tra xong, bà
chủ cho tín hiệu cho cô trở về.
Alisa ngày càng tự tin hơn. Cô coi mọi việc phiêu lưu như trò
chơi và dần dần không thấy sợ nữa. Một lần cô dám vào khu vực cẩn mật
có đại bản doanh của hoàng thân Ruprekht Bavarski là tư lệnh vùng của
quân Đức. Lấy được thông tin, cô quay ra, bản báo cáo để trong túi
xách. Đến vọng gác, tên lính bất ngờ nói:
- Cái giấy phép này không được. Cô phải có một giấy phép đặc
biệt.
Cô định làm ra vẻ giận dữ, nhưng tên Đức không mắc mưu. Đúng lúc
đó thì cánh cửa biệt thự mở ra. Một viên tướng bệ vệ bước ra cùng với
đoàn sĩ quan tuỳ tùng: cô đã biết rồi - đó là hoàng thân. Cô chợt nhớ
đến buổi tối ở Baden-Baden. Một gia đình Đức, nơi cô làm gia sư, đã mời
hoàng thân đến chơi bài, hôm đó ông ta thua một khoản lớn. Không do dự,
cô băng sang đường chặn hoàng thân lại:
- Thưa ngài, ngài có nhớ tôi không ạ?- cô mỉm cười hỏi - Tôi đã
thắng ngài một ván tại nhà nữ bá trước Orlando ở Baden-Baden mấy năm
trước đây.
Ông ta không nhớ cô, nhưng có nhớ Baden-Baden, nhớ nữ bá trước
Orlando và ván bài thua. Ông ta vui mừng chào cô.
- Đó không phải ván bài thua duy nhất của tôi hồi ấy, nhưng cô
thì tôi nhớ.
- Thưa ngài, tôi cứ sợ rằng ngài nói cho vui, chứ thật ra không
phải như vậy. Tôi đâu dám phê phán chuyện đó.
Ông ta cười phá lên vui vẻ rồi bước đi. Cuộc nói chuyện đã gây
ấn tượng cho đám lính, và Alisa đã mang được về cho thượng cấp bản báo
cáo chi tiết về số lượng và cách bố phòng các đơn vị pháo trong vùng
quân sự quan trọng này. Lúc này những thông tin của cô là rất quan
trọng đối với quân Đồng minh, họ đã tăng cường các biện pháp để cô hoạt
động liên tục. Một lần cô mang cả một túi bóng bay chưa thổi. Tên lính
gác hỏi để làm gì, cô đáp:
- Đồ chơi cho trẻ con. Nếu ông sợ rằng tôi dùng bóng bay để bay
mất thì ông cứ việc tịch thu.
Sự tháo vát của cô đã chiến thắng, tên lính gác là một người đa
cảm đã có con cái nên cho cô đi. Nhưng chỉ ngày hôm sau quả bóng bay đã
bay qua chiến tuyến, một người lính Anh đã bắn rơi và bản báo cáo đã về
đúng địa chỉ.
Một lần khác lúc nửa đêm một chiếc máy bay đã đỗ
xuống quảng trường gần Mouskron, dỡ xuống mấy thùng hàng kín rồi biến
đi trước khi bị lính Đức phát hiện. Đêm hôm đó những người liên lạc
đã có được một đội chim đưa thư. Cuối cùng Alisa đã tự tin đến mức
yêu cầu phải có liên lạc radio. Ban lãnh đạo lo rằng nguy hiểm. Nhưng
Alisa đòi hỏi bằng được. Ngày nhận linh kiện cuối cùng của máy liên
lạc vô tuyến điện cô mừng như được chiếc áo mới của thợ may thời
trang Paris.
Nhưng lúc này bọn phản gián Đức cũng không ngủ. Ít ai biết
rằng 226 người Bỉ đã bị bắt, bị tù và bị xử tử vì tội gián điệp. Một
thời gian dài sở đặc nhiệm của thiếu tá Rotseler đứng ngồi không yên
vì rò rỉ thông tin từ khu vực hoạt động của Alisa. Nhưng mọi mưu toan
tìm ra thủ phạm đều vô vọng. Đã có nhiều chỉ thị phải tăng cường kiểm
soát, tuần tra. Alisa biết tất cả, nhưng điều đó chỉ càng làm tăng
lòng can đảm của cô trong các trò đùa với cái chết. Nhiều người đã lo
lắng cho sự liều mạng của cô. Cuối cùng một người nói:
- Cô liều mạng công khai quá, và như thế là liều cả mạng chúng
tôi. Tôi không biết rằng công việc của chúng ta mang lại lợi ích gì,
chỉ biết rằng cô vẫn gửi thông tin đi. Không biết những người nhận
tin có quan tâm đến những thông tin ấy hay không?
Alisa là người lãnh đạo có khá nhiều kinh nghiệm để hiểu được
tinh thần suy sụp của quân mình. Cô biết rằng ý kiến của người đó
được mọi người khác đánh giá cao. Vậy người đó không được hoài nghi
rằng họ làm đúng. Để thuyết phục và trấn an các đồng sự, cô đã thoả thuận
với lãnh đạo liên minh rằng vào một đêm, đúng lúc một giờ, một máy
bay phải đến ném bom một kho quân bị mà cô đã thông báo. Đêm ấy cô
mời những người hoài nghi đến phòng mình, và khi tiếng máy bay rền
vang và những tiếng nổ vang lên thì mọi người ôm chầm lấy cô mà hôn.
"Cuộc nổi dậy" đã được "dập tắt".
Thành công đã thúc đẩy Alisa. Cô đã lập xong bản đồ hoạt động
trong vùng, đã đánh dấu các kho quân trang quân bị ở ngoại ô thành
phố Lille, những điểm này về sau đã bị nổ tung. Để thưởng công, chỉ
huy đã ra lệnh mở rộng hoạt động tổ chức của cô sang khu bên cạnh.
Dường như mọi việc tốt đẹp. Nhưng tai họa đã rình rập.
"Sharlotta" bị bắt. Alisa nghe thấy đồng nghiệp nói thế và
lập tức cải tổ mạng lưới điệp viên để nếu cô bị bắt thì công việc
không hề hấn gì. Cô gửi gấp báo cáo cho sếp. Bernar viết mấy cột số
lên một tờ giấy vẽ, Alisa cuộn lại thành một cái vòng nhẫn mỏng rồi
lồng xuống dưới chiếc nhẫn mặt đá mang dấu ấn của gia đình De
Bettini. Trước đó cô đã gửi giấy cho một bạn gái là Margarita hẹn chỗ
đón. Ngay khi gặp nhau thì cả hai cùng bị bắt. Họ bị đưa đi đâu không
rõ vì cửa sổ bị che kín. Qua kính trước Alisa nhìn thấy ông bà De
Geyter. Lúc đó mất bình tĩnh cô kêu lên:
- Nếu các ông không tin tôi, xin hỏi ông bà De Geyter xem tôi
là ai.
Xe đỗ lại gần hai ông bà. Bọn Đức đưa Alisa xuống. Trước khi
bọn Đức kịp nói thì Alisa đã kêu lên:
- Thưa bà De Geyter, bà có biết là tôi vẫn may quần áo cho bà
không?
Cô không thể nói bằng mắt được, bởi vì có một thằng quan sát
cô và một thằng khác quan sát ông bà.
- Thưa, có phải tôi là người tản cư từ New-Angli và sáu tháng
vừa rồi tôi vẫn may vá cho bà không?
Đó là giây phút khủng khiếp đối với cả ông bà và cả Alisa. Họ
phải trả lời: "Có, chúng tôi có biết cô gái này", hay là họ
phải hành động như cô vẫn thường nói: "Nếu nhìn thấy ai trong
tay bọn Đức thì đừng có nhận là quen biết, hãy bỏ mặc người đó cho số
phận". Bà De Geyter nhìn Alisa và nhún vai:
- Không, thưa cô, tôi không quen cô.
- Dù sao thì cả hai vị cũng phải cùng đi với chúng tôi,- một
tên lính nói.
Cả 4 người bị đưa vào một nhà tù, nơi có
"Sharlotta". Nhà De Geyter bị lục soát. Nhưng tổ chức của
Alisa rất nhạy bén. Họ biết ngay là cô bị bắt và khi cảnh sát xuất
hiện thì mọi chứng cứ đã bị thủ tiêu. Hai ông bà được tạm thả. Alisa
bị đưa đi hỏi cung. Một trong những tên bắt cô nói:
- Tôi để cô ngồi một mình mấy phút. Đừng nghĩ đến chuyện chạy
trốn nhé.
Hắn đi ra và quay ổ khoá. Cô còn lại một mình và biết rằng bất
kỳ lúc nào hắn cũng có thể quay lại, không phải quay lại một mình, mà
còn có cả kẻ thù cũ của cô, đó là "Con cóc", kẻ đã lục soát
cô từ đầu đến chân. Alisa không thể làm được gì khác, ngoài việc lấy
mảnh giấy con dưới cái nhẫn ra và nuốt trôi. Cô bị tống giam, bên
ngoài buồng giam có ghi bằng tiếng Đức "Tù nhân nguy hiểm".
Một giờ sau chúng dẫn "Sharlotta" vào. Chúng hỏi:
- Cô có biết người này không?
- Không.
Cái từ "không" ấy vang lên như một điệp khúc cho đến
ngày ra toà. Toà án quân sự buộc tội họ làm gián điệp và kết án tử
hình. Khi nghe tuyên án Alisa nói trước toà:
- Thưa các ngài! - cô nói bằng tiếng Đức, cho nên
"Sharlotta" không hiểu. - Tôi xin các ngài đừng xử bắn bạn
gái tôi. Cô ấy còn trẻ. Tôi khẩn cầu xin các ngài rủ lòng thương. Còn
về phần tôi, tôi sẵn sàng chết.
Leonia cũng có yêu cầu như thế đối với Alisa. Các cô được đưa
về xà lim. Bọn cai ngục Đức cũng thấy cảm động và thương xót.
- Thật đáng thương, nhưng các cô bị kết án tử hình rồi. Hãy
yêu cầu những gì các cô mong muốn. Ai nỡ từ chối các cô.
Trước ngày bị hành quyết các cô xin tướng Bissing gia ân cho
được sống với nhau một đêm. Lính gác quay lại, mặt mày hớn hở:
- Ông ta từ chối! Lạy Chúa! Như thế nghĩa là ngày mai các cô
không bị bắn. Nếu không thì ông ta đã đồng ý.
Buổi sáng hôm ấy mặt trời lên muộn, trời đầy mây và có mưa.
Hai cô không phải là duy nhất bị bắn hôm đó. Họ nghe thấy Gabriel
Peti, một cô gái xinh đẹp, từ xà lim chạy ra thét lên:
- Xin chào! Ôi, Tổ quốc thân yêu của ta!
Tiếng thét đó làm rung động trái tim hai cô. Liệu họ có đủ sức
mạnh để chào vĩnh biệt Tổ quốc khi bị đưa ra pháp trường hay không?
Nhưng tên lính gác đã biết là hắn nói gì. Tướng Bissing thông báo cho
họ: "Người Đức cũng biết đền bù xứng đáng cho chí anh hùng. Bản
án của Leonia được đổi thành 15 năm khổ sai, còn của Louisa thành tù
chung thân. Cả hai được đưa về Đức.
Mặc dù Louisa bị bắt, nhưng nhờ những biện pháp cô tiến hành
mà tổ chức của cô không hề hấn gì, mọi người vẫn sống. Nhưng trong
nhà tù Đức cô bị thương hàn. Các bác sĩ nhà tù phải bó tay. Khi quân
đội Anh vào Cologne họ thấy trong nghĩa trang địa phương có một cây
thánh giá bằng gỗ sơ sài với dòng chữ: Louisa de Bettini (?-
27.9.1918). Tại Pháp đám tang Louisa được tổ chức với nghi thức quân
đội. Người ta gắn trên nền nhung 4 tấm huân chương của cô - hai tấm
của Anh và hai tấm của Pháp. Trong bản sắc phong Bắc đẩu Bội tinh cho
cô có viết: "...cô đã tự nguyện hiến mình cho Tổ quốc, với lòng
dũng cảm vô song cô không hề run sợ khi gặp khó khăn, nguy hiểm, nhờ
khả năng xuất chúng cô đã vượt qua bao gian khổ, bao rủi ro thường
trực..., đã thể hiện được chủ nghĩa anh hùng siêu việt".
Còn "Sharlotta", cô cũng được thưởng công xứng đáng, đã trở
về quán hàng của mình ở tại Rube.
|
22 - CHARLES LUSETO (mất năm 1932)
sự nghiệp lên trang sách
Có những điệp viên mà cả cuộc đời là hàng loạt chiến công, mà những
cuộc phiêu lưu tình báo của họ có thể viết nên hàng pho truyện. Lại
có những người chỉ thực thi có một vụ việc, nhưng tầm quan trọng và
ý nghĩa lại đáng được đưa vào biên niên sử của ngành. Một trong
những người đó là Charles Luseto - một người Pháp yêu nước,
một sĩ quan trong Thế chiến thứ nhất và là tác giả của nhiều truyện
tình báo.
Là người vùng Andes nhưng trông Charles lại giống người Đức
hơn và ông rất thông thạo tiếng Đức. Khi chiến tranh bùng nổ ông
đang là kỹ sư và bị động viên vào đội phản gián. Nhưng không bao
lâu sau thủ trưởng đã nhận ra tư chất tình báo ở Charles và thế là
cuộc đời ông đột ngột ngoặt hướng khác. Thay vì đi bắt bọn điệp
viên của đối phương ông lại nhận nhiệm vụ hoạt động trong lòng địch.
Ông đóng vai một người Đức được cử tới vùng công nghiệp Rein nghiên
cứu về sản xuất đạn dược ở đây. Luseto đã thu thập được những thông
tin cụ thể về nhà máy Crupa - một nhà máy lớn ở Essen. Thực chất
Essen là một thành phố được bảo vệ cẩn mật vì ở đó sản xuất các vũ
khí hạng nặng, đạn trái phá và rất nhiều mặt hàng khác phục vụ
chiến tranh. Mọi thông tin dữ liệu, kế hoạch và sơ đồ, Luseto đã
chuyển được về Pháp. Và mặc dù nhiệm vụ của ông không liên quan tới
nhà máy Anilin ở Baden và nhà máy xút ở Mangey nhưng ông đã kiến
tạo được các mối quan hệ hữu hiệu ở đấy để phòng khi cần.
Ngày 22 tháng 4 năm 1915, đã xảy ra thảm họa bên bờ sông Íp
ở Bỉ. Đức thử nghiệm lần đầu vũ khí mới - hơi ngạt. Khí ngạt Clo
được xả ra từ các bình chứa bằng kim loại mà đã được bí mật chuyển
ra mặt trận. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc Đức sử dụng khí độc hẳn
sẽ không gây bất ngờ cho quân Đồng minh, vì qua hoạt động tình báo
và các nguồn tin khác, họ đã biết về điều này. Thế nhưng, duy nhất
tướng Ferry, chỉ huy sư đoàn 11 của Pháp, nhìn nhận nghiêm túc sự
việc và cảnh báo về nguy cơ trên cho quân Anh đóng gần nơi thử
nghiệm. Trước đó, ngày 13 tháng 4, người ta đã phát hiện loại mặt
nạ chống hơi độc đơn giản ở tên lính Đức ra hàng gần Langhemac.
Theo lời tên này thì mỗi người lính ra trận đều được trang bị loại
mặt nạ đó. Cấp trên đã quở trách tướng Ferry tự ý trực tiếp cảnh
báo quân Anh mà không chịu thông qua đại bản doanh tướng Joffre như
quy định. Tuy nhiên sau lần tấn công đầu tiên bằng hơi độc thành
công tốt đẹp, mà chính Bộ chỉ huy Đức vẫn sợ bị thất bại, tướng
Ferry vẫn bị cách chức cho dù ông đúng.
Trận công kích bằng khí độc đã khiến hai sư đoàn Pháp run sợ
rút lui làm quân Canada bị hở sườn. Song quân Canada và Anh vẫn giữ
được trận tuyến. Tuy muộn màng nhưng các cánh quân đã được trang bị
mặt nạ chống hơi độc đầu tiên. Vì vậy mọi mưu đồ dùng hơi độc tiếp
theo lại gây tai hại cho chính quân Đức. Chúng đã không tính đến
chuyện gió ở Frandli có hai hướng Tây và Tây-Nam. Gió đột ngột đổi
hướng đã đẩy màn mây độc về phía quân Đức làm hàng trăm binh lính
tử trận.
Vậy là Đức sẽ tìm các cách sử dụng hơi độc khác. Luseto lại
được ném trở lại vùng hậu địch để tìm hiểu. Ông đến Mangey. Thông
qua các mối quan hệ cũ ông đã biết khí độc được sản xuất tại đây,
nhưng đóng bình ở nơi khác. Quan sát tuyến đường sắt, Luseto đã xác
định được rất nhiều toa xitéc được vận chuyển bằng xe lửa từ các
nhà máy hóa chất lớn. Những xitéc đó được chuyển đi đâu, để làm gì?
Ông đã tìm hiểu, biết được điểm đến là các nhà máy Crupa ở Essen.
Thế là Luseto buộc phải đến Essen, cho dù ông biết rất rõ cơ quan
phản gián Đức ở vùng này rất mạnh. Ông lại đóng vai một lính Đức bị
thương về nghỉ phép. Ông la cà ở quán cà phê, nơi thợ và cán bộ kỹ
thuật ở các nhà máy Louis tới những lúc rảnh rỗi. Ông thường mời bia
họ và qua câu chuyện của họ thu lượm được một số tin tức. Ông còn
kết bạn với một cảnh sát đứng tuổi làm nhiệm vụ bảo vệ nhà máy. Tay
này hàng giờ liền kể chuyện gia đình mình, kể những chuyện phiêu
lưu tuổi trẻ cũng như chuyện ngoài mặt trận thật buồn tẻ và chán
ngắt. Song Luseto đã chứng tỏ mình là một người tiếp chuyện tuyệt
vời, bởi ông chăm chú lắng nghe không ngắt lời. Và Luseto đã gặp
may. Một lần tay cảnh sát kể cho ông nghe rằng người ta đang chuẩn
bị một thử nghiệm đáng kinh ngạc với những trái phá hơi độc.
"Khí độc trong các trái phá? - Luseto sửng sốt. Mà dành cho dã
pháo bình thường ư? Không thể có chuyện đó được!" Tay cảnh sát
một mực khăng khăng khẳng định là quả đạn trái phá có thể chứa được
khí độc. Hắn nói rằng chẳng bao lâu nữa dã pháo sẽ sử dụng các đạn
trái phá hơi độc và hắn có thể chứng minh điều đó. Luseto đánh cuộc
hai ngàn mark và tay bảo vệ đã cho ông đi theo đến cuộc thử nghiệm.
Cả hai tìm cho mình một chỗ khuất nẻo nhưng rất tiện cho việc theo
dõi thử nghiệm. Từ chỗ nấp Luseto đã nhìn rõ chiếc xe chở chính đức
vua Wilhelm, bộ tham mưu của ông và các nhân vật quan trọng khác
tới các vị trí chiến đấu.
Để thử nghiệm người ta đã chuẩn bị khẩu dã pháo 77mm và khẩu
đại bác cỡ nặng dùng trên biển. Đích bắn là đàn cừu đang gặm cỏ
cách đó 1200 mét. Khẩu dã pháo bắn đầu tiên. Đạn nổ lốp đốp chứ
không vang như bình thường. Sau đó là khẩu đại bác. Không một trái
phá nào rơi thẳng vào đàn cừu, nhưng sau mỗi phát lại bốc lên một
luồng khói màu xanh vàng được gió thổi thẳng đến đàn cừu. Khi khói
tan ở chỗ đó không còn lấy một sinh vật sống. Cả tay cảnh sát lẫn
"người lính bị thương" đều thán phục trước sự việc được
nhìn thấy. Cả hai đều hi vọng và tin tưởng đế chế Đức sẽ chiến
thắng. Đặc biệt tay cảnh sát còn rất vui với món tiền hai ngàn mark
được cuộc một cách lương thiện. Tuy vậy Luseto vẫn chưa hài lòng.
Ông còn muốn có một mảnh đạn làm vật kỷ niệm. Tay cảnh sát sốt sắng
chạy ra bãi thử để lấy cho ông.
