Chương 125 & 126 & 127
& 128
- Còn bao
lâu nữa? - tiếng Jabba nói từ phía bục.
Không một
kĩ thuật viên nào lên tiếng. Tất cả đều đang đứng yên, mắt không rời
khỏi VR.
Tấm lá chắn cuối cùng đang trở lên mỏng manh một cách đáng sợ.
Cách đó
không xa, Susan và Soshi đang miệt mài với những kết quả tìm kiếm trên
mạng.
- Các phòng
thí nghiệm cấm - Susan hỏi.
- Chúng là
cái gì vậy?
Soshi nhún
vai và nói:
- Cô có
muốn vào đây không?
- Được đấy
- cô nói.
- 647 tài
liệu tham khảo về các loại bom Uranium, Plutonium, và bom nguyên tử.
Soshi nhấn
chuột vào liên kết. Một khuyến cáo của trang web hiện lên.
Những thông
tin trong tệp tin này dủ được sử dựng cho các mục đích chuyên môn.
Bất kì ai
không có chuyên môn tiến hành việc chế tạo các thiết bị miêu tả trong tài
liệu này sẽ
có nguy cơ bị nhiễm độc phóng xạ hoặc tự phát nổ.
- Tự phát
nổ ư? Chúa ơi! - Soshi nói.
Ông Fontain
nói chen ngang từ phía sau:
- Bắt đầu
tìm đi! Xem xem chúng ta có gì nào?
Soshi soi
mắt vào từng dòng tài liệu. Cô đảo qua một công thức thực hiện urea
nitrate,
một chất có sức công phá nạnh hơn thuốc nổ dynamite đến 10 lần. Những
dòng thông
tin hiện lên đầy màn hình y như một ma trận.
- Pluton và
Urani - Jabba nhắc lại.
- Hãy tập
trung vào chỗ đó.
- Quay lại
đi - Susan yêu cầu. Tài liệu dài quá. Xem phần mục lục đi.
Soshi nhấn
chuột để quay lại trang mục lục.
I. Cấu tạo
của bom nguyên từ A) Dụng cụ đo độ cao B) Lỗ thoát khí C) Đầu phát
nổ D) Khối
thuốc nổ phụ E) Bộ làm chệch hướng Nơtron F) Urani Pluton G) Vỏ
chì H) Chốt
an toàn II. Phân rã hạt nhân/hợp nhất hạt nhân A) Phân rã hạt nhân
(Bom A) hợp
nhất hạt nhân (Bom H) B) U-235, U-238, và Pluton Lịch sử phát triển các loại vũ
khí hạt nhân A) Quá trình phát triển (Dự án Manhattan) B) Các vụ nổ 1)
Hiroshima
2) Nagasaki 3) Hậu quả phụ của các vụ nổ hạt nhân 4) Phạm vi phá
huỷ… - Phần
hai! - Susan hét lên - Urani và pluton? Vào đó đi!
Tất cả mọi
người chờ đợi trong khi Soshi quay ra tìm phần thích hợp.
- Đây rồi -
cô nói - Dừng lại nào - Cô nhanh chóng lướt qua các dữ liệu.
- Có rất
nhiều thông tin ở đây. Cả một biểu đồ rất chi tiết. Làm sao chúng ta tìm
được điểm
khác biệt mà chúng ta đang cần đây? Một cái thì xảy ra một cách tự
nhiên, một
cái là do con người tạo ra. Plutonium đã được phát hiện ra lần đầu tiên
bởi….
- Một con
số - Jabba nhắc.
- Chúng ta
cần một con số.
Susan xem
lại thông điệp của Tankado. Điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa các nguyên
tố… điểm
khác biệt giữa…chúng ta cần một con số. Khoan đã! - cô nói - Từ "khác
biệt"
có rất nhiều nghĩa. Chúng ta cần một con số - do vậy chúng ta phải chú ý đến
toán học.
Đây chính là một trò chơi chữ khác của Tankado - từ "khác biệt" còn
có
nghĩa là
phép trừ.
- Phải rồi!
- Từ màn hình phía trên đầu Becker cũng đồng ý.
- Có thể
các nguyên tố khác nhau ở số lượng proton hoặc một cái gì đó chăng? Nếu
ta trừ….
- Cậu ta
đúng rồi đấy! - Jabba nói với Soshi.
- Có bất kì
con số nào trên cái biểu đồ đó không? Số Proton? Các chu kì nửa phân
rã? Bất cứ
cái gì chứng ta có thể thực hiện được phép trừ.
- Còn 3
phút! - một chuyên viên lên tiếng.
- Còn về
khối lượng trên tớì hạn thì sao - Soshi đánh bạo hỏi.
- Nó cho
biết khối lượng trên tới hạn của Pluton là 35.2 pound.
- Đúng rồi!
- Jabba nói.
- Kiểm tra
Urani đi! Khối lượng trên tới hạn của Urani là bao nhiêu?
Soshi tìm
kiếm.
- Um… 110
pound.
- Một trăm
mười - Jabba bỗng trở lên hi vọng.
- 110 trừ
35.2 còn bao nhiêu?
- Bẩy mươi
tư phẩy tám - Susan bật ngón tay. - Nhưng tôi không nghĩ đó sẽ là… - Đừng có
cãi lởi tôi - Jabba ra lệnh, chau mày
nhìn về
phía bàn phím.
- Chắc chắn
đó là chìa khoá mật mã của chứng ta! Hiệu số của hai khối lượng tới
hạn! Bảy
mươi tư phẩy năm!
Bình tĩnh
nào - Susan lên tiếng, đưa mắt về phía nhìn màn hình qua vai của Soshi.
- Còn nhiều
thứ khác ở đây. Khối lượng nguyên tử tổng số Neutron, các kĩ thuật
chiết - Cô
đưa mắt lướt qua biểu đồ.
Uram sẽ
tách ra thành Bari và Kripton, còn Pluton thì không như vậy. Urani có 92
proton và
146 neutron, nhưng….
- Chúng ta
cần một điểm khác biệt dễ nhận thấy - Midge xen vào.
- Đầu mối
của chúng ta là "điểm khác biệt cơ bản giữa 2 nguyên tố".
- Lạy chúa
Jesus! - Jabba rủa - Làm sao chúng ta có thể biết Tankado coi cái gì là
"điểm
khác biệt căn bản" cơ chứ?
David ngắt
lời. Thực ra thì manh mối mà chúng ta cần bám theo là "điểm khác biệt
rõ rệt nhất
chứ không phải là "điểm khác biệt đầu tiên".
Lời gợi ý
của David lập tức làm loé lên trong Susan một ý tưởng.
- Rõ rệt
nhất! - cô reo lên.
- Rõ rệt
nhất! - Cô đảo người về phía Jabba.
Mật mã chìa
khoá là một số nguyên tố! Hãy bám vào điểm này! Rất hợp lý đấy!
Jabba ngay
lập tức nhận ra rằng Susan đã đúng. Ensei Tankado đã tạo dựng sự
nghiệp của
mình bằng các số nguyên tố. Nền tảng cơ bản nhất của tất cả các thuật
toán mã hoá
chính là các số nguyên tố những số không chia hết cho bất kỳ số nào
ngoài số 1
và chính nó. Số nguyên tố được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực mật
mã bởi với,
phương pháp đặc trưng là phân tích số thành các cây thừa số, các máy
tính không
thể đoán ra được các mật mã là gì.
Soshi chen
vào.
- Đứng rồi!
Tuyệt quá! Các số nguyên đóng vai trò rất quan trọng trong văn hoá
Nhật Bản!
Các bài thơ Haiku. Mỗi bài ba dòng, mỗi dòng lại lần lượt có năm, bảy
và năm âm
tiết. Tất cả đều là số nguyên tố. Toàn bộ các ngôi đền ở Nhật Bản cũng
đều có….
- Thôi đủ
rồi! Jabba nói - Cứ giả sử mật mã chìa khoá là một số nguyên thì có gì
khác đâu!
Có vô số khả năng như thế! Susan biết Jabba nói đúng. Vì dãy số chạy đến tận
dương vô cùng nên chỉ cần mở
rộng khoảng
sẵn có thêm một chút là ta lại có thêm một số nguyên tố mới. Trong
khoảng từ 0
đến 1 triệu đã có tới hơn 70.0000 khả năng. Như vậy tất cả đều phụ
thuộc vào
việc con số nguyên tố mà Tankado sử dụng lớn đến mức nào. Nó càng
lớn thì
việc lần ra nó sẽ càng vất vả hơn.
- Nó sẽ là
một số lượng khổng lồ - Jabba làu bàu - Dù Tankado có chọn con số nào
thì nó cũng
sẽ là một thảm hoạ.
Tiếng báo
hiệu vang lên từ phía sau căn phòng.
- Còn 2
phút!
Jabba nhìn
chằm chằm vào VR trong tâm trạng hãi hùng. Lớp bảo vệ cuối cùng đã
bắt đầu sụp
đổ. Các kĩ thuật viên đi lại nhốn nháo khắp nơi.
Có điều gì
đó trong con người Susan mách bảo cho cô biết họ đã gần tới đích.
- Chúng ta
sẽ làm được điều này! - Cô tuyên bố với giọng quả quyết Trong tất các
điểm khác
biệt giữa urani và pluton tôi cá rằng sẽ chỉ có một điểm duy nhất là số
nguyên! Đây
chính là đầu mối cuối cùng của chúng ta. Con số chúng ta đang tìm là
một số
nguyên!
Jabba nhìn
vào biểu đồ về Urani/Pluton trên máy vi tính rồi vung tay chán nản.
- Có đến cả
trăm mục! Chứng ta sẽ không thể thực hiện tất cả các phép trừ và kiểm
tra xem có
phải là số nguyên không!
- Rất nhiều
mục không ở dạng số. - Susan khích lệ - Chúng ta có thể bỏ qua chúng.
Urani thì
có trong tự nhiên, còn pluton thì do con người tạo ra. Urani sử dụng một
ngòi nổ
bằng nòng súng còn Plutonium sử dụng vụ nổ kích hoạt từ bên trong.
Chúng không
phải là các con số, do vậy chúng không thích hợp!
- Làm đi -
Ông Fontaine ra lệnh. Trên màn hình lúc này bức tường cuối cùng giờ
chỉ còn
mỏng như vỏ trứng.
Jabba nhíu
mày.
- Được
thôi, điều sẽ này chẳng đi đến đâu cả. Bắt đầu nào. Tôi sẽ chọn một phần từ
đầu tiên.
Susan, phần giữa là của cô. Còn những người khác thì chia nhau phần còn
lại. Chứng
ta đang tìm một điểm khác biệt rõ rệt nhất.
Chỉ ngay
sau vài giây họ đã hiểu rõ việc mình đang làm là không tưởng. Các con số
thật khổng
lồ và nhiều khi chứng không đồng nhất về bản chất.
- Chuyện
này chẳng khác gì lấy táo so với cam, lấy các tia gamma để so sánh với các xung
điện từ. Lấy những hạt nhân có thể phân rã so với những cái không thể
phân rã.
Một số là nguyên chất, số khác lại là tạp chất Đúng là một mớ hổ lốn!
- Chắc chắn
nó phải nằm ở đây - Susan kiên quyết.
- Chúng ta
cần phải nghĩ. Có một số điểm khác biệt giữa pluton và urani mà chúng
ta đã bỏ
qua! Một điểm nào đó đơn giản thôi!
- Ah…mấy cu
cậu đây rồi ư? Soshi nói. Cô mở tiếp một cửa số tài liệu thứ nữa và
đọc lướt
tiếp qua phần còn lại trong tài liệu của phòng thí nghiệm cấm.
- Cái gì
vậy - Ông Fontaine lên tiếng - Tìm thấy cái gì đó à?
- Ừ, có vẻ
như vậy! - giọng cô có vẻ lo lắng.
- Mọi người
có hiểu tại sao tôi lại nói rằng quả bom thả xuống Nagasaki là một quả
bom pluton
không?
- Có chứ!
-, tất cả đồng thanh.
- Ôi -
Soshi hít một hơi thật sâu - Có vẻ như tôi đã nhầm ở một chỗ nào đó.
- Cái gì!
Sabba tức tối.
- Vậy cái
chúng ta vừa tìm kiếm là sai à?
Soshi chỉ
lên màn hình. Họ xúm lại và cùng đọc dòng chữ:
Người ta
người thường nghĩ rằng quả bom tại Nagasaki là bom pluton nhưng thực
ra nó cũng
sử dụng Urani giống như quả bom tại Hiroshima.
- Nhưng… -
Susan hổn hển thở - Nếu cả hai đều là urani thì làm sao hắn lại bảo
chúng ta
tìm ra sự khác biệt giữa chúng?
- Tankado
có thể đã lầm - Ông Fontaine nói bừa.
- Có thể
hắn không biết hai trái bom đó đều như nhau cả thôi.
- Không thể
có chuyện đó được - Susan thở dài. Anh ta tàn phế cũng vì những quả
bom đó nên
chắc chắn phải hiểu rất rõ về chúng.
Chương
126
- Còn một
phút!
Jabba không
rời mắt khỏi hệ thống thực tại ảo.
- Hệ thống
bảo mật PEM đang bị phá huỷ rất nhanh. Chúng ta chỉ còn lớp bảo vệ
cuối cùng.
Một lũ tin tặc đang chầu chực ở ngoài chờ xâm nhập kia kìa.
- Tất cả
tập trung vào việc nào! - Ông Fontaine ra lệnh.
Soshi ngồi
trước màn hình và đọc to.
- …Quả bom
tại Nagasaki không sử dụng pluton mà sử dụng một nguyên tố nhân tạo - đồng vị
bão hoà neutron của urani 238.
- Chết
tiệt! - Brinkerhoff bực dọc - Cả hai quả bom đều sử dụng urani. Các nguyên
tố sử dụng
trong quả bom tại Hiroshima và Nagasaki đều là Urani. Chẳng có gì
khác nhau
cả!
- Chúng ta
tiêu rồi - Midge rên rỉ.
- Khoan -
Susan nói.
- Xem lại
phần cuối đi!
Soshi đọc
lại: "… nguyên tố nhân tạo, đồng vị bão hoà neutron của urani 238".
- 238 -
Susan kêu lên - Chúng ta vừa thấy cái gì đó nói quả bom tại Hiroshima sử
dụng một
đồng vị khác của urani phải không?
Tất cả lúng
túng nhìn nhau. Soshi nhanh chóng trở lại đoạn văn bản và phát hiện ra
dấu vết.
- Phải! Nó
nói rằng quả bom tại Hiroshima sử dụng một đồng vị khác của Urani!
Midge há
hốc miệng ra trong kinh ngạc.
- Cả hai
đều là urani - nhưng khác loại!
Jabba chúi
mắt vào màn hình và kinh ngạc không kém:
- Cả hai
cùng là urani à? Đúng là táo với táo rồi. Tuyệt quá.
- Hai đồng
vị này khác nhau ở chỗ nào - Ông Fontaine hỏi.
- Chắc chắn
đó phải là một cái gì đó rất cơ bản.
Soshi rà
trên khắp đoạn văn bản.
- Bình tĩnh
nào… đang tìm đây, được rồi….
- Bốn mươi
lăm giây! - một giọng nói vang lên.
Susan nhìn
lên. Tấm lá chắn cuối cùng lúc này đã gần như tan biến.
- Đây rồi!
Soshi hét lên.
- Đọc đi! -
Jabba toát mồ hôi.
- Điểm khác
biệt là gì? Chắc chắn giữa chúng phải có điểm khác biệt nào đó!
- Đúng vậy!
- Soshi chỉ tay lên màn hình vi tính.
- Nhìn này!
Tất cả chúi
đầu vào dòng chữ… hai quả bom sử dụng hai nguyên liệu khác nhau…
với các
tính chất hoá học hoàn toàn giống nhau. Không một phương pháp chiết hoá
thông
thường nào có thể phân biệt được 2 đồng vị này. Ngoại trừ một sự khác biệt
nhỏ về khối
lượng, chúng giống nhau một cách hoàn hảo. - Khối lượng nguyên tử - Jabba nói,
giọng không giấu được vẻ phấn khích.
- Chính là
nó! Sự khác biệt duy nhất chính là khối lượng nguyên tử của chúng! Đó
chính là
chìa khoá của chúng ta! Cho tôi biết khối lượng của chúng! Chúng ta sẽ
tìm hiệu số
của chúng!
- Khoan nào
- Soshi nói, kéo chuột lên phần trên văn bản.
- Hình như
là đây rồi! Phải rồi!
Tất cả cùng
lướt qua dòng chữ trên màn hình. sự khác biệt về khối lượng giữa
chúng rất
nhỏ… phải dùng đến phương pháp khuếch tán ánh sáng ở dạng khí mới
phân tách
được chúng… 10,032498x10?134 và 19,39484x10?23.* - Chúng đây rồi!
- Jabba kêu
lên.
- Đúng rồi!
Đó chính là khối lượng nguyên tử của chúng!
- Còn ba
mươi giây!
- Bắt đầu
nào - Ông Fontaine thì thào.
- Tìm hiệu
số của chúng đi! Mau lên!
Jabba cầm
chiếc máy tính trong lòng bàn tay và bắt đầu bấm.
- Cái dấu
hoa thị kia nghĩa là gì vậy - Susan hỏi - Đằng sau các con số có một dấu
hoa thị!
Nnưng Jabba
không để ý đến câu hỏi của cô. Ông bấm chiếc máy tính một cách
điên loạn.
- Cẩn thận
đó! - Soshi giục.
- Chứng ta
cần một con số chính xác.
- Dấu hoa
thị - Susan nhắc lại.
- Có một
phần chú thích ở đây.
Soshi click
chuột vào phần cuối trang.
Susan đọc
phần chú thích cho dấu hoa thị. Mặt cô tái nhợt.
- Ôi lạy
Chúa.
Jabba ngước
lên. Ông hỏi:
- Chuyện gì
vậy?
Tất cả
hướng mắt vào màn hình rồi thở một cách bất lực. Phần chú thích nhỏ li ti
ghi: ** Tỷ
lệ sai số là 12%. Con số các phòng thí nghiệm khác nhau đưa ra có thể
có chênh
lệch ở mức độ nhỏ.
Chương
127 Sự im lặng đáng sợ đột nhiên bao
trùm khắp căn phòng. Không khí lúc này
chẳng khác
gì cảnh mọi người ngắm nhật thực hay một trận phun trào của núi lửa -
họ đang
đứng trước một chuỗi các sự kiện lạ nằm ngoài tầm kiểm soát của mình.
Thời gian
nặng nhọc trôi từng bước.
- Chúng ta
tiêu rồi! - một kĩ thuật viên kêu lên - Những kẻ xâm nhập đang tiến vào,
trên tất cả
các đường truyền.
Trên màn
hình phía góc trái đằng xa, David cùng hai đặc vụ Smith và Coliander
thẫn thờ
nhìn vào camera của mình.
Trên hệ
thống thực tại ảo, bức tường lửa cuối cùng giờ chỉ còn mong manh như tờ
giấy. Một
màu đen kịt bao trùm xung quanh, hàng trăm đường kết nối đang nhăm
nhe tiến
vào. Bên phải hệ thống là hình ảnh của Tankado. Những đoạn phim về
khoảnh khắc
cuối cùng của hắn được chiếu đi chiếu lại. Vẫn một vẻ mặt tuyệt vọng
- vẫn các
ngón tay đang cố rướn ra với chiếc nhẫn lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Susan chăm
chú nhìn những hình ảnh chập chờn của đoạn phim. Cô nhìn thẳng vào
mắt Tankado
- dường như trong đó đang tràn đầy sự hối hận. Chính anh ta cũng
chưa bao
giờ muốn đẩy mọi chuyện đi xa đến mức này, cô tự nhủ với mình. Anh ta
muốn cứu
chúng ta.
Tankado
hướng ngón tay về phía trước, giơ chiếc nhẫn lên trước mắt mọi người.
Anh ta cố
gắng nói ra một điều gì đó nhưng không thể. Anh chỉ có thể giữ ngón tay
mình hướng
ra phía trước.
Tại
Seville, tâm trí Becker cũng đang rối bởi. Anh lẩm bẩm một mình.
- Họ nói
hai đồng vị này là gì nhỉ? U238 và U… - Anh buông một tiếng thở dài
nặng nhọc -
nó chẳng có nghĩa gì cả. Anh là một giáo viên ngôn ngữ chứ không
phải là một
nhà hoá học.
Những kẻ
xâm nhập đang chuẩn bị tiến vào!
- Chúa ơi!
- Jabba thất vọng kêu lên.
- Hai cái
đồng vị chết tiệt này khác nhau ở điểm nào vậy? Không có ai biết chúng
khác nhau ở
chỗ quái quỷ nào à?
Không một
ai đáp lại. Các nhân viên kĩ thuật trong phòng đứng như trời trồng, bất
lực nhìn
lên hệ thống thực tại ảo. Jabba quay trở lại màn hình máy tính rồi giơ tay
thất vọng.
- Lúc cần
lại chẳng thấy thằng cha vật lý hạt nhân quái nào! Susan vẫn không rời mắt khỏi đoạn phim trên
màn hình gắn trên tường. Cô hiểu
mọi chuyện
đã kết thúc. Cô đã xem đi xem lại đoạn phim quay chậm cảnh Tankado
hấp hối.
Hắn đang cố nói, nhưng những từ ngữ như bị nghẹn lại, hắn đưa bàn tay
tật nguyền
của mình ra…cố gắng diễn đạt một điều gì đó. Anh ta đang cố gắng cứu
ngân hàng
dữ liệu, Susan tự nhủ. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ biết phải làm
việc đó như
thế nào.
- Những kẻ
xâm nhập đã vào được bên trong!
Jabba nhìn
chằm chằm vào màn hình.
- Tiêu thật
rồi!
Mồ hôi túa
ra trên mặt ông.
Trên màn
hình trung tâm, phần sót lại của bức tường lửa cuối cùng đã gần như biến
mất. Tập
hợp những đường thẳng màu đen bao quanh trung tâm màn hình đang mờ
dần và run
rẩy trong cơn hấp hối. Midge ngoảnh mặt đi chỗ khác. Ông Fontaine
đứng bất
động, mắt nhìn thẳng về phía trước còn Brinkerhoff trông như người sắp
phát ốm.
- Còn mười
giây!
Susan không
rời mắt khỏi hình ảnh Tankado. Sự tuyệt vọng và hối tiếc. Lần nào
cũng vậy,
bàn tay anh ta với ra giơ chiếc nhẫn lấp lánh trên những ngón tay dị dạng
đang co
quắp trước mặt những con người không quen biết. Anh ta muốn cho họ
biết cái gì
đó.
Nhưng là
cái gì mới được chứ Ở màn hình phía trên, David đang miên man suy
nghĩ.
- Sự khác
biệt - anh lẩm bấm.
- Sự khác
biệt giữa U238 và U235. Đó chắc hẳn chỉ là một điều hết sức đơn giản.
Một kĩ
thuật viên bắt đầu đếm những giây cuối cùng.
- Năm! bốn!
ba!
Không đến
một phần mười giây, cái từ đó được truyền tới Tây Ban Nha.
- Ba…ba.
David
Becker giật nẩy mình như bị trúng đạn gây tê. Anh bình tĩnh nghĩ lại.
Ba…ba…ba.
238 trừ đi 235! Điểm khác biệt chính là con số 3! Anh chậm rãi với
lấy chiếc
microphone.
Cũng chính
ngay lúc đó, Susan đang tập trung vào bàn tay của Tankado. Bất chợt, cô nhìn
qua chiếc nhẫn… qua những chi tiết chạm khắc trên chiếc nhẫn… rồi dừng
ở những
ngón tay của hắn.
Ba ngón
tay. Không phải là chiếc nhẫn. Không phải là phần thịt trên bàn tay.
Không phải
Tankado đang nói với họ. Anh ta đang chỉ cho họ. Anh ta đang tiết lộ
bí mật của
mình, tiết lộ mã số chìa khoá - và cầu xin người ta hiểu được mình…
cầu cho bí
mật của anh ta đến với NSA đúng lúc.
- Số 3 -
Susan kinh ngạc thì thầm.
- Số 3! -
Từ Tây Ban Nha, Becker đồng thời hét lên.
Tuy nhiên
trong lúc hỗn loạn đó, chẳng có ai buồn nghe cả.
- Chúng ta
tiêu rồi! - một nhân viên kĩ thuật hét lên.
VR bắt đầu
nháy loạn xạ khi trung tâm dữ liệu bắt đầu không thể ngăn được các kết
nối xâm
nhập ồ ạt vào. Còi báo động rú lên phía trên đầu.
- Dữ liệu
tràn ra ngoài!
- Chúng
đang xâm nhập tốc độ cao vào tất cả các khu vực!
Nhanh như
cắt, Susan xoay người về phía bàn phím của Jabba.
Cô dừng lại
và nhìn thẳng vào vị hôn phu của mình, David Becker.
Một lần nữa
giọng anh lại vang lên phía trên đầu.
Ba! Điểm
khác biệt giữa U235 và U238 là con số 3!
Mọi người
trong phòng đều ngước mắt lên.
- Số 3! -
Susan hét lên, cố át mớ âm thanh hỗn độn của tiếng còi báo động lẫn với
tiếng la ó
của các nhân viên kĩ thuật. Cô chỉ tay lên màn hình trên tường. Tất cả các
ánh mắt
hướng theo cô, nhìn vào bàn tay của Tankado, nó cố vươn ra, ba ngón tay
vẫy một
cách tuyệt vọng trong ánh nắng của vùng Seville.
Jabba sững
sờ.
- Ôi Chúa
ơi! - Ông chợt hiểu, hoá ra từ nãy đến giờ anh chàng thiên tài tật nguyền
này đã cho
họ câu trả lời.
- 3 là số
nguyên tố! - Soshi thốt lên.
- 3 là một
số nguyên tố! - Ông Fontaine bàng hoàng - Đơn giản vậy sao?
- Dữ liệu
đang bị tràn - Một nhân viên lã thuật kêu lên - Tràn rất nhanh!
Tất cả mọi
người đổ xô về phía màn hình và bàn phím. Tất cả đều vươn tay ra.
Susan,
nhanh như một tiền đạo đang đua tốc độ với đối phương, vượt qua đám
đông lao
tới trước và ấn phím 3. Bây giờ thì mọi ánh mắt lại đổi hướng sang phía bức
tường có gắn màn hình theo dõi. Trên màn hình, một dòng chữ hiện lên.
NHẬP MẬT
KHẨU? 3 - Đúng rồi! - Ông Fontaine ra lệnh.
- Làm đi!
Susan nín
thở hạ ngón tay xuống phím ENTER. Chiếc máy tính phát ra một tiếng
"bíp".
Im lặng.
Ba giây
nặng nề trôi qua song vẫn không có gì xảy ra.
Tiếng còi
báo động vẫn tiếp tục vang lên. 5 giây, rồi 6 giây.
"Dữ
liệu đang tràn"
- Chẳng có
gì thay đối!
Bỗng nhiên
Midge cuống cuồng chỉ lên trên màn hình.
- Nhìn kìa!
Trên màn
hình, một thông báo xuất hiện.
MÃ HOÁ GIẢI
ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN - Tải tường lửa lên! - Jabba ra lệnh.
Nhưng Soshi
đã nhanh hơn ông một bước. Cô vừa nhập lệnh xong.
- Dữ liệu
tràn đã bị chặn! - một nhân viên kĩ thuật hét lên - Đã cắt đứt các kết nối
xâm nhập.
Trên màn
hình VR, bức tường lửa đầu tiên trong số năm bức tường đã bắt đầu xuất
hiện trở
lại, những đường truyền màu đen đang cố tấn công vào trung tâm hệ thống
đã bị chặn
lại ngay lập tức.
- Đang cài
đặt lại! - Jabba kêu lên - Mấy thứ đồ khỉ gió này đang được cài lại rồi!
Lúc đầu mọi
người có vẻ như chưa thể tin vào một chiến thắng bất ngờ đến vậy.
Dường như
mọi thứ có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.
Nhưng rồi
bức tường lửa thứ 2 bắt đầu xuất hiện… rồi đến cái thứ 3. Một lát sau
toàn bộ hệ
thống lọc đã xuất hiện trở lại. Ngân hàng dữ liệu đã được an toàn.
Căn phòng
như muốn nổ tung lên trong vui sướng. Các nhân viên kĩ thuật ôm chặt
lấy nhau,
tung đầy giấy in lên cao để ăn mừng. Những tiếng còi báo động nhỏ dần.
Brinkerhoff
chộp lấy Midge và ôm ghì lấy bà ta, còn Soshi thì bật khóc.
- Jabba -
Ông Fontaine lên tiếng - Chúng lấy được bao nhiêu rồi?
- Rất ít -
Jabba kiểm tra lại máy tính của mình rồi nói - Rất ít, và chẳng có gì đầy đủ
cả.
Ông
Fontaine chậm rãi gật đầu với một nụ cười hiếm hoi bên khoé miệng. Ông nhìn
xung quanh để tìm Susan Fletcher. Cô đã bước đến trước ống kính tự lúc nào.
Trên bức
tường phía trước cô, khuôn mặt của David Becker đang choán hết cả màn
hình.
- David!
- Chào
người đẹp - Anh mim cười.
- Anh về
nhà đi - cô nói - Về đi, ngay bây giờ.
- Gặp em ở
Stone Manor nhé? - Anh hỏi.
Cô gật đầu,
những giọt nước mắt của cô đang trào ra.
- Anh hứa
rồi đấy nhé!
- Đặc vụ
Smith - Ông Fontaine gọi.
Smith xuất
hiện trên màn hình sau Becker.
- Tôi đây,
thưa ngài có chuyện gì ạ?
- Hình như
anh bạn Becker của chúng ta có hẹn. Anh có thể đưa anh ấy về nhà
ngay được
không?
Smith gật
đầu.
- Máy bay
của chúng tôi đang ở Malaga - Anh vỗ nhẹ vào lưng Becker.
- Anh đáng
được thưởng đấy, giáo sư. Đã bao giờ bay trên một chiếc Learjet 60
chưa?
Becker
cười.
- Tính đến
hôm qua thì chưa.
Chương 128
Susan tỉnh giấc khi nắng đã lên cao. Những tia nắng mềm mại luồn
qua tấm màn
cửa và trải đều trên chiếc giường trải đệm lông ngỗng. Cô vươn người
ôm choàng
lấy David. Mình đang mơ ư? Toàn thân cô vẫn mỏi nhừ, mệt lử và
choáng váng
từ sau đêm hôm trước.
- David à -
Cô rên rỉ.
Không có
tiếng trả lời. Cô mở mắt, da cô vẫn còn cảm giác như bị kim châm. Chỗ
đệm bên
cạnh cô lạnh ngắt. David đâu rồi?
Mình đang
mơ, Susan nghĩ. Cô ngồi dậy. Căn phòng được bài trí theo kiểu cách
thời
Victoria với rất nhiều giải đăng ten và đồ cổ những đồ gỗ tốt nhất của Stone
Manor. Túi
ngủ của cô được đặt ở giữa sàn nhà gỗ cứng… còn trên chiếc ghế kiểu
của nữ
hoàng Anne bên cạnh giường là đồ ngủ của cô.
Có thực là
David đang ở đây? Cô vẫn nhớ - thân thể của anh, nụ hôn nhẹ nhàng của anh đã
đánh thức cô. Phải chăng tất cả những điều đó chỉ là một giấc mơ? Cô quay
lại chiếc
bàn, trên đó có một chai sâm-banh đã cạn, hai chiếc cốc và…một mẩu
giấy nhỏ.
Đưa tay lên
dụi mắt cho tỉnh ngủ, Susan vơ lấy tấm chăn, quấn quanh người và đọc
mẩu giấy.
SUSAN YÊU
QUÝ CỦA ANH, ANH YÊU EM.
KHÔNG CÓ
SÁP ONG, DAVID.
Cô áp mẩu
giấy vào ngực mình, trông sắc mặt cô rạng rỡ hẳn lên. Phải rồi, đúng là
David rồi.
Không có sáp ong… đây chính là mật mã cô vẫn chưa giải được.
Có cái gì
đó động đậy phía trong góc. Susa ngước lên. Trên chiếc trường kỷ bằng
nhung lông
chan hoà ánh nắng ban mai, David Becker đang ngồi yên lặng ngắm cô,
mình mặc
một chiếc áo choàng tắm dày. Susan đưa tay vẫy, ra hiệu cho anh đến với
cô.
- Không có
sáp ong ư? Cô thì thầm khi đã kéo anh vào trong lòng.
- Không có
sáp ong - Anh mỉm cười.
Cô hôn anh
thật sâu.
- Nói cho
em biết điều đó nghĩa là gì đi.
- Không bao
giờ - Anh cười. - Một đôi tình nhân cần phải có những điều bí mật -
điều bí mật
này sẽ khiến chúng ta luôn cảm thấy thú vị.
Susan mỉm
cười một cách duyên dáng.
- Chỉ cần
thú vị hơn tối hôm qua một chút thôi là em sẽ không đi nổi nữa đâu đấy.
David ôm cô
vào lòng. Anh cảm thấy lòng lâng lâng. Ngày hôm qua suýt nữa thì
anh đã
chết, vậy mà bây giờ anh đã ở đây, được tận hưởng cuộc sống một cách vô
cùng trọn
vẹn.
Susan gục
đầu lên ngực anh và nghe từng nhịp đập nơi trái tim anh. Cô không thể
tin nổi có
lúc tưởng rằng sẽ mất anh mãi mãi.
- David -
cô thở dài, đưa mắt nhìn mẩu giấy cạnh bàn.
- Cho em
biết "không có sáp ong" là gì đi - Anh biết là em chúa ghét những mật
mã
giải được
mà.
David vẫn
im lặng.
Susan bĩu
môi phụng phịu.
- Nói cho
em biết hoặc là anh sẽ không bao giờ có được em nữa. - Nói dối.
Susan lấy
gối đánh David.
- Nói cho
em mau! Ngay bây giờ!
Những David
biết anh sẽ không bao giờ nói ra. Điều bí mật ẩn sau mật mã "không
có sáp
ong" quá ngọt ngào. Nó bắt nguồn từ thời xa xưa. Trong thời kì Phục hưng,
những nghệ
nhân điêu khắc Tây Ban Nha thường sử dụng gốm trộn sáp ong để
khắc phục
các lỗi trên những bức tượng cẩm thạch đắt tiền mà mình đang thực
hiện. Một
bức tượng không có vết nứt và không cần chắp vá gì sẽ được người ta gọi
là
"một tác phẩm điêu khắc không có sáp ong". Về sau, cụm từ này được sử
dụng
để chỉ bất
cứ thức gì có nghĩa trung thực hay đích thực. Từ "chân thành" (1)
trong
tiếng Anh
bắt nguồn từ từ "không có sáp ong" (2) trong tiếng Tây Ban Nha. Mật
mã bí mật
của David không phải là một điều quá bí ẩn - nó đơn giản chỉ là chữ
"chân
thành", anh ký ở cuối thư mà thôi. Anh nghĩ ra trò dùng mật mã kiểu này để
khiến cô
luôn vui.
Để thay đổi
đề tài, David chuyển hướng:
- Em sẽ rất
vui nếu biết được rằng trên đường bay về nhà, anh đã gọi cho ông hiệu
trưởng
trường đại học.
Susan ngước
lên với vẻ hi vọng.
- Hãy nói
với em là anh đã từ bỏ cái ghế trưởng khoa đi.
David gật
đầu.
- Anh sẽ
trở lại với bục giảng vào học kì tới.
Cô thở dài
nhẹ nhõm.
- Đúng vị
trí của anh lúc ban đầu.
David nở nụ
cười dịu dàng.
- Phải rồi,
anh nghĩ Tây Ban Nha đã cho anh biết điều gì là quan trọng.
- Lại trở
về để cho các cô sinh viên ngưỡng mộ à - Susan hôn lên má anh.
- Ít nhất
thì anh cũng có thời gian giúp em biên tập bản thảo của mình.
- Bản thảo
ư?
- Đúng, em
vừa quyết định sẽ cho xuất bản.
- Xuất bản?
- David nhìn một cách nghi ngờ - Xuất bản cái gì?
- Một vài ý
tưởng của em về các giao thức lọc biến thể và thặng dư bậc hai.
Anh lầm
bẩm. - Có vẻ sẽ là một cuốn sách ăn khách nhất đây?
Cô bật
cười.
- Anh sẽ
bất ngờ đấy.
David đưa
tay vào túi chiếc áo choàng tắm của mình và lấy ra một vật nhỏ.
- Em nhắm
mắt lại đi. Anh có cái này cho em.
Susan nhắm
mắt.
- Để em
đoán xem nhé: một chiếc nhẫn vàng với hoa văn cầu kì và chữ La-tinh
vòng quanh?
- Sai rồi -
David cười thầm - Anh đã nhờ ngài Fontaine trả lại nó vào số tài sản của
Ensei
Tankado.
Anh cầm lấy
tay Susan và đeo nhanh một vật vào ngón tay cô.
- Đồ nói
dối - Susan cười và mở mắt ra - Em biết rồi… Nhưng Susan dừng lại
ngay. Chiếc
nhẫn trên ngón tay cô không hề giống của Tankado, đó là một chiếc
nhẫn bạch
kim được tô điểm bằng một viên kim cương lấp lánh.
Susan há
hốc miệng vì kinh ngạc.
David nhìn
sâu vào trong mắt cô.
- Em sẽ lấy
anh chứ?
Hơi thở của
Susan như nghẹn lại ở cổ họng. Cô nhìn anh rồi lại quay lại với chiếc
nhẫn. Mắt
cô bỗng cay xè.
- Ôi,
David… Em không biết phải nói gì… - Hãy nói em đồng ý đi! - David cầu
xin.
Susan quay
đi và không nói một lời.
David chờ
đợi.
- Susan
Fletcher, anh yêu em. Hãy lấy anh đi!
Susan ngước
lên, mắt cô thấm đẫm lệ.
- David, em
xin lỗi - cô thì thầm - Em… em không thế.
David mở to
mắt trong sự bàng hoàng. Anh nhìn thẳng vào mắt cô, cố tìm trong đó
một ánh mắt
nghịch ngợm, song nó không có ở đó. Anh lắp bắp:
-
Su..Susan, anh…anh không hiểu.
- Em không
thể - cô nhắc lại - Em không thể lấy anh.
Cô quay đi
chỗ khác. Hai bờ vai cô bắt đầu rung lên. Cô lấy tay bưng mặt mình.