Luseto đã tìm mọi cách một mình vượt qua mặt trận và chỉ ba
ngày sau đã đưa được mảnh trái phá về Paris. Ngay lập tức mảnh đạn
được gửi tới phòng thí nghiệm của nhà hóa học nổi tiếng Edmon Bali.
Ông đã xác định trái phá được bơm đầy các chất hơi ngạt. Vậy là cần
phải chế tạo gấp các mặt nạ chống độc hoàn hảo. Đồng thời Anh và
Pháp cũng bắt tay vào sản xuất bom và trái phá khí độc.
Luseto còn hoàn thành trót lọt một vài điệp vụ nữa ở hậu phương
quân Đức mà không hề bị phát giác. Chiến tranh kết thúc, Luseto bắt
đầu viết văn. Ông là tác giả hàng loạt truyện tình báo. Chỉ trong
vòng 4 năm từ 1928 đến 1932 ông đã cho xuất bản nhiều cuốn như
"Người đẹp điện Cremli", "Nhiệm vụ đặc biệt",
"Trung thành với kẻ địch", "Quỷ đen" (truyện
phản gián thời chiến ở Bỉ), "Điệp viên của vua Phổ",
"Nữ tình báo trong những bàn tay đẫm máu", "Đàn
sói".
Luseto đã hư cấu nhân vật mang tên "Jan giấu mặt"
mà nguyên mẫu chính là ông. Tuy có phần hư cấu nghệ thuật song các
tác phẩm của Luseto chứa đựng những thông tin cực kỳ chính xác
không chỉ về diễn biến của thế chiến mà còn về những điệp vụ của cả
Đức và Liên Xô vào những năm 30. Các bức ảnh, bản đồ và sơ đồ tổ
chức chính xác đến mức có thể nghĩ đó là tư liệu từ một nguồn rất
thông thạo thông tin, đó là cơ quan phản gián. Không phải ngẫu
nhiên mà các tác phẩm của ông đều được nhà xuất bản Becgie Luvre ấn
hành. Nhà xuất bản này thường chỉ ấn hành hồi ký của các cộng tác
viên Phòng nhì (cơ quan tình báo Pháp). Cũng cần nói thêm rằng
trong các tác phẩm của mình Luseto có bày tỏ mối quan hệ thân thiết
của mình với sếp của tình báo Pháp. Đó chính là Lone, người đứng đầu
Phòng nhì những năm từ 1928 đến 1932, chuyên viên tình báo về các
vấn đề có liên quan tới Liên Xô.
Năm 1932, Luseto công bố cuốn "Hồ sơ lưu trữ của
Treca" sắp được xuất bản, nhưng không bao lâu sau đó ông đã
đột ngột qua đời.
|
23 - LAURENCE XỨ AVARIA (1888 -
1935)
Gương mặt "điệp viên thơ mộng"
Một trong những gương mặt
rực rỡ nhất và thơ mộng nhất trong lịch sử tình báo là ngài
Thomas Edvard Laurence. Ông là người thờ ơ với phụ nữ và tiền
bạc. Ông chỉ yêu bản thân mình và đế chế Anh. Về bản thân mình
ông đã nói: "Nói chung tôi giống như một người qua đường
khéo léo trốn tránh những chiếc ô tô chạy trên chính lộ".
Người ta đã viết nhiều tiểu thuyết và dựng nhiều phim về ông,
nhưng vẫn còn một số sự thật pha trộn với những sai lệch. Tuy
nhiên chỉ những sự thật đã có trong đó cũng đủ làm cho nhân cách
của ông trở thành anh hùng.
Ông sinh ngày 15 tháng 8 năm 1888 trong một gia đình
Anh-Ireland trung lưu. Ông học trường Oxford. Theo lời ông thì
ông "ghét cay ghét đắng nhà trường phổ thông", bởi vì nó
làm ông sao nhãng công việc chủ yếu là đọc những cuốn sách về các
cuộc thập tự chinh và về khảo cổ. Hai chủ đề này ông biết thật
sâu sắc, cũng như tất cả những gì liên quan đến vùng Viễn Đông là
điểm đến của lính Thập tự quân và là nơi có nhiều công trình khảo
cổ.
Năm 1910, Laurence về ở miền Đông Ả Rập. Ông đã nghiên cứu
cẩn thận đời sống, phong tục và tín ngưỡng của người Ả Rập, ông
biết thành thạo tiếng Ả Rập và tiếng nói của nhiều bộ tộc du mục.
Có lẽ, trên bán đảo Ả Rập không còn chỗ nào là ông chưa tới. Ông
có mối quan hệ quen biết với tất cả thủ lĩnh các bộ tộc. Ông biết
rõ các mặt mạnh và yếu của các thủ lĩnh, biết rằng có thể lôi kéo
ai và lôi kéo bằng cách nào. Khi Đại chiến thế giới lần thứ
nhất nổ ra Laurence trở thành điệp viên nước Anh, nói chính xác
hơn là của MI-4, hoặc là của Văn phòng Ả Rập, là văn phòng có
nhiệm vụ theo dõi sự phát triển của phong trào dân tộc chủ nghĩa
của những người Ả Rập trên dọc biên giới của đế chế Osman. Lúc
bấy giờ tất cả những vùng đất ả Rập và những dân tộc sinh sống
trên đó đều nằm dưới quyền của Thổ Nhĩ Kỳ. Khi chiến tranh nổ ra
thì đế chế Anh cũng vươn bàn tay của mình tới đó. Nhưng quân đội
thường trực của Anh đóng tại các căn cứ của mình không tiện giao
chiến với những người Thổ. Cần có những nhóm nhỏ linh hoạt quen
với cuộc sống trên hoang mạc khô cằn vắng vẻ, quen đi lại trên
đó, có thể dễ dàng thọc sâu vào hậu phương quân địch và tiến hành
phá hoại. Ngoài ra, đó còn là khả năng chiến đấu với quân Thổ
bằng bàn tay kẻ khác, mà vẫn bảo toàn được lực lượng chủ yếu của
mình trên các chiến trường khác. Trong thời gian này các nhà dân
tộc chủ nghĩa Ả Rập đã tự bắt đầu cuộc chiến chống người Thổ. Tại
miền Nam bán đảo ả Rập lá cờ xanh khởi nghĩa của người ả Rập đã
được phất lên bởi Abd el Azid ibn Saud, người đứng đầu giáo phái
Vahhabit và là kẻ thù của những người Hasimit. Người đứng đầu tổ
chức tôn giáo-chính trị Hasimit là vị giáo chủ ở Mekka Husseyin
ibn Ali, năm 1916 ông này đã được xưng tụng là vua Hidzhaza.
Nên ủng hộ ai đây, Saud hay là Husseyin? Nên ủng hộ những
người Vahhabit hay là Hasimit? Cao uỷ Anh ở Cairo, ngài Henri
Makmagon và ông sếp tình báo quân sự ở Viễn Đông thiếu tá Aston
đã tin vào những người Hasimit và thậm chí đã tuyên bố với ông
Husseyin rằng sau khi đế chế Osman sụp đổ người ta sẽ đưa ông và
các con trai lên làm thủ lĩnh Liên đoàn Ả Rập tương lai. Cũng lúc
này Văn phòng Ấn Độ của tình báo Anh lại ủng hộ những người
Vahhabit. Đại diện của Văn phòng ông Saint John Filby, cha của
Kim Filby mà sau này rất nổi tiếng, vào năm 1917 đã lên đường tới
Er-Riad với một nhiệm vụ hết sức bí mật: thông báo cho Saud biết
rằng vua George V có ý định đưa chính ông ta lên làm thủ lĩnh
Liên đoàn Ả Rập, liên đoàn này sẽ được hình thành sau khi đế chế
Osman sụp đổ. Đến lần này chính sách "Chia để trị" vẫn là
phục vụ cho quyền lợi của đế chế Anh.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với nhân vật của mình.
Laurence đã chiếm được lòng tin của người con cương quyết nhất
của Husseyin là Feysal, người đang theo đuổi mục đích tổ chức cả
một đạo quân chống lại người Thổ. Tuy nhiên, việc tổ chức một đạo
quân thống nhất to lớn vào thời bấy giờ là điều hoàn toàn không
hiện thực. Người ta cần có những đơn vị nhỏ cơ động, những đơn vị
này giống như một đàn chó sói, chúng lao vào con gấu từ nhiều
phía khác nhau, nghĩa là họ có thể tấn công và cấu xé quân đội
Thổ hùng mạnh, nhưng không năng động. Thomas Laurence là người
thực hiện việc xây dựng lực lượng khởi nghĩa kiểu "người
dơi" này. Là một người da trắng, mắt xanh, ông không giống
người Ả Rập chút nào cả. Nhưng khi mặc quần áo chúng, bịt
nửa mặt, da phơi nắng ngăm ngăm, nói thành thạo tiếng Ả Rập, thì
ông có thể dễ dàng trông giống như một người Ả Rập du mục. Còn ý
chí kiên cường, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tính kiên trì vươn tới mục
đích đã cho phép ông trở thành thủ lĩnh trong bất kỳ cộng đồng
nào. Hơn thế nữa, ông lại có nhiều tiền do tình báo Anh cung cấp.
Thomas Laurence đã ăn uống, sinh sống như những người Ả Rập. Ông
đã khuyên các nhà tình báo khác: "Các ông phải cảm thấy mình
là diễn viên, sắm vai suốt ngày suốt đêm trong nhiều tháng liền,
không được nghỉ ngơi và phải chịu nhiều rủi ro".
Đôi khi ông ngồi chơi cả chiều với một thầy tu, sau đó lên
lạc đà đi suốt đêm và đến sáng lại gặp gỡ một người khác. Nói
chuyện với những người đó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong
những chỉ thị của mình, mà ông gọi là "27 điều", ông
viết: "Hãy chiếm lấy lòng tin của người lãnh đạo và hãy giữ
gìn lòng tin đó. Nếu có thể thì phải dùng tiền của mình mà củng
cố uy tín cho người đó trước mắt những người khác. Không bao giờ
được từ chối và đừng làm hỏng những kế hoạch mà người đó có thể
đưa ra. Bao giờ cũng phải ủng hộ những kế hoạch đó, rồi sau khi
có lời khen ngợi, lại thay đổi chút ít, buộc chính người thủ lĩnh
đó phải đưa ra đề nghị cho đến khi những đề nghị này trùng hợp
với ý kiến riêng của ông... Mặc dù rất khó có thể bắt một người Ả
Rập du mục làm một việc gì, nhưng lại dễ dàng có thể lãnh đạo anh
ta, chỉ cần ông biết kiên nhẫn. Sự can thiệp của ông càng ít lộ
ra bao nhiêu, thì ảnh hưởng của ông càng to lớn bấy nhiêu. Những
người du mục sẽ rất vui lòng tuân theo lời khuyên của ông, thậm
chí họ không lường được rằng chính ông hay những người khác biết
điều đó. Không nên trá hình... Nhưng khi sống với những người Ả
Rập mà ông ăn mặc quần áo như họ, thì ông chiếm được lòng tin và
tình bạn tới mức mà nếu mặc quân phục thì không bao giờ ông có
thể có được. Tuy nhiên đó là điều khó khăn và nguy hiểm. Chính vì
ông đã ăn mặc như những người Ả Rập nên họ sẽ không bao giờ làm
điều gì đặc biệt đối với ông cả...
Đôi khi ông phải tham gia vào những cuộc tranh luận về tôn
giáo. Ông hãy thoải mái nói về tín ngưỡng của mình, nhưng tránh
đừng phê phán những quan điểm của họ...
Đừng noi gương những người Ả Rập và hãy tránh những cuộc
phiếm đàm về phụ nữ. Vấn đề đó cũng khó như là tôn giáo. Về mặt
này những quan điểm của những người Ả Rập khác xa những quan điểm
của chúng ta, đến nỗi những nhận xét vu vơ họ cũng coi là không
biết kiềm chế, cũng giống như một số những nhận xét của họ, nếu
được dịch nguyên văn thì ông cũng coi là thiếu cẩn trọng.
Toàn bộ bí quyết tiếp xúc với người Ả Rập là phải không
ngừng nghiên cứu họ. Luôn luôn phải cảnh giác, không bao giờ được
nói thừa, luôn luôn phải theo dõi bản thân mình và các đồng đội.
Phải nghe ngóng những gì đang diễn ra, tìm cho thấy những nguyên
nhân thật sự. Hãy nghiên cứu tính cách của những người Ả Rập, sở
thích và say mê của họ và phải lưu giữ những gì mình phát hiện
được... Thành công của ông sẽ tương xứng với số năng lượng trí
tuệ mà ông bỏ ra".
Trong những hồi ký của mình Thomas Laurence tuyên bố mình
là người ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của những người
Ả Rập. Thực ra, ông chỉ lo lắng đến quyền lợi của nước Anh, là
nước đang mưu đồ xâm chiếm thuộc địa mới. Làm sao ta có thể phê
phán một người Anh được giáo dục trên những truyền thống của đế
chế Anh, người luôn luôn tin rằng "My country is my country,
good or bad, but it is my country!" (Đất nước tôi là đất
nước tôi, dù tốt hay xấu thì đó cũng là đất nước tôi!)
Nhờ có hành động khéo léo và cương quyết mà Thomas
Laurence đã có thể trở thành sủng thần của Husseyin và người con
trai Feysal, đứng đầu nhiều bộ lạc, của ông ta. Ông đã gợi ý cho
họ khẩu hiệu: "Đoàn kết người Ả Rập để đấu tranh với
Thổ". Nhờ khẩu hiệu này mà có phong trào nghĩa quân và tổ
chức được những đơn vị tinh nhuệ, được trang bị bằng súng ống
nước Anh. Cuộc khởi nghĩa thực chất là do Thomas Laurence lãnh
đạo. Ông được phong chức đại tá và được gọi là "Laurence xứ
Avaria". Cái đầu của ông được người Thổ treo giá hai mươi
ngàn bảng Anh. Các đơn vị của Feysal - Laurence đã gây ra bao
nhiêu tai họa cho quân đội Thổ, khi các đơn vị này hoạt động theo
lối du kích trên mọi tuyến đường. Đồng thời họ cũng thu được
những thắng lợi đặc trưng cho cuộc chiến tranh "thường
trực". Sau cuộc chuyển quân mệt mỏi vượt qua sa mạc tháng 7
năm 1917 các đạo quân dưới sự chỉ huy của Feysal và Laurence bằng
một cuộc tấn công thần tốc đã chiếm được cảng Akaba. Tháng 9 năm
1918, Laurence cùng với một đạo quân nhỏ đi lạc đà, lợi dụng lúc
quân Thổ rút Louis, đã tiến vào Damask.
Nhờ kết quả của Đại chiến thế giới I và nhờ hoạt động của
Laurence, nước Anh đã có được những thuộc địa mới: Iraq,
Palestin, căn cứ dầu mỏ và hải quân ở Hayf, củng cố được quyền
thống trị của mình trên bán đảo Ả Rập. Sau Đại chiến II nước Anh
mất hết những vùng đất này, nhưng lúc đó thì đấy là chiến công
của đế chế Anh và công lao của chính đại tá Laurence. Tuy nhiên,
ngay lúc đó chiến công cũng không phải là hoàn hảo. Ngay sau
chiến tranh, dưới áp lực của Pháp, người Anh đã phải rút quân ra
khỏi Siri, người Pháp chiếm Damask, đuổi người Ả Rập ra khỏi
Palestin. "Người bạn" thân quý nhất của Laurence là
Feysal đã không hết lời nguyền rủa ông, còn Saud, "người
bạn" của Saint John Filby năm 1924 đã đuổi "bạn"
của Laurence là Husseyin ra khỏi Mekka, trở thành người sáng lập
ra nước Ả Rập Seut.
Sau chiến tranh Laurence lại làm công việc khác. Năm 1921
theo đề nghị của Winston Churchill, bộ trưởng Bộ Thuộc địa,
Laurence trở thành cố vấn chính trị trong ban lãnh đạo mới về
Trung Đông. Ông có dịp chuộc lại lỗi lầm xưa đối với Feysal,
người bị trục xuất ra khỏi Siri. Chính vì Iraq rơi vào vòng bảo
hộ của Anh, cho nên mọi vấn đề quyền lực ở đây được giải quyết
trong Bộ Thuộc địa. Tháng 3 năm 1921 tại một hội nghị ở Cairo,
Laurence đã thuyết phục được Churchill đưa Feysal lên làm vua
Irak. Sau vụ đó Laurence bất ngờ rời bỏ cương vị đầy uy tín của
mình và đến tháng 8 năm 1922 ông tham gia với tư cách... binh nhì
trong ngành không quân nước Anh mang họ là Ross. Ông làm gì thì
không ai biết nhưng sau nửa năm có một sĩ quan xấu chơi với ông
từ lâu đã phát hiện ra ông và công khai nêu tên ông trên báo.
Khi đó ngành tình báo Anh lại giao cho ông một nhiệm vụ
mới mà ông phải thực hiện tại Ấn Độ trên biên giới với
Afganistan. Tại đó ông xuất hiện với hai khuôn mặt: anh thợ máy
Sou khi quan hệ với người Anh, và là thầy tu Pir-Karam khi gặp
"người bản xứ". Lúc bấy giờ thủ lĩnh Hồi giáo ở
Afganistan là Amanulla có ý định làm cải cách trong nước. Nhưng
điều đó không có lợi cho nước Anh, nên người Anh tìm mọi cách để
triệt thoái ông, đưa một thủ lĩnh khác lên thay, một người ngoan
ngoãn với thực dân Anh. Năm 1927-1928 việc đó do đại tá Laurence
đảm nhận.
Ông đã thu xếp được quan hệ với tên giết người cướp của
Bachay Sakao. Tên này nổi tiếng vì đã giết cha đẻ, giết vợ, giết
con la, mà không đếm xỉa gì đến hàng mấy chục người xung quanh.
Laurence đặt hy vọng vào tên đó. Ông hứa hẹn ngai vàng ở
Afganistan cho hắn, nếu hắn giúp loại trừ được Amanulla. Laurence
hoạch định và thực hiện một kế hoạch quỉ quái nhằm làm cho toàn
dân căm ghét Amanulla, trước hết là những người Hồi giáo cánh
hữu. Các nhân viên của Laurence và Sakao bắt đầu tuyên truyền
chống Amanulla và những cuộc cải cách của ông: ông ta đang vi
phạm các điều luật của Thánh Tiên tri - bỏ khăn xếp, bỏ quần áo
Hồi giáo, bắt phụ nữ bỏ che mạng, bắt họ đi học, cho phép nam
giới cạo râu ria, muốn mọi người đi bác sĩ chữa bệnh, v.v... Đám
dân chúng tăm tối và thất học đã đứng lên chống lại Amanulla. Lửa
đổ thêm dầu là việc Laurence thông qua nhân viên của mình mà
truyền bá những tấm hình chụp các cô gái ngồi hớ hênh trên đùi
nam giới. Những dòng chữ đề dưới những tấm hình ấy cũng là buộc
tội Amanulla đã "vi phạm những mệnh lệnh thiêng liêng của
Đức Tiên tri và luật Hồi giáo". Sau đó Laurence truyền bá
trên khắp đất nước Afganistan một bản tuyên bố nhân danh tất cả
những người Hồi giáo cánh hữu, kêu gọi lật đổ Amanulla và công
nhận người lãnh đạo mới là Bachay Sakao.
Bachay Sakao chiếm được Kabul, tự xưng là thủ lĩnh và
triển khai hoạt động tích cực chống Xô Viết. Lập căn cứ trên lãnh
thổ Afganistan, hai mươi ngàn quân phản động bắt đầu cướp phá các
nước cộng hoà Xô Viết Trung Á: Tadzhikistan, Turmeniya,
Uzbekistan.
Cho rằng nhiệm vụ đã hoàn thành và biết rằng tên ăn cướp Sakao
không thể nào trụ lâu được, vào đầu năm 1929 đại tá Laurence trở
về London, tại đây ông trở thành nhân vật của một vụ bê bối ầm ĩ:
các đại biểu Công đảng chất vấn trong nghị viện về những hành
tung của Laurence ở Afganistan. Thời gian đó những người tham gia
cuộc tuần hành do những người cộng sản tổ chức đã đốt hình nộm
của Pir-Karam và Laurence. Laurence bốn mươi hai tuổi bị buộc
thôi việc và bắt đầu viết hồi ký. Ông đã viết hai cuốn sách:
"Khởi nghĩa trên sa mạc" và "Bẩy cây trụ cột thông
thái".
Tháng 10 năm 1929, "ông bạn" của Laurence là
Bachay Sakao bị lật đổ và bị hành quyết.