David ngơ
ngác. - Nhưng, Susan… anh tưởng… Anh ôm lấy bờ vai đang rung lên của cô và xoay
cô
lại phía
anh. Ngay lúc đó anh nhận ra. Susan Fletcher không hề khóc; cô chỉ đang
quá xúc
động:
- Em sẽ
không lấy anh đâu! - Cô bật cười rồi lại tiếp tục dùng gối tấn công anh -
Cho đến khi
nào anh chịu giải thích cho em về vụ "Không có sáp ong"! Anh đang
làm em phát
điên lên đây này!
Phần kết
Nguyên tác:
Digital Fortress
Người ta
nói rằng trước cái chết tất cả mọi thứ đều trở nên sáng tỏ Bây giờ
Tokugen
Numataka đã hiểu điều đó là sự thật. Đứng trước bình đựng tro hoả táng
tại Sở hải
quan Osaka, ông đang cảm thấy một sự thật cay đắng chưa bao giờ nếm
trải trong
đời. Tôn giáo dạy ông ta về luân hồi và về những mối liên kết của cuộc
sống, tuy
nhiên Numataka chưa bao giờ có thời gian cho tôn giáo của mình.
Các quan
chức hải quan đưa cho ông ta một phong bì trong đó có giấy chứng nhận
và các giấy
tờ khai sinh đã ố vàng. Họ nói:
- Ông là
người họ hàng duy nhất hiện còn sống của chàng trai này. Chúng tôi vất vả
mãi mới tìm
được ông.
Đầu óc
Numataka quay cuồng với những hình ảnh của cái đêm mưa sũng nước 32
năm về
trước, hình ảnh phòng bệnh viện nơi ông ta bỏ rơi đứa con tật nguyền cùng
người vợ
đang hấp hối của mình. Ông ta đã làm điều đó vì danh dự của mình - thứ
giờ đây chỉ
còn là một cái bóng vô nghĩa.
Trong tập
giấy tờ còn có cả một chiếc nhẫn vàng. Trên đó có khắc những từ mà
Numataka
không hiểu được. Nhưng điều đó có nghĩa gì đâu cơ chứ! Những từ ngữ
không còn
có ý nghĩa gì đối với Numataka nữa. Ông đã vứt bỏ đứa con trai duy
nhất của
mình. Và giờ đây, định mệnh nghiệt ngã đã đưa hai bố con đến với nhau.
Chú thích:
(1) Sincere (Người dịch) (2) Sincera (Người dịch)
Hết Dan Brown
PHÁO ĐÀI SỐ
Dịch giả:
Chúc Linh Hiệu đính: Thanh Bình
Nguyên tác
: Digital fortress
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các biên
tập viên ở Nhà xuất bản St.
Marlin s
Press: ông Thomas Dunne và bà Melisa Jacobs - một phụ nữ tài năng.
Cảm ơn
những người đã giúp tôi đọc bản thảo và đóng góp ý kiến trong suốt quá
trình viết
cuốn sách này. Và đặc biệt, xin cảm ơn, Blythe, người vợ nhiệt tình và
kiên nhẫn
của tôi.
Tác giả
cũng xin gửi lời biết ơn chân thành nhất tới hai cưụ chuyên gia mật mã của
NSA đã đóng
góp cho tác phẩm qua thư mà không xưng tên.
Không có sự
giúp đỡ của họ, tôi đã không thể hoàn thành cuốn sách này.
Phần mở đầu
PLAZA DE ESPANA SEVILLE TÂY BAN NHA, 11:00 sáng.
Người ta
thường nói, trước cái chết mọi việc đều trở nên sáng tỏ. Giờ đây, Ensei
Tankado mới
thấm nhuần nguyên lý tưởng chừng như đơn giản ấy. Hai tay siết chặt
lồng ngực,
ngã vật xuống đất trong đau đớn, Tankado chợt nhận ra hậu quả khủng
khiếp từ
những lầm lỗi của mình.
Một nhóm
người xúm quanh anh ta, tìm cách giúp đỡ, song Tankado không cần
nữa. Đã quá
muộn mất rồi.
Lẩy bẩy,
anh ta chìa bàn tay trái và giơ lên. "Hãy nhìn tay tôi đây, các vị. Những
gương mặt
xúm quanh nhìn anh ta chăm chú. Nhưng Tankado biết, họ chẳng hiểu
gì cả.
Chiếc nhẫn
vàng chạm khắc trên tay anh ta bỗng lóe lên phản chiếu dưới ánh mặt
trời xứ
Andalusia.
Với Ensei
Tankado, đó là thứ ánh sáng cuối cùng anh ta nhìn thấy trên cõi đời này.
Dịch giả:
Chúc Linh Hiệu đính: Thanh Bình
Nhà xuất
bản Văn hoá- Thông tin, Hà nội, 2006
Chương 1
Hai người
đang ở trong khách sạn mà họ hay lui tới ở vùng Smoky Mountains,
David nhìn
cô mỉm cười: "Em nghĩ thế nào, tình yêu của anh? Lấy anh nhé?".
Nằm trên
giường, ngước nhìn David, cô hiểu rằng anh chính là người mình cần
trong cuộc
đời này. Mãi mãi. Nhìn sâu vào đôi mắt t xanh thẫ, của anh, cô đột
nhiên thấy
đâu đó vọng lại một tiếng chuông chói tai. Tiếng chuông đột ngột cướp
anh đi mất.
Cô cố vươn tới, cố ôm lấy anh, song trong vòng tay chỉ là một khoảng
không trống
trải.
Tiếng
chuông điện thoại réo vang kéo Susan ra khỏi giấc mơ.
Cô ngồi
dậy, thở hổn hển, quờ quạng tìm chiếc điện thoại.
- A lô!
- Susan à,
anh David đây. Anh có làm em thức giấc không?
Cô mỉm
cười, nằm lăn xuống giường.
- Em vừa mơ
thấy anh. Tới đây với em đi anh.
David bật
cười.
- Còn quá
sớm mà em.
- Ứ đâu! -
Cô ầm ừ nũng nịu - Anh đến ngay đi. Chúng mình cùng vui một chút rồi
lên đường.
David thở dài.
- Vì thế nên
anh phải gọi cho em đấy. Chuyến đi của chúng mình phải hoãn lại thôi.
Susan bật dậy, cô tỉnh ngủ hẳn.
- Cái gì
cơ?
- Anh xin
lỗi. Anh phải đi ngay bây giờ. Sáng mai anh về. Rồi chúng ta sẽ lên
đường từ
sớm tinh mơ. Chúng mình vẫn có 2 ngày bên nhau mà.
- Nhưng em
đặt chỗ trước rồi! - Susan nói, trong lòng hụt hẫng - Em đã đặt trước
căn phòng
quen thuộc của chúng mình ở khách sạn Stone Manor rồi.
- Anh biết,
nhưng mà… - Chúng mình đã định biến đêm nay thành một đêm đặc
biệt - kỷ
niệm sáu tháng chúng mình đính hôn, anh nhớ mà, phải không?
- Susan à.
- Anh lại thở dài - Bây giờ anh thật sự không thể giải thích cho em hiểu
được, họ
đang chờ anh dưới xe. Khi nào lên máy bay anh sẽ gọi lại rồi giải thích
mọi chuyện.
- Sao lại
máy bay? - cô hoảng hốt. - Chuyện gì xảy ra thế? Tại sao trường đại học lại…?
- Không
phải ở trường đâu. Anh sẽ gọi lại và giải thích sau. Anh phải đi ngay đây;
họ đang
gọi. Anh sẽ gọi lại ngay. Anh hứa mà.
- David! -
cô hét lên - Sao lại… Nhưng đã quá muộn. David đã cúp máy.
Susan
Fletcher nằm thao thức nhiều giờ đồng hồ chờ anh gọi lại nhưng chẳng có
cuộc gọi
nào cho cô cả.
*** Buổi
chiều hôm đó Susan uể oải ngâm mình trong bồn tắm.
Thả lỏng cơ
thể trong làn nước đầy bọt xà phòng, cô cố gắng quên đi hình ảnh
khách sạn
Stone Manor và những dãy núi ở vùng Smoky Mountains. Anh đang ở
đâu nhỉ? Cô
tự hỏi lòng mình. Sao mãi không thấy anh gọi lại?
Nước trong
bồn tắm dần chuyển từ nóng sang âm ấm và cuối cùng thì lạnh ngắt. Cô
đang chuẩn
bị ra ngoài thì chiếc điện thoại đặt trên bồn rửa mặt đổ chuông. Susan
đứng phắt
dậy, lao ra, vồ lấy ống nghe, mặc cho nước bắn tung toé trên nền nhà.
- Anh à?
- Tôi,
Strathmore đây - tiếng đầu dây bên kia trả lời.
Susan chán
nản sụp xuống.
- Ôi. - Cô
thốt lên không dấu nối sự thất vọng - Xin chào ngài chỉ huy.
- Đang chờ
anh chàng nào trẻ trung hơn phải không - ông ta cười khùng khục.
- Dạ không,
thưa sếp - Susan ngượng ngùng - Chỉ là… - Nhầm một tí thôi hả - ông
chỉ huy
cười - Cái cậu David Becker ấy được đấy. Đừng bao giờ để mất nhé.
- Dạ vâng,
cám ơn sếp.
Giọng ông
chỉ huy đột nhiên trở nên rất nghiêm trọng.
- Susan,
tôi gọi cho cô vì tôi muốn cô tới đây. Tới Pronto.
Susan cố
gắng tập trung vào cuộc nói chuyện.
- Hôm nay
là thứ Bảy mà sếp. Thường thì chúng ta… - Tôi biết - Ông vẫn nói hết
sức lạnh
lùng - Đây là một trường hợp khẩn cấp.
Susan ngồi
dậy. Khẩn cấp ư? Đã bao giờ cô thấy ngài chỉ huy Strathmore dùng tới
từ này đâu.
Ở trung tâm Crypto à? Cô không thể tưởng tượng được chuyện gì đã
xảy ra.
- Vâ…âng,
thưa sếp - Cô ngập ngừng - Tôi sẽ tới ngay.
- Càng
nhanh càng tốt - Strathmore đập máy.
Quấn chiếc
khăn tắm. Susan Fletcher đứng sững, mặc cho nước trên người nhỏ vào những bộ
quần áo đã gấp gọn gàng từ đêm hôm trước chiếc quần soóc mặc đi dạo,
chiếc khăn
choàng cho những buổi tối se lạnh ở vùng núi, và chiếc váy ngủ cô mới
mua cho
những đêm tuyệt diệu. Thất vọng, cô đi tới phòng để đồ lấy ra một chiếc
áo choàng
và chiếc váy. Một trường hợp khẩn cấp ư? Ở Crypto ư?
Vừa bước
xuống cầu thang. Susan vừa tự hỏi sao ngày hôm nay lại tồi tệ đến thế.
Chỉ lát nữa
thôi, cô sẽ biết chuyện gì đã xảy ra.
Chương 2 và Chương 3
Ở độ cao
9000 mét trên mặt đại dương phẳng lặng, David Becker khổ sở nhìn ra
ngoài cửa
sổ hình ô van của chiếc máy bay Leariet 60. Phi hành đoàn vừa thông
báo điện
thoại trên máy bay gặp trục trặc, và anh không thể gọi cho Susan.
- Mình đang
làm gì ở đây thế này? - anh ta càu nhàu với chính bản thân mình.
Nhưng câu
trả lời thật đơn giản - có những người mà anh không thể nói không với
họ.
- Thưa ông
Becker - tiếng từ chiếc loa trên máy bay - Nửa giờ nữa chúng ta sẽ tới
nơi.
Becker chán
nản gật đầu với tiếng nói vô hình kia. Được! Anh kéo chiếc rèm che
cửa sổ
xuống và cố gắng ngủ một giấc. Nhưng giờ đây anh không thể nghĩ đến điều
gì khác
ngoài Susan.
Chiếc VOLVO
của Susan dừng lại đưới hàng rào thép gai Cyclone cao tới hơn 3
mét. Một
người gác cống trẻ tưối ra đặt tay lên mui xe.
- Xin cô
cho xem thẻ chứng minh.
Susan đưa thẻ rồi chờ nửa phút như thông lệ.
Người gác cổng đưa tấm thẻ của cô
chạy qua
một máy quét. Cuối cùng anh ta nhìn lên:
- Cảm ơn cô
Fletcher - Anh ta đưa tay ra hiệu một cách kín đáo, cánh cửa từ từ mở
ra. Đi tiếp
nửa dặm, Susan lại phải dừng xe trước một hàng rào điện tử bề thế
không kém
hàng rào trước. Toàn bộ quy trình được lặp lại một lần nữa. Thôi nào,
các anh
bạn… Tôi mới chỉ tới đây có vài triệu lần thôi mà.
Tới trạm
cuối cùng, một tay gác cổng lực lưỡng với súng máy và hai con chó dữ hỗ
trợ, kiểm
tra giấy tờ Susan, rồi vẫy tay ra hiệu cho cô đi vào. Theo đường Canine,
cô đi tiếp
250 mét rồi tiến vào Khu làm việc C. Thật không thể tin nổi, 26 ngàn
nhân viên
và ngân sách 12 tỉ đô la, thế mà không thể sống sót qua nổi 2 ngày cuối
tuần không
có mình, cô thầm nghĩ. Susan cho xe lao vút vào chỗ đỗ dành riêng cho
mình rồi
tắt máy.
Sau khi đi
hết những bậc cầu thang được trang trí cầu kỳ, vào khu nhà chính, cô đi
qua hai
trạm kiểm tra nữa và cuối cùng tới một đường hầm kín không cửa số dẫn
tới một dãy
nhà khác. Chắn ngay lối vào là một trạm kiếm tra giọng nói. CƠ QUAN AN NINH
QUỐC GIA (NSA) TRUNG TÂM CRYPTO KHÔNG
NHIỆM VỤ
MIỄN VÀO
Nhân viên canh gác được trang bị súng ngước
nhìn lên.
- Xin chào,
cô Fletcher.
Susan mệt
mỏi cười gượng.
- Chào anh,
John.
- Tôi không
nghĩ lại gặp cô hôm nay.
- Vâng, tôi
cũng thế - Cô vươn tới cái micro hình pa-ra-bôn đọc thật rõ ràng "Susan
Fletcher".
Ngay lập tức, máy tính xác nhận tần số giao động âm đặc trưng trong
giọng nói
của cô, và cửa được mở ra. Susan bước vào.
Anh nhân
viên nhìn theo Susan đầy ngưỡng mộ khi cô bắt đầu đi xuống con đường
lát xi
măng. Anh ta nhận ra trong đôi mắt nâu sáng của cô hôm nay có cái gì xa
xăm, gò má
cô ửng hồng thật tươi tắn, và mái tóc nâu hình như vừa được sấy khô.
Thoảng theo
mỗi bước chân là mùi hương phấn Johnson Baby dịu nhẹ. Ánh mắt
anh lướt
trên tấm thân mảnh dẻ của cô, đôi bầu ngực thon nhỏ ẩn trong chiếc áo sơ
mi trắng
giản dị, chiếc váy kaki dài chấm gối, và dừng lại ở đôi chân… đôi chân
của Susan
Fletcher.
Thật khó mà
tin được thân hình ấy là của một bộ óc 170 điểm IQ, anh thầm nghĩ.
Anh nhìn
theo cô hồi lâu, rồi cuối cùng lắc đầu khi Susan đã khuất bóng phía xa.
Đi hết
đường hầm, Susan đứng trước một cánh cửa xoay lớn.
Bên trên có
dòng chữ.
TRUNG TÂM
CRYPTO.
Thở dài, cô
đặt tay lên hốc tường chứa hộp mật mã, nhập vào năm số PIN của
mình. Vài
giây sau cánh cửa thép nặng 12 tấn bắt đầu xoay. Cô đã cố gắng tập
trung vào
việc đang làm song vẫn không thể dứt khỏi những ý nghĩ về anh - David
Becker,
người đàn ông duy nhất cô yêu. Người trẻ tuồi nhất mang học hàm giáo sư
ở trường
Đại học Georgetown và một chuyên gia ngoại ngữ tài năng, thực sự là một
người có
tiếng trong giới trí thức hàn lâm.
Với một trí
nhớ bẩm sinh tuyệt vời cộng thêm lòng đam mê ngôn ngữ, anh thông
thạo sáu
thứ tiếng của châu Á cùng với tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, và tiếng Ý.
Những giảng
đường nơi anh giảng về từ nguyên học và ngôn ngữ học không bao giờ còn một chỗ
trống. Lần nào cũng vậy, cứ sau mỗi buổi lên lớp anh lại phải ở lại
rất lâu để
trả lời cho hết hàng loạt câu hỏi của sinh viên. Anh luôn có giọng nói thật
trầm ấm,
đầy khích lệ, và dường như không để ý tới những ánh mắt đầy ngưỡng mộ
của các cô
nữ sinh nghịch ngợm trong trường.
Becker năm
nay 35 tuổi - vóc người vạm vỡ, nước da sạm nắng, trẻ trung với đôi
mắt xanh
sắc sảo và trí thông minh tuyệt vời. Nhìn đôi quai hàm khoẻ mạnh và
những đường
nét cơ bắp hoàn hảo của anh, Susan thường liên tưởng tới một bức
tượng khắc
bằng đá cẩm thạch. Với chiều cao hơn l,8mét, Becker di chuyển trên
sân bóng
quần nhanh nhẹn hơn tất cả các đồng nghiệp khác. Sau khi đánh bại đối
thủ, anh
thường chúi đầu dưới vòi nước công cộng rồi vò ướt sũng mái tóc đen, dày
của mình để
xả hết sự nóng bức. Rồi vẫn để nước rỏ tong tong như thế, anh mời
bạn chơi đi
uống nước hoa quả và ăn bánh mỳ vòng.
Cũng giống
như bao giáo sư trẻ tuồi khác, thu nhập từ đạy học của David hết sức
khiêm tốn.
Mỗi khi cần thêm tiền để gia hạn thẻ thành viên câu lạc bộ bóng quần
hay để thay
cước cho chiếc vợt hiệu Dunlop cũ của mình, anh lại kiếm thêm bằng
cách nhận
dịch tài liệu cho các cơ quan chính phủ ở Washington và các vùng lân
cận. Và
cũng chính từ một trong lần đi kiếm thêm như thế mà anh đã gặp Susan.
Đó là một
buổi sáng khô ráo và se lạnh giữa kỳ nghỉ thu ở trường đại học. Becker
vừa chạy
thể dục buổi sáng về tới căn hộ có ba phòng của mình thì thấy chiếc máy
điện thoại
trả lời tự động đang nhấp nháy đèn. Vừa uống hết một lít nước cam vắt
anh vừa
nghe lởi nhắn.
Cũng không
khác gì những lời nhắn khác mà anh vẫn thường nhận được một cơ
quan chính
phủ muốn thuê anh dịch tài liệu trong vài giờ đồng hồ sáng hôm ấy.
Điều duy
nhất Becker thấy lạ là tên cơ quan đó, anh chưa nghe thấy bao giờ.
- Đó là Cơ
quan An ninh Quốc gia - Becker gọi một số bạn đồng nghiệp để hỏi
thêm thông
tin về cơ quan này. Câu trả lời anh nhận được đều giống nhau.
- Hội đồng
An ninh Quốc gia à?
Becker nghe
lại lời nhắn.
- Không. Họ
nói là Cơ quan cơ. Tên tắt là NSA.
- Tớ chưa
nghe thấy bao giờ.
Becker kiểm
tra trong Danh bạ của GA022 (Tổng cục Kế toán) song cũng chẳng
tìm được
manh mối gì. Không còn cách nào khác, Becker đành gọi cho một người bạn thân
cùng chơi bóng quần trước đây một cựu chuyên gia phân tích chính trị đã
giải nghệ
và đang làm nhân viên nghiên cứu tại Thư viện Quốc hội. Anh bị bất ngờ
trước những
gì bạn mình nói.