Nhưng bản tính phiêu lưu của "người bị huyền
chức" vẫn không thay đổi. Ông có ý đồ gặp Hitler và thiết
lập quan hệ với lãnh tụ phát xít Anh là Osvald Mosli. Tuy nhiên,
những ý đồ đó may mà không được thực hiện. Ngày 19 tháng 5 năm
1935, ông qua đời trong một tai nạn xe máy. Đại tá Thomas Edvard
Laurence được chôn cất tại Nhà thờ Thánh Paul ở London bên cạnh
những người anh hùng chiến tranh của nước Anh và các nhà quí tộc
danh tiếng.
24 - BERT HALL (sinh năm 1888)
Cha đẻ của ngành tình báo hàng không
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Phi công người Mỹ Bert Hall có thể được coi là cha đẻ
ngành tình báo hàng không.
Ông sinh ở bang Kentukki năm 1888. Từ thời thanh niên ông đã say
mê núi non. Lúc nhỏ xíu ông đã trèo lên đỉnh núi cao nhất gần nhà, nhìn
xuống thung lũng trải dài dưới chân, mơ ước được bay trên đó như cánh
đại bàng. Ông cũng yêu thích kỹ thuật và rất say mê tốc độ cao. Thế là
ông bắt đầu lái xe đua, coi đó là hạnh phúc tuyệt vời. Ông đã từng
chiến thắng, chiến bại, đã từng lộn nhào, đã cận kề cái chết, nhưng
không bao giờ bỏ nghề cho tới một ngày nghe thấy trên đầu mình có tiếng
động cơ lạ và nhìn thấy một điều kỳ diệu - một người đội mũ sắt, đeo
kính, mặc áo da, bay ngang bầu trời như cánh đại bàng. Từ ngày đó cho
đến khi nhắm mắt trái tim ông đã thuộc về ngành hàng không. Ông học lái
máy bay, sau đó quyết định mang truyền thống xe đua lên trời và trở
thành người tiên phong của thể thao máy bay. Nghề này khiến ông kiếm
được nhiều tiền, nhưng tiền không bao giờ đủ. "Nếu đã có lính bộ
đánh thuê, thì sao lại không có lính phi công đánh thuê?" -
ông nghĩ thế và bắt đầu đi tìm nơi thể hiện tri thức và kinh nghiệm của
mình. Và số phận đã mỉm cười với ông.
Năm 1912 bắt đầu chiến tranh Balcan. Những người Xerbi và Bungari chống
lại quân Thổ, cùng hợp sức với họ là người Hy Lạp. Bert Hall vội vã
sang châu Âu. Bằng số tiền dành dụm được ông mua một chiếc máy bay cánh
đơn của Pháp và đến xin làm việc cho người Thổ. Người Thổ mừng quá, cấp
cho ông một khoản lương lớn - một trăm đô la vàng mỗi ngày, nhưng phải
hoàn thành được công việc. Hàng ngày, cùng với thợ máy, một người Pháp
tên là Andrey Pyers, ông phải đi khảo sát. Đôi khi ông bay là là thấp
sát mặt đất và phải bật cười khi thấy bọn lính ở những làng mạc xa xôi
hẻo lánh lần đầu tiên nhìn thấy máy bay phải quì xuống mà làm dấu
thánh.
Song, mặc dù Bert Hall đã rất cố gắng, quân Thổ vẫn thua, vẫn bị
đánh tan ngày 24 tháng 10 tại Kirk-Kilis, năm ngày sau, 29 tháng 10,
lại bị đại bại ở Burgas. Quân đội Xerbi-Bungari đã bao vây được thành
phố chính và pháo đài của Thổ ở Frakia là Adrianopol, bịt được con
đường dẫn tới Stambul (Konstantinopol).
Người Thổ yêu cầu ông ngoài việc tiến hành do thám phải bỏ bom
vào hàng ngũ địch. Nhưng Bert Hall không chịu vì ông không có ý định
giết ai cả, nhất là những người theo đạo Thiên chúa như ông. Thế là ông
không được trả lương nữa.
Hall đã tìm được một lối thoát đơn giản. Cùng với anh thợ máy
ông lại bay về phía người Bungari. Ông lại được trả khoản lương như của
người Thổ, nhưng ông mang lại được nhiều lợi ích hơn, bởi vì ông đã
biết rõ hệ thống các công trình phòng ngự của Thổ. Tuy vậy, đối với
người Bungari như thế vẫn là ít. Ngoài việc khảo sát họ còn yêu cầu ông
làm mật thám nữa. Được thêm tiền, lần đầu tiên ông bay vượt qua phòng
tuyến, hạ cánh và thả vào hậu phương quân Thổ một điệp viên Bungari.
Hall làm việc hết mình, thế nhưng một tháng sau người Bungari
chậm trả tiền ông. Ông quyết định rời bỏ họ, nhưng ngay tại máy bay ông
đã bị họ bắt, đưa về cảnh sát, tại đây ông bị buộc tội làm gián điệp
cho Thổ. Hall không phủ định, nhưng khó chứng minh được rằng ông đã
thôi. Ông muốn liên hệ với lãnh sự Mỹ nhưng không được phép. Ông bị đưa
ra toà án quân sự. Không ai nghe những lời thanh minh của ông, không
chú ý đến những lời giải thích rằng ông bỏ đi vì họ không trả thêm tiền
và ông bị kết án xử tử.
Người cứu ông là anh thợ máy được thả tự do. Anh đem một phần
"kho vàng" của mình, tìm đến những cửa cần thiết, và chỉ mấy
giờ trước khi hành hình Hall được thả ra. Ông cùng với người thợ máy
trở về Pháp. Ít lâu sau nổ ra Đại chiến I. Đến ngày thứ hai của cuộc
chiến ông ghi tên vào đoàn quân lê dương, sau 3 tháng ông được chuyển
vào đội bay nổi tiếng của Lafayette, các phi công ở đây được gọi là "những
con quỉ bay".
Bây giờ những kinh nghiệm của Hall rất có giá trị. Ông được giao
trách nhiệm thả điệp viên vào hậu phương quân Đức. Muốn vậy, cần phải
biết bay và thả quân vào ban đêm, nói đúng hơn là vào những giờ rạng
sáng, cũng như phải biết hạ cánh xuống những nơi lạ lùng, chưa được
chuẩn bị. Cứ mấy hôm ông lại phải bay một lần, lần nào cũng nguy hiểm
chết người. Nhưng tài năng và sự chai lỳ của ông bao giờ cũng chiến
thắng.
Một lần ông bị giăng bẫy. Lần ấy ông phải hạ cánh xuống phía bên
kia chiến tuyến để đón một điệp viên trở về. Nhưng tên này đã hợp tác
với Đức và chúng đã chuẩn bị phục kích. Nhưng trong số lính Đức có kẻ
không đủ kiên nhẫn nên đã nổ súng ngay khi máy bay sắp hạ cánh. Ông bị
thương nhẹ, nhưng đã kịp vọt lên trời trở về. Nếu ông bị Đức bắt, chắc
ông bị tử hình vì tội gián điệp. Lúc bấy giờ còn có những luật lệ hiệp
sĩ. Nếu phi công mặc quân phục thì được coi là quân nhân, chứ không
phải là gián điệp. Ngày 30 tháng 10 năm 1915 đã có một tiền lệ: toà án
Đức đã tha tội gián điệp cho 2 phi công Pháp, vì khi bị bắt họ mặc quân
phục. Họ chỉ bị tù có 3 năm thôi.
Đến cuối chiến tranh trong đội "những con quỉ bay" có
hai người sống sót, trong đó có Bert Hall.
|
|
|
|
|
|
25 - IAN BERDIN
(1889-1938)
Anh hùng quân báo Xô Viết
Peterits Kudits
(tên thật là Ian Carlovic Berdin) sinh trong một gia đình cố nông vùng
Klighen Riga. Chàng trai khó khăn lắm mới thi đỗ vào trường sư phạm,
nơi học sinh rất ngang bướng và cậu học sinh mới đã cùng một số học
sinh nổi loạn khiến trường bị đóng cửa vào tháng 10 năm 1905. Chàng
trai phải quay về nhà. Chịu ảnh hưởng của người anh cả, Berdin tham gia
tấn công bọn Côdắc, tấn công lâu đài tên nam tước để rồi phải trốn
tránh vào rừng trong đội quân "những người anh em của sơn
lâm". Bọn Côdắc bắt được Berdin, đánh cho tơi tả bằng que thông
nòng súng. Sau vụ đó Peterits thề sẽ đấu tranh đến cùng với nền quân
chủ chuyên chế.
Hồi phục sau trận đòn roi, Berdin quay trở lại với "những
người anh em sơn lâm". Họ đã đập tan tòa thị chính địa phương ở
Iaunpins, bắn chết tên phản động làm văn thư, tịch thu giấy tờ, thiêu
hủy quán trọ và tửu quán, trưng dụng vốn liếng của bọn chủ. Trong lúc
hai bên bắn nhau Peterits bị trúng ba viên đạn, một viên nằm trong hộp
sọ, may không ảnh hưởng tới não, nhưng anh đã bị bắt đưa ra tòa. Với
tội trạng như trên lẽ ra bị tử hình, song Peterits chưa đến tuổi thành
niên nên chỉ bị phạt giam. Bốn năm sau, năm 1909, Peterits mới được
thả. Khi chia tay giám ngục đã nói:
- Hy vọng nhà tù đã cho cậu một bài học đích đáng.
Song ông ta đã lầm. Peterits Kudits đã tiếp tục theo con đường
mình đã chọn để trở thành nhà cách mạng chuyên nghiệp. Và rồi lại tòa
án, tù giam, thậm chí cả lưu đày. Chính tại những nơi đó chàng thanh
niên Peterits đã nhận thức được khoa học đấu tranh cách mạng. Cũng
chính tại nơi lưu đày ở Xiberi nhà cách mạng Ian Carlovic Berdin đã ra
đời, họ tên này được ghi trên các tư liệu chính trị cách mạng mà các tù
nhân bolsevich đưa cho.
Từ tháng 2 năm 1917, cuộc đời Ian Berdin gắn liền với số phận
không chỉ của riêng Latvia, mà còn của cả đất nước Xô Viết. Sau Cách
mạng tháng Mười Ian Berdin được cử vào bộ máy chính quyền mới, là
trưởng văn phòng Bộ dân ủy chính quyền tự quản địa phương, là thư ký
kiêm phó ban kinh tế của Bộ dân ủy Nội vụ. Mùa hè năm 1918, Berdin đã
cùng đơn vị Hồng quân đến Iaroslav để trấn áp cuộc nổi loạn của bọn xã
hội cách mạng ở đó. Tháng 5 năm 1919 trong khi bảo vệ Riga chống lại
quân Bạch vệ, Berdin lại bị trọng thương. Chữa trị vết thương xong
Berdin về làm chính ủy sư đoàn bộ binh rồi được điều về Ban đặc trách
đấu tranh chống hoạt động phản cách mạng và khủng bố của quân đoàn 15.
Ngày 2 tháng 12 năm 1920 chuyển sang ban quân báo. Ngày 27 tháng 12 năm
1921 Pavel Ivanovic Berdin được bổ nhiệm làm phó ban quân báo. Tên
Pavel là do ông chọn để tưởng nhớ ông nội của mình, một người lính tham
gia bảo vệ Sevatstopon, khi ấy ở làng người ta thường gọi ông cụ là
"anh bạn Pavel người Nga". Berdin sớm bạc tóc nên bạn bè đồng
chí gọi ông là "cụ già", sau này trở thành biệt danh hoạt
động của ông.
Cảm thấy trình độ còn non kém, Berdin đã thi vào học lớp buổi
tối ở trường Đại học Tổng hợp vô sản. Thấy mình chẳng hiểu biết gì về
các nước khác, Berdin với tên họ mới là Dvoreski lên đường đi thăm
Berlin, Praha và Varsava.
Ngày 23 tháng 3 năm 1942, Berdin lên làm trưởng ban quân báo.
Lần đầu tiên ông ở cương vị này cho đến năm 1935, sau đó được bổ nhiệm
chức phó tư lệnh quân đoàn Cờ đỏ đặc nhiệm Viễn Đông, dưới sự chỉ huy
của vị anh hùng thời Nội chiến, nguyên soái Vaxili Constatinovich
Blukhe. Trước khi đi nhận nhiệm vụ Vorosilov đã nhận xét về ông như
sau: "Berdin thực sự là một chiến sĩ bolsevich trung thành, đặc
biệt khiêm tốn. Tất cả những ai đã tiếp xúc với đồng chí qua công việc
đều yêu mến và tôn trọng đồng chí. Đồng chí Berdin đã hiến dâng toàn bộ
sức lực, kinh nghiệm và thời gian của mình cho sự nghiệp khó khăn nhưng
quang vinh nhất...".
Tại sao Berdin lại được đánh giá cao đến vậy? Để giải đáp câu
hỏi trên, cần xem lại thời gian và hoàn cảnh làm việc của Berdin khi
đó, cũng như tìm hiểu cho dù là lướt qua công việc của Ban phản gián.
Thời gian từ năm 1921 đến 1937 được coi là "thời đại của
những điệp viên ngầm vĩ đại". Tiểu sử của những điệp viên được Ian
Berdin đào tạo và tung vào hậu phương địch về thực chất cũng chính là
tiểu sử của ông.
Sau Cách mạng tháng Mười chính quyền Xô Viết không động chạm đến
mảng quân báo. Quân báo vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng trải qua nhiều
tình huống bi đát - phản bội, chạy trốn, chiến sĩ không chịu thực thi
nhiệm vụ. Dần dần cho tới đầu năm 1921 bộ máy mới của cơ quan phản gián
đã hình thành. Quá nửa cán bộ lãnh đạo ở các vị trí chủ chốt là người
Latvia, trong đó có Ian Berdin phụ trách tác chiến. Cùng với sự phát
triển của hoạt động phản gián, cơ cấu của nó cũng có sự thay đổi, trách
nhiệm của Berdin cũng không cố định. Ông được bổ nhiệm vào vị trí lãnh
đạo.
Đầu những năm 20 đối với hoạt động phản gián thật khó khăn do
nhiều lý do: không có kinh nghiệm, thiếu cán bộ, nhưng cơ bản là thiếu
tiền. Để có tiền hoạt động buộc phải buôn bán (như lông thú chẳng hạn).
Khó khăn còn ở mối quan hệ giữa Ban nước ngoài của Cục Phản gián với
Quốc tế cộng sản. Đã nhiều lần được chỉ thị cấm sử dụng đảng viên Đảng
Cộng sản các nước vào hoạt động phản gián vì quyền lợi Liên Xô. Song
việc có được những điệp viên "trời cho" không phải mất tiền
ấy quả là hấp dẫn đến mức các nhà tình báo bỏ qua mọi chỉ thị và lệnh
từ trên xuống.
Dù thế nào thì công việc vẫn được triển khai. Do việc hoạt động
"hợp pháp" ("dưới vỏ bọc" sứ quán, đại diện thương
mại, hãng buôn...) bị đối phương giám sát nghiêm ngặt, nên phải chuyển
sang dựa chủ yếu vào các điệp viên ngầm.
Đức vừa là đồng minh vừa là đối tượng theo dõi của cơ quan quân
báo. Từ đầu những năm 1920, Đức quốc xã và quân báo Liên Xô thường
xuyên trao đổi thông tin chủ yếu về Ba Lan (Ba Lan là đối thủ chính của
cả Đức và Liên Xô) và cả về vùng bán đảo Balcan cũng như các nước châu
Á. Từ năm 1925 Berdin trực tiếp điều hành việc trao đổi thông tin. Đầu
những năm 1930 điệp viên Xô Viết ở Vienna đã bị bắt giam rồi được thả
tự do nhờ tác động của đại tá Ferdinan fon Bredov phụ trách phản gián
Đức lúc đó. Sau khi Hitler lên nắm chính quyền mọi tiếp xúc giữa hai
Cục Phản gián đã phải ngừng.
Mọi quan hệ đặc biệt với Đức được sử dụng cho việc điều hành
hoạt động phản gián ở các nước châu Âu khác, thậm chí cả ở Mỹ.
Điệp viên ngầm của Liên Xô hoạt động có hiệu quả ở Đức. Một trong số đó
là Vladimir Fedorovich Petrov. Sau cuộc nội chiến, Petrov phải sống lưu
vong và đã ổn định việc làm ở ban quân sự của sứ quán Nhật tại Berlin.
Từ năm 1923 Petrov đã bắt liên lạc được với phản gián Xô Viết và cung
cấp cho phía Liên Xô mọi thông tin giá trị, trong đó có việc trao đổi
thư từ giữa chính phủ các nước khối Antanta, những báo cáo về kinh tế
chính trị ở Đức... Giữa những năm 1920, nhân danh phản gián Nhật,
Petrov đã tuyển dụng ba điệp viên: lãnh đạo quân báo Đức, điệp viên Anh
Enlis và một giám đốc của "Doiche Verke".
Đầu những năm 1930, Petrov mở rộng mạng lưới điệp viên của mình,
tiếp xúc với tình báo và phản gián Đức, với Bộ Ngoại giao Đức và với giới
tài chính công nghiệp ở Berlin. Nhưng ông đã tỏ ra sốt sắng quá. Vì vậy
Trung ương đã nghi ngờ mối quan hệ của ông với phản gián một vài nước
như Nhật, Anh, Pháp, Đức nên đã ngừng tiếp xúc với ông vào năm 1935.
Năm 1937 người ta muốn phục hồi lại nhưng những cuộc trấn áp cản trở
chuyện đó.
Biên chế của cơ sở tình báo ở Berlin cho tới trước năm 1928 lên
tới 250 người, trong đó có Constantin Basov (Ian Abontn), chính là
người góp ý tuyển dụng Richard George.
Trong hoạt động phản gián tất nhiên có thắng có bại, có được có
mất. Năm 1927, cảnh sát Pháp đã phá tan cơ sở phản gián ở Pháp. Điều
đáng buồn nhất là chính Gian Creme, người lãnh đạo mạng lưới điệp viên,
không chỉ là đảng viên cộng sản, mà còn là Trung ương ủy viên, thậm chí
ủy viên Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Pháp, đã bị tổn hại thanh danh.
Ông đã cùng vợ chạy được sang Liên Xô. Tuy nhiên Đảng Cộng sản Pháp
cũng như phản gián Liên Xô không tránh được những tổn thất nặng nề mới.
Chẳng bao lâu sau phản gián Pháp đã vạch trần hoạt động của "mạng
lưới thông tin viên công nhân". Những người này đã viết bài về
tình hình ở xí nghiệp mình và gửi đăng báo "Nhân đạo", những
bài này đã được phản gián Xô Viết xử lý. Một số tình báo Xô Viết và
Pháp đã bị bắt.
Công việc vẫn tiếp tục đều đều. Một điệp viên ngầm tên là
Vinarov được cử sang Pháp tạo dựng mạng lưới tình báo phản gián nhằm
vào Tây Ban Nha và đã tổ chức được bốn điểm thu phát tin ở Paris và
Toulouse, một hình thức phù hợp với những năm chiến tranh.
ở Italia cũng có một mạng lưới điệp viên rộng lớn. Một trong số
họ là Roberto Bartini. Điệp viên này đã tốt nghiệp trường đào tạo phi
công, sau đó vừa theo học trường Bách khoa vừa đi làm ở xưởng sửa chữa
máy bay. Do môi trường học tập và làm việc Roberto đã có quan hệ sâu
rộng trong giới hàng không. Bản báo cáo tổng kết hoạt động của phản
gián những năm 1923 - 1924 đặc biệt nhấn mạnh thành tích ở Italia:
"... chúng tôi tiếp cận được với mọi tài liệu bảo mật nhất liên
quan tới các đơn đặt hàng và mọi thực nghiệm trong lĩnh vực hàng không.
Chúng tôi luôn có được những thông tin đầy đủ về tình hình máy bay, phi
công với các thông số khác nhau... "
Quân báo viên ngầm tên là Lev Manevich hoạt động ở Italia với
mật danh "Etienne". Manevich tuyển dụng được nhiều điệp viên
giỏi, thành lập cơ sở và gửi về Trung Tâm chủ yếu là những thông tin về
kỹ thuật quân sự - các bản vẽ và biên bản thử nghiệm các loại máy bay
ném bom, máy bay tiêm kích, tàu ngầm mới, loại đại bác 37mm, thiết bị
điều khiển hỏa lực pháo đặt trên tàu chiến, về các khí cụ cho phép thực
hiện các chuyến bay đêm, về việc điều khiển máy bay và về các chuyến
bay của binh đoàn không quân theo đội hình và trong sương mù. Manevich
cũng đã ở Tây Ban Nha và mang về từ đó báo cáo cụ thể về không quân của
tướng Franco cũng như mẫu mới nhất của máy bay tiêm kích
"Messersmit". Ngày 5 tháng 12 năm 1936, Manevich bị bắt giam
do bị phản bội. Ông mất ở trại tập trung của Đức ngày 9 tháng 5 năm
1945.