NSA không
chỉ tồn tại thật mà còn được coi là một trong những tổ chức chính phủ
có ảnh
hưởng lớn nhất trên thế giới. Từ hơn nửa thế kỷ qua, nó đã thu thập các dữ
liệu tình
báo điện tử trên toàn cầu và bảo vệ thông tin tuyệt mật của Hoa Kỳ. Chỉ 3
phần trăm
người dân Hoa Kỳ được biết tới sự tồn tại của tổ chức này.
- NSA - ông
bạn của Becker đùa - tức là "No Such Agency" (1) Một chút rụt rè
cộng với tò
mò, Becker nhận lời mời của cơ quan bí hiểm kia. Anh lái xe vượt 37
dặm đường
để tới trụ sở làm việc rộng tới 86 mẫu và ẩn mình kín đáo trong khu
rừng núi
của Fort Meade, bang Maryland. Sau khi làm thủ tục ở hàng loạt trạm
kiểm soát
và được cấp một tấm giấy thông hành dành cho khách trong vòng 6 giờ
có dán ảnh
ba chiều, anh được hộ tống tới một cơ sở nghiên cứu bề thế và lộng lẫy.
Các nhân
viên nói anh sẽ ở đây cả buổi chiều để "hỗ trợ mà vẫn không biết gì về
nội
dung" cho Ban Mật mã - một nhóm gom toàn những bộ óc siêu phàm về toán
học mà
người ta vẫn gọi là các chuyên gia giải mã.
Trong một
giờ đồng hồ đầu tiên, các chuyên gia giải mã dường như không hề để ý
tới sự có
mặt của Becker. Họ vây quanh một chiếc bàn khổng lồ và nói với nhau
bằng một
thứ ngôn ngữ mà Becker chưa nghe thấy bao giờ. Họ nói về các dòng mật
mã, các cơ
chế thập phân, các giao thức, các điếm đồng nhất. Becker theo dõi
nhưng không
thể hiểu được họ đang trao đổi điều gì. Họ nguệch ngoạc những ký
hiệu trên
tờ giấy vẽ biểu đồ, mải mê theo dõi những gì chiếc máy tính in ra, và liên
tục nhìn
lên những dòng chữ cái lộn xộn được chiếc máy chiếu hắt lên màn hình.
Cuối cùng thì cũng có một người trong số họ
giải thích cho Becker điều mà anh
cũng đã ngờ
ngợ. Những chữ cái lộn xộn đó chính là một đoạn mã - "một văn bản
mật
mã" - những nhóm con số và chữ cái thể hiện những từ đã được mã hoá.
Nhiệm vụ
của các chuyên gia là phải nghiên cứu đoạn mã và tìm ra thông điệp ẩn
chứa bên
trong đoạn mã, còn gọi là "văn bản gốc" - Becker được mời tới đây bởi
vì
các chuyên
gia nghi ngờ rằng thông điệp gốc được viết bằng tiếng Quan Thoại; và
anh sẽ phải
dịch từ những ký hiệu này sau khi chúng đã được các chuyên gia giải
mã.
Trong vòng
2 tiếng, Becker đã dịch những chuỗi dài không dứt các ký hiệu của tiếng Quan
Thoại. Nhưng lần nào cũng vậy, những gì anh dịch ra đều khiến họ lắc
đầu thất
vọng. Có vẻ như đoạn mã trên không có nghĩa gì. Rất mong muốn giúp
được các
chuyên gia giải mã, Becker nói với họ rằng tất cả các ký tự ở đây đều có
một đặc
điểm chung - chúng cũng là một phần của hệ thống ngôn ngữ Kanji.
Bầu không
khí náo nhiệt trong căn phòng ngay lập tức lắng xuống. Người chịu
trách nhiệm
về công việc này, đó là một người đàn ông cao, gầy và liên tục đốt
thuốc lá
tên là Morante quay sang hỏi anh với giọng ngờ vực.
- Ý anh là
những ký hiệu này có nhiều nghĩa phải không?
Becker gật
đầu. Anh giải thích thêm rằng Kanji là một hệ thống chữ viết của tiếng
Nhật dựa
trên những chữ tiếng Trung đã có sửa đối đôi chút. Do đã được yêu cầu từ
trước nên
từ nãy tới giờ anh chỉ dịch bằng tiếng Quan Thoại chứ không nghĩ tới
chữ Kanji.
- Lạy chúa
Jesus - Morante ho lên - Hãy thử chữ Kanji đi.
Và rồi, như
có một phép màu kỳ lạ, tất cả mợi thứ dần hiện ra trước mắt.
Rất vui
mừng song các chuyên gia vẫn chỉ để cho Becker làm việc với từng chữ cái
một, không
theo một quy luật nào.
- Đó là vì
sự an toàn của anh thôi - Morante nói - Làm thế này anh sẽ không biết
được mình
đang dịch cái gì.
Becker
cười. Nhưng ngay sau đó anh nhận ra xung quanh mình chẳng có ai cười.
Sau khi
đoạn mã đã được giải xong, Becker vẫn không hề có một ý niệm nào về
điều bí mật
mà anh vừa giúp họ tìm thấy. Tuy nhiên có một điều chắc chắn - NSA
hết sức coi
trọng việc giải mã; tấm séc trong túi anh còn nhiều hơn cả một tháng
lương ở
trường.
Trên đường
quay ra, sau khi đã vượt qua một loạt các trạm gác, Becker bị một nhân
viên canh
gác cầm điện thoại chặn lại.
- Ông
Becker, xin ông vui lòng chờ ở đây ạ.
- Có vấn đề
gì vậy - Becker không nghĩ buổi làm việc lại dài thế, và anh đã trễ giờ
tới xem
trận đấu bóng quần chiều thứ Bảy.
Anh nhân
viên nhún vai.
- Giám đốc
Crypto muốn có vài lời với anh. Bà ấy sẽ tới bây giờ đây.
- Bà à? -
Becker bật cười. Anh chưa từng nhìn thấy người phụ nữ nào bên trong
NSA. - Điều
đó có làm phiền anh không - giọng một người phụ nữ vang lên từ phía sau
lưng anh.
Becker quay
lại và lập tức thấy mặt mình nóng ran lên. Anh liếc nhìn tấm thẻ nhân
viên đeo
trên áo choàng người phụ nữ. Giám đốc Ban Mật mã của NSA không phải
là một
người phụ nữ bình thường, mà là một người phụ nữ rất hấp dẫn.
- À không -
Becker bối rối - Tôi chi….
- Tên tôi
là Susan Fletcher - Người phụ nữ mỉm cười, chìa cánh tay mảnh dẻ ra bắt
tay anh.
Họ siết tay
nhau.
- Còn tôi
là David Becker.
- Xin chúc
mừng anh, Becker. Nghe nói hôm nay anh đã làm việc rất tốt. Tôi nói
chuyện với
anh một lúc được không?
Becker hơi
e ngại.
- Thực ra,
bây giờ tôi đang vội - Anh nghĩ có lẽ từ chối lãnh đạo của cơ quan tình
báo quyền
lực nhất thế giới là một hành động ngốc nghếch. Song chi còn 45 phút
nữa là trận
đấu bóng bắt đầu, và anh không muốn để danh tiếng của mình bị ảnh
hưởng:
David Becker chưa bao giờ tới muộn một trận bóng quần nào. Tới giảng
đường muộn
thì còn có thề chứ tới sân đấu muộn thì không bao giờ.
- Tôi sẽ
nói ngắn gọn thôi - Susan Eletcher mỉm cười - Xin mời anh đi đường này.
Mười phút
sau, Becker đã ở trong quầy căng tin của NSA thưởng thức món bánh
vỏ sò và
nước quả man việt quất cùng với nữ chuyên gia mật mã xinh đẹp của
NSA, Susan
Fletcher. David nhận ra rằng không phải nhờ may mắn mà vị quan
chức NSA
cao cấp 38 tuổi này được thăng chức - đây là một trong những người
phụ nữ
thông minh nhất mà anh từng gặp. Và khi hai người cùng thảo luận về mật
mã và bẻ
khoá mật mã, Becker đã phải hết sức cố gắng mới nắm bắt được những gì
Susan nói -
một chân trời kiến thức mới mẻ và thú vị đang mở ra trước mắt anh.
Một giờ
sau, khi mà Becker đã không thể nào tới kịp giờ trận bóng quần nữa, và
Susan thì
rõ ràng cũng đã quên mất cả công việc chỉ huy thường ngày của mình, vì
họ đều đang
cười nói rất vui vẻ. Cả hai nhà trí thức - hai bộ óc có khả năng tư duy
phân tích
tuyệt vời, vẫn thường được xem là "miễn nhiễm" với những rung động
đời thường
- nay lại đang ngồi cùng nhau tán gẫu.
Cùng nhau
nói chuyện về hình thái học trong ngôn ngữ hay các cỗ máy tạo ra những con số
có vẻ ngẫu nhiên, họ tưởng như được quay lại thời niên thiếu của
mình - cuộc
đời bỗng trở nên thật tươi đẹp.
Susan không
đề cập tới lý do thực sự cô muốn nói chuyện với David Becker - mời
anh thử
việc tại Ban Mật mã châu Á. Qua những lời kể say sưa của vị giáo sư trẻ
tuổi, cô
hiểu rằng anh sẽ không bao giờ từ bỏ giảng đường. Susan quyết định sẽ
không bàn
chuyện công việc vì sợ phá hỏng bầu không khí đang vui vẻ của buổi
nói chuyện
này. Cô cảm thấy mình như được trở lại làm một cô nữ sinh trẻ trung;
không gì
được phép làm hỏng điều này. Và cũng không có gì xảy ra thật.
Mối quan hệ
giữa họ ngày càng trở nên lãng mạn - những lúc tranh thủ trốn đi chơi
nếu lịch
làm việc cho phép, những buổi đi bộ kéo dài trong khuôn viên trường
Georgetown,
những buổi tối khuya đi uống cà phê ở Merlutti, và đôi khi cả những
giờ giảng
bài, những đêm hoà nhạc. Chưa bao giờ Susan nghĩ mình có thể cười
nhiều đến
thế. Dường như chẳng có gì mà David lại không thể biến thành một câu
chuyện đùa.
Đây quả là những phút thư giãn vô giá cho cô sau những giờ làm việc
căng thẳng
tại NSA.
Một buổi
chiều thu se lạnh, họ ngồi bên nhau, cùng xem đội bóng đá trường
Georgetown
bị đội Rutgers cho thua liểng xieng.
- Anh bảo
là chơi môn gì ấy nhỉ - Susan trêu chọc – Zucchini à?
Becker rên lên.
- Tên nó là
bóng quần.
Cô nhìn anh
vẻ không hiểu.
- Nó cũng
hơi giống với zucchini - anh giải thích - nhưng sân chơi của nó nhỏ hơn.
Susan đẩy
nhẹ anh.
Cầu thủ
chạy cánh trái của đội Georgetown vừa đá quả phạt góc đi trượt ra ngoài
đường biên,
đám đông khán giả ồ lên tiếc nuối. Các cầu thủ hậu vệ chạy nhanh về
sân nhà.
- Thế còn
em thì sao - Becker hỏi - Em chơi môn gì không?
- Em có đai
đen môn Stairmaster đấy nhé.
Becker ra
vẻ khúm núm.
- Anh thích
những môn thể thao đối kháng cơ!
Susan cười:
- Cả hai
chúng ta đều thật hiếu thắng. Cầu thủ hậu vệ ngôi sao của Georgetown vừa chặn
được một quả chuyền bóng của
đối phương
khiến khán giả đồng loạt vỗ tay tán thưởng. Susan nghiêng người qua,
thì thầm
vào tai David.
- Thưa ngài
tiến sỹ.
Anh quay
lại, nhìn cô đắm đuối.
- Thưa ngài
tiến sỹ - cô lặp lại - Ngài hãy nói từ đầu tiên mình nghĩ tới nhé!
Becker nhìn
cô vẻ nghi ngờ.
- Trò đoán
tính cách qua từ ngữ à?
- Một thủ
tục kinh điển của NSA đấy. Em muốn biết mình đang làm bạn với một
người như
thế nào - Cô nhìn lại anh đầy nghiêm nghị. "Ngài Tiến sỹ.
Becker nhún
vai.
- Bắt đầu
đi.
Susan nhíu
mày.
- Ok, thử từ
này xem… "nhà bếp"… Anh nói luôn.
- Phòng
ngủ.
Susan nhướn
mắt duyên dáng.
- Được rồi,
thế từ này thì sao… - Mèo..
- Ruột - Becker trả lời.
- Ruột á?
- Ừ đúng
rồi. Ruột mèo. Loại dây vợt bóng quần tốt nhất đấy.
- Tuyệt đấy
- Cô khẽ nói.
- Em đang
phân tích anh đấy à - Becker khẽ hỏi.
Nghĩ một
phút, Susan trả lời.
- Anh ngây
ngô và là một tay chơi bóng quần cừ khôi nhưng lại không có nhiều khả
năng về
chuyện ấy!
Becker nhún
vai:
- Cũng có
vẻ đúng đấy.
Cứ thế
trong nhiều tuần lễ, lúc ăn tráng miệng sau những bữa tối kéo dài suốt đêm,
Becker
không ngừng hỏi Susan.
- Tại sao
em lại học toán?
- Sao cuối
cùng em lại làm cho NSA?
- Em có bí
quyết gì mà quyến rũ thế? Susan đỏ mặt thú nhận cô dậy thì rất muộn. Khi nhìn
thấy vóc dáng cao gầy lêu đêu
và vụng về
thủa thiếu nữ của Susan; bà cô Clara của cô đã bảo rằng để bù lại cho
thân hình
khẳng khiu xấu xí cô được Chúa ban cho một bộ óc siêu việt. Quả là một
sự đền bù
không cần thiết, Becker thầm nghĩ..
Susan bắt
đầu quan tâm tới ngành mật mã từ khi còn học cấp hai. Một học sinh xuất
sắc học lớp
8 tên là Frank Gutmann - chủ tịch câu lạc bộ tin học của trường đã tặng
cô một bài
thơ tình trong đó các chữ cái đã được thay thế bằng các con số. Dù
Susan đã vật
nài Frank cho biết bài thơ nói gì nhưng anh chàng này cứ ỡm ờ tử chối
không chịu
nói. Cầm bài thơ mật mã về nhà, Susan đã thức trọn đêm đó dưới ánh
đèn bàn để
tìm hiểu cho tới khi cô đã phát hiện ra bí mật của bài thơ - mỗi một con
số đều đại
diện cho một chữ cái nào đó. Cô giải mã bức thư thật cân thận và sững
sờ nhìn
thấy những con số tưởng chừng như được sắp xếp ngẫu nhiên dần chuyên
thành một
áng thơ tuyệt đẹp. Ngay trong giây phút đó cô biết mình đã yêu - tình
yêu với
ngành mật mã. Các đoạn mã và việc viết mật mã đã trở thành một phần của
cuộc đời
cô.
Gần 20 năm
sau, khi nhận bằng thạc sỹ toán học từ Đại học Johns Hopkins và vửa
hoàn thành
khoá học ngành lý thuyết số với một học bổng toàn phần của MITI, cô
thực hiện
đề tài nghiên cứu sinh của mình: Các Phương pháp viết mã, Giao thức và
Thuật toán
để ứng dụng Thủ công. Dường như vị giáo sư hướng dẫn không phải là
người duy
nhất đọc luận văn của cô; sau một thời gian ngắn Susan nhận được một
cú điện
thoại và một tấm vé máy bay từ NSA.
Bất cứ ai
làm việc trong ngành mật mã đều biết tới NSA; đó là nơi tụ hội của
những
chuyên gia mật mã tài năng nhất thế giới. Hàng năm, vào mùa xuân, khi các
công ty tư
nhân muốn tìm kiếm những bộ óc tài năng nhất về làm việc cho mình
với những
mức lương và phương án cổ phiếu cực kỳ hấp dẫn, NSA luôn quan sát
rất kỹ, lựa
chọn người ưng ý rồi đơn giản là chen vào và đưa ra mức quyền lợi cao
gấp đôi các
công ty kia.
Run rẩy vì
hồi hộp, Susan tới Sân bay Quốc tế Dulles từ Washington. Tại đây cô
được một
người lái xe của NSA đưa ngay tới Fort Meade.
Năm đó, 41
người khác cũng nhận được cùng một cuộc điện thoại như cô. 28 tuổi,
Susan là
người trẻ nhất và cũng là người phụ nữ duy nhất. Hoá ra lần này họ được
gọi tới để
được cung cấp thông tin và kiểm tra trí thông minh chứ không phải để kiểm tra
các thông tin cá nhân. Một tuần sau, Susan cùng sáu người khác được mời
quay lại.
Hơi lưỡng lự đôi chút, Susan quyết định nhận lời. Ngay lập lức nhóm sáu
người được
chia ra rồi trải qua các bài kiểm tra sức khoẻ bằng máy ghi điện tâm đồ,
tìm hiểu
các thông tin cá nhân, phân tích chữ viết, rồi những cuộc phỏng vấn dài
đằng đẵng,
trong đó có cá các câu hỏi được ghi âm lại tìm hiểu về thói quen và xu
hướng của
họ trong sinh hoạt tình dục. Susan đã suýt bỏ đi ngay khi được hỏi đã
bao giờ
quan hệ với động vật chưa, tuy nhiên một sức mạnh bí ẩn nào đó - viễn
cảnh được
đắm mình trong môi trường nghiên cứu mật mã cực kỳ chuyên nghiệp,
được bước
vào "Lâu đài bí mật", và được trở thành thành viên của tổ chức bí ẩn
nhất thế
giới: Cơ quan An ninh Quốc gia - NSA - đã giữ chân cô lại.
Becker ngồi
chăm chú lắng nghe câu chuyện của cô.
- Họ hỏi em
là đã làm chuyện ấy với động vật chưa thật à?
Susan nhún
vai.
- Thì đấy
là một phần trong bài kiểm tra về thông tin cá nhân mà.
- Thế à… -
Becker cố nhịn cười - Thế em trả lời thế nào?
Cô đá vào
chân anh ở dưới gầm bàn.
- Em trả
lời là chưa! - Rồi cô nói thêm - nhưng mà đến đêm qua thì rồi đấy.
*** Trong
mắt của Susan, David gần như là hoàn hảo, chỉ trừ một điểm duy nhất
cô không
thích: lần nào họ đi chơi, anh cũng giành phần trả tiền cho bằng được.
Susan ghét
nhìn thấy cảnh anh phải dốc cả ngày lương vào bữa tối cho hai người
nhưng không
thể thay đổi được Becker. Susan biết mình không nên phản đối, song
cô vẫn
không thích như vậy. Em kiếm được nhiều tiền tới mức không biết tiêu vào
đâu cho
hết, cô nghĩ. Để em trả mới đúng chứ.
Tuy nhiên,
Susan nghĩ rằng. ngoại trừ cung cách ga lăng đã lỗi thời này, David là
một người
hoàn hảo. Anh bao dung, thông minh, hài hước, và trên tất cả, anh thực
sự quan tâm
tới công việc của cô. Bất kể lúc nào bên cô: trong những chuyến đi
chơi tới Smithsoniani,
khi đi dạo bằng xe đạp, hay khi đang nấu món spaghetti ở
nhà Susan,
David luôn tỏ ra tò mò. Susan trả lời anh những câu hỏi nào có thể và
cho David
nghe những thông tin chung chung, không phải là tuyệt mật về Cơ quan
An ninh
Quốc gia - những điều khiến David say mê lắng nghe.