Trước năm 1925 quân báo Xô Viết có được những thông tin về Mỹ
chỉ qua báo chí và một số tư liệu do các cơ sở phản gián ở châu Âu ngẫu
nhiên có được và gửi về. Năm 1925 điệp viên ngầm đầu tiên của quân báo
đã được tung sang Mỹ. Đó là điệp viên Vladimir Bogdanovich Carlot, tên
thật là Verner Racov nhưng vào Mỹ với tên Kark Felic Wolf. Vốn là
ng¬ười vùng Kurlandia, xuất thân gia đình gốc Đức Wolf đã được ăn học ở
Đức. Năm 1914, Wolf cùng gia đình về Nga, nhưng đầu Thế chiến thứ nhất
đã bị quản thúc. Sau cuộc cách mạng tháng hai ông tích cực tham gia
công việc cách mạng, thành lập tổ chức tù binh quân sự lớn nhất ở
Xiberi, bản thân ông đã bị thương trong chiến đấu với bọn nổi loạn
người Tiệp. Sau cuộc cách mạng ở Đức, ông được tung vào nước này tham
gia vào đại hội trù bị của Đảng Cộng sản Đức, tham gia vào việc thành
lập nước cộng hòa Xô Viết Bremen cho dù nước cộng hòa này tồn tại không
được lâu. Sau đó ông là cơ sở cho quân báo Xô Viết ở vùng Bắc nước Đức
và ở Vienna. ở đây ông đã phụ trách đào tạo mạng lưới điệp viên cho
vùng Balcan. Năm 1923 Wolf phụ trách bộ máy phản gián của Đảng Cộng sản
Đức. Chỉ trong một thời gian ngắn ông đã củng cố thành một tổ chức vững
mạnh. Sau này trong suốt nhiều năm đó là nguồn điệp viên cho quân báo
Xô Viết. Sau khi cuộc cách mạng ở Đức bị đè bẹp, Wolf được triệu về
Moscva để rồi không bao lâu sau được phái sang Mỹ. Là thực tập sinh về
triết học và xã hội ở trường Đại học Tổng hợp Côlômbia nên Wolf có điều
kiện giao thiệp rộng rãi với cánh tả. Từ đó ông đã tìm được những người
thích hợp để sau đó tuyển dụng cho phản gián Xô Viết. Và thật kinh ngạc
chỉ trong hơn một năm ông đã tạo dựng được cơ sở tình báo tuy không lớn
nhưng tài năng hoàn toàn có thể nắm vững được những thành tựu mới nhất
thuộc các lĩnh vực hàng không, lực lượng hải quân và hóa học trong quân
sự.
|
|
|
|
|
|
Năm 1924, đích thân Vorosilov và Berdin huấn thị điệp
viên Lev Triemen trước lúc điệp viên này ra nước ngoài. Lev Triemen vừa
là một nhà khoa học vừa là nhạc công. Năm 1921, ông đã làm ra một nhạc
cụ điện tử "Triemenvocs" mang tên ông. Từ năm 1928 Triemen
mang nhạc cụ "Triemenvocs" đi biểu diễn ở châu Âu, ở Mỹ và
được hoan nghênh nhiệt liệt. Mỹ đã cho phép Triemen thành lập hãng điện
tử sản xuất nhạc cụ hàng loạt. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là
"mặt trên của tảng băng". Khó có thể đánh giá hết giá trị của
những thông tin do Triemen cung cấp, chỉ tiếc là đã không được sử dụng
đúng tầm của nó. Cũng cần nói thêm rằng trong số những người Triemen
tiếp cận và có quan hệ đã có những nhân vật tầm cỡ như tướng Eisenhower
(sau này là tổng thống thứ 34 của Mỹ), nhà bác học Einstein, Grofs (sau
này là quân hàm tướng, phụ trách dự án nguyên tử "Manhattan")
Triemen đã tham gia cùng họ lập ra hệ thống bảo vệ công nghiệp quân sự
có một không hai, điều chỉnh liên lạc bằng điện thoại giữa Mỹ với châu
Âu và các vùng khác. Ông còn nắm vững tiềm năng quân sự của Mỹ và các
dự thảo chiến lược trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Thế nhưng cuối
năm 1938 khi về đến Liên Xô Triemen lại bị bắt và tuyên án 8 năm tù
giam.
Quân báo hoạt động cả ở Thổ Nhĩ Kỳ, lúc đầu dựa vào các đảng
viên cộng sản Thổ Nhĩ Kỳ, thậm chí cả vào các sĩ quan Bạch vệ để giành
lấy chính quyền ở Constantinopon và thành lập ở Thổ Nhĩ Kỳ một nước
cộng hòa Xô Viết. Ban quân báo còn mở rộng mạng lưới điệp viên ra nhiều
phân nhánh (chỉ ở Trapadund đã có tới 200 điệp viên). Song sau thất bại
của vụ đảo chính quân sự, Ban quân báo chỉ còn hoạt động bình thường.
Đặc biệt các khuôn mặt sáng giá ở cơ sở Ancara đã không còn nữa trừ
S.Aralov, cựu lãnh đạo cơ sở. Tuy nhiên Ban quân báo vẫn giữ được quân
số tương đối bảo đảm cho việc cải thiện mối quan hệ Liên Xô-Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo lời mời của phía Thổ Nhĩ Kỳ, bộ trưởng quốc phòng Liên Xô
Vorosilov cũng đã sang thăm chính thức đất nước này, một sự kiện chính
trị đáng chú ý thời kỳ đó.
Đối tượng được quân báo Xô Viết đặc biệt lưu ý những năm 1920-1930 là
Trung Quốc. Tình hình ở đó những năm ấy rất phức tạp và không ổn định:
thù trong - cuộc nội chiến giữa các tướng lĩnh quân phiệt, giữa các
đảng phái; giặc ngoài - Nhật, Anh, Mỹ can thiệp. Ban ngoại gián thuộc
Bộ dân ủy tập trung sinh lực chống Nhật và bọn Bạch vệ ở Cáp Nhĩ Tân,
còn Ban quân báo do Berdin lãnh đạo hoạt động chủ yếu ở Thượng Hải, trợ
giúp cho quân đội Trung Quốc tham gia vào việc thành lập "các vùng
Xô Viết" ở nước này.
Chính tại Thượng Hải này hai điệp viên ngầm Richard George và
Ursula Cutrinxki (Rut Verner), những điệp viên được Berdin "đỡ
đầu", đã bắt đầu cuộc đời hoạt động phản gián của mình. Bên cạnh
họ còn có rất nhiều điệp viên ngầm ở các cơ sở khác nữa.
Cuối năm 1932, Ian Berdin nhận được tin về mưu đồ Nhật muốn tách
tỉnh Tân Cương ra khỏi Trung Quốc. Tân Cương có vai trò quan trọng đối
với Liên Xô: tỉnh giáp giới với Kazastan, dân cư theo đạo Hồi. Trong
khi "phía trên cấp cao" thỏa thuận về biện pháp thì ở Tân
Cương đã nổi dậy dưới sự lãnh đạo của tướng Mã Dung, người địa phương.
Ian Berdin đã đề nghị trấn áp và được Stalin chấp thuận. Trung đoàn 13
của Bộ dân ủy nội vụ được bố trí đóng quân ở Anma Ata đã ăn mặc quần áo
dân sự và cất hết giấy tờ rồi đột nhập Tân Cương với tư cách "quân
tình nguyện Antai". Quân nổi loạn của tướng Mã đã bị đập tan một
cách dễ dàng. Sau đó một nhóm quân báo đã được phái tới Tân Cương để
củng cố chiến thắng. Họ đã giúp chính quyền hợp pháp của địa phương
thành lập quân đội chính quy và ổn định lại trật tự.
Tuy nhiên đội quân báo của Berdin không chỉ gặt hái thắng lợi mà
còn bị những tổn thất nặng nề.
Vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930, sau hàng loạt
thất bại và tổn thất, mạng lưới điệp viên ngầm của quân báo thực sự bị
xóa sổ ở các nước Rumani, Latvia, Pháp, Phần Lan, Estoni, Italia và chỉ
còn tồn tại ở Đức, Ba Lan, Trung Quốc và Mãn Châu thuộc Trung Quốc. Tổn
thất quá nhiều và những chuyện ầm ĩ quanh vấn đề này trên báo chí nước
ngoài đã khiến Stalin cũng để ý. Ngày 29 tháng 3 năm 1934 ông đã phát
biểu "Bàn về chiến cục ở nước ngoài về gián điệp Xô Viết" tại
phiên họp của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
bolsevich. Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ tìm hiểu nguyên nhân tổn thất
cho phòng đặc trách của Bộ dân ủy. Kết luận điều tra thật buồn và bi
thảm đối với Berdin: "Quá trình tìm hiểu xem xét nguyên nhân các
thất bại dẫn tới tổn thất nặng nề, xóa sổ các cơ sở lớn nhất cho thấy
đó là hậu quả của việc để lọt bọn phản bội trà trộn vào, việc tuyển
chọn điệp viên nước ngoài có quá khứ và các mối quan hệ đáng ngờ, việc
không tuân thủ nguyên tắc bảo mật, lãnh đạo không chặt chẽ của chính
Ban 4 thuộc Bộ tham mưu tạo điều kiện cho việc để lọt vào một số lớn
các thông tin không xác thực làm chúng ta mất hướng". Tất cả mọi
nguyên nhân nêu ra đều được xác định bằng những sự kiện thực tế.
Sau khi đọc báo cáo Stalin quyết định xem xét lại vấn đề một lần
nữa ở Bộ Chính trị vào ngày 26 tháng 5 năm 1934. Và ngày này có thể coi
là bắt đầu ngày tàn của Berdin.
Artuzov, điệp viên lão luyện của ngoại gián, đã được chuyển từ
Bộ dân ủy sang làm phó ban quân báo. Ông "đem theo" gần ba
mươi điệp viên để phụ trách các tiểu ban.
Không bao lâu sau vào tháng 2 năm 1935 lại xảy ra một tổn thất
trầm trọng nhất ở Đan Mạch. Bốn điệp viên có trọng trách của phản gián
Trung ương đã bị bắt tại cơ sở mật mà họ tới đây lại không phải vì công
việc: ba trong số họ rẽ qua cơ sở chỉ để thăm bạn bè. Trong báo cáo về
vụ việc trên Artuzov đã nhận định: "Rõ ràng là thói quen đi lại
thăm hỏi bạn bè như ở quê nhà ở đây khó có thể bài trừ".
Tổn thất này ở Copenhago được gọi là "hội thảo các điệp viên",
đã chấm dứt con đường công danh của Berdin ở bên quân báo. Ông đã xin
từ chức và được Stalin chấp thuận. Thay thế ông là quân đoàn trưởng
Uriski, còn Berdin được cử tới Viễn Đông "lưu đày trong danh
dự".
Tới Khabarovsc ông lập tức bắt tay vào nhiệm vụ ở vị trí trợ lý
cho Blukhe, người mà ông học tập được rất nhiều chỉ trong vài tháng ở
Viễn Đông. Blukhe truyền cho Berdin không chỉ tri thức quân sự mà cả
kinh nghiệm thời ông làm cố vấn ở Trung Quốc với bí danh Galin. Những
kinh nghiệm đó rất bổ ích cho Berdin sau này.
Ngày 18 tháng 7 năm 1936 ở Tây Ban Nha xa xôi trong bản tin thời
tiết đã nhắc đi nhắc lại ba lần câu "Trên toàn đất nước trời không
mây". Đó chính là tín hiệu cho vụ nổi loạn của bọn phát xít. Quân
đội dưới sự lãnh đạo của tướng Franco đã nổi dậy chống lại chế độ cộng
hòa, chống lại chính phủ hợp pháp của Mặt trận dân tộc. Để chống lại,
khắp thế giới dấy lên một phong trào bảo vệ nước cộng hòa Tây Ban Nha.
Trong hai tháng 10 và 11 năm 1936 đã hình thành những đội quân quốc tế
thu hút hơn ba mươi lăm ngàn chiến sĩ từ 54 nước, đủ quốc tịch Mỹ, Anh,
Đức, Pháp, Do Thái, Hungari, Ba Lan... Liên Xô không đứng ngoài cuộc và
cũng đã cử tới Tây Ban Nha những người tình nguyện của mình - những phi
công, chiến sĩ xe tăng, bộ binh và các điệp viên.
Tháng 8 năm 1936, Berdin nhận được lệnh triệu hồi gấp về Moscva
và ở đây ông đã nhận được điều mình mơ ước ngay từ lúc mới xảy ra vụ
nổi loạn: sang Tây Ban Nha làm trưởng cố vấn quân sự. Ông đã thầm cảm
ơn Blukhe về mọi câu chuyện kể trước đây.
Chỉ sau đó vài ngày tướng Grisin (tên mới của Ian Berdin) đã lên
đường đi châu Âu trên con tàu Moscva-Paris.
Vừa tới nơi Berdin đã bắt tay ngay vào việc, tạo mối quan hệ rất
tốt trong công việc với thủ tướng Largo Cabalero, bộ trưởng quốc phòng
và các nhà lãnh đạo khác trong chính phủ và quân đội. Nhóm cố vấn quân
sự Xô Viết do ông lãnh đạo đều có tên tuổi là các nguyên soái và tướng
lĩnh tương lai, các Anh hùng của cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sau
này như Malinovski, Meretscov, Voronov, Cuznexov, Rodinsev, Batov,
Conpacri... Công lao cơ bản của tướng Grisin - Berdin, cố vấn quân sự
Liên Xô tại Tây Ban Nha đối với đất nước này là ở chỗ nhờ ý chí, sự
kiên trì khéo léo của ông mà vào tháng 11 năm 1936 quân đội Cộng hòa
Tây Ban Nha với sự trợ giúp của các đội quân quốc tế đã đánh bại sự tấn
công của quân Franco giữ vững Madrid mà số phận lúc đó đã treo trên sợi
tóc, thậm chí Franco còn đã ấn định sẽ duyệt binh tại một trong những
quảng trường trung tâm thành phố vào ngày 7 tháng 11.
Mùa xuân năm 1937, Berdin bị triệu hồi đột ngột. Vào thời kỳ lộn
xộn dữ dội đó, những lệnh triệu hồi bất ngờ ấy chỉ có nghĩa hoặc là bắt
giam hoặc là cái chết. Nhưng với Berdin mọi việc lại thật bất ngờ đúng
với nghĩa của nó: Ông được tặng thưởng Huân chương Lenin, thăng hàm tướng
và thăng chức trưởng ban. Đó là do trước hôm ông nhận thưởng Stalin đã
có bài phát biểu tại phiên họp mở rộng của Hội đồng quân sự Bộ Quốc
phòng, trong đó Stalin nhấn mạnh "Chúng ta đã đánh tan bọn tư sản
ở mọi lĩnh vực, duy trong lĩnh vực tình báo chúng ta lại bị đánh tơi tả
như bọn trẻ vậy. Đó chính là điểm yếu của chúng ta. Chúng ta đã không
có được mảng phản gián, mảng tình báo thực sự... Nhiệm vụ của chúng ta
là phải vực nó dậy. Đó là cặp mắt, là đôi tai của chúng ta."
Ngày 3 tháng 6 năm 1937, Berdin tiếp nhận bàn giao của cựu
trưởng ban Uriski và lại ngồi vào phòng làm việc của mình. Song lần
"lên ngôi" thứ hai này của ông kéo dài không lâu. Ông chưa
kịp làm gì mà lại phải "chủ tọa" ngồi nhìn những điệp viên
xuất sắc của mình lần lượt bị diệt trừ. Ông buộc phải phát biểu tại các
cuộc họp Đảng và phiên họp của chi ủy gọi những người đồng chí cùng sát
cánh hoạt động bao nhiêu năm, nhưng bây giờ đã bị các cơ quan của Bộ
dân ủy nội vụ bắt giam coi là "kẻ thù của nhân dân", là bọn
gián điệp và những tên khủng bố. Ông đã nghĩ gì vào những giây phút
nặng nề đó? Liệu ông có tin họ thực sự là kẻ thù đã khôn khéo biết che
đậy bấy lâu không? Có thể đúng là mọi tổn thất trước nay là do sự phản
bội của họ không? Hay ông đã không tin và có băn khoăn thắc mắc tại sao
bỗng chốc người ta lại bắt tay vào việc tiêu diệt những Con người trung
thực, trung thành với đất nước và sự nghiệp vậy? Ngay tới bây giờ cũng
không ai biết được những suy nghĩ của ông.
Ngày 19 tháng 8 năm 1937, tại cuộc họp những cán bộ cốt cán của
Đảng mọi người đã được thông báo rằng "Trưởng ban phản gián Berdin
đã bị cách chức cách đây 15 hôm vì liên quan tới những kẻ thù nhân dân
đã bị bắt giam là Niconov, Volin, Stenmac".
"Kẻ thù nhân dân" tiếp tục bị đưa ra ánh sáng và đội
ngũ Ban phản gián theo đó cũng ngày càng giảm đi. Về những vụ bắt giam
họ đã được tuyên bố tại các cuộc họp ngày 7 tháng 9, ngày 15 tháng 10
và ngày 15 tháng 11. Cuối cùng chi ủy đã tuyên đọc thêm một danh sách
hai mươi hai người bị bắt giam nữa. Danh sách không chỉ theo vần, mà
còn theo chức vụ và đứng đầu danh sách là Ian Carlovic Berdin.
Không thể xác định chính xác con số những cán bộ bị bắt giam của
Ban phản gián vì rất nhiều người bị bắt với tư cách dân thường, bởi họ
đã bị thải hồi từ trước đó vài tháng. Chỉ biết là cả bộ máy lãnh đạo
của Ban quân báo và tất cả các trưởng ban đều bị tiêu diệt. Việc trấn
áp thanh lọc vẫn tiếp tục cả năm 1938, chỉ trong hai năm cả bộ máy lãnh
đạo giỏi giang dày kinh nghiệm của Ban quân báo đã bị xoá sổ hoàn toàn.
Ngày 29 tháng 7 năm 1938, Ian Berdin đã bị xử bắn. Mãi nhiều năm
sau ông mới được minh oan.
Về Ian Berdin đã có một huyền thoại được viết lại trong cuốn
"Lịch sử phản gián thế giới" của hai nhà nghiên cứu người
Pháp R. Faligo và R. Coffere: "Ông đã bị bắt giam bị tuyên án
"phản cách mạng" và bị xử bắn ngày 29 tháng 7 năm 1938. Nhưng
năm 1984, chúng tôi lại có được chứng cớ là ông vẫn còn sống. Dưới cái
tên Vaxia, Berdin vẫn tiếp tục hoạt động bí mật cho tới những năm 1960.
Cho tới hôm nay thì những thông tin bổ sung khẳng định luận thuyết trên
không có. "Và cho dù đó là huyền thoại nhưng ta vẫn muốn
tin."
|
|
|
|
|
|
26 - ARTUR ARTUZOV
(1891-1937)
Những thành công và cay đắng
Artur Artuzov tên thật là
Frautri, cha là người Thụy Sỹ lưu vong sang Nga từ năm 1861 làm nghề
sản xuất pho mát theo kiểu thủ công, mẹ là người Latvia. Ông sinh năm
1891 tại làng Utstino Casixki, một làng quê hẻo lánh vùng Tverxki và tự
coi mình là người Nga lâu đời. Hai bác rể của ông, một là Kedrov, một
người bolsevich, một nhà tình báo đã hi sinh vì những vụ trấn áp vô căn
cứ, người kia là Podvoixki cũng là đảng viên cộng sản.
Artur say mê âm nhạc từ nhỏ (ông có giọng nam cao thật ngọt
ngào). Vì vậy sau khi tốt nghiệp xuất sắc trường trung học, sau đó là
trường đại học Bách khoa Petrograd vào năm 1917, Artur đã mơ ước được
học ở nhạc viện. Giáo sư Grum Grưgimailo có lời mời chàng trai mới tốt
nghiệp làm việc cho "Văn phòng luyện kim" của mình. Nhưng Artur
đã không làm diễn viên cũng chẳng là kỹ sư.