NSA được cố
Tổng thống Truman thành lập lúc 12:01 trưa ngày 4 tháng 11 năm
1952 và đã
trở thành cơ quan tình báo hoạt động bí mật nhất thế giới trong vòng gần 50 năm
qua. Tôn chỉ thành lập của NSA dài bảy trang đề ra một nhiệm vụ rất
rõ ràng:
bảo vệ các thông tin liên lạc của chính phủ Hoa Kỳ và ngăn chặn các thông
tin phá
hoại của các thế lực nước ngoài.
Trên mái
của toà nhà trung tâm điều hành NSA được "trang trí" bằng hơn 500
chiếc
ăng ten,
trong đó có 2 mái che ăng ten giống như những quả bóng golf khổng lồ.
Bản thân
toà nhà cũng khổng lồ không kém với hơn hai triệu feet vuông diện tích,
rộng gấp
đôi tổng hành dinh CIA. Bên trong cơ ngơi đồ sộ ấy là hệ thống đường
dây điện
thoại dài 8 triệu feet và 80 triệu feet vuông tổng diện tích các ô cửa sổ
được gắn cố
định.
Susan kể
cho David nghe về COMINT- bộ phận do thám toàn cầu của NSA - nơi
tập trung
một con số không thể tưởng tượng nổi các trạm thu thập thông tin về đối
tượng, các
vệ tinh, các điệp viên và các điểm nghe lén điện thoại có mặt khắp nơi
trên thế
giới. Hàng ngày có hàng nghìn tài liệu chính thức của các cơ quan và các
cuộc đàm
thoại bị thu trộm. Toàn bộ chúng được chuyển tới cho các chuyên gia
NSA giải
mã. FBI, CIA, và cả các cố vấn chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đều
dựa rất
nhiều vào hoạt động tình báo của NSA để đưa ra các quyết định của mình.
Becker say
sưa lắng nghe câu chuyện.
- Thế còn
việc giải mã? Vai trò của em trong đó là gì?
Susan giải
thích với anh rằng các thông tin được thu lén đều xuất phát từ các chính
phủ, đảng
phái nguy hiểm, hiếu chiến, hay các nhóm khủng bố. Rất nhiều trong số
này có căn
cứ ngay tại Hoa Kỳ (Các thông điệp của họ đều được mã hoá nhằm đảm
bảo bí mật
trong trường hợp bị lọt ra ngoài, điều này thì lại thường xuyên xảy ra
nhờ sự có
mặt của COMINT). Susan nói với David rằng công việc của cô là nghiên
cứu các
đoạn mã, bẻ khoá chúng rồi chuyển cho NSA các văn bản gốc. Nhưng sự
thực không
hoàn toàn là như vậy.
Susan cảm
thấy hơi áy náy vì đã nói dối người yêu, nhưng không thể làm khác.
Một vài năm
trước điều này là đúng, song giờ đây ở NSA mọi thứ đã thay đổi.
Toàn bộ thế
giới mật mã đã thay đổi. Giờ đây nhiệm vụ mới của Susan là tuyệt mật,
ngay cả với
nhiều người có quyền lực nhất.
- Các đoạn
mã - Becker nói không dấu nổi vẻ tò mò - Làm sao em biết phải bắt đầu
từ đâu? Ý
anh là… làm sao em phá được chúng?
Susan mỉm
cười. - Ai cũng hỏi câu này. Nó cũng giống như việc học một ngoại ngữ thôi. Lúc
đầu
đoạn văn
bản tưởng như chẳng đâu vào đâu cả. Nhưng khi đã học các quy luật để
hiểu cấu
trúc của nó rồi, anh sẽ bắt đầu hiểu được nghĩa đoạn văn.
Becker gật
đầu có vẻ rất thán phục. Anh còn muốn biết nhiều hơn.
Rồi trong
những lần đi ăn ở Merlutti và đi nghe hoà nhạc, Susan đã dành cho anh
chàng giảng
viên đại học đáng yêu của mình một khoá đào tạo nho nhỏ về ngành
mật mã. Cô
bắt đầu với câu chuyện về chiếc hộp mật mã "hình vuông tuyệt đối"
của hoàng
đế Caesar.
Theo Susan,
Caesar chính là người đầu tiên trong lịch sử loài người phát minh ra
mật mã. Sau
khi những người đưa tin của ông bị địch mai phục và lấy đi những tài
liệu mật,
ông đã nghĩ ra một phương pháp thô sơ để mã hoá các chỉ thị của mình.
Ông sắp xếp
lại các chữ cái trong thông điệp của mình sao cho người khác nhìn vào
tưởng như
chúng không có nghĩa gì. Tất nhiên không phải vậy. Mỗi thông điệp của
ông đều có
số chữ cái là một số bình phương: 16, 25, hay 100 tuỳ theo độ ngắn dài
của thông
điệp mà ông muốn truyền tải. Sau đó Caesar bí mật báo cho thuộc hạ của
mình biết
khi họ nhận được một bức thư dưới dạng mật mã thì hãy xếp các chữ cái
của nó lên
một hình vuông. Nếu làm đúng như vậy rồi đọc từ trên xuống dưới, nội
dung bức thư
mật sẽ hiện ra như một phép màu.
Theo thời
gian, ý tưởng của Caesar về việc sắp xếp lại các đoạn văn bản để mã hoá
chúng đã
được những người khác học tập và phát triển thêm sao cho khó phá hơn.
Công nghệ
giải mã không sử dụng máy tính đã đạt tới đỉnh cao trong thời gian Thế
chiến II.
Phát xít
Đức đã chế tạo được một cỗ máy chuyên mã hoá hết sức hiệu quả tên là
Enigma.
Thiết bị này trông giống một máy chữ kiểu cũ với rôto khoá liên trục bằng
đồng quay
theo các chiều hết sức phức tạp và chuyển một đoạn văn bản gốc thành
những dòng
ký tự lộn xộn. Phải dùng một cỗ máy Enigma khác và làm ngược lại
thật chính
xác quá trình mã hoá ban đầu, người nhận mới có thể đọc được thông
điệp.
Becker chăm
chú lắng nghe như hút hồn vào câu chuyện. Giảng viên đại học giờ
đây lại trở
thành sinh viên.
Một đêm,
trong một buổi diễn kịch của sinh viên trường Georgetown, Susan đưa
cho David
đoạn mã đầu tiên để thử bẻ khoá. Trong suốt thời gian nghỉ giải lao, tay anh
cầm bút, vắt óc suy nghĩ về đoạn mã có 17 chữ cái.
HL FKZC VD
LDS Cuối cùng, đúng lúc màn vừa kéo lên bắt đầu phần hai vở kịch,
anh tìm
được câu trả lời. Hoá ra Susan chỉ thay thế mỗi chữ cái trong đoạn mã bằng
một chữ cái
đứng trước nó trong bảng chữ cái.
Để giai mã,
Becker chỉ việc làm ngược lại, chữ "A" thì thành "B" -
"B" thì thành
"C"
- và cứ thế. Anh nhanh chóng giải mã toàn bộ bức thông điệp. David không thể
tưởng tượng
nổi chỉ mấy từ ngắn gọn lại có thể khiến anh vui mừng đến thế.
THẬT VUI
ĐƯỢC GẶP ANH Anh viết thật nhanh câu trả lời của mình và đưa lại
cô:
YMG BTMH
UYV Susan đọc và cười thật rạng rỡ.
Becker cũng
bật cười; anh đã 35 tuổi và trái tim của anh đã bắt đầu biết rung động.
Chưa có
người phụ nữ nào có sức cuốn hút với anh lớn đến thế. Những đường nét
châu Âu
duyên dáng và đôi mắt nâu thanh tao của cô làm anh nhớ tới một mẩu
quảng cáo
cho mỹ phẩm Estee Lauder.
Nếu như
dáng người Susan hồi cô còn là thiếu nữ cao gầy tới mức vụng về thì bây
giờ đã khác
hẳn. Cô giờ đây mảnh mai, quyến rũ một cách yểu điệu với bầu ngực
tròn đầy,
căng chắc và một vòng eo thật mảnh mai. David vẫn đùa gọi cô là người
mẫu áo tắm
đầu tiên có bằng tiến sỹ về ngành toán ứng dụng và lý thuyết số.
Sau một
thời gian, cả hai cùng nhận ra họ đã tìm thấy một thứ quý giá cho suốt
quãng đời
còn lại của mình.
Yêu nhau
được gần 2 năm thì, thật bất ngờ, David ngỏ lời cầu hôn. Đó là vào một
kỳ nghỉ
cuối tuần ở vùng Smoky Mountains.
Họ đang ở
khách sạn Stone Manor. Không có chiếc nhẫn nào để tặng cô, anh chỉ
đột nhiên
thốt ra lời cầu hôn. Đó chính là điều khiến cô yêu anh - anh luôn thực
hiện ngay
những ý tưởng của mình. Susan hôn anh thật lâu, thật say đắm. Anh ôm
cô trong
vòng tay, và cởi nút thắt chiếc váy ngủ của Susan.
- Anh coi
đây là câu trả lời đồng ý đấy nhé - anh nói.
Họ đã có
một đêm thật mặn nồng bên lò sưởi ấm áp.
Đã sáu
tháng trôi qua kể từ đêm tuyệt diệu đó – trước khi David đột ngột được đề
bạt làm
Trưởng Khoa Ngôn ngữ Hiện đại. Kể từ đó quan hệ của họ ngày càng
xuống dốc.
Chú thích:
(1) "Cơ quan không tồn tại" - Tiếng Anh (Người dịch) Chương 4
Tiếng bíp
của cánh cửa vào trung tâm Crypto kéo Susan về với thực tại. Cánh cửa
đã mở hoàn toàn
và sẽ đóng lại trong 5 giây nữa sau khi đã quay đủ 360o. Susan cố
lấy lại
thăng bằng và bước qua cửa. Một chiếc máy tính ghi lại việc cô đã bước vào.
Dù đã làm
việc ở Crypto được 3 năm ngay từ ngày nó bắt đầu đi vào hoạt động, cô
vẫn bị
choáng ngợp bới sự bề thế của nó.
Chính tâm
của Crypto là một gian phòng khồng lồ hình tròn có chiều cao tương
đương với
toàn bộ khu nhà năm tầng. Đỉnh vòm nhà trong suốt cao tới 120 feet.
Vòm nhà làm
bằng nhựa Plexiglas được bọc ngoài bằng tấm lưới polycarbonate -
một loại
lưới bảo vệ chịu được áp lực lên tới 2000 tấn. Qua những tấm kính lọc
sáng, ánh
nắng mặt trời trông như những viền đăng ten tưyệt đẹp dát trên các bức
tường. Hệ
thống chống ion hoá cực mạnh của vòm nhà làm những hạt bụi nhỏ li ti
bị hút lên theo
những đường xoắn trôn ốc.
Nằm giữa
sàn nhà, là một cỗ máy mà để chứa nó người ta đã phải xây cái vòm này
trông như
đầu một quả ngư lôi khồng lồ. Lớp vỏ đen bóng của nó vươn cao tới 7
mét, chưa
kể phần thiết kế chìm dưới sàn nhà không thể nhìn thấy được. Với vỏ
ngoài mềm
mại và hình dáng cong cong, trông nó hơi giống một con cá heo to lớn
đang tung
mình khỏi mặt đại dương giá lạnh thì đột nhiên bị đông cứng.
Đó chính là
cỗ máy TRANSLTR, chiếc máy tính đặc biệt nhất và cũng là đắt tiền
nhất trên thế
giới - một cỗ máy mà NSA đã thề thốt với thế giới bên ngoài rằng nó
không bao
giờ tồn tại.
Giống như
một táng băng, 90 phần trăm khối lượng và sức mạnh của cỗ máy được
ẩn chứa bên
dưới sàn nhà. Bí mật của nó được bao bọc trong một toà tháp sứ cao
tới 6 tầng
chạy thẳng từ sàn nhà xuống - một kết cấu trông như quả rocket khổng lồ
được bao
quanh bằng một mê cung những lối đi nhỏ hẹp quanh co, những đường
dây cáp,
trong tiếng rít của hơi nước thoát ra từ hệ thống tản nhiệt dùng khí freon.
Máy phát
điện đặt bên dưới cỗ máy chỉ phát ra những âm thanh nhỏ, trầm và làm
không gian
bên trong Crypto luôn luôn tĩnh lặng đến rợn người.
Sự ra đời
của TRANSLTR, cũng như các thành tựu công nghệ vĩ đại khác, xuất
phát từ yêu
cầu thực tế. Trong những năm 80 của thế kỷ XX, một cuộc cánh mạng
to lớn
trong ngành viễn thông đã diễn ra và có khả năng thay đổi hoàn toàn thế giới
tình báo - sự bùng nổ của Internet. Cụ thể hơn, đó chính là sự xuất hiện của
thư
điện tử.
Bọn tội
phạm, khủng bố, và các gián điệp ngày càng lo ngại hơn về khá năng
những cuộc
điện thoại của mình bị nghe lén và ngay lập tức đã chộp lấy loại
phương tiện
liên lạc toàn cầu này. Thư điện tử có độ bao mật ngang với thư tín
thường và
tốc độ truyền phát nhanh như điện thoại. Do các tín hiệu được truyền đi
theo các
đường ống cáp quang ngầm dưới đất chứ không phải theo các sóng trên
không
trung, chúng sẽ không bao giờ bị lấy cắp, hay ít nhất là người ta cũng nghĩ
thế.
Trên thực
tế, việc đánh cắp thông tin từ những bức thư điện tử truyền đi trên
Internet
chỉ là trò trẻ con đối với các chuyên gia công nghệ của NSA. Mạng
Internet
thật ra không phải là một phát minh về máy tính dùng cho mục đích gia
đình như
nhiều người vẫn nghĩ.
Ba thập kỷ
trước, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã tạo ra nó - một mạng lưới máy tính
khổng lồ
được thiết kế đề đảm bảo việc liên lạc bí mật của chính phủ nếu chiến
tranh hạt
nhân nổ ra. Nhân viên của NSA chính là những chuyên gia Internet lõi
đời. Những
kẻ làm việc phi pháp dùng thư điện tử để liên lạc nhanh chóng hiểu ra
những thông
tin bí mật của chúng không được an toàn cho lắm. Cùng với sự giúp
đỡ của các
hacker đầy kinh nghiệm của NSA, FBI, DEA, IRS và các cơ quan quyền
lực khác
của Hoa Kỳ đã thực hiện thành công nhiều vụ bắt giữ và ngăn chặn kịp
thời các âm
mưu phạm tội. Tất nhiên khi những người sử dụng máy tính trên toàn
thế giới
phát hiện ra rằng chính phủ Hoa Kỳ có thể dễ dàng can thiệp vào việc trao
đổi thư
điện tử của họ, một làn sóng phản đối dữ dội đã nổi lên. Có những người
chỉ dùng thư
điện tử vào mục đích giải trí - kết bạn chẳng hạn - cũng cảm thấy sự
riêng tư
của họ bị đe doạ.
Trên toàn
cầu, các nhà lập trình chuyên nghiệp bắt đầu tìm cách làm thư điện tử trở
nên bí mật
hơn. Và họ đã không mất nhiều thời gian để tìm ra một phương pháp -
chìa khoá
mật mã đã ra đời.
Chìa khoá
mật mã công cộng là một phát kiến đơn giàn nhưng đầy tính trí tuệ. Đó
chính là
những phần mềm dùng cho máy tính gia đình, dễ sử dụng, có nhiệm vụ
xáo trộn
các chữ cái trong một bức thư điện tử thành một đoạn những ký tự sao cho
người khác
nhìn vào không thể đọc được. Người sử dụng chỉ cần viết một bức thư và cho
chương trình xử lý. Sản phẩm đầu ra sẽ là một tập hợp những ký tự tưởng
chừng được
sắp xếp một cách ngẫu nhiên, hoàn toàn vô nghĩa - nói cách khác, nó
đã trở
thành một đoạn mã. Bất cứ ai lấy trộm được bức thư này cũng chi thấy trên
màn hình
hiện ra những dòng ký tự chẳng có ý nghĩa gì.
Chỉ có một
cách duy nhất để người nhận đọc được bức thư đã mã hoá là nhập vào
"chìa
khoá mật mã" - một tập hợp các chữ cái có chức năng giống các con số trong
mã PIN của
máy rút tiền tự động ATM. Các chìa khoá mật mã thường khá dài và
phức tạp,
chúng mang đầy đủ các thông tin cần thiết để giúp thuật toán mã hoá hiểu
được các
phép toán cần thực hiện để tái tạo lại bức thư gốc.
Bây giờ.
người dùng đã có thể tự tin gửi đi bức thư điện tử của mình. Kể cả người
khác lấy
cắp được bức thư thì họ cũng không thể đọc được thông tin bên trong nếu
không có
mật mã.
Ngay lập tức
NSA nhận ra mối đe doạ từ những phần mềm như thế này. Những
đoạn mã họ
phải giải được không còn là những con số được thay thế một cách đơn
giản, có
thể giải quyết chỉ với bút chì và giấy trắng được nữa. Chúng bây giờ đã là
những hàm
số phức tạp được máy tính tạo ra với những quy luật hỗn độn và các
dòng ký tự,
ký hiệu dài lê thê nhằm biến các lá thư thành những chuỗi ký tự ngẫu
nhiên tưởng
như không có cách nào khôi phục được.
Thời gian
đầu, những chìa khoá mật mã vẫn đủ ngắn để máy tính của NSA "đoán"
được. Nếu
chìa khoá có 10 con số, một chiếc máy tính đã được lập trình sẽ thử tất
cả các khả
năng từ 0000000000 tới 9999999999. Sớm hay muộn thì dãy số đó cũng
sẽ được tìm
ra.
Phương pháp
đoán thử - và - lỗi này còn được gọi là "tấn công bằng vũ lực" Dù mất
thời gian
song về mặt lý thuyết nó đảm bảo sẽ có hiệu quả.
Khi mà thế
giới đã phát triển hoàn thiện công nghệ bẻ khoá bằng phương pháp
đoán thử
này rồi thì các đoạn mã chìa khoá ngày càng trở nên dài hơn. Thời gian
máy tính
cần để đoán được chìa khoá tăng dần từ hàng tuần lên hàng tháng và cuối
cùng là
hàng năm trời.
Tới những
năm 90, các chìa khoá mật mã đã dài quá 50 ký tự và sử dụng toàn bộ
bảng mẫu tự
ASCII có 256 ký tự gồm các chữ cái, con số và ký hiệu. Tồng số các
khả năng
máy tính phải thử lên tới khoảng 10120 - tức 10 và 120 số 0 đằng sau.
Trên thực
tế, việc đoán trúng đoạn mã mong muốn chẳng khác gì tìm đúng một hạt cát giữa
bãi biển dài 3 dặm. Người ta đã tính toán rằng để đoán thành công một
chìa khoá
chuẩn có dung lượng 64 bit, chiếc máy tính nhanh nhất của NSA = chiếc
máy tối mật
mang tên Cray/Josephson II- phải chạy trong 90 năm liên tục. Với tốc
độ này. khi
đã được bẻ khoá rồi thì nội dung bức thư cũng đã chẳng còn giá trị gì
nữa.