Tháng 12 năm 1918, giữa lúc cuộc Nội chiến diễn ra ác liệt nhất,
Trung ương Đảng Cộng sản bolsevich đã quyết định bổ nhiệm Kedrov phụ
trách bộ phận đặc nhiệm của ủy ban khẩn cấp toàn Nga chống bọn phản cách
mạng và khủng bố. Artur trở thành thư ký cho ông bác và là một nhân vật
có đặc quyền ở bộ phận này.
Nhiệm vụ đầu tiên Artur hoàn thành độc lập là vụ thâm nhập vào
cái gọi là "Trung tâm dân tộc" chống phá bolsevich. Trung tâm
bị phát hiện thật tình cờ. Trong một lần vây ráp chợ người ta đã bắt
giữ một cô bé mười lăm tuổi đang cố vứt bỏ khẩu súng lục trong người.
Cô bé tình cờ đã làm lộ ông bố tên là Biurs và ở chỗ ông ta đã phát
hiện được hầm bí mật với các báo cáo tình báo và các địa chỉ liên lạc.
Tên Biurs quá khiếp sợ đã khai nhận có tham gia vào việc chuẩn bị nổi
loạn ở Petrograd và giữ chân liên lạc cho bộ máy lãnh đạo của
"Trung tâm". Cô bé còn khai thêm một "quý cô" nào
đó. Cô này đã bị bắt giam và Artur trực tiếp hỏi cung một cách nhẹ
nhàng khôn khéo. Cô này khai ra tên cầm đầu, rồi qua tên này phát hiện
ra tên điệp viên ngầm của Anh là Ducs. Từ đó khẳng định mối nghi ngờ
rằng các tổ chức bí mật ít nhiều có liên quan tới cơ quan phản gián của
các nước thuộc khối Antanta. Thành công đã giúp cho Artuzov trưởng
thành trong nghiệp vụ và không bao lâu sau ông đã được giao độc lập phụ
trách một mảng hoạt động riêng.
Nội chiến kết thúc, những thế lực chủ yếu chống phá chính quyền
Xô Viết là các tổ chức của bọn Bạch vệ lưu vong hoạt động với sự trợ
giúp của các tổ chức phản gián các nước khối Antanta. Xuất phát từ tình
hình đó Ban nước ngoài (INO) của Cục Đặc nhiệm toàn liên bang đã ra
đời. Một trong những người điều hành là Artuzov. INO có nhiệm vụ nghiên
cứu theo dõi hoạt động của các tổ chức phản cách mạng lưu vong, tìm
hiểu rõ mọi kế hoạch của bọn chúng, việc bố trí các chi nhánh và điệp
viên trên khắp lãnh thổ Liên Xô, làm phân hóa từ bên trong các tổ chức
của chúng, đập tan mọi phương kế phá hoại, khủng bố của địch. Một trong
những thành tích đầu tiên của INO trong năm 1921 là tìm ra mật mã của
các tổ chức chống Liên Xô ở London và Paris.
Đầu năm 1921, Savincov, một kẻ khủng bố, đảng viên xã hội cách
mạng nổi tiếng đã đứng ra thành lập ở nước ngoài một tổ chức chiến đấu
lấy tên "Liên minh dân tộc bảo vệ đất nước và tự do". Tại Nga
người ta đã bắt giam gần 50 hội viên tích cực của "Liên
minh", vạch trần mối liên hệ giữa tổ chức của Savincov với các cơ
quan phản gián Ba Lan và Pháp, bóc trần mưu đồ chuẩn bị nổi loạn và
thâm nhập vào nước Nga. Thấy rõ mức độ nguy hiểm của phong trào
Savincov và của chính hắn, INO bắt đầu "trò chơi" dưới tên
gọi "Nghiệp đoàn". Họ tung tin rằng một "phân hội"
có tên "Các nhà dân chủ tự do" đã ra đời ở nước Nga. Và dường
như phân hội này đã sẵn sàng cho những hoạt động quyết liệt chống lại
bolsevich và rất cần có một người lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm tầm cỡ
như Savincov. Bắt đầu tích cực trao đổi thư từ, Savincov đã gửi điệp
viên tới Moscva trợ giúp cho phân hội "Các nhà dân chủ tự
do". Các điệp viên này hoặc bị bắt giam hoặc được chiêu mộ lại,
đôi khi "không bị phát hiện" để những tên này quay trở lại
Paris báo cáo một cách khách quan về hoạt động của phân hội. "Trò
chơi" kéo dài ba năm và đã được miêu tả cụ thể trong văn học hoặc
đã được dựng thành phim. Cùng với trò chơi "Nghiệp đoàn",
Artuzov còn cùng một số cán bộ lãnh đạo khác triển khai chiến dịch
"Tơrớt" cũng thành công không kém.
Thành công của Artuzov còn trong việc tổ chức hoạt động phản
gián bí mật ở nước ngoài. Một trong những điệp viên ngầm tin cậy của ông
là Roman Birk, sĩ quan quân đội người Estonia, được tuyển chọn từ lúc
triển khai chiến dịch "Tơrớt" và từ đó đã hoàn thành không ít
nhiệm vụ. Điệp viên này đã sinh cơ lập nghiệp ở Đức và tạo dựng được
nhiều mối quan hệ trong hàng ngũ sĩ quan quân báo và quốc xã Cục Đặc
nhiệm Đức cũng như trong giới chức trách thân cận với chính phủ. Thông
tin của Birk đều đặn chuyển về cho mãi tới năm 1934 khi ông buộc phải
rời khỏi Đức. Một điệp viên khác là Nicolai Crotsco. Hoạt động của ông
đóng góp nhiều cho việc phanh phui nhiều mưu đồ xảo trá của địch cũng
như việc công nhận Liên Xô về mặt ngoại giao.
Tháng 1 năm 1930, tại phiên họp của Bộ Chính trị Artuzov đã đọc
báo cáo về tình hình hoạt động phản gián, về những thất bại và nguyên
nhân của chúng. Sau đó hè năm 1931, thủ trưởng của INO chuyển công tác
khác, Artuzov lên thay. Theo chỉ thị của Stalin ông bắt tay vào cải tổ
hoạt động ngoại gián mà phạm vi nhiệm vụ đã mở rộng đáng kể.
Nếu như trước đây mục tiêu là bọn Bạch vệ lưu vong, thì bây giờ
hoạt động ngoại gián chú ý cả đến Anh, Pháp, Đức, Nhật và các nước sát
biên giới, nhằm thu thập các thông tin về khoa học kỹ thuật cũng như kế
hoạch của chính phủ các quốc gia đó.
Dưới sự điều hành của Artuzov mọi hoạt động cả bí mật cũng như
công khai đều được đẩy mạnh. Thời gian này đúng lúc Liên Xô được các
nước công nhận nên càng tạo điều kiện cho hoạt động phản gián mở rộng
phát triển.
Vấn đề quan trọng trước mắt đối với lãnh đạo là thái độ của Ba
Lan đối với Đức và Liên Xô. Hè năm 1933, hội nghị đại diện Bộ dân ủy
ngoại giao, Ban thông tin quốc tế Trung ương Đảng, Cục Phản gián và INO
đã được triệu tập tại Cremli. Tất cả mọi người đều báo cáo Stalin là Ba
Lan đã ngả về Liên Xô, và chuyện liên minh chỉ là ngày một ngày hai.
Riêng mình Artuzov tuyên bố không bao giờ Ba Lan bắt tay với Liên Xô và
căn cứ vào những thông tin có được thì khả năng Ba Lan sáp gần với Liên
Xô chỉ là bước đi có tính chiến lược nhằm làm ta mất cảnh giác. Khi ấy
không một quyết định nào được thông qua, song Stalin đã ghi nhớ lời
phát biểu của Artuzov. Và không bao lâu sau những nhận định của Artuzov
đã được thực tế chứng minh: Ba Lan đã ký hiệp ước liên minh với Đức.
Công việc cứ tiếp diễn. Đúng lúc Artuzov nắm quyền điều hành
INO, một điệp viên ngầm là Arnold Deitch đã đặt cơ sở cho việc thành
lập "Bộ ngũ" nổi tiếng của Cambridge: Đó là Kim Filby, Donald
Maklean, Guy Burgess, Anthony Blunt, John Caincross và nhiều người vô
danh khác nữa. Chính vào thời kỳ Artuzov lãnh đạo là lúc bắt đầu cuộc
đời hoạt động phản gián của các nhà tình báo nổi tiếng Zarubin,
Corotcov, Bưstroliotov, Rosin.... với vụ bắt cóc tướng Cutepov đã giáng
cho bọn Bạch vệ một đòn đích đáng hay như hoạt động của điệp viên xuất
sắc nhất, điệp viên "Franchesco" mà cho tới giờ tên thật vẫn
còn là bí mật. Điệp viên này đã cung cấp số tư liệu mật về lĩnh vực
ngoại giao nhiều đến mức có thể in ra tới vài chục tập.
Tất nhiên có thể coi Artuzov là cha đỡ đầu của "Dàn đồng ca
đỏ" ở Berlin. Chính có Artuzov nắm quyền điều hành nên "chuẩn
úy" Harro Schulze-Boysen, "anh chàng đảo Corse" Arvit
Harnar, "cụ già" Adam Cuckhov và nhiều người khác đã gia nhập
hàng ngũ điệp viên Xô Viết.
Thời gian này bên quân báo liên tiếp chịu hàng loạt tổn thất. Stalin
phải ra quyết định áp dụng những biện pháp khẩn cấp. Ngày 25 tháng 5
năm 1934, Artuzov được lệnh về Cremli. Lúc 13 giờ 20 phút ông bước vào
phòng làm việc của Stalin và đã thấy Vorosilov và nguyên soái Iagoda
ngồi chờ. Cuộc trao đổi cụ thể kéo dài sáu tiếng. Artuzov được đề nghị
chuyển xuống Cục Phản gián.
Chuyển sang bộ phận khác, cho dù cùng một loại công việc nhưng
chức vụ bị giảm lại không có một bảo đảm tương lai nào thì tất nhiên
chẳng ai muốn. Artuzov thừa hiểu rằng vốn là một cán bộ dân sự thì
không bao giờ trở thành cán bộ lãnh đạo cơ quan quân báo được. Nhưng
trong cuộc trao đổi Stalin đã nói: "Ngay từ thời Lenin Đảng ta đã
rất có kỷ luật và một đảng viên cộng sản có nghĩa vụ nhận bất kỳ nhiệm
vụ nào được giao phó". Câu ấy không cho phép từ chối công việc với
bất kỳ hình thức nào. Là đảng viên, Artuzov làm sao có thể tranh cãi
với Tổng Bí thư. Ông chỉ còn nước xin được mang theo nhóm cộng sự mà
ông đào tạo được trong quá trình làm ở INO và Stalin đã chấp thuận.
Thế là cùng chuyển sang công tác mới với Artuzov có hai, ba chục
cán bộ đảm nhận những chức vụ cao. Sau này tháng 11 năm 1935, Artuzov,
cựu cục trưởng quân báo Radovedup Berdin, cục trưởng đương chức Uriski
và các cán bộ khác như Carin, Steinbruc đều được phong là chính ủy quân
đoàn (tương đương hàm trung tướng).
Tháng 6 năm 1934, Artuzov trình lên Stalin và Vorosilov bản báo
cáo chi tiết về hoạt động của Cục có phân tích cụ thể những thất bại và
khiếm khuyết. Báo cáo có nhận xét là các cơ sở tình báo ngầm về thực
chất đã không còn tồn tại ở Rumani, Latvia, Pháp, Phần Lan, Estonia,
Italia và chỉ còn ở mỗi Đức, Ba Lan, Trung Quốc và Mãn Châu. Theo
Artuzov, sai lầm nghiêm trọng là đã tuyển chọn điệp viên trong số đảng
viên cộng sản nước ngoài và những nhân vật có quan hệ với các Đảng Cộng
sản. Ông đề nghị tán thành nguyên tắc "Không tuyển chọn điệp viên
hoạt động ở một nước nào đó ngay trong số đảng viên cộng sản của chính
nước đó." Tiếc là ý kiến của ông đã không được chú ý tới và chỉ
còn là trên giấy tờ.
Artuzov đề xuất hàng loạt đề nghị cải tổ cơ cấu, cụ thể là đề
nghị tổ chức theo INO, loại bỏ bộ phận phân tích thông tin. Đó là một
sai lầm của Artuzov và đã ảnh hưởng tới việc chuẩn bị cho chiến tranh
của bộ phận quân báo.
Công việc tiến hành đều đều. Tháng 10 năm 1935, điệp viên Sandor
Rado, đảng viên Đảng Cộng sản Hungari, đến Moscva và được Artuzov giới
thiệu với cục trưởng phản gián. Trong khi trò chuyện trao đổi hai bên
đã nảy sinh kế hoạch thành lập cơ sở phản gián mới lấy tên là
"Dora". Cơ sở sau này trở nên nổi tiếng. Nhưng không bao lâu
sau đã xảy ra vụ bại lộ gọi là "cuộc hội kiến các điệp viên",
một thất bại nhục nhã lớn nhất trong lịch sử phản gián Xô Viết. Thủ
phạm chính là Ulanovxki phụ trách cơ sở liên lạc ở Đan Mạch, do điệp
viên này bất chấp lệnh cấm vẫn tiếp tục tuyển chọn những người cộng
sản. Hậu quả dẫn tới sự phản bội, trong hai ngày 19 và 20 tháng 2 năm
1935, cảnh sát Đan Mạch đã bố trí mai phục địa điểm liên lạc và bắt đi
bốn cán bộ Trung Tâm và mười điệp viên nước ngoài thuộc Ban quân báo.
Những người bị bắt đều không có việc gì cần đến Trung Tâm mà chỉ tiện
đường qua Đan Mạch rồi rẽ qua địa điểm liên lạc để "gặp gỡ bạn
bè".
Trong báo cáo gửi Bộ Quốc phòng, Artuzov đã vạch ra: "Rõ
ràng là việc bỏ phong tục thăm hỏi bạn bè của quê hương mình là điều
thật khó khăn". Vorosilov sau khi đọc xong báo cáo đã kết luận:
"Qua bản báo cáo rất mơ hồ và ngây thơ thấy rõ một điều là cơ quan
phản gián nước ngoài của ta vẫn còn hoàn toàn què quặt. Và đồng chí
Artuzov đóng góp cho chúng ta quá ít trong việc hoàn thiện công việc
quan trọng này... "
Sau vụ việc trên cục trưởng phản gián Berdin đã đệ đơn từ chức
và được chuẩn y. Uriski một cán bộ năng động và quyết đoán lên thay.
Nhưng cả Berdin, cả Uriski cũng như Artuzov đều không củng cố được ý
thức kỷ luật: Họ hoặc không chịu tuân thủ triệt để những yêu cầu sơ
đẳng nhất, hoặc không thực thi cặn kẽ thận trọng chỉ thị của cấp trên.
Đã thế lại còn có sự chia rẽ nội bộ, có sự phân biệt và ganh ghét nhau
giữa người của Berdin, của Artuzov và của Uriski khiến mối quan hệ giữa
Artuzov và Uriski có phần rạn nứt. Thủ trưởng mới chuyên quyền và thô
bạo đã ra những chỉ thị mang tính nhạo báng, thậm chí không bao lâu sau
còn qua mặt không thèm bàn bạc gì với cục phó là Artuzov.
Rồi năm 1936, vào lúc ở Liên Xô có hàng loạt những vụ bắt giam
những người cộng sản nước ngoài, Uriski đã nhân đà nêu lên "những
mối ngờ vực về mặt chính trị" không rõ ràng về trợ lý gần gũi của
Artuzov là Steinbruc, vốn là người Đức.
Ngày 11 tháng 1 năm 1937, nguyên soái Vorosilov đã yêu cầu Bộ
Chính trị ra quyết định chuyển hai ông về Bộ dân ủy Nội vụ. Artuzov
không được phụ trách bộ phận ngoại gián mà chỉ đảm trách một chức vụ
nhỏ là điều hành phòng đặc biệt của Bộ nội vụ, nghe thì rất kêu nhưng
thực chất chỉ là phòng lưu trữ hồ sơ.
Artuzov tìm mọi cách gặp và viết thư cho Ezov nhưng không làm
được. Vậy là thời gian đối với Artuzov đã được định đoạt chỉ ngày một
ngày hai.
Nhân viên Cục Phản gián bị bắt giam hàng loạt. Các cán bộ lãnh
đạo - tất cả cán bộ phụ trách các phòng và rất nhiều nhân viên cấp dưới
đều bị loại trừ. Cơ cấu đội ngũ điệp viên có thay đổi về độ tuổi và
quốc tịch. Thay thế cho những người Latvia, Ba Lan và Do Thái là người
Nga. Thay thế cho các cấp tướng bây giờ là các thiếu tá, những người
mới tốt nghiệp học viện quân sự và ở cột khai thành phần xuất thân đều
thấy ghi "công nhân", "nông dân". Cần phải thừa
nhận là họ đã làm được một điều kỳ diệu. Đội quân phản gián bị đánh tan
tác, sống dở chết dở, không có triển vọng chỉ hơn hai năm sau đã hồi
sinh và trở thành một trong những lực lượng mạnh nhất thế giới ở Thế
chiến thứ hai.
Còn với riêng Artuzov thì chuyện gì đã xảy ra với ông?
Ngày 13 tháng 5 năm 1937, tại cuộc họp những đảng viên tích cực
của Bộ dân ủy Nội vụ Frinovxki, một cán bộ lãnh đạo của Cục đã tố cáo
ông là gián điệp. Lập tức đêm hôm đó Artuzov đã bị bắt ngay tại phòng
làm việc của mình. Những tên đao phủ, chiến hữu cùng một tổ chức trước
kia đã "làm việc" với ông suốt hai tuần liền. Và đã không
uổng công. Không chịu được những cuộc hỏi cung liên miên, con người
mạnh mẽ đó đã đầu hàng, sẵn sàng không chỉ nhận mọi lỗi lầm về mình mà
còn khai bừa ra những người khác, đặc biệt là Steinbruc. Vụ việc của
Artuzov được ghi thành hai biên bản hỏi cung: ngày 27 tháng 5 và ngày
15 tháng 6 năm 1937.
Ngày 21 tháng 8 năm 1937, Artuzov đã bị tuyên án tử hình và bản
án được thi hành ngay hôm đó.
Mãi năm 1956 ông mới được phục hồi danh dự.
|
|
27 - KENDZI DOIKHARA (1891-1948)
Âm mưu thuốc phiện hóa Trung Quốc
Từ xa xưa Nhật Bản đã coi hoạt
động tình báo là một công việc vẻ vang tôn quý. Một người Nhật từ
nước ngoài về mà không đem theo cho dù một bí mật rất nhỏ của nước
sở tại trong một chừng mực nào đó sẽ bị xem như người kỳ quặc.
Người Nhật luôn có xu hướng tuyển mộ số lượng khổng lồ điệp viên từ
đủ mọi nghề như thợ cắt tóc, nha sĩ, chủ trang trại, doanh nhân,
thợ nấu ăn và hàng trăm ngành nghề khác. Ngay cả sĩ quan cấp cao
cũng không thấy xấu hổ khi đóng vai đầy tớ hoặc phu xe, miễn là
chuyện đó có ích cho Nhật hoàng. Nhiều khi kết quả hoạt động như
vậy chẳng được là bao so với nỗ lực đã bỏ ra, nhưng dù sao tích cóp
mãi rồi gió cũng thành bão. Tình báo Anh trong hồ sơ về chiến tranh
Nga-Nhật đã ghi nhận: "Hệ thống tình báo xuất sắc của Nhật với
sách lược riêng của mình góp phần đáng kể cho thắng lợi trên mặt
trận của quân đội Nhật".
Chàng thanh niên Kendzi Doikhara sớm bộc lộ năng khiếu hoạt
động tình báo của mình. Nhà nghèo anh vẫn thi đỗ vào Học viện quân
sự thuộc Bộ tổng tham mưu và tốt nghiệp hạng ưu. Bạn bè cùng học
thán phục tài cải trang, thay hình đổi dạng xuất sắc của anh.
Kendzi có thể thay đổi cả dáng đi, gày đi 20 cân trong vòng mấy
ngày. Anh rất thích hóa trang thay đổi khuôn mặt như một diễn viên
hát kịch "Nô". Doikhara nắm vững hoàn hảo ba phương ngữ
Trung Quốc và thông thạo không dưới mười thứ tiếng châu Âu. Một vài
người khẳng định chị Kendzi là phi tần của hoàng đế Ioshikhito mới
lên ngôi nên chàng sĩ quan trẻ có điều kiện thăng tiến trong binh
nghiệp.
Đầu những năm 20, Kendzi Doikhara làm thư ký cho tham tán
quân sự, tướng Hondze Shigeru tại sứ quán Nhật ở Bắc Kinh và đã
tháp tùng sếp của mình đi khắp đất nước Trung Quốc, đã nghiên cứu
tìm hiểu các thành phố lớn Thượng Hải, Thiên Tân, Nam Kinh. Năm
1925, Doikhara nhận nhiệm vụ tới Mãn Châu Lý. Vùng này chiếm một vị
trí đặc biệt trong kế hoạch xâm chiếm của Nhật. Chiếm được hoặc nắm
được quyền kiểm soát Mãn Châu Lý sẽ được coi là bàn đạp thôn tính
năm tỉnh miền Bắc Trung Quốc. Vì vậy mục tiêu hàng đầu của điệp
viên mới vào nghề Doikhara là chuẩn bị cho việc thôn tính vùng này.
Doikhara từ từ bắt tay vào công việc. Đầu tiên là thiết lập
mối quan hệ với tổ chức "Rồng đen", trụ cột của phản gián
Nhật. Mục tiêu của "Rồng đen" là khôi phục lại vương
triều nhà Thanh của Mãn Châu Lý dưới sự giám hộ và bảo trợ của
Nhật. Nhân vật dành cho ngôi vị này đã được Doikhara nhắm ngay từ
năm 1924. Đó là Phổ Nghi, khi đó vẫn còn là một cậu bé. Phổ Nghi
sinh năm 1906, mới ba tuổi đã lên ngôi kế vị và là hoàng đế cuối
cùng bị Cách mạng lật đổ ở Trung Quốc. Doikhara giữ Phổ Nghi trong
tầm tay, nuôi dưỡng để chờ thời cơ. Doikhara còn nuôi cả một đội
quân Hán gian lớn để thu thập thông tin, thực thi những hoạt động
phá hoại, khủng bố và tổ chức những cuộc xung đột huynh đệ tương
tàn. Trong khi đó Doikhara không bỏ lỡ Nga Xô. Ông ta đã thành lập
các đội tình báo riêng gồm nhiều quân Bạch vệ. Nhóm lớn nhất, nhóm
chiến đấu phá hoại ngầm gồm năm ngàn tên tội phạm người Nga bỏ trốn
khỏi đất nước cùng với quân Bạch vệ.
Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại Doikhara điều hành mạng
lưới phản gián của mình bằng sức hấp dẫn quyến rũ đến đam mê của
thuốc phiện. Ông ta đã biến tất cả những cái gọi là câu lạc bộ ở
Trung Quốc thành các phòng tiếp tân ăn chơi sang trọng, thành các
sòng bạc, ổ mại dâm trụy lạc và chủ yếu là nơi hút thuốc phiện.
Theo đề nghị của ông ta các nhà máy thuốc lá ở Nhật cho sản xuất
loại thuốc mới nhãn hiệu "Con dơi vàng". Thuốc chỉ để
xuất khẩu, cấm tuyệt đối bán ở nội địa. Mỗi điếu thuốc có tẩm một
lượng nhỏ thuốc phiện hoặc hêrôin. Người tiêu thụ không hề nghi ngờ
tự nhiên trở thành con nghiện. Cục Phản gián của Doikhara trả lương
cho điệp viên lúc đầu một nửa bằng tiền một nửa bằng thuốc phiện,
sau đó hoàn toàn bằng thuốc phiện. Và thế là các điệp viên nghiện
ngập đã thành vũ khí lợi hại ngoan ngoãn trong tay Doikhara.
Năm 1926, nhận nhiệm vụ "điệu" Giang Gio Lin, thủ
lĩnh quân phiệt Mãn Châu Lý ra khỏi căn cứ của mình, Doikhara đã
thuyết phục hắn trả thù Bắc Kinh về những thất bại trước đó. Hắn đã
đem quân đi Bắc Kinh và vắng mặt ở Mãn Châu Lý gần hai năm. Song
tướng U Sutren tạm thay thế y đã đề nghị hắn về. Con tàu chở hắn đã
nổ tung, hắn chết tan xác. Thủ phạm thực của vụ tai nạn đó không rõ
là phản gián Nhật hay Liên Xô, bởi cả hai phía đều có lý do quan
tâm tới việc loại trừ Giang.
Bây giờ cần phải tìm cớ để quân Nhật tiến vào Mãn Châu Lý.
Ngày 18 tháng 9 năm 1931, trung úy Cavamoto, người của Doikhara, đã
dựng chuyện tai nạn ở đường sắt tạo cớ cho quân Nhật tràn vào Mãn
Châu Lý.
Ngày 10 tháng 11, thêm một vụ khiêu khích nữa ở Thiên Tân:
bốn mươi người Trung Quốc được người của Doikhara thuê và cho hút
thuốc phiện đã tấn công trụ sở cảnh sát. Doikhara đã lợi dụng sự
hỗn loạn đưa Phổ Nghi ra khỏi "Vườn thiên thai", nơi y
vẫn bị quản chế lâu nay, rồi đưa thẳng lên tàu chiến Nhật chở về
Mãn Châu Lý.
Ngày 1 tháng 3 năm 1934, Phổ Nghi được đưa lên ngôi hoàng đế
của vương triều Mãn Châu bù nhìn.
Lúc này ảnh hưởng của Doikhara lan rộng đến nhiều thành phố
và làng mạc Trung Quốc. Ông ta đã thành lập các tổ chức phản gián ở
Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, khắp vùng Mãn Châu. Cơ sở và Trung
Tâm của chúng là những cộng đồng người Nhật đông đúc.
Ngoài phạm vi những cộng đồng ấy các điệp viên của Nhật đã tuyển
chọn các nhóm điệp viên từ gái bán hoa Nhật và Triều Tiên. Các cô
gái này có nhiệm vụ thu nhặt thông tin chuyển cho người của
Doikhara.
Điệp viên của Doikhara ở vùng Mãn Châu có nhiệm vụ chuẩn bị
cơ sở cho chiến tranh xâm lược Liên Xô. Trong khi đó chính
Doikhara, "Anh chàng châu Âu" cũng lại nằm trong tầm theo
dõi của phản gián Liên Xô.
Doikhara tích cực góp phần củng cố thắt chặt liên minh hợp
tác với quốc xã Đức và các cơ sở phản gián Đức. Năm 1934, Doikhara
đã tiếp xúc được với đại úy Eigen Otto, tham tán quân sự Đức với hi
vọng đại úy giúp tạo điều kiện củng cố mối giao hảo Nhật - Đức (ông
ta không hề biết rằng Otto đã "đi đêm" cung cấp thông tin
cho "người bạn tốt nhất của mình" là điệp viên Xô
Viết Richard George).
Đại tá Hiroshi, tham tán quân sự tại sứ quán Nhật ở Berlin,
phụ trách hoạt động tình báo ở châu Âu là bạn của Doikhara. Tháng 8
năm 1935 ông đã ký tắt với Canaris thỏa ước hợp tác phản gián đặt
nền móng cho "Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản" bi thảm và
được ký tháng 11 năm 1936.
Cũng thời gian này Doikhara mở rộng phạm vi hoạt động của
mình. Ông ta trở thành chánh thanh tra hàng không, từ năm 1941 là
chỉ huy trưởng quân đoàn số 4 ở Singapore cho tới hàm tướng.
Tại Singapore, Doikhara đã thành lập đội quân người ấn Độ
đưa Sandre Bos thuộc phái dân tộc chủ nghĩa lên làm chỉ huy. Đội
quân hoạt động ngầm này đã tham gia hoạt động phá hoại, khủng bố,
tuyên truyền trên đài nhằm xâm hại đế quốc Anh.
Sau năm 1945 phe Đồng minh đã không tha cho Doikhara vì tất
cả những hoạt động đó. Ông ta là một trong những nhân vật cấp cao
của quân đội Hoàng gia Nhật bị Tòa án quốc tế Tokyo kết án tử hình
bằng treo cổ. Án do tướng Mỹ Macartur tuyên và được thực thi vào
đêm 22 rạng ngày 23 tháng 12 năm 1948 tại sân nhà tù Sugamo.
Những lời cuối cùng của Kendzi Doikhara là nói với cha rửa
tội: "Tôi cảm thấy cái chết đợi tôi vào lúc nửa đêm đang động
đến một người nào khác... vì giữa cái sống và cái chết không có gì
là khác nhau cả..."
|
|
|
|
|
|
28 - MARTA RISHE (sinh năm 1891)
Con "sơn
ca" lặng lẽ
Marta Betenfeld sinh ra ở Lotaringa trong một gia đình người
Đức. Đầu tiên gia đình làm nghề thợ may ở Paris. Năm 1913, lúc 22
tuổi, cô là một trong những phụ nữ đầu tiên của Pháp có bằng lái
máy bay. Marta lái máy bay rất giỏi và là một thách thức đáng kể
đối với các bậc mày râu. Cô là người đi đầu trong nghề thể thao
hàng không của nữ giới. Năm 1914 cô kết hôn với phi công quân sự
Andrey Rishe, ba năm sau anh qua đời ngoài mặt trận. Là một người
rất yêu nước, sau khi chồng chết, Marta muốn trả thù bọn Đức bằng
mọi giá, nên muốn trở thành phi công quân sự, nhưng không được chấp
nhận. Khi đó cô đệ đơn phục vụ cho Phòng Năm - tức cơ quan phản
gián Pháp do đại uý Liadu lãnh đạo. Cô được mang biệt danh
"Sơn ca".
Cô đã kinh ngạc khi đại úy Liadu cử cô đi Tây Ban Nha, nhưng
cô không thể từ chối được, chẳng bao lâu sau cô đã có mặt trên bãi
biển San-Sebastian với một mục đích duy nhất - trở thành "điệp
viên Đức". Chỉ mấy ngày nhàn rỗi trên bờ biển bọn Đức đã
"cắn mồi". Lợi dụng lúc cô thiếu thốn tiền bạc, chúng đã
"chiêu mộ" được cô một cách dễ dàng. Chúng đặt biệt danh cho
cô là C-32, trao cho cô nhiệm vụ đầu tiên, cung cấp tiền bạc, chỉ
thị và các phương tiện ghi mật tự. Trở về Paris, cô báo cáo lại hết
với đại uý Liadu, ông lấy làm vui lắm:
- Thật là tuyệt. Cô đã tiếp xúc được đúng người chúng ta cần
đến ở Tây Ban Nha. Tay này là nam tước fon Cron, tuỳ viên quân sự
Đức ở Madrid, là cháu của tướng Ludendorf.
Đại uý Liadu nói rằng cô phải thể hiện mình không những là
một điệp viên, mà còn phải là một người đàn bà.
- Bằng cách đó cô sẽ cứu được bao nhiêu sinh mạng. Công việc
đòi phải như vậy.
Ba ngày sau Liadu cung cấp cho cô những điều cần biết của
Cron. Mọi thông tin đều chính xác, nhưng đã cũ, và là thông tin do
các điệp viên hai mang khác cung cấp. Mấy hôm sau Marta quay về Tây
Ban Nha, cô thực sự bắt đầu trò chơi hai mặt. Fon Cron tiếp cô ở
San- Sebastian, cho cô ở một biệt thự sang trọng, chẳng mấy chốc
người thiếu phụ hai mươi sáu tuổi xinh đẹp ấy phải trở thành tình
nhân của con người mà cô căm ghét và ghê tởm. "Sau này công
việc của tôi thành công thì chủ yếu là nhờ lòng căm thù ghê tởm đó,
nó đã cho tôi lòng can đảm, sự tàn bạo và tráo trở".
Chiếm được lòng tin của fon Cron, Marta đã hành động trong
vai "liên lạc" của hắn với bọn chủ mưu, đang chuẩn bị nhờ
người Đức tổ chức một cuộc nổi dậy ở Marocco, và cô đã xác định
được tọa độ nơi gặp gỡ các tàu ngầm Đức và việc áp tải các tàu chở
vũ khí cho phiến quân Marocco. Cuộc nổi dậy ấy đã bị ngăn chặn.
Theo sáng kiến của Marta, fon Cron giúp cô tổ chức một salon
mỹ viện "Gương soi của bầy sơn ca", mà hắn muốn dùng để
phục vụ cho những quyền lợi của mình - để nguỵ trang và tô điểm cho
những điệp viên được gửi sang Pháp. Khi làm đầu cho họ, Marta đã
kịp làm những dấu hiệu để dễ dàng tóm được chúng, khi chúng tới
Pháp. Một thời gian sau cô lại phát hiện được một đường đi xuyên
qua dãy núi Pirene của tình báo Đức. Muốn thế cô phải dùng đến mưu
mẹo thuần tuý đàn bà: thứ nhất, tạo ra một cuộc "theo
dõi" từ phía người Pháp, khiến cô không có khả năng công khai
về Pháp; thứ hai, tìm cách để có bầu với fon Cron, mà muốn phá thai
thì phải sang Pháp. Dù muốn hay không fon Cron cũng phải cho cô đi
qua con đường bí mật. Về sau, trên con đường này, một số tên gián
điệp nguy hiểm của Đức đã bị bắt.
Một lần fon Cron và Marta bị tai nạn ô tô. Cô gãy chân và
phải nằm hai tháng. Trên báo Pháp xuất hiện một bài đả kích, trong
đó nêu ra một câu hỏi: Marta Rishe làm gì ban đêm trên đường cùng
với tuỳ viên quân sự Đức? Bài báo mang tựa đề "Điệp viên trong
ô tô: fon Cron và bà Rishe". Thế là bên cạnh nỗi đau thể chất
lại còn thêm cả nỗi đau tinh thần: cô nhận được một bức thư của mẹ
nói rằng cả nhà cô ở Pháp đang bị theo dõi và bị nhục nhã. Nằm dài
trong nhà fon Cron, cô nghe được nhiều chuyện của hắn với các điệp
viên. Một hôm cô thấy nói đến việc chuẩn bị làm nổ nhà máy thuốc súng
Buno gần Bayonna và cô đã kịp thời chuyển thông tin mật đó về Phòng
Năm. Nhưng có điều gì đó trục trặc. Nhà máy nổ tung, chết đến chín
mươi người.
Lúc này cô có một kế hoạch mới. Cô gửi kế hoạch cho đại uý
Liadu. Vì biết được mật số để mở tủ kín của fon Cron và hy vọng lấy
được chìa khoá của hắn, cô dự định tìm cách cho hắn ngủ, lấy giấy
tờ trong đó ném ra ngoài cửa sổ để đồng nghiệp của cô nhặt lấy.
Theo cô biết thì trong két sắt có hình chụp của các điệp viên, có
số liệu về các điểm cung cấp trang bị cho các tàu ngầm ở Địa Trung
Hải và Đại Tây Dương, số liệu về những nơi có hàng rào mìn, các mật
mã, điện tín, danh sách những người Tây Ban Nha sùng Đức đang hoạt
động chống Pháp.
Khi lành vết thương ở chân cô đến nghỉ ở một nhà an dưỡng
bên bờ biển của Tây Ban Nha. Tại đó xảy ra một trường hợp huyền
thoại: trong khi bơi thuyền đã có người định dìm chết cô, nhưng nhờ
thể trạng tuyệt vời, nhờ công phu luyện tập thể thao mà cô thoát
chết. Cô liên hệ với fon Cron và được biết rằng vụ mưu sát ấy là
của nhóm điệp viên của fon Kalle, tuỳ viên quân sự Đức, đối thủ của
fon Cron.
Nhưng Marta không hề nhận được tin tức gì về chuyện két sắt. Cô sốt
ruột quá, nên một hôm bảo với fon Cron rằng cô muốn về Pháp.
- Tôi là người Pháp, anh hiểu không? Anh phải biết rằng từ
ngày tôi ở Tây Ban Nha tôi vẫn làm việc cho Tổ quốc tôi, tôi vẫn
theo dõi anh, anh có hiểu không?
Fon Cron đỏ mặt lên, rồi sau tái đi, hắn nở một nụ cười méo
mó:
- Không thể thế được... Không đúng đâu,- hắn nói nhỏ.- Tôi
không tin...
Đột nhiên hắn điên cuồng tát Marta một cái khiến cô rụng một
chiếc răng.
- Anh đã ký vào án tử hình của chính anh rồi đấy,- Marta nói. -
Ngài công sứ Đức sẽ biết mọi chuyện. Tôi sẽ chuyển cho ông ấy những
bức thư tình của anh.
- Cô không làm được đâu!- hắn kêu lên.
Ngày hôm đó một viên cảnh sát đến khách sạn định bắt cô.
Nhưng Marta không bối rối. Cô nhấc ống nói và yêu cầu gặp công sứ
Đức. Ngài công tước Ratibor đích thân gặp cô.
- Tôi là tình nhân của fon Cron. Và tôi có đủ bằng chứng nói
với Ngài rằng anh ấy đã nuôi tôi bằng số tiền dùng để trả cho các
điệp viên của anh ấy.
Marta chuyển cho ông những bức thư tình, dãy mật số để mở
két sắt. Cô không thể lấy hết được những thứ trong tủ, nhưng đã làm
huỷ hoại hết giá trị của chúng. Toàn bộ tổ chức của fon Cron phải
làm lại từ đầu. Marta về Pháp không có visa. Một thiếu uý cảnh binh
nhận ra cô trên biên giới:
- Xin chào "Sơn ca"!
Thủ trưởng mới của Phòng Năm, đại tá Guber, người thay thế
Liadu, tuyên bố với cô:
- Thưa bà, sau khi bà đã thất bại chúng tôi không cần đến sự
giúp đỡ của bà nữa.
Bản anh hùng ca "Sơn ca" đã chấm dứt như thế đó.
Mười lăm năm sau công lao của Marta Rishe mới được thừa nhận. Ngày
23 tháng 1 năm 1933, chính phủ đã trao tặng cô Bắc đẩu bội tinh.
Sau khi lấy chồng lần thứ hai cô chuyển sang Anh. Trong thời
kỳ chiến tranh cô trở về Pháp tham gia kháng chiến, sau chiến thắng
cô được bầu làm tham tán đốc lý toà thị chính Paris. Theo sáng kiến
của cô người ta đã thông qua luật cấm các nhà chứa, mà nhân dân gọi
là "luật Marta Rishe". Luật này thủ tiêu danh sách gái
điếm. Có những kẻ độc miệng nói rằng hồi trẻ chính Marta đã hành
nghề mại dâm, vì thế cô đòi thủ tiêu danh sách đó. Nhưng hãy để cho
lương tâm họ tự xét những lời nói ấy.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
29 - MARIA
DAKHARTSENCO-SULS (1893 - 1927)
Nữ điệp viên thù hận và khủng bố
Không phải ngẫu nhiên mà nữ điệp
báo Maria Dakhartsenco được mệnh danh là người đàn bà có "lòng hận
thù làm mờ cả mắt". Lòng hận thù của người đàn bà này đối với
chính quyền Xô Viết ngấm vào xương tủy đến mức bà ta không nhìn thấy
những gì mà bất kỳ một người bình thường nào khác cũng có thể nhận ra.
Maria Vladislavovna Lưsova sinh ngày 3 tháng 12 năm 1893 trong
một gia đình quý tộc ở tỉnh Pendenskaia. Bà mẹ qua đời ngay sau khi
sinh Maria, còn ông bố bận việc ở công sở đành trao con gái mới sinh
vào tay các bà vú nuôi và nữ gia sư. Đứa trẻ lớn lên và học hành giỏi
giang, nhưng vốn tính hiếu động cứ giờ học vừa xong là bé Maria lại
vùng chạy ra chơi ở chuồng ngựa. Đàn ngựa là niềm đam mê của bé nên sau
này không phải ngẫu nhiên Maria đã trở thành lính kỵ binh. Năm 1911,
Maria tốt nghiệp Trường Đại học Smolnưi loại ưu với huy chương vàng.
Sống một năm ở Lozann sau đó trở về quê. ở quê Maria sắp xếp công việc
ở điền trang và lập một trại nuôi ngựa giống. Năm 1913, Maria xuất giá,
chồng là đại úy Mikhno đã từng tham gia cuộc chiến tranh Nhật Bản.