Trước tình hình
hết sức u ám của các hoạt động tình báo. NSA đã ra một chỉ thị và
được Tổng
thống Hoa Kỳ phê chuẩn. Dưới sự hỗ trợ tài chính của ngân sách liên
bang và
được quyền làm tất cả những gì cần thiết để giải quyết vấn đề, NSA bắt tay
vào thực
hiện một điều không tưởng: thiết kế một cỗ máy giải mã toàn cầu đầu tiên
trên thế
giới.
Mặc dù vấp
phải sự phản đối của nhiều kỹ sư cho rằng một cỗ máy như vậy là
không thể
chế tạo được, NSA vẫn tiến hành công việc với phương châm của mình:
Không gì là
không thể. Điều không thể chỉ làm mất thời gian hơn thôi.
Sau 5 năm
làm việc với nửa triệu giờ công và ngân sách tiêu tốn trị giá 1,9 tỉ đô la,
một lần
nữa. NSA chứng minh được phương châm của mình là đúng. Cái cuối cùng
trong tập
hợp 3 triệu bộ vi xử lý nhỏ bằng con tem đã được gắn vào vị trí trong một
lớp vỏ sứ.
TRANSLTR đã
ra đời.
Mặc dù cơ
chế hoạt động bí mật bên trong TRANSLTR là sản phẩm của nhiều bộ
óc và không
một mình người nào hiểu rõ được nó, nguyên tắc cơ bản của cỗ máy
thì thật
đơn giản: Nhiều người cùng làm thì công việc sẽ nhẹ nhàng.
Cả ba triệu
bộ vi xử lý của cỗ máy cùng làm việc song song, kết quả của chúng
được cộng
dồn dần với một tốc độ chóng mặt để thử qua tất cả các tổ hợp gặp phải.
Người ta hi
vọng rằng kể cả những chìa khoá mật mã khổng lồ tới mức không
tưởng nhất
cũng phải chịu thua sự kiên trì của TRANSLTR. Kiệt tác điện tử trị giá
hàng tỉ đô
la này sử dụng sức mạnh của việc xử lý song song cùng với một số tiến
bộ tối mật
để phân tích văn bản gốc nhằm đoán ra chìa khoá mật mã và bẻ khoá
bức thông
điệp. Sức mạnh của nó không chỉ nằm ở con số khổng lồ các bộ vi xử lý
mà còn ở
những tiến bộ mới mẻ trong ngành máy tính lượng tử - một công nghệ
đang phát
triển cho phép thông tin được lưu trữ dưới dạng cơ khí lượng tứ chứ
không chỉ ở
dạng dữ liệu nhị phân.
Khoảnh khắc
được mong đợi đã tới, đó là vào một buổi sáng thứ 5 của tháng 10. Một ngày bão
tố: Bài kiểm tra sát hạch đầu tiên. Dù chưa ai dám chắc cỗ máy sẽ xử
lý nhanh
tới mức nào, song tất cả các kỹ sư chế tạo đều nhất trí: nếu tất cả các bộ vi
xử lý cùng
hoạt động song song; TRANSLTR sẽ trở nên cực kỳ mạnh mẽ. Vấn đề
là mạnh mẽ
tới mức nào.
Mọi người
đã có câu trả lời chỉ sau 12 phút. Tất cả lặng đi sững sờ khi chiếc máy in
bắt đầu bắt
đầu hoạt động và cho ra bức thông điệp hoàn chỉnh - chìa khoá mật mã
đã được
phá. TRANSLTR đã đoán thành công đoạn mã dài 64 ký tự trong vòng
chưa tới 10
phút, nhanh gấp gần 1 triệu lần cỗ máy hiện đại nhất của NSA 2 thập
kỷ trước.
Dưới sự chỉ
đạo của phó tổng giám đốc điều hành, Trevor J. Strathmore - người
được nhân
viên dưới quyền gọi là "Ngài chỉ huy", Phòng sản xuất của NSA đã
thành công
rực rỡ. TRANSLTR là một thành tựu vĩ đại. Tuy nhiên, để giữ bí mật
về thành
công này, ngài chỉ huy ngay lập tức để "rò rỉ" thông tin ra ngoài
rằng dự
án đã hoàn
toàn thất bại. Bây giờ tất cả các hoạt động của trung tâm Crypto là để cố
gắng gỡ gạc
lại 2 tỉ đô la đã phung phí. Chỉ có những nhân vật có vai vế trong NSA
mới được
biết sự thật: mỗi ngày TRANSLTR bẻ khoá hàng trăm bức thông điệp.
Với tin đồn
rằng các đoạn mã do máy tính tạo ra là không thể bị phá vỡ, kể cả tồ
chức quyền
lực nhất là NSA cũng phải bó tay - dòng thông tin bí mật từ bên ngoài
đổ vào NSA
ngày càng lớn.
Những trùm
buôn ma tuý, bọn khủng bố, bọn tham ô - tất cả những kẻ luôn luôn lo
sợ cuộc nói
chuyện qua điện thoại của mình có thể bị nghe lén - đều đổ xô vào sử
dụng thư
điện tử có mã hoá - công cụ liên lạc tức thì toàn cầu. Họ tưởng không bao
giờ còn
phải lo tới chuyện đối mặt với bồi thẩm đoàn, không bao giờ phải nghe lại
giọng nói
bị ghi lén của mình - bằng chứng của những cuộc đàm thoại bị thu lại
bằng vệ
tinh của NSA.
Hoạt động
tình báo chưa bao giờ dễ dàng đến thế. Những đoạn mã hoàn toàn vô
nghĩa thu
được, được nhân viên NSA nhập vào và TRANSLTR cho ra những đoạn
văn bản
hoàn toàn đọc được chỉ trong ít phút sau. Không còn điều gì là bí mật nữa.
Để làm mọi
người tin chắc hơn rằng mình đã thất bại, NSA phản đối một cách dữ
dội sự ra
đời của bất kỳ phần mềm mã hoá bằng máy tính mới nào. Lý do NSA đưa
ra là những
phần mềm này làm tê liệt các hoạt động của họ và khiến các nhà chức
trách không
thể bắt và truy tố những tên tội phạm. Các nhóm hoạt động nhân quyền hết sức
vui mừng, tuyên bố rằng dù sao đi nữa NSA cũng không được phép xâm
phạm thư
tín của họ. Báo chí vẫn đưa tin đều đều về các phần mềm mã hoá. NSA
đã thất bại
- theo đúng cách mà họ mong muốn. Toàn bộ thế giới điện tử đã mắc
lừa… hay ít
ra thì cũng có vẻ như vậy.
Chương 5
"Mọi
người đâu cả rồi nhỉ" - Susan vừa tự hỏi vừa bước trên sàn nhà trung tâm
Crypto lúc
này không một bóng người. Có việc khẩn cấp mà thế này đây.
Mặc dù hầu
hết các phòng ban của NSA đều có đầy đủ nhân viên làm việc suốt 7
ngày trong
tuần, song thứ Bảy thường vẫn là một ngày im ắng ở Crypto. Những
nhà toán
học mật mã vốn là những người cặm cụi làm việc tới mức căng thẳng, do
đó có một
luật bất thành văn là họ sẽ được nghỉ mọi thứ Bảy chỉ trừ trong trường
hợp khẩn
cấp. Đối với NSA, các chuyên gia bẻ khoá mật mã chính là những của
quý mà họ
không dám mạo hiểm đánh mất.
Khi Susan
đi ngang qua sàn nhà, bóng dáng to lớn của TRANSLTR hiện ra ở bên
phải cô.
Ngày hôm nay, tiếng động phát ra từ máy phát điện nằm 8 tầng bên dưới
vang lên một
cách kỳ lạ như báo trước điềm gì không may. Chưa bao giờ Susan
thích ở lại
Crypto sau giờ làm việc. Cảm giác khi đó giống như bị nhốt trong một
cái lồng
với những con quái vật quý hiếm tới từ tương lai. Cô mảo bước qua phía
phòng ngài
chỉ huy.
Nằm trên
đỉnh một hệ thống những cầu thang nhỏ ở phía sau Crypto, phòng làm
việc có
tường bằng kính của ngài Strathmore có biệt danh là "chậu cá" vì hình
dáng
của nó mỗi
khi những tấm rèm được kéo lên. Vừa bước đi ken két trên cầu thang,
cô vừa nhìn
lên tấm cửa dày bằng gỗ sồi của căn phòng. Trên cánh cửa có hình con
dấu của NSA
- một con đại bàng trọc đầu dữ tợn quắp lấy chiếc chìa khoá kiểu
ngày xưa.
Ngòi đằng sau cánh cửa ấy là một trong những người đàn ông vĩ đại nhất
mà cô từng
biết.
Năm nay đã
56 tuổi, chỉ huy Strathmore đối với Susan cũng giống như một người
cha vậy.
Ông là người đã tuyển dụng cô, và cũng là người đã khiến NSA trở thành
mái nhà của
cô. Mười năm trước, khi Susan gia nhập NSA, Strathmore còn là giám
đốc Phòng
phát triển Crypto - nơi đào tạo những chuyên gia mật mã nam. Mặc dù
Strathmore
chưa bao giờ dung thứ sự lạm dụng với bất cứ ai, ông đặc biệt quan tâm
tới sự an
toàn của nhân viên nữ duy nhất của mình. Khi bị hỏi về sự thiên vị này,
ông chỉ trả
lời đơn giản bằng một sự thật: Susan Fletcher chính là nhân viên tài
năng nhất
mà ông từng có, và ông không muốn để bất cứ ai quấy rối cô. Vậy mà có
lần một gã
chuyên gia đã dại dột thử đùa với quyết tâm của ngài chỉ huy. Một buổi sáng khi
cô mới đi làm chưa được một năm, tình cờ Susan có việc phải
ghé qua
phòng của những anh chàng chuyên gia mật mã trẻ để lấy một số giấy tờ.
Khi đi ra
cô chợt nhìn thấy tấm ảnh của mình dán trên bảng tin cơ quan. Cô lập tức
tái mặt đi
vì xấu hổ. Bức ảnh chụp cô nằm trên giường thật khêu gợi với độc một
chiếc quần
lót.
Khi mọi
chuyện được làm rõ, hoá ra một anh chàng chuyên gia đã scan lại một tấm
ảnh trên
cuốn tạp chí dành cho người lớn và dùng phần mềm đồ hoạ cắt dán phần
đầu của
Susan lên thân người của một cô gái nào đó. Kỹ thuật ghép ảnh của anh
này quả là
tuyệt đỉnh.
Không may
cho anh chàng đó, ngài chỉ huy Strathmore không hề thấy trò đùa này
có gì là
đáng cười. Hai giờ sau, một thông báo được truyền ra:
"NHÂN
VIÊN CARL AUSTIN BỊ BUỘC THÔI VIỆC VÌ ĐÃ CÓ HÀNH VI
XẤU".
Kể từ đó
trở đi, không còn ai dám chòng ghẹo gì cô nữa; Susan Fletcher đã trở
thành cô
gái vàng của ngài chỉ huy Strathmore.
Nhưng Ngài
Strathmore không chỉ được những chuyên gia mật mã trẻ tuổi dưới
quyền kính
trọng; trước đó, ông đã từng được cấp trên để ý tới nhờ việc đề xuất
những hoạt
động tình báo chưa từng có ai thực hiện nhưng lại rất hiệu quả. Khi
được cất
nhắc, ngài Trevor Strathmore lại được biết tới với khả năng phân tích
ngắn gọn
đầy sức thuyết phục của mình trong những tình huống rắc rối. Dường như
ông có một
khả năng phi thường để vượt qua những vấn đề phức tạp về đạo đức
xung quanh
các quyết định khó khăn của NSA và hành động hết sức quyết đoán vì
đại cục.
Không ai có thể nghi ngờ lòng yêu nước của ngài Strathmore.
Đối với các
đồng nghiệp, ông luôn được coi là một công dân trung thành với Tổ
quốc và có
tài nhìn xa trông rộng… một con người đứng đắn giữa thế giới đầy rẫy
những lọc
lừa.
Trong những
năm kể từ khi Susan gia nhập NSA, ngài Strathmore đã thăng cấp
nhanh chóng
từ giám đốc Phòng phát triển Crypto lên vị trí cao thứ nhì của toàn
NSA. Giờ
đây trong NSA chỉ có một người duy nhất đứng trên Ngài chỉ huy
Strathmore
- Giám đốc Leland Fontaine, vị chúa tể huyền thoại của Puzzle Palace -
người chưa
ai từng gặp, ít ai từng nghe nói tới, nhưng tất cả mọi người đều nể sợ.
Rất ít khi
ông này và ngài Strathmore gặp gỡ trực tiếp. Và cuộc gặp mặt của họ, nếu xảy
ra, giống như khi những người khổng lồ chạm trán nhau. Ông Fontaine là
một người
khổng lồ trong những người khổng lồ, nhưng ngài Strathmore có vẻ như
không lưu
tâm tới điều đó. Ông nêu những ý kiến của mình và tranh luận với giám
đốc bằng
tất cả sự cẩn trọng của một võ sỹ quyền anh đang say sưa chiến đấu.
Thậm chí
tới Tổng thống Hoa Kỳ cũng không dám thách thức ông Fontaine theo
cái cách mà
ngài Strathmore đã thách thức. Để làm được điều này, một người phải
có khả năng
""trơ" với các đe doạ chính trị; hay trong trường hợp của ngài
Strathmore:
thái độ lãnh đạm với chính trị.
Susan đã
tới đầu cầu thang. Cô chưa kịp gõ thì bộ khoá điện tử trên cánh cửa phòng
ngài
Strathmore đã kêu lên rì rì. Cửa bật mở, ngài chỉ huy vẫy tay gọi cô vào.
- Cám ơn cô
đã đến, Susan. Tôi nợ cô một lần nhé.
- Không sao
đâu ạ! - Cô cười và ngồi xuống đối diện bàn của ông.
Ngài
Strathmore là một người đàn ông có dáng cao, khá to béo.
Những đường
nét bên ngoài có thể khiến người ta không thể ngờ rằng ông luôn đòi
hỏi hiệu
quả làm việc và vươn tới sự hoàn thiện.
Đôi mắt xám
của ông cho thấy sự tự tin và cẩn trọng có được từ kinh nghiệm làm
việc, nhưng
hôm nay sao trông chúng dại đi và thật bất ổn.
- Nhìn sếp
mệt mỏi quá - Susan nói.
- Ừ, không
thể tệ hơn được - Ngài Strathmore thở dài.
Câu ấy đáng
lẽ phải để mình nói mới đúng chứ, cô nghĩ thầm.
Chưa bao
giờ Susan thấy ngài Strathmore trong tình trạng tồi tệ đến thế. Mái tóc
mỏng màu
xám của ông rối bù; mồ hôi trên trán ông vẫn nhỏ thành từng giọt mặc
dù phòng
đang chạy máy lạnh. Bộ comple của ông nhàu nát như vừa bị dùng làm
bộ đồ ngủ
vậy.
Ông ngồi
sau một chiếc bàn hiện đại với hai ngăn kéo bàn phím và một màn hình
máy tính.
Căn phòng trông như một bãi chiến trường với những tờ giấy in từ máy
tính ra vứt
bừa bãi.
- Tuần này
vất vả vậy sao, thưa sếp? - cô hỏi.
Ngài
Strathmore nhún vai.
- Cũng bình
thuullg thôi. EFF lúc nào cũng vây quanh tôi với hàng đống giấy tờ về
quyền riêng
tư công dân.
Susan lặng
lẽ cười. EFF, Quỹ Mặt trận Điện tử (Electronics Frontier Foundation), là một
liên minh toàn cầu của những người sử dụng máy tính. Họ đã lập nên một
liên minh
đòi quyền tự do công dân hết sức mạnh mẽ nhằm ủng hộ quyền tự do
ngôn luận
trên mạng Internet và tuyên truyền những người khác về tình hình thực
tế và những
mối đe doạ khi sống trong một thế giới điện tử.
Tổ chức này
liên tục vận động chống lại cái mà họ gọi là "khả năng nghe trộm
thông tin
trong một chế độ chuyên chế của các cơ quan chính phủ" - đặc biệt là
NSA. Thực
sự EFF là một cái gai cần nhổ trong mắt ngài Strathmore.
- Có vẻ
cũng giống như thường lệ thôi mà - cô nói - Vậy cái vụ "cực kỳ khẩn
cấp"
mà sếp
khiến tôi phải rời khỏi bồn tắm để tới đây là gì thế?
Ngài
Strathmore im lặng, lơ đãng xoa xoa cái đế tròn của chiếc máy tính được gắn
trên bàn
làm việc. Hồi lâu, ông nhìn thẳng vào Susan và hỏi:
- Thời gian
lâu nhất mà cô đã từng thấy TRANSLTR cần để bẻ khoá mật mã là bao
nhiêu?
Câu trả lời
hoàn toàn làm Susan bất ngờ. Nó có vẻ chẳng có nghĩa lý gì cả. Chẳng
lẽ vì nó mà
cô được gọi tới đây sao?
- Ồ - Cô
ngập ngừng - Cách đây mấy tháng bên COMINT đã chuyển cho chúng ta
một đoạn mã
mà phải mất khoảng một giờ mới phá được. Nhưng đoạn mã đó dài
tới mức hài
hước - khoảng 10 nghìn bit gì đó.
Ngài Strathmore
lẩm bẩm.
- Một giờ
à? Thế còn một số khảo sát biên mà chúng ta đã thực hiện thì sao?
Susan nhún
vai.
- À, nếu
sếp tính cả quá trình khảo sát thì rõ màng là lâu hơn rồi.
- Lâu hơn
là bao nhiêu?
Susan không
thể tưởng tượng được Strathmore đang muốn đề cập tới vấn đề gì.
- Ồ, thưa
ngài, tháng 3 năm ngoái tôi phải giải quyết một chìa khoá dài một triệu bit
có phân
đoạn. Dù nó gồm hàm lặp sai quy tắc, các cơ chế làm việc có nhiều lỗi
song
TRANSLTR vẫn phá được.
- Trong bao
lâu?
- Ba giờ
đồng hồ.
Ngài
Strathmore nhướng mày.
- Ba giờ?
Lâu thế cơ à?
Susan cau
mặt hơi tự ái. Đã 3 năm nay, công việc của cô là tinh chỉnh cỗ máy bí mật nhất
trên thế giới này; hầu hết các chương trình giúp TRANSLTR chạy nhanh
tới như thế
là do công của cô. Và trên thực tế thì chẳng mấy khi có đoạn mã dài
một triệu
bit xuất hiện.
- Thôi được
- ngài Strathmore nói - Vậy là kể cả trong điều kiện khó khăn nhất,
thời gian
một đoạn mã trụ lại trong TRANSLTR tối đa là 3 giờ?
Susan gật
đầu.
- Vâng, có
thể xê dịch đôi chút.
Ngài
Strathmore ngừng lại như thể sợ điều sắp nói ra sẽ làm ông phải hối tiếc. Cuối
cùng ông
nhìn lên.
- TRANSLTR
đã gặp phải thứ gì đó… - ông không nói nữa.
Susan chờ
đợi.
- Lâu hơn 3
giờ ư?
Ngài
Strathmore gật đầu.
Cô nhìn có
vẻ không quan tâm lắm.
- Một khảo
sát mới à? Lại từ Phòng An ninh hệ thống phải không ạ?
Ngài
Strathmore lắc đầu:
- Đó là một
file từ bên ngoài.
Susan đợi
ngài chỉ huy nói tiễp câu chốt của một câu chuyện cười nhưng ông chẳng
nói gì hết.
- Một file
từ bên ngoài à? Ngài có đùa không đấy?
- Đùa được
thì đã tốt. TRANSLTR bắt đầu xử lý nó từ khoảng 11h rưỡi đêm qua
mà đến giờ
vẫn chưa phá được..
Susan như cứng lưỡi lại. Cô hết nhìn đồng hồ
đeo tay rồi lại nhìn lên ngài
Strathmore.
- Vẫn chưa
phá được à? Hơn 15 giờ đồng hồ rồi?
Strathmore
vươn người về phía trước xoay màn hình lại phía Susan. Trên nền màn
hình chỉ có
một màu đen ngòm trừ ô chữ nhỏ màu vàng nhấp nháy ở giữa.
THỜI GIAN
XỬ LÝ: 15:09:33 CHÌA KHOÁ CẦN TÌM:… Susan nhìn vào sửng
sốt. Rõ
ràng TRANSLTR đã làm việc liên tục hơn 15 giờ đồng hồ chỉ với một đoạn
mã này. Cô
biết chiêc máy tính có thể thử 30 triệu khoá trong vòng 1 giây - tức là 1
trăm tỷ mỗi
giờ. Nếu TRANSLTR vẫn đang làm việc, có nghĩa là chìa khoá mật mã
phải hết
sức khổng lồ - dài tới hơn 10 tỷ số. Thật điên rồ. - Không thể như thế được! -
cô hét lên - - Sếp đã kiếm tra xem có lỗi không chưa?
Hay
TRANSLTR gặp trục trặc gì đó khi vận hành?
- Mọi điều
kiện vẫn bình thường.
- Nhưng thế
thì đoạn mã quá lớn…!
Ngài
Strathmore lắc đầu.
- Một thuật
toán thương mại chuẩn thôi. Chắc là 64 bit.
Không hiểu
chuyện gì đang xảy ra, Susan nhìn qua cửa sổ xuống cỗ máy
TRANSLTR
bên dưới. Với kinh nghiệm của mình, cô biết rằng nó có thể giải quyết
một đoạn mã
64 bit trong chưa đầy 10 phút.
- Phải tìm
cách giải thích hiện tượng này thôi!
Ngài
Strathmore gật đầu.
- Có rồi
đấy. Nhưng chắc không làm cô ưng ý đâu.
Nhìn Susan
có vẻ bực bội.
- TRANSLTR
bị hỏng?
- TRANSLTR
vẫn bình thường.
- Hay nó
dính virus?
Ngài
Strathmore vẫn lắc đầu.
- Không
phải virus đâu. Hãy nghe tôi đây này.
Susan vẫn
chưả hết sửng sốt. Chưa bao giờ TRANSLTR mất quá một giờ để giải
quyết một
đoạn mã. Thường thì đoạn văn bản sẽ được bẻ khoá hoàn chỉnh và đưa
tới máy in
của ngài Strathmore chỉ sau vài phút. Cô liếc nhìn về phía chiếc máy in
tốc độ cao
phía sau bàn ông. Chẳng có gì ở đó cả.
- Susan… -
Ngài Strathmore khẽ nói - Điều này chắc là đầu tiên sẽ khó chấp nhận,
nhưng cứ
lắng nghe tôi một chút nhé - ông cắn môi - Đoạn mã mà TRANSLTR
đang cố
giải ấy, nó chỉ có một không hai. Nó không giống với bất kỳ đoạn mã nào
chúng ta
từng gặp trước đây - ông ngập ngừng, dường như không thể nói được
những từ
định nói. - Đoạn mã này là không thể phá vỡ…
Susan nhìn ông chăm chú
và gần như
cười phá lên. Không thế phá vỡ? KHÔNG THỂ nghĩa là sao? Trên đời
này không
có đoạn mã nào là không thể phá vỡ - có những đoạn có thể mất nhiều
thời gian
hơn, nhưng tất cả đều có thể phá được. Lý thuyết toán học đã chứng minh
sớm hay
muộn thì TRANSLTR cũng sẽ đoán trúng chìa khoá cần tìm.
- Sếp nói
gì cơ ạ? - Đoạn mã này là không thể phá được - Ông nhắc lại rõ ràng.
"Không
thể phá được?" Susan không thế tin được những từ như thế vừa được phát
ngôn từ một
người đã có 27 năm kinh nghiệm phân tích mật mã.
- Không thể
phá được ư, thưa sếp - cô nói vẻ bực bội - Thế còn Nguyên lý
Bergofsky
thì sao?
Ngay từ khi
mới đi làm Susan đã được học về Nguyên lý Bergofsky. Đây là nền
tảng của
công nghệ đoán thử - và - lỗi. Nó đồng thởi cũng là động lực để ngài
Strathmore
chế tạo TRANSLTR. Nguyên lý này phát biểu rõ ràng rằng nếu một
máy tính
thử đủ số lượng chìa khoá có khả năng thì đảm bảo là về mặt toán học, nó
sẽ tìm được
chìa khoá cần tìm. Sự an toàn của một mật mã không phải ở chỗ người
ta không
tìm được chìa khoá của nó mà là hầu hết mọi người không có đủ thời gian
và thiết bị
để thử tất cả các khả năng.
Ngài
Strathmore lắc đầu:
- Nhưng
đoạn mã này thì khác.
- Khác à? -
Susan nhìn ngài chỉ huy đầy vẻ ngờ vực. Về mặt toán học, không thế
tồn tại một
đoạn mã không thế phá vỡ mà! Ông ấy biết điều đó!
Ngài
Strathmore đưa tay lau mồ hôi trên đầu.
- Đây là
sản phẩm của một thuật toán mã hoá hoàn toàn mới - một thuật toán mà
chúng ta
chưa thấy bao giờ.
Bây giờ
Susan nhìn có vẻ còn hoang mang hơn nữa. Các thuật toán mã hoá chỉ là
các công
thức toán học, các phương pháp biến một đoạn văn bản thành một đoạn
mã. Ngày
nào các nhà toán học và các lập trình viên cũng tạo ra những thuật toán
mới. Số
lượng chúng trên thị trường có tới hàng trăm loại: PGP, Diffie-Hellman,
ZIP, IDEA,
El Gamal. Công việc của TRANSLTR là bẻ khoá chúng hàng ngày,
không có
vấn đề gì cả. Đối với TRANSLTR tất cả các đoạn mã đều như nhau, bất
kể chúng
được viết bằng thuật toán nào.
- Tôi không
hiểu - cô phân trần.
- Chúng ta
không nói tới việc thiết kế đối chiếu một số hàm phức tạp, chúng ta nói
về thử - và
- lỗi. Tất cả các loại thuật toán PGP, Lucifer, DSA-không có vấn đề gì.
Thuật toán
cứ việc sản xuất ra những chìa khoá mà chúng nghĩ là an toàn, còn
nhiệm vụ
của TRANSLTR là kiên trì đoán cho tới khi ra thì thôi.
Ngài
Strathmore trả lời với vẻ bình tĩnh của một ông thầy nhiều kinh nghiệm. - Đúng
rồi, Susan, TRANSLTR luôn tìm được chìa khoá - kể cả nó có lớn đến mấy
đi nữa -
ông ngừng một khoảnh khắc.. - Chỉ trừ khi… Susan rất muốn chen vào,
nhưng rõ
ràng ngài Strathmore đang chuẩn bị nói một điều gì đó hết sức kinh
khủng. Trừ
khi gì?
- Trừ khi
cỗ máy không biết khi nào đoạn mã đã được phá.
Susan
choáng váng, suýt ngã khỏi ghế.
- Cái gì?
- Trừ khi
máy tính đã đoán đúng chìa khoá song nó vẫn tiếp tục hoạt động bởi
không biết
rằng mình đã đoán đúng. - Nhìn ngài Strathmore thật thê thảm. - Tôi
nghĩ thuật
toán này đã tạo ra một văn bản gốc tuần hoàn.
Susan há
hốc miệng.
Ý tưởng về
văn bản gốc luân hồi lần đầu tiên xuất hiện trong một nghiên cứu rất
khó hiểu
thực hiện năm 1987 bởi một nhà toán học người Hungary tên là Josef
Harne. Do
các máy tính sử đụng phương pháp đoán thử - và - lỗi để phá mã bằng
cách phân
tích các đoạn văn bản gốc để tìm ra những tố hợp từ có nghĩa, Hame đã
đề xuất một
thuật toán mã hoá mà ngoài việc mã hoá còn có nhiệm vụ gắn đoạn
văn bản gốc
đã được bẻ khoá vào một biến số thời gian.
Trên lý
thuyết, vòng tuần hoàn bất tận này đảm bảo máy tính tấn công sẽ không thể
nhận ra các
tổ hợp từ có nghĩa và do đó sẽ không biết được khi nào nó đã tìm đúng
chìa khoá.
Ý tướng này phần nào cũng giống với việc chinh phục sao Hoả - có thể
thực hiện
về mặt lý thuyết nhưng còn vượt xa khả năng con người trong hiện tại.
- Sếp lấy
thứ này ở đâu vậy? - cô hỏi.
Ngài chỉ
huy chậm rãi trả lời.
- Một lập
trình viên bên ngoài đã viết nó.
- Cái gì cơ
- Susan lại ngồi phịch xuống ghế của mình.
- Chúng ta
đã có những lập trình viên giỏi nhất thế giới làm việc dưới kia rồi. Tất
cả chúng ta
cùng làm việc và chưa có ai tiếp cận được phương pháp viết một đoạn
văn bản gốc
tuần hoàn cả.
- Có phải
ngài định nói có một gã vớ vẩn nào đó với một chiếc máy tính đã tìm ra
cách viết
không?
Ngài
Strathmore hạ giọng, nhằm cố gắng làm cô bình tĩnh trở lại:
- Tôi không
định coi người này là vớ vẩn đâu. Susan như không lắng nghe ông. Cô vẫn tin
rằng phải có vấn đề gì đó đã xảy ra:
máy móc bị
trục trặc, một con virus, hay bất cứ thứ gì trừ một đoạn mã không thế
phá vỡ.
Ngài
Strathmore nghiêm nghị nhìn cô.
- Đoạn mã
này được viết nên bởi một trong những tài năng mật mã thông minh
nhất mọi
thời đại.
Chưa bao
giờ Susan hoang mang đến thế; tất cả những tài năng mật mã hoá thông
minh nhất
mọi thời đại đã và đang làm việc trong cơ quan cô, và cô rõ ràng là chưa
bao giờ
nghe nói tới một thuật toán nào như thế này.
- Ai vậy? -
cô hỏi ngài chỉ huy.
- Tôi chắc
là cô đoán được mà - Ngài Strathmore nói.
- Anh ta,
không thích NSA lắm đâu.
- Ồ thế thì
cũng ít thôi! - cô nói vẻ châm biếm.
- Anh ta đã
từng làm việc cho dự án TRANSLTR. Chính tôi đã phải sa thải anh ta
vì vi phạm
nguyên tắc làm việc và gần như gây ra một cơn ác mộng cho ngành tình
báo.
Khuôn mặt
Susan trở nên vô cảm trong một tích tắc trước khi trắng bệch đi.
- Lạy Chúa
tôi… Ngài Strathmore gật đầu.
- Suốt ngày
anh ta khoe khoang về công trình của mình nhằm tìm ra một thuật toán
khống chế được
phương pháp đoán thử - và - lỗi.
- Như…
Nhưng mà… - Susan lắp bắp không nên lời. - Tôi nghĩ hắn chỉ khoác lác
thôi. Hắn
làm được thật ư?
- Anh ta đã
làm được. Anh ta chính là người viết nên những đoạn mã mãi mãi
không thể
bị phá vỡ.
Susan lặng
đi một lúc.
- Nhưng…
thế nghĩa là… Ngài Strathmore nhìn thẳng vào mắt cô lạnh lùng.
- Đúng thế.
Chính Ensei Tankado đã vô hiệu hoá TRANSLTR.
Chương 6 & Chương 7
Dù không
sống trong thời gian của Thế chiến II, song Ensei Tankado vẫn nghiên
cứu kỹ lưỡng
về nó, nhất là sự kiện đỉnh điểm, quả bom nguyên tử được ném
xuống khiến
100.000 người ở nước anh ta bị chết thiêu chỉ trong giây lát.
8h 15 phút
sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 ở Hiroshima là thời điểm của một hành
động tàn
sát dã man. Một sự phô trương sức mạnh vô đạo lý của một đất nước
trước đó đã
giành thắng lợi trong cuộc chiến. Tankado chấp nhận tất cả những điều
đó. Nhưng
điều anh ta không thể chịu đựng được là quả bom đã làm cho anh ta
không bao
giờ được nhìn thấy khuôn mặt thân mẫu của mình. Bà đã chết khi sinh
hạ anh ta
do những biến chứng của sự nhiễm xạ mà bà phải hứng chịu nhiều năm
trước đó.
Năm 1945,
trước khi Ensei được sinh ra, mẹ anh ta, cũng giống như nhiều người
bạn khác,
đã tình nguyện tới Hiroshima làm việc trong các trung tâm hạt nhân.
Chính tại
nơi đây bà đã trở thành một trong những hibakusha - những người bị
nhiễm xạ.
19 năm sau đó, khi nằm trong phòng đẻ và bị băng huyết ở tuổi 36, bà
biết rằng
mình đã sắp tới lúc tận mạng. Nhưng có một điều bà không biết là cái chết
còn gieo
cho bà một nỗi thống khổ cuối cùng nữa - đứa con duy nhất của bà đã bị
dị tật ngay
từ khi sinh ra.
Cha anh ta
thậm chí còn chưa bao giờ nhìn mặt Ensei. Suýt phát điên vì mất vợ và
tủi thẹn
khi được y tá thông báo rằng con trai mình bị dị tật, khó sống qua đêm đó,
ông bỏ đi
khỏi bệnh viện và không bao giờ quay lại. Ensei Tankado đã được nuôi
dạy trong
một gia đình đỡ đầu.
Hàng đêm,
chú bé Tankado lại nhìn xuống những ngón tay bị xoắn vào nhau của
mình đang
nắm chặt con búp bê hình Bồ đề bạt ma và thề rằng sau này sẽ trả thù -
trả thù lại
đất nước đã cướp đi mẹ anh ta và làm bố anh ta phải tủi hổ đến mức bỏ
rơi anh ta.
Nhưng anh ta không biết rằng định mệnh đã can thiệp vào cuộc đời
mình.
Tháng 2 năm
Ensei được 12 tuổi, một công ty sản xuất máy tính ở Tokyo gọi điện
cho gia
đình đỡ đầu anh ta và hỏi xem liệu đứa bé què quặt của họ có thế tham gia
chương
trình thử nghiệm một loại bàn phím mà công ty đã phát triển dành cho trẻ
em tàn tật
hay không. Gia đình đỡ đầu anh ta đã đồng ý. Dù chưa nhìn thấy máy tính bao
giờ, song dường như bản năng đã mách bảo Ensei
Tankado
biết cách sử dụng nó. Chiếc máy tính đã mở ra một thế giới mới lạ mà anh
ta chưa
từng biết tới. Và nó đã gắn chặt cuộc đời anh ta. Khi lớn lên, anh ta đi dạy,
kiếm tiền,
và cuối cùng giành được học bổng của Đại học Doshisha. Không lâu sau
Ensei
Tankado đã trở nên nổi tiếng toàn Tokyo là một thiên tài trong bộ dạng tàn
tật.
Sau này,
Tankado được đọc các tài liệu về trận Trân Châu Cảng và những tội ác
chiến tranh
của Nhật Bản. Lòng căm hờn đối với nước Mỹ của anh dần phai mờ,
anh ta trở
thành một tín đồ Phật giáo sùng đạo. Anh ta quên đi lời thề trả thù thủa
thơ ấu; tha
thứ là cách duy nhất để được siêu thoát.
Năm 20
tuổi, Ensei Tankado trở thành một hình mẫu lý tưởng của các chuyên viên
lập trình.
Hãng IBM cấp cho anh ta một tấm visa và một vị trí làm việc ở Texas.
Lập tức
Tankado đã nắm lấy cơ hội. Ba năm sau anh ta đã rời bỏ IBM, đến sống ở
New York và
tự viết phần mềm. Anh đã vẽ ra một hướng đi mới cho việc mã hoá
bằng khoá
công khai. Cũng chính anh đưa ra các thuật toán giải mã và trở nên phát
tài.
Giống như
đối với nhiều bậc thầy về thuật toán mật mã khác, đối với Tankado,
NSA là một
nỗi khao khát không thể cưỡng lại.
Thật trớ
trêu đây lại chính là cơ quan đầu não của chính đất nước anh đã từng một
thời căm
ghét đến tận xương tuỷ. Anh ta quyết định đến phỏng vấn và mọi nỗi nghi
ngờ đều tan
biến ngay khi anh gặp chỉ huy Strathmore. Họ bộc bạch với nhau về
thân thế
của Tankado, về sự dị ứng của anh ta với chính phủ Mỹ, về những dự tính
cho tương
lai của anh. Tankado phải tham dự một bài thi về đồ thị đơn và trải qua
năm tuần
trắc nghiệm tâm lý hết sức căng thẳng và đã vượt qua tất cả. Lòng căm
thù Mỹ
trong anh từ lâu đã trở thành sự tận tâm đối với Đức Phật. Bốn tháng sau
đó, Ensei
Tankado bắt đầu làm việc tại phòng mật mã Cơ quan An ninh Quốc gia.
*** Dù đồng
lương cũng ra tấm ra món, nhưng ngày ngày Tankado vẫn đi làm trên
chiếc xe
đạp cà tàng, và một mình ngốn cho hết hộp cơm mang theo, thay vì ăn
sườn và súp
khoai tây tại nhà ăn với mọi người. Những nhân viên mật mã khác tôn
sùng anh
ta. Trong con mắt họ, Tankado là lập trình viên xuất sắc nhất trên đời. Tử
tế, chân
thành trầm tĩnh,Tankado là một chuẩn mực đạo đức. Đối với Tankado sự
toàn vẹn về
tinh thần luôn là một điều rất quan trọng. Cũng chính vì thế, việc anh bị sa
thải và sau đó bị trục xuất khỏi NSA đã từng là
một cú sốc
đối với mọi người.
Giống như
tất cả những nhân viên khác của phòng mật mã, Tankado hiểu rằng nếu
dự án
TRANSLTR thành công thì nó sẽ chỉ được sử dụng để giải mã thư điện tử
nếu Bộ Tư
pháp phê duyệt.
Điều này
cũng giống như FBI cần giấy phép của toà án liên bang để lắp đặt hệ
thống nghe
trộm điện thoại. TRANSLTR sẽ được cài đặt một phần mềm yêu cầu sử
dụng các
mật mã, được qui định theo thoả thuận giữa Cục Dự trữ Liên bang và Bộ
Tư pháp, để
giải mã các tệp tin. Chương trình này sẽ ngăn chặn việc NSA nghe lén
các cuộc
nói chuyện riêng tư của những công dân luôn sống và làm việc theo pháp
luật trên
toàn cầu.
Tuy nhiên,
khi bắt tay vào lập trình, các nhân viên lập trình TRANSLTR đã được
thông báo
rằng có một sự thay đối trong kế hoạch. Do sức ép thời gian của công
việc chống
khủng bố của NSA, TRANSLTR trở thành một thiết bị mã hoá nội bộ
và chỉ duy
nhất NSA điều tiết hoạt động của nó.
Việc này
làm Ensei Tankado tức đến phát điên lên. Như thế, có nghĩa là NSA có
thể mở bất
kì một lá thư nào và sau đó đóng lại mà không ai phát hiện được. Như
thế cũng
giống như việc gắn một thiết bị nghe trộm vào mọi chiếc máy điện thoại
trên thế
giới.
Strathmore
cố gắng hết sức thuyết phục Tankado tin rằng TRANSLTR là một thiết
bị không vi
phạm pháp luật, nhưng điều này chẳng ích gì, Tankado vẫn kiên quyết
rằng đó là
một sự vi phạm nhân quyền trắng trợn. Tankado bỏ việc ngay lập tức.
Anh ta đã
vi phạm qui tắc bảo mật của NSA khi cố gắng liên lạc với EFF trong
vòng vài
giờ sau khi bỏ việc. Tankado dự định gây sốc cả thế giới bằng thông tin về
sự tồn tại
của một hành động vi phạm nhân quyền trắng trợn của một chính. NSA
không còn
sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải ngăn chặn anh ta.
Việc
Tankado bị bắt giữ và trục xuất được thông báo liên tục trên các phương tiện
trực tuyến,
thực sự là một sự lăng mạ công khai. Trái với mong muốn của
Strathmore,
các chuyên gia xử lý tình huống của NSA vì lo ngại Tankado sẽ làm lộ
bí mật về
sự tồn tại của TRANSLTR đã tung nhiều tin đồn xấu nhằm phá huỷ uy
tín và danh
tiếng của Tankado. Ensei Tankado bị cô lập với giới lập trình trên toàn
cầu - không
ai tin một lập trình viên quèn đang bị buộc tội làm gián điệp, nhất là khi anh
ta đang ra sức mua lại sự tự do cho mình bằng cách rêu rao về một chiếc
máy bẻ khoá
mật mã bí mật của chính phủ Mỹ.
Điều kì
quặc nhất là dường như Tankado hiểu rằng đó là một phần trong trò chơi
tình báo
này. Anh không hề tỏ ra giận dữ, mà đầy quyết tâm. Khi bị nhân viên an
ninh giải
đi, Tankado nói những lời cuối cùng với Strathmore với sự bình ớnh đến
ớn lạnh.
- Tất cả
chúng ta đều có quyền giữ bí mật. Một ngày nào đó tôi sẽ khiến chúng ta
có thể có
quyền đó.
Chương
7
Susan cảm
thấy đầu óc đang quay cuồng, Ensei Tankado đã viết một chương
trình phần
mềm tạo ra các mật mã không thể bẻ khoá được. Cô không thể tin điều
này là có
thật..
- Pháo Đài
Số - Strathmore lên tiếng.
- Đó là cái
tên anh ta đặt cho nó. Đây là một vũ khí chống tình báo tối ưu. Nếu
chương
trình của anh ta được tung ra thị trường, thì chỉ cần có được nối mạng là
một học
sinh lớp 3 có thể gửi những mật mã mà NSA không thể giải mã được. Và
mạng lưới
tình báo của chúng ta sẽ bị bóp chết.
Nhưng điều
mà Susan đang nghĩ lại không phải là những hệ luỵ mang tính chính trị
của Pháo
Đài Số. Cô vẫn đang cố vắt óc để lý giải sự tồn tại của nó. Cả đời làm
công việc
giải mã các mật mã, cô hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của một mật mã tối
ưu. Nguyên
tắc Bergofsky đã chỉ ra rằng: mọi mật mã đều có thể giải mã được! Cô
thấy mình như
một người theo thuyết vô thần đang chuẩn bị đối mặt với Chúa.
- Nếu mật
mã này bị lộ ra - cô thì thào - thì ngành giải mã sẽ trở thành một ngành
khoa học
chết.
Strathmore
gật đầu.
- Đó chỉ là
vấn đề phụ thôi.
- Chúng ta
có thể mua Tankado được không? Tôi biết anh ta căm ghét chúng ta,
nhưng tại
sao chúng ta không trả cho anh ta vài triệu đô la? Thuyết phục anh ta
không phổ
biến nó?
Strathmore
cười váng lên.
- Vài triệu
đô la? Cô có biết nó giá trị như thế nào không? Không một chính phủ nào trên thế
giới này lại không sẵn sàng trả cả núi đô la để sở hữu nó. Cô có cho
rằng chúng
ta có thể báo cáo với Tổng thống rằng mình vẫn có thể can thiệp vào
các bức
điện tín của bọn khủng bố trong khi không thể xem các giao diện nữa ư, Nó
không chỉ
liên quan đến NSA mà còn liên quan đến toàn bộ giới tình báo. Thiết bị
này có ích
cho bất kì ai có nó và FBI, DEA, CIA, tất cả bọn họ sẽ như những kẻ mù
dở. Các
chuyến tàu vận chuyển ma tuý sẽ không thể bị phát hiện được, các công ty
lớn có thể
chuyển tiền mà không cần biên bản, giấy tờ và có thể tự xoá bỏ hệ thống
lưu trữ dữ
liệu IRS đi, các cuộc trao đổi của bọn khủng bố trở nên bí mật tuyệt đối -
Mọi thứ sẽ
bị đảo lộn.
- EFF sẽ
tha hồ mà tồ chức biếu tình - Susan nói, mặt tái nhợt.
- EFF không
hề biết một tí gì về cái chúng ta đang làm ở đây. - Strathmore phẫn nộ
- Họ sẽ
phải thay đổi thái độ nếu họ biết rằng sở dĩ chúng ta đã chặn được bao
nhiêu cuộc
tấn công của bọn khủng bố là do có thể giải được các mật mã.
Susan đồng
ý, nhưng cô biết EFF sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi được tầm quan trọng
của
TRANSLTR. TRANSLTR đã giúp chặn đứng được hàng chục vụ tấn công,
nhưng đây
là thông tin mật, và không bao giờ được phép tiết lộ ra ngoài. Lý do rất
đơn giản
là: Chính phủ không biết sẽ phải làm gì trước sự kích động của công
chúng nếu
sự thật bị tiết lộ; không một ai biết rằng công chúng sẽ phản ứng ra sao
khi biết
trong năm vừa qua, ở ngay trên đất nước Hoa Kỳ, đã có hai cuộc trao đối bí
mật về vũ
khí hạt nhân của các nhóm khủng bố.
Tuy nhiên,
các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân không phải là mối hiểm hoạ duy
nhất. Chỉ
riêng trong tháng trước, TRANSLTR đã ngăn chặn được một trong những
cuộc tấn
công được coi là tinh vi nhất của bọn khủng bố trong lịch sử của NSA.
Một tổ chức
chống chính phủ đã lập ra một kế hoạch có mật mã là Sherwood
Forest. Với
ý đồ "phân chia lại tài sản", kế hoạch này đã nhắm vào Sở Giao dịch
Chứng khoán
New York. Trong vòng hơn sáu ngày, các thành viên của nhóm này
đã đặt hai
mươi bảy ngòi nổ hẹn giờ trong các toà nhà bao quanh Sở Giao
dịch.Việc
phát nổ đồng thời cả hai mươi bảy ngòi nổ được cài đặt một cách cẩn
thận này sẽ
tạo ra một từ trường mạnh đến nỗi có thể phá hỏng tất cả các thiết bị từ
tính của Sở
Giao dịch Chứng khoán - như ổ cứng máy vi tính, hàng loạt các ngân
hàng lưu
trữ dữ liệu không truy xuất, băng từ, thậm chí cả đĩa mềm. Hồ sơ về mọi
tồ chức, cá
nhân sẽ bị phá huỷ vĩnh viễn. Do việc định giờ chính xác rất quan trọng đối với
việc phát nỏ hàng loạt các thiết bị
này, các
ngòi nổ đã được kết nối với nhau trên Internet qua các đường dây điện
thoại.
Trong thời gian hai ngày chờ nổ, đồng hồ tính giờ bên trong sẽ liên tục nhận
được các
dòng dữ liệu đồng hồá đã được mật mã. NSA đã phát hiện các loạt xung
dữ liệu,
một điều bất bình thường của mạng lưới, nhưng lại lơ là coi chúng chỉ là
những câu
viết sai ngữ pháp vô nghĩa, vô hại. Nhưng sau khi TRANSLTR giải mã
được các
xung dữ liệu, các chuyên gia phân tích ngay lập tức đã phát hiện ra chuỗi
dữ liệu này
chính là thời gian chờ nồ. Các ngòi nổ được phát hiện và tháo bỏ chỉ
đúng ba
tiếng đồng hồ trước khi Sở Giao dịch nghỉ.
Susan biết
rằng nếu không có TRANSLTR thì NSA đành phải bó tay trước chủ
nghĩa khủng
bố cao cấp thời đại số hoá. Cô đưa mắt nhìn chiếc màn hình chủ. Vẫn
là con số
chỉ ra hơn mười lăm tiếng đồng hồ. Thậm chí nếu ngay bây giờ tệp tin của
Tankado
được giải mã thì NSA vẫn sụp đổ ngay tức thì, trung tâm Crypto chỉ có
thể giải mã
hai mật mã trong một ngày. Thậm chí với tốc độ hiện giờ là 150 mật mã
một ngày
thì đã tồn đọng cả núi các tệp dữ liệu cần được giải mã.
- Tháng
trước Tankado có gọi cho tôi - Strathmore nói, cắt ngang dòng suy nghĩ
của Susan.
Susan ngẩng
đầu lên, hỏi lại:
- Tankado
gọi cho ngài?
- Để cảnh
báo tôi - Strathmore gật đầu.
- Cảnh báo
ngài? Anh ta căm ghét ngài cơ mà.
- Anh ta
gọi để thông báo cho tôi biết anh ta đang hoàn thiện một thuật toán về
những mật
mã không thể bẻ khoá được. Nhưng tôi đã không tin.
- Nhưng tại
sao anh ta lại nói điều đó với ngài? - Susan gặng hỏi.
- Anh ta
muốn ngài mua nó à?
- Không, mà
là tống tiền.
Mọi thứ đột
nhiên trở nên rối tinh rối mù đối với Susan.
- Tất nhiên
rồi - Susan nói giọng đầy ngạc nhiên.
- Anh ta
muốn ngài xoá tên anh ta đi mà.
- Không
phải thế! - Strathmore nhăn mặt.
- Tankado
muốn TRANSLTR.
- TRANSLTR?
- Đúng thế. Anh ta ra lệnh cho tôi phải công khai thông báo cho cả thế giới
biết
rằng chúng
ta đang sở hữu TRANSLTR. Anh ta nói rằng nếu chúng ta thừa nhận
rằng việc
có khả năng đọc được tất cả e-mail của bất kì ai, anh ta sẽ phá huỷ Pháo
Đài Số.
Nhìn vẻ mặt
hồ nghi của Susan, Strathmore nhún vai nói "Đằng nào thì cũng đã quá
muộn. Anh
ta đã tung một phiên bản thử nghiệm của Pháo Đài Số lên mạng và bất
kì ai cũng
có thể tải nó xuống.
Mặt Susan
bỗng trở nên trắng bệch.
- Anh ta
làm cái quái gì thế!
- Để gây
sốc thôi. Chẳng có gì phải lo lắng cả. Phiên bản anh ta tung lên đã được
mã hoá. Ai
cũng có thể tải xuống, nhưng không ai có thể mở được nó. Quả là tinh
vi hết sức.
Mật mã gốc của Pháo Đài Số đã được mã hoá và không ai có thể giải mã
được.
Với vẻ mặt
đầy kinh ngạc, Susan thốt lên:
- Đúng rồi!
Vì thế mà ai cũng có một phiên bản, nhưng không ai có thể mở được!
- Chính
xác. Tankado đang thả mồi đấy.
- Ngài đã
từng nhìn thấy thuật toán đó chưa?
Nét mặt của
vị chỉ huy trông đầy sự lo lắng:
- Chưa, tôi
chả nói là nó bị mã hoá là gì.
Susan kinh
ngạc, "Nhưng mình đã có TRANSLTR, tại sao không giải mã nó".
Nhưng vẻ
mặt của Strathmore đã khiến Susan nhận ra rằng các quy tắc đã bị xáo
trộn.
- Ôi, chúa
ơi! - Cô kêu lên, dường như đã hiểu vấn đề - Pháo Đài Số được mã hoá
bởi chính
nó sao?
- Cô đã
hiểu ra rồi đấy.
Đối với
Susan điều này đúng là ngoài sức tưởng tượng.
Công thức
của Pháo Đài Số đã được mã hoá bằng chính Pháo Đài Số. Tankado đã
tung lên
trên mạng một công thức toán học vô giá, nhưng phần viết của nó lại được
mã hoá để
không ai đọc được Và nó phải sử dụng chính bản thân nó mới có thế đọc
được.
- Đó là
nguyên lý an toàn của Biggleman - Susan lắp bắp.
Strathmore
gật đầu. Nguyên lý an toàn của Biggleman là một kịch bản mang tính giả thuyết
về mặt mã, theo đó một chương trình bảo mật lập ra một cơ chế bảo mật
tuyệt đối.
Để giữ bí mật, người ta lập ra một cái két an toàn để giấu cơ chế đổi.
Tankado
cũng làm như thế với Pháo Đài Số. Anh ta đã bảo vệ cái két của mình
bằng cách
mã hoá nó theo công thức được cất giữ trong chính cái két ấy.
- Và tệp
tin TRANSLTR đang giải mã là… - Tôi đã tải nó xuống từ trang Web của
Takado
giống như tất cả mọi người. NSA bây giờ vô cùng tự hào là người sở hữu
thuật toán
Pháo Đài Số. Chúng ta chỉ không thể mở được thôi.
Susan lấy
làm kinh ngạc trước sự tài tình của Ensei Tankado. Anh ta đã chứng
minh cho
NSA thấy thuật toán đó là không thể bẻ khoá được mà vẫn không cần tiết
lộ nó.
Strathmore
đưa cho cô một mẩu báo. Đó là một bài giới thiệu sách dịch từ tạp chí
Nikkei
Shimbun, một kiểu Nhật báo Phố Wall xuất bản bằng tiếng Nhật. Nói rằng
lập trình
viên người Nhật Bản Ensei Tankado đã hoàn thiện một công thức toán học
mà anh ta
tưyên bố là có thế viết được các mật mã không thể hoá giải. Thuật toán
đó có tên
là Pháo Đài Số và ai cũng có thể xem ở trên mạng. Lập trình viên này sẽ
bán đấu giá
nó cho người trả tiền cao nhất. Bài báo đó còn nói mặc dù giới tin học
Nhật bản
rất quan tâm, nhưng những công ty phần mềm Hoa Kỳ đã nghe nói đến
Pháo Đài Số
thì chỉ coi lời tuyên bố của Tankado là một trò bịp bợm, giống như
chuyện biến
chì thành vàng. Họ nói rằng công thức này chỉ là một trò lừa bịp vớ
vẩn.
- Bán đấu
giá? - Susan ngẩng đầu hỏi.
Strathmore
gật đầu.
- Ngay bây
giờ, mọi công ty phần mềm Nhật bản đều đã tải phiên bản mã hoá của
Pháo Đài Số
và đang cố gắng bẻ khoá nó. Cứ mỗi giây họ thất bại, thì giá của nó
càng lên
cao.
- Ngớ ngẩn!
- Susan phản đối - Tất cả những file đã mã hoá này sẽ không giải mã
được trừ
phi có TRANSLTR. Pháo Đài Số có thể sẽ chỉ là một thuật toán công khai
không hơn
không kém mà thôi, và không một công ty nào trong số họ có thể bẻ
khoá được.
- Đó là một
mánh quảng cáo rất thông minh - Strathmore lên tiếng.
- Hãy nghĩ
tới điều này - trong khi tất cả các hãng kính chắn đạn đều chắn được
đạn, nhưng
nếu có một công ty thách anh bắn đạn xuyên qua sản phẩm kính của họ, vẫn có rất
nhiều người muốn thử đấy.
- Và người
Nhật thực sự tin rằng Pháo Đài Số là khác biệt xa? Tốt hơn bất cứ thuật
toán nào có
trên thị trường?
- Mọi người
có thể xa lánh Tankado, nhưng ai cũng biết rằng anh ta là một thiên
tài. Thực
ra mà nói, anh ta là bá chủ trong giới tin tặc. Nếu anh ta nói thuật toán đó
không thể
bẻ khoá được thì nó hẳn là không bẻ khoá được.
- Ít nhất
là cho đến khi công chúng biết.
- À, ừ -
Strathmore đăm chiêu - - Ít nhất là vào lúc này.
- Điều đó
có nghĩa gì chứ?
Strathmore
thở dài:
- Hai mươi
năm trước, không một ai dám nghĩ là chúng ta sẽ giải được các mã
chuỗi mười
hai bit. Nhưng công nghệ không ngừng tiến bộ. Các nhà sản xuất phần
mềm đã cho
rằng một lúc nào đó, các thiết bị điện tử như TRANSLTR sẽ xuất hiện.
Công nghệ
sẽ phát triển theo cấp số nhân, và kết quả là những thuật toán công khai
sẽ mất tính
bảo mật. Sẽ cần phải có những thuật toán tốt hơn để phù hợp với các
thiết bị
máy tính trong tương lai.
- Đó là
Pháo Đài Số?
- Chính
xác… Một thuật toán có khả năng chống lại phương pháp giải mã kiểu
cưỡng bức
thì sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, cho dù thiết bị giải mã có tinh vi
đến đâu đi
nữa. Và trong nháy mắt, nó sẽ trở thành một chuẩn mực trên toàn thế
giới.
Susan hít
một hơi dài, thì thầm:
- Chúa phù
hộ chúng ta. Có thể làm được gì không?
Strathmore
lắc đầu.
- Tankado
đã cho chúng ta một cơ hội. Anh ta đã nói rõ. Dù sao như thế cũng rất
mạo hiểm;
nếu bị phát hiện, thì chẳng khác là tự thừa nhận mình lo sợ về thuật toán
của anh ta.
Như thế nghĩa là chúng ta tự thú với công chúng rằng mình đang sở hữu
TRANSLTR,
và rằng Pháo Đài Số vẫn là bất khả xâm phạm.
- Ta còn
bao nhiêu thời gian?
Strathmore
nhăn nhó:
- Tankado
định trưa mai sẽ thông báo người trả giá cao nhất.
Susan thấy
cố họng nghẹn lại. - Sau đó thì sao?
- Theo kế
hoạch anh ta sẽ trao cho người trả tiền cao nhất chìa khoá giải mã.
- Chìa khoá
giải mã?
- Đây là
một phần trong âm mưu của anh ta. Sau khi mọi người đã có thuật toán
này,
Tankado sẽ bán đấu giá chìa khoá giải mã.
- Đúng rồi
- Susan kêu lên. Thật là hoàn hảo. Đơn giản và gọn nhẹ. Tankado đã mã
hoá Pháo
Đài Số và chỉ duy nhất anh ta mới có chìa khoá để mở. Cô cảm thấy khó
có thể tìm
thấy một chìa khoá giải mã gồm 64 kí tự, điều đó có thế đặt dấu chấm
hết cho khả
năng xem trộm thư điện tử của ngành tình báo Hoa Kỳ. Nó đang ở một
nơi nào đó,
có thể là một tờ giấy nhét trong túi quần của Tankado chăng?
Susan đột
nhiên cảm thấy choáng váng đầu óc khi nghĩ tới kế hoạch này. Tankado
có thể sẽ
trao chìa khoá giải mã cho người trả tiền cao nhất, và công ty đó sẽ mở
được Pháo
Đài Số.
Sau đó có
thể họ sẽ gắn thuật toán này vào một loại mạch