Thế chiến lần thứ nhất bùng nổ đã làm thay đổi hẳn cuộc đời
Maria. Chồng Maria bị thương nặng chết ngay trên tay vợ. Ba ngày sau đó
Maria sinh con gái. Để lại đứa con còn đang ẵm ngửa cho vú nuôi và cô
gia sư, Maria lên đường đi Petrograd. ở Petrograd Maria quyết định lên
đường ra mặt trận. Trong môi trường binh lính và giới hạ sĩ quan Maria
nhanh chóng tìm thấy một góc riêng cho mình. Trong cư xử với đồng đội
Maria tỏ ra kênh kiệu, cô có cái nhìn xấc xược, lạnh như băng, ăn nói
cứng rắn nên hầu như không ai muốn gần. Bù lại, bản tính gan dạ đến táo
tợn và sức chịu đựng dẻo dai của cô khiến đồng đội phải kính nể. Ngoài
ra thái độ thẳng tay đối với kẻ thù và sự tàn bạo lên đến đỉnh điểm của
Maria cũng làm cho những đồng đội đã từng trải phải kinh ngạc.
Maria rất kiên trì để được phiên vào đội trinh sát. Một hôm đi
trinh sát cùng với hai binh nhì, Maria rơi vào ổ phục kích của Đức. Đạn
bắn ra như mưa trong khoảng cách gần 20- 30 bước. Một binh nhì bị chết
ngay tại trận, binh nhì khác bị thương nặng ở bụng, còn Maria chỉ bị
thương ở tay nên về được với đồng đội dưới làn đạn xối xả của bọn Đức.
Với chiến công này Maria được thưởng Huân chương Georgi. Lần thứ hai
Maria được thưởng Huân chương Chữ thập Georgi do công lao trinh sát địa
hình gần làng Loknitxa. Tháng 11 năm 1916, Maria tự nguyện đang đêm dẫn
đường cho đội trinh sát của trung đoàn vào hậu phương của Đức, đích
thân tham gia vào trận đánh giáp lá cà.
Mùa thu năm 1917, mặt trận vỡ. Maria trở về điền trang của mình, lúc
này ở địa phương nhiệt tâm cách mạng của quần chúng dâng cao, nông dân
và binh lính từ mặt trận trở về trong làng liên kết với nhau phá tan
trang ấp, cướp hết súc vật ở trang trại đem chia nhau. Đáp lại, cô đứng
ra thành lập đội quân chống lại gồm những sĩ quan trẻ đều là người
trong tỉnh Pendenskaia, có cả binh lính từ mặt trận trở về, sinh viên
và học sinh trung học. Đem đội quân khá mạnh đi trừng phạt những kẻ
đánh chiếm trang ấp, Maria thẳng tay trừng trị dã man dân làng, xử bắn
những người cầm đầu cuộc tấn công đánh chiếm trang ấp.
Trong những ngày rối ren của cuộc cách mạng tháng mười năm 1917,
hành động táo bạo của Maria trôi đi không ai để ý điều tra nữa, nhưng
Maria cũng phải giải tán đội quân và chuyển ra thành phố Penda.
Một hôm đêm khuya, Maria nghe tiếng gõ cửa. Maria nhận ra ngay
những vị khách: đó là tướng Rolanov, người mới trao huân chương Chữ
thập Georgi cho Maria cách đây không lâu và đại tá Dakhartsenko, bạn cũ
của chồng Maria vừa mất mấy năm trước đây. Rolanov phải đi ngay với
đoàn xe đầu tiên và sau đó trở thành Tham mưu trưởng binh đoàn Koltsac.
Còn Dakhartsenko thì vết thương chưa lành nên phải ở lại. Maria chăm
sóc người bệnh chu đáo và giữa họ tình yêu đã nảy nở. Sau đó ít lâu họ
tổ chức đám cưới. Maria giờ đây mang tên họ là Maria Dakhartsenko - với
tên tuổi này cô đã đi vào lịch sử của ngành tình báo.
Dakhartsenko, chồng Maria, có một thời gian phục vụ tại quân
đoàn Ba Tư và ông ta có quan hệ khá tin cậy tại đây. Không rõ bằng cách
nào mà Dakhartsenko có được giấy tờ chứng nhận là công dân Ba Tư. Và
thế là Maria cũng có quốc tịch Ba Tư.
Cơ quan an ninh Xô Viết đã tìm ra dấu vết của Maria, vì vậy, họ
tìm cách đi khỏi thành phố Penda. Hai vợ chồng Dakhartsenko với vỏ bọc
là "Công dân Ba Tư" đi tàu thủy đến Astrankhan. Tại đây bạn
bè của đại tá Dakhartsenko đã giúp đỡ họ thu xếp cuộc sống yên ổn.
Nhưng Maria thì vẫn nuôi chí hận thù những người đã cướp trang ấp và
trại nuôi ngựa giống của cô. Khi còn ở Ba Tư vợ chồng Dakhartsenko đã
nghe tin đồn ở miền Nam nước Nga Binh đoàn tình nguyện quân đã được
thành lập. Hai vợ chồng liền tìm đường đi đến đó. ở đây đại tá
Dakhartsenko nhận chức chỉ huy trung đoàn Kavkaz và Maria trở thành cần
vụ của chồng.
Maria vẫn nấu nung mối hận thù với Hồng quân và sự hằn thù ngày
một tăng sau mỗi trận đánh. Toàn bộ thiên bi hùng ca của Binh đoàn tình
nguyện quân đã được ghi lại trong cuộc đời Maria: cuộc hành quân đến
Moscva, những thắng lợi và những thất bại, thảm họa Novorossick, rồi
Crưm, Bắc Tavria và những trận đánh nối đuôi nhau. Nếm mùi gian khổ của
trận mạc Maria ngày càng trở nên hung ác hơn. Với mối hận thù điên dại,
Maria đích thân xử bắn những chiến sĩ Hồng quân bị bắt làm tù binh,
cũng chính Maria đã dùng tiểu liên bắn họ, từ đó cô ta có biệt hiệu là
"Con rồ Maria".
Nhưng tất cả mọi thứ đều có sự kết thúc của nó. Trong một trận
tấn công bằng kỵ binh đại tá Dakhartsenko đã bị thương nặng và chết
ngay trên tay Maria. Và hầu như từ ngôi mộ của chồng Maria lại đi vào
trận đánh như để quên đi cái chết vừa mới xảy ra. Tháng 11 năm 1920,
trong một trận đánh cuối cùng Maria bị thương và bị lạc đồng đội của
trung đoàn, khó khăn lắm mới đến được Kerch và may mắn lên được chuyến
tàu thủy đi Konstantinopol. Sau đó là chuỗi ngày dài thê lương của
những kiều dân và sĩ quan Bạch vệ lưu vong mà Maria phải nếm trải. Mùa
thu năm 1921, cùng với thê đội kỵ binh Maria đặt chân đến Serbi và đến
miền Bắc nước Đức. Tuy còn trẻ nhưng Maria đã góa bụa hai lần. Do quen
biết từ trước, Maria đi lại với thượng uý Georgi Radkovis - cùng
là tình báo viên, và hai người thành vợ chồng. Thượng uý Radkovis, cũng
như vợ, rất căm ghét chế độ mới ở nước Nga và hoàn toàn chịu ảnh hưởng
của Maria. Thời gian này ở Berlin Hội đồng quân chủ tối cao đang hoạt
động mạnh. Một hôm Maria mời Nikolai Evghenievich Marcov, người lãnh
đạo Hội đồng này đến chơi. Marcov cho biết Hội đồng quân chủ tối cao có
một phân hội ở Moscva - đó chính là Tổ chức quân chủ nước Nga Trung
ương - Marcov nhấn mạnh với Maria là nhiệm vụ của họ là phải tin tưởng
vào những điều kiện hoạt động của Hội đồng và giữ liên lạc thường xuyên
với Hội đồng.
Bây giờ thì ai ai cũng biết Tổ chức quân chủ nước Nga trung ương
là một tổ chức huyền thoại do các tình báo viên Treca sáng lập nên và
là một bộ phận cấu thành của Tơrớt đặt dưới sự chỉ đạo của Menzinxki và
Arturzov, bạn chiến đấu của Dzerzinxki, người đứng đầu Treca.
Dzerzinxki còn táo bạo thu hút sang hàng ngũ mình một trong những thành
viên tích cực của Hội đồng quân chủ tối cao - đó là Iacusev và giao nhiệm
vụ cho ông ta làm thủ lĩnh Tổ chức quân chủ nước Nga Trung ương, có
trách nhiệm về tất cả các cuộc tiếp xúc với nước ngoài và nắm cho được
tất cả các kênh liên lạc của các thành viên trong nước với nước ngoài.
Có tin vợ chồng Suls được toàn quyền thay mặt tướng Cutepov đang
trên đường đến Moscva. Vợ chồng Suls có nhiệm vụ phải yết kiến Staunis
- phó thủ lĩnh phụ trách tài chính và là tình báo viên Treca. Qua sự
việc này Arturzov và Staunis thừa hiểu rằng họ đến Moscva với tư cách
là những kiểm tra viên nên phải rất cảnh giác với họ. Tuy nhiên đây lại
là cơ hội thông qua đôi vợ chồng này thiết lập được liên lạc trực tiếp
với tướng Cutepov, hơn nữa còn có thể thâm nhập vào Liên minh quân sự
toàn Nga (ở Paris) do Cutepov đứng đầu.
Vợ chồng Suls đến hơi muộn. Trong hồ sơ của Tơrớt vợ chồng Suls có biệt
hiệu là Hai người cháu. Họ được đón tiếp niềm nở trong vòng tay ôm hôn
của các tình báo viên Treca. Nếu như trước đây khi gặp gỡ tiếp xúc,
Maria nói chuyện có phần chủ động thì nay cô chỉ là trò chơi trong tay những
người khác. Maria lao vào hoạt động cho những vụ phá hoại, khủng bố. Để
ngăn chặn hoạt động của Maria và khống chế Hai người cháu, các tình báo
viên Treca đã tìm cho họ một công việc cốt để giữ chân họ ở một nơi cố
định: thuê cho họ một quầy hàng nhỏ ở chợ Trung Tâm, ở đây họ buôn
đường sacarin đồng thời thực hiện vai trò "hộp thư" tiếp nhận
các túi giấy tờ của nhân viên các sứ quán Ba Lan và Estonia gửi tới cho
Tơrớt và chuyển giao các túi giấy tờ của Tơrớt gửi đi cho các sứ quán.
Ngoài ra, Staunis còn giao cho Maria mật mã hóa thư từ gửi ra nước
ngoài. Công việc này ngốn khá nhiều thời gian của Maria, nhưng mục đích
của phía các tình báo viên Treca không chỉ vô hiệu hóa hoạt động của
Hai người cháu, mà còn bắt đôi vợ chồng này hoạt động đem lại lợi ích
cho Tơrớt.
Đương nhiên mọi việc đã thực thi khiến Hai người cháu đánh giá
Tơrớt dưới con mắt họ là một tổ chức hoạt động bí mật khá mạnh, và rõ
ràng Tơrớt đã gây được ấn tượng đối với họ. Hai người cháu đã báo cáo
về Paris cho tướng Cutepov với nhận xét hài lòng về Tơrớt. Nhưng cũng
trong thời gian này đã nảy sinh dấu hiệu đáng lo ngại: Staunis nghe
được cuộc chuyện trò của hai vợ chồng Suls bàn bạc rằng họ đang chuẩn
bị làm một vụ phá hoại bí mật không cho Tơrớt biết. Còn nhân vật Maria
thì mặc dù có gửi báo cáo về Paris cho tướng Cutepov với nhận xét tốt
về Tơrớt, nhưng thực bụng lại có ý kiến hơi khác. Maria đã nói với
Staunis rằng Tơrớt chỉ tồn tại đến trước khi đảo chính và rằng khi nào
đảo chính xảy ra tướng Cutepov sẽ trở về nước Nga lập lại trật tự. Cũng
trong thời gian đó ở Paris xảy ra những thay đổi quan trọng. Toàn bộ
Liên minh quân sự toàn Nga tập hợp đến 25 nghìn sĩ quan Bạch vệ đều nằm
dưới sự điều khiển của Cutepov. Cho nên vai trò của Maria với tư cách
là người đại diện chính của Cutepov ở Moscva có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Việc Iacusev và Maria được mời đến Paris để đón Cutepov là một
minh chứng. Tháng 7 năm 1925 thông qua "cơ sở" hai người vượt
biên giới Ba Lan và đến Paris mà không gặp trở ngại gì. Iacusev đã được
đại công tước Nikolai Nikolaievich tiếp kiến. ở Paris trở về Maria được
Ban lãnh đạo Tơrớt giao cho nhiệm vụ mới mà không biết mình đang thực
thi nhiệm vụ của Arturzov nằm trong tổ chức Treca.
Số là Ban lãnh đạo Treca toàn Nga và Tổng cục chính trị quốc gia
trực thuộc Hội đồng các Uỷ viên nhân dân Liên Xô có thông qua quyết
định nhử vào bẫy điệp viên Sidney Reilly vốn là kẻ thù từ lâu của chính
quyền Xô Viết, người đã bị kết án xử bắn vì tham gia vào vụ âm mưu lật
đổ chính quyền Xô Viết của Robert Lockhard. Yêu cầu đặt ra là phải vô
hiệu hóa điệp viên này vì Sidney Reilly đã quyết định sẽ tiến hành
những bước đi cụ thể tiến tới hành động khủng bố.
Maria cùng chồng là Radkovis dưới vỏ bọc là vợ chồng
Crasnostanov đi ra nước ngoài một cách hợp pháp. Đến Paris họ gặp Sidney
Reilly và giới thiệu với ông ta hoạt động của Tơrớt như chỗ dựa chủ yếu
của lực lượng phản cách mạng ở Nga. Reilly rất quan tâm đến điều kiện
sử dụng Tơrớt vào mục đích riêng của mình. Tuy nhiên Maria thì lại nói
là Tơrớt không hoạt động khủng bố, nhưng Reilly vẫn quyết định cần phải
có cơ sở và những người tin cậy để có thể thu hút họ vào việc thực hiện
những mục đích do mình đặt ra.
Từ Paris hai vợ chồng Crasnostanov đi sang Phần Lan. Nhân danh
Tơrớt, Maria và chồng liên hệ với cơ quan tình báo Phần Lan và tiến
hành hội đàm với phía Phần Lan về việc tổ chức một "cơ sở" ở
biên giới Phần Lan - Liên Xô. Cùng thời gian ấy người ta thuyết phục
Sidney Reilly đi sang Moscva. Iacusev là người đóng vai trò chính, còn
Maria thì đóng vai phụ: cô lấy kinh nghiệm bản thân ra thuyết phục
Sidney Reilly rằng vượt qua biên giới Liên Xô là chuyện có thể làm được
mà không hề gặp nguy hiểm gì.
Sự việc Reilly biến mất khiến mọi người kinh hoàng.
Ngày 29 tháng 9 năm 1925, Maria điện báo cho Staunis: "Bưu
kiện bị thất lạc. Chúng tôi chờ sự giải thích". Còn trong thư gửi
Iacusev thì cô ta phàn nàn nào là bị nỗi buồn hành hạ, bị hụt hẫng và
bị ám ảnh về chuyện chính cô ta đã phản bội và giết Reilly... rồi cuối
cùng đề nghị chuyển cô ta sang hoạt động nội bộ.
Cuối năm 1925, Vaxili Vitalievich Sulghin, một kẻ theo chủ nghĩa
quân chủ, nguyên là nghị sĩ Đuma quốc gia Nga và là một trong những
người thông qua nghị quyết phế truất Nga hoàng Nicolai Đệ nhị đã quyết
định bí mật đến Liên Xô. Mục đích chuyến đi của Sulghin hoàn toàn mang
tính chất hòa bình: tìm đứa con trai bị mất tích trong cuộc Nội chiến.
Menjinski và Arturzov nhận định rằng chuyến đi của Sulghin dưới sự bảo
trợ của Tơrớt sẽ không có phương hại gì, trái lại lợi ích thì rất lớn.
Một là, sự tồn tại và thực lực của Tổ chức quân chủ nước Nga trung ương
- tức là Tơrớt được khẳng định; hai là, ấn tượng và những suy nghĩ của
Sulghin về những gì ông ta tận mắt chứng kiến ở nước Nga trong những
năm 1925 - 1926 - giai đoạn hưng thịnh nhất của chính sách kinh tế mới
- có thể sẽ làm cho nhiều kiều dân Nga sáng mắt ra trước những đổi thay
tích cực diễn ra ở nước Nga.
Ngày 4 tháng 1 năm 1926, Sulghin đến Moscva và được bố trí ở nhà
nghỉ đông của Hai người cháu ở ngoại ô. Trong cuốn sách nói về chuyến
đi này được Sulghin viết ngay sau khi từ Nga trở về, Sulghin có thay
đổi bối cảnh, họ tên nhân vật và viết: "Tôi được phó thác cho
Maria Dakhartsenko - Suls và chồng của cô như là sự bảo trợ đặc biệt.
Tôi biết Maria khi cô đã bước sang tuổi 33, nhưng ở cô vẫn còn giữ lại
nhiều nét thời xuân sắc... Đó là một phụ nữ có sức chịu đựng dẻo dai,
một phụ nữ có nghị lực tuyệt vời. Maria là trợ lý của Iacusev. Ngoài ra
cô còn làm những việc dính dáng đến "hóa học", tức là làm
hiển thị, in lại những tài liệu giấy tờ mật được viết bằng mực hóa
học... Có nhiều lần tôi phải bàn bạc, nói chuyện cởi mở với Maria. Một
lần Maria nói với tôi: "Tôi già rồi... Tôi cảm thấy đây là những
sức lực cuối cùng của tôi. Tôi đã dốc toàn bộ sức lực của tôi cho
Tơrớt, nếu như Tơrớt giữa đường đứt gánh thì tôi làm sao mà sống
nổi". Maria than vãn với Sulghin về sự lề mề của Iacusev chứng tỏ
Iacusev không muốn tiến hành những hành động khủng bố hoặc những hành
động gây "ồn ào" khác. Dần dần trong con mắt của hai vợ chồng
Maria có một nhân vật nổi lên thay thế - đó là Staunis.
Quan hệ của Maria với Iacusev và Potapov ("thủ lĩnh"
của phái quân sự thuộc Tổ chức quân sự nước Nga Trung ương - tức là
Tơrớt) đã được xác định rõ ràng. Maria coi Iacusev và Potapov là những
người không thể làm lãnh đạo Tơrớt được. Bây giờ chỉ có Cutepov ở Paris
và Staunis ở Moscva mới là mối quan tâm của Maria, hơn nữa mối quan hệ
công việc của cô với Staunis gần đây đã chuyển sang quan hệ tâm tình.
Radkovis chồng cô trở nên nhân vật thừa thứ ba trong quan hệ tay ba
này.
|
|
|
Tháng 9 năm 1926, Maria lại đến Paris, lần này cô đi
cùng với nhà hóa học Vlasov. Vlasov sở dĩ được phái sang Paris vì
Cutepov và kẻ theo chủ nghĩa quân chủ và điên cuồng theo chủ nghĩa
khủng bố Gusov đã đề nghị phải kiểm tra chất khí gửi đến Paris trước khi
sử dụng để khủng bố. Đến Paris, Maria tích cực ủng hộ ý tưởng tiến hành
khủng bố và đề xuất kế hoạch: tiến hành đầu độc hàng loạt các đại biểu
dự Đại hội các Xô Viết trong thời gian phiên họp diễn ra ở Nhà hát lớn,
đồng thời chuẩn bị ở nước ngoài một đội quân gồm 200 cựu sĩ quan để
điều ngay đến Moscva chiếm điện Cremli sau khi vụ khủng bố nổ ra.
Nhưng... hóa ra chính Cutepov đã bị đánh lừa: không hề có chất khí nào
cả. Bù lại Cutepov có dịp bàn với Maria về kế hoạch khủng bố và phái
một nhóm những kẻ khủng bố đến nước Nga. Giờ đây Cutepov đặt quan hệ
trực tiếp với Staunis thông qua Maria và trông cậy vào Staunis. Sau đó
không lâu có ba kẻ khủng bố đến Moscva, nhưng rất may là bọn chúng đều
nằm trong tầm kiểm soát của Tơrớt.
Maria bắt đầu ngờ rằng Iacusev là điệp viên hai mang. Iacusev sợ
rằng những hành động khủng bố sẽ để lại dấu vết mà ông ta thì lại muốn
ngồi chờ giai đoạn khó khăn này qua đi không có vụ khủng bố nào xảy ra,
rồi sau đó sẽ lên nắm chính quyền. Maria thuyết phục bằng được Staunis
phải nghĩ đến chuyện chính ông ta phải trở thành thủ lĩnh của Tơrớt.
Cũng như Georgi Radkovis chồng Maria, Staunis hoàn toàn bị người đàn bà
ghê gớm này chi phối. Maria thú nhận với chồng rằng cô ta đã sống chung
với Staunis, nhưng phân bua đó chẳng qua là Staunis cần thiết đối với
cô ta trong công việc mà thôi. Anh chồng nghe lời vợ nói mà như nuốt
hận nghẹn đắng.
Những sự kiện xảy ra bắt đầu bị đảo lộn. ở Krasnoda, sau thất bại
Staunis mới ngã ngửa người ra là "ông bạn" Dubov của mình đã
được Iacusev báo trước về thất bại này. Té ra Dubov là tình báo viên
Treca? Staunis lên xe tức tốc phóng đến nhà nghỉ của Maria ở ngoại ô
Moscva.
- Maria! - Staunis nói - Cả tôi cả cô, chúng ta chỉ là công cụ
của lão Iacusev. Nó là tình báo Treca! Cả Potapov, cả Dubov nữa! - Lướt
nhìn Maria, Staunis hốt hoảng thực sự: hai mắt long sòng sọc của người
đàn bà điên rồ đang nhìn mình. "Đúng là con mụ phù thủy!" -
Staunis nghĩ bụng.
- Chúng ta phải chuồn ngay lập tức. Bây giờ ta ra thẳng ga xe
lửa đi Leningrad, sau đó đi qua "cơ sở" ở biên giới Liên Xô -
Phần Lan.
Trước khi tháo chạy, Staunis còn kịp để lại trên bàn mẩu thư chia tay
viết rằng Iacusev, Potapov và Dubov đều là những tình báo viên của
Treca, còn họ (Staunis và Maria Dakhartsenko) là nằm ngoài thành phần
Tổng cục chính trị quốc gia trực thuộc Hội đồng các Uỷ viên nhân dân
Liên Xô. Thông qua "cơ sở" ở biên giới Liên Xô - Phần Lan lúc
bấy giờ vẫn còn hoạt động đêm 12 rạng ngày 13 tháng 4 năm 1927 Staunis
và Maria đã sang được đất Phần Lan. Radkovis chồng Maria đã sang đây từ
trước. Tơrớt chấm dứt hoạt động
Để báo thù, Cutepov ra lệnh phát động hoạt động khủng bố và giết
càng nhiều càng tốt tất cả cán bộ Xô Viết. Bắt đầu đợt điều phái những
kẻ khủng bố đến Liên Xô. Trong số này có Georgi Radkovis, chồng Maria.
Đêm mồng 3 rạng ngày 4 tháng 6 năm 1927, Radkovis cùng với một bạn thợ
vượt qua biên giới Phần Lan - Liên Xô. Nhiệm vụ của hai người này là
tìm cho được các tình báo viên Treca lãnh đạo chiến dịch Tơrớt để trả
thù. Đương nhiên nhiệm vụ này đối với họ là khó có thể giải quyết được.
Hai người này cũng không mong là sẽ thực hiện được nhiệm vụ mà chỉ làm
được việc gì dễ nhất có thể làm được: đó là vào buổi tối ngày 6 tháng 6
Radkovis đã ném một quả bom vào Văn phòng cấp thẻ ra vào cơ quan Tổng
cục chính trị quốc gia. Trong lúc hỗn loạn hai kẻ khủng bố chạy thoát
thân, nhưng đến quận Podolsk thì chúng bị rượt đuổi và bị bao vây.
Trong thế cùng không lối thoát Radkovis đã tự bắn chết.
Sau đó Maria, Staunis và một người nữa tên là Voznesenski cũng
vượt biên giới vào Liên Xô. Trước chuyến đi đích thân tướng Cutepov và
điệp báo viên Anh quốc Boys đến tiễn ba người lên đường và giao nhiệm
vụ. Khi chia tay, tướng Cutepov làm dấu thánh giá cho Maria và hôn cô
ta ba lần theo phong tục. Như thế là Maria được giao nhiệm vụ làm nhóm
trưởng. Và một lần nữa ba tên khủng bố do Maria cầm đầu lại có mặt ở
Moscva. Trước đây bọn chúng thường tránh không đi qua khu phố Lubiansk,
còn bây giờ Maria lúc nào cũng kè kè súng lục trong túi quần qua lại
quận này thường xuyên, thậm chí còn đến căn hộ của Iacusev nhưng không
gặp được ông ở Moscva. Sau đó Maria cải trang choàng khăn chéo vuông,
ăn mặc tuềnh toàng quyết định đến khu phố Lubiansk quan sát trụ sở Tổng
cục chính trị quốc gia trực thuộc Hội đồng các Uỷ viên nhân dân Liên
Xô. Không gặp trở ngại nào, Maria lọt vào trong sân của tòa nhà một
cách dễ dàng, trong sân không có người bảo vệ và cô ta vui sướng phát
hiện thấy gian nhà ngang nối liền với trụ sở của Tổng cục cũng không có
người bảo vệ. Maria vội vàng quay trở lại gặp hai người dưới quyền mình
đang chờ cô ta ở nhà ga Leningrad. Họ thuê người đánh xe ngựa chất
những chiếc va ly nặng lên xe đi đến gần trụ sở Tổng cục thì dừng lại.
Maria ngó nhìn vào cổng và tin chắc trong sân toà nhà vẫn như cũ không
có ai canh gác bảo vệ. Nhóm ba người Maria lập tức lao nhanh vào trong
sân trụ sở Tổng cục. Bây giờ chỉ còn cài đạn trái phá trong gian nhà
ngang, dọc theo các góc tường trong nhà thì cài bom cháy, công việc này
phải làm nhanh trong vài phút. Sau đó thì đổ xuống nền nhà một can dầu
hỏa. Bây giờ chỉ còn đốt dây cháy chậm là xong, nhưng không hiểu vì sao
họ còn chần chừ. Đúng lúc đó thì một tiếng quát vang lên:
- Này, ai đang ở ngoài kia? Đứng lại! Đứng lại! Anh em ơi, mùi
dầu hỏa sực lên, tất cả tập hợp nhanh lên!
Quẹt diêm, diêm không cháy. Một que, hai que... đều gãy. Tiếng
quát nghe ngày càng gần hơn...
Trong khi ngoài sân mọi người loại trừ được khả năng cháy nổ thì
bọn khủng bố đã kịp tháo chạy. ở Moscva nhóm Maria không có chỗ trú
chân, cho nên bất luận trường hợp nào cũng phải chạy xa. Nhóm khủng bố
vội vã ra ga Belarus trong khi Tổng cục chính trị quốc gia chưa kịp
giăng lưới vây bắt ngay trong chuyến tàu hỏa đầu tiên đi ra ngoại
thành.
Trên đường tháo chạy Maria và Voznesenski vẫy xe con dừng lại,
dùng súng lục đe dọa lái xe lái theo hướng mà họ muốn. Lái xe từ chối
liền bị bắn chết ngay. Người phụ xe bị bọn khủng bố bắn bị thương cố
lấy hết sức còn lại phá hỏng xe. Lúc bấy giờ hai tên khủng bố đành bỏ
xe con và lẩn trốn trong rừng. Người ta phát hiện thấy dấu vết của hai
kẻ chạy trốn ở vùng ga xép Dretun. Với sự hỗ trợ tích cực của những
người nông dân sở tại một vòng bủa vây đã xiết chặt. Hai tên chạy trốn
đi đường rừng vừa xuất hiện ở lò bánh mì một trung đoàn Hồng quân, thì
bà Rovnova vợ một sĩ quan phát hiện thấy. Bà Rovnova kêu lên cho các
chiến sĩ Hồng quân đồn biên phòng biết liền bị Maria bắn bị thương vào
chân. Nhưng đường dây của bọn điệp báo Anh quốc đã bị phá tan. Trong
lúc bắn nhau với đội kỵ binh tuần tiễu của Hồng quân, Voznesenski bị
bắn chết ngay tại trận. Còn Maria Dakhartsenco - Suls bị thương và chết
sau đó vài tiếng đồng hồ.
|
|
|
|
|
30 - NICOLAI SCOBLIN
(1893 - 1937)
con người và những điệp vụ bí ẩn
Nicolai Vladimirovich Scoblin là một người bí ẩn. Cuộc đời hoạt động
tình báo của ông cho đến nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Ông đã tốt
nghiệp trường võ bị và trường cao đẳng sĩ quan, tham gia Thế chiến thứ
nhất. Năm 1917, là một đại uý, ông đã gia nhập tiểu đoàn thanh niên
xung phong. Cùng đội quân tình nguyện ông tham gia chiến dịch vượt vùng
Bắc cực nổi tiếng. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trung đoàn Cornilov,
một trong bốn trung đoàn chỉ tiếp nhận sĩ quan và được coi là trung
đoàn ưu tú của quân tình nguyện, sau này được phát triển thành sư đoàn.
Tháng 11 năm 1920, khi lực lượng Bạch vệ ở Crưm đang dần dần tan rã,
ông trực tiếp theo dõi các chiến sĩ trung đoàn lên tàu
"Saratov" và là người cuối cùng từ giã quê hương tham gia
phong trào Bạch vệ. Lúc này ông đã mang quân hàm cấp tướng.
Số phận một chiến sĩ đã đưa đẩy ông đến với nữ ca sĩ nổi tiếng
người Nga Nadezda Pleviskaia. Sinh ra tại một làng quê thuộc tỉnh
Cursk, cô gái nông thôn giản dị đã trở thành một nữ ca sĩ nổi tiếng với
các bài hát dân ca của Nga. Đã nhiều lần cô đi biểu diễn cho tầng
lớp quý tộc nghe. Hoàng đế Nicolai II rất ngưỡng mộ tài năng của cô.
Sau khi nội chiến kết thúc, Nadezda Pleviskaia đến với Hồng quân và cô
vẫn tiếp tục làm nghề ca hát. Khi còn chiến tranh, trong một lần đi lưu
diễn, Nadezda rơi vào tay Bạch vệ. Đại tá Scoblin làm chỉ huy đã đem
lòng yêu mến cô ca sĩ và cũng được cô đáp lại. Nadezda hơn Scoblin 12
tuổi, nhưng điều này không hề ảnh hưởng tới cuộc hôn nhân đến đầu bạc
răng long của họ.
Các tác giả nước ngoài khẳng định rằng khi bị bắt Nadezda đã làm
việc cho Uỷ ban quân sự đặc biệt rồi và cô được giao nhiệm vụ vào hậu
phương của quân Bạch vệ để lôi kéo Scoblin. Nhưng khẳng định này hoàn
toàn mâu thuẫn với tư liệu và lôgic của các sự kiện.
Cùng với đám tàn quân Bạch vệ, Scoblin và Pleviskaia lúc đầu ở
Gallipoli, sau đó sang Paris. Scoblin buộc phải trút bỏ quân phục. Giờ
đây trông ông nhỏ bé và có vẻ không sánh đôi với người vợ xinh đẹp. Tuy
nhiên, đã từng là chỉ huy nên ông dễ dàng tập hợp các sĩ quan của trung
đoàn Corlilov hiện đang ở Paris. Tất cả họ đều tham gia tổ chức của
giới sĩ quan Nga lưu vong có tên là "Liên minh quân sự toàn
Nga". Về mặt hình thức tổ chức này mang tính từ thiện. Nhiệm vụ
của nó là giúp đỡ các gia đình sĩ quan gặp khó khăn. Song thực tế đây
là một tổ chức Bạch vệ phản động, sẵn sàng can thiệp chống đối nước Nga
Xô Viết. Tổ chức này có quan hệ rộng rãi khắp châu Âu, có cơ quan tình
báo riêng, tự mở trường thiếu sinh quân, triệu tập hội họp. Scoblin
được lãnh đạo, tướng Cutepov và tướng Miller, cùng các sĩ quan khác
trong tổ chức yêu quý và kính nể.
Ban lãnh đạo Uỷ ban quân sự đặc biệt rất lo ngại tổ chức Bạch vệ
này. Đây không chỉ là kẻ thù tư tưởng mà chúng còn có thể hoạt động
tình báo, đào tạo sĩ quan và tiến hành khủng bố. Bởi vậy vào những năm
1920-1930, chiến đấu chống lực lượng Bạch vệ lưu vong ở nước ngoài là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước Xô Viết. Mùa thu năm
1930, một tình báo Bộ Ngoại giao Piot'r Georgeievich Covalski được giao
nhiệm vụ sang Pháp chiêu nạp Scoblin và Pleviskaia. Anh là bạn và là
đồng đội với Scoblin khi hai người cùng tham gia tiểu đoàn thanh niên
xung phong năm 1917. Covalski có mang theo một bức thư "kêu
gọi" của anh trai Scoblin. Piot'r đã gặp gỡ, nói chuyện với hai vợ
chồng Scoblin, lúc với cả hai, lúc riêng từng người. Cuối cùng họ đã
nhất trí sẽ làm việc cho tình báo Liên Xô và đã ký cam kết hai lần:
ngày 10 tháng 9 năm 1930 và ngày 21 tháng 1 năm 1931. Theo những cam
kết này thì bí danh của họ là "Phermer" và
"Phermersa" và mỗi tháng họ được nhận 200 đô la. Những báo
cáo đầu tiên của Scoblin không hấp dẫn. Ban lãnh đạo Bộ Ngoại giao đã e
ngại rằng liệu anh ta có phải là cái giá đỡ không vì việc chiêu mộ hai
vợ chồng này diễn ra quá dễ dàng, quá thuận buồm xuôi gió. Nhưng mối
nghi ngờ lập tức tiêu biến khi có ý kiến lập luận rằng Scoblin và
Pleviskaia đã chấp thuận lời đề nghị một cách chân thành bởi cuộc trao
đổi được tiến hành đúng lúc sau khi hai vợ chồng họ bị thất bại nặng nề
về tài chính. Vả lại, việc trở về Nga hứa hẹn sự hồi sinh danh tiếng
cho Pleviskaia.
Sau vài lần trao đổi, Scoblin và Pleviskaia bắt đầu cung cấp
những tài liệu có giá trị, chẳng hạn bản sao chép kế hoạch của
"Liên minh toàn quân Nga" trong trường hợp xảy ra chiến tranh
với Liên bang Xô Viết và nhiều tài liệu nội bộ khác của tổ chức này,
trong đó có ba báo cáo về kế hoạch tổng động viên các lực lượng Bạch vệ
toàn châu Âu. Công tác kiểm tra cho thấy Scoblin và Pleviskaia
phục vụ trung thành cho tình báo Liên Xô. Dựa vào những tài liệu
Scoblin và Pleviskaia cung cấp, trong vòng 4 năm Uỷ ban quân sự đặc
biệt đã tóm gọn 17 gián điệp được tung vào Liên Xô, phát hiện 11 căn
nhà hội họp bí mật ở Moscva, Leningrad và ngoại Cavkaz.
Scoblin và Pleviskaia đã trở thành nguồn cung cấp thông tin
chính. Ngoài ra, Scoblin còn xoá bỏ được nhiều đội quân chiến đấu do
Satinov và tướng Fok gây dựng, tiêu diệt ý đồ tổ chức một đơn vị khủng
bố, tố giác một gián điệp do Pháp gài đã làm việc trong tình báo Liên
Xô 11 tháng, đồng thời ông cũng kịp thông báo cho tình báo Liên Xô về
một tổ chức có ý định sát hại Litvinov trong chuyến đi thăm Thuỵ Sĩ của
ông này.
Nhiều cơ sở bị bại lộ đã buộc bộ phận phản gián của "Liên
minh toàn quân Nga" tiến hành điều tra. Chúng đã lập một danh sách
những kẻ tình nghi. Scoblin đã bị chúng nghi ngờ. Bằng thái độ khôn
khéo và nhờ sự trợ giúp của tình báo Liên Xô, Scoblin đã giải toả được
sự hoài nghi, thậm chí ban lãnh đạo "Liên minh toàn quân
Nga" còn bênh vực anh. Thời gian này người đứng đầu "Liên
minh toàn quân Nga" là tướng Miller càng ngày càng thể hiện rõ ý
định hợp tác với Đảng quốc xã. Ban lãnh đạo mới của Uỷ ban quân sự đặc
biệt quyết định phế bỏ Miller, đưa Scoblin vào vị trí đó.
Biết được ý định muốn bắt tay với phát xít của Miller, ngày 22
tháng 9 năm 1937, Scoblin đề xuất để Miller đi gặp đại diện phía Đức.
Miller đồng ý, nhưng hắn thấy có gì đó chưa yên tâm nên trước khi đi đã
để lại một bức thư. Nội dung bức thư như sau: "12:30 trưa nay tôi
có một cuộc hẹn với Scoblin ở góc phố Jasmen và Raphe. Scoblin sẽ đưa
tôi đi gặp tuỳ viên quân sự và một quan chức đại sứ Đức. Cả hai người
này đều nói tiếng Nga tốt. Cuộc hẹn này được thu xếp theo sáng kiến của
Scoblin. Có thể đây là một cái bẫy. Bởi vậy tôi để lại bức thư này đề
phòng chuyện xấu xảy ra. 22 tháng 9 năm 1937. Trung tướng Miller".
Miller đã không trở về sau lần gặp Scoblin đó. Ông ta bị nhân viên cơ
quan phản gián mật nước ngoài bắt cóc. Họ đánh thuốc mê, sau đó cho ông
ta vào một cái thùng gỗ to, đem lên tàu chở về Leningrad. Miller bị
giam trong tù dưới một cái tên khác. Tháng 5 năm 1939, ông ta bị đưa ra
xét xử và bị tử hình. Sau khi giao tận tay Miller cho những người thực
hiện chiến dịch, Scoblin trở về "Liên minh quân sự toàn Nga".
Tại đó chúng đưa cho ông bức thư để lại của Miller và hỏi Miller hiện
giờ ở đâu. Biết mình đã bại lộ, Scoblin lao như tên ra khỏi phòng nơi
ông vừa nói chuyện, và... biến mất. Sau đó không bao giờ người ta gặp
ông ở đâu nữa. Có tin rằng ông đã chạy sang Tây Ban Nha và hy sinh
trong khi Barcelona bị ném bom.
Sau các vụ tướng Cutepov bị tình báo Liên Xô bắt cóc, bộ trưởng
ngoại giao và vua Nam Tư bị sát hại, thủ tướng Pháp bị một kiều dân Nga
tên là Gorlunov hạ sát, các nhà cầm quyền quyết định cho tìm bắt
Nadezda Pleviskaia. Bà bị kết tội tòng phạm và tạo ra những bằng chứng
ngoại phạm giả cho chồng. Tháng 12 năm 1937 bà bị kết án 20 năm tù và
năm 1940 đã chết trong nhà tù.
Về sự nghiệp của Scoblin còn nhiều những câu chuyện khác. Đó là
chuyện người ta cho rằng Scoblin đã gây ra cái chết cho Tukhatrevski.
Những tờ báo của kiều dân đưa tin Scoblin đã thừa cơ Tukhatrevski sang
Paris để hạ toàn bộ uy tín của vị tướng này theo ý của Stalin. Scoblin hiểu
rằng cùng với Tukhatrevski màu sắc của Hồng quân sẽ phai đi. Hình như
đây là điều mà Scoblin mong muốn. Là điệp viên Đức, Scoblin sang Berlin
để chia sẻ những suy nghĩ này của mình với Haydrikh. Hai người đã nhanh
chóng hiểu nhau và cùng làm ra những tài liệu giả mạo. Scoblin đã nhận
được 50 nghìn mark Đức. Hình như cơ quan phản gián Liên Xô ở Berlin
biết được kế hoạch này và đã ủng hộ Scoblin. Người ta đã chuyển những
tài liệu giả này tới tay Stalin. Tukhatrevski bị đưa ra toà và bị xử
bắn, theo sau ông là gần 35 nghìn các sĩ quan chỉ huy Hồng quân cũng bị
đưa ra pháp trường. Có vẻ như ý tưởng của Scoblin, một con người căm
thù chế độ Xô Viết và quyết tâm làm hại chính quyền này, đã được thực
hiện. Một số nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng tướng Miller cũng bị
lôi kéo vào vụ này.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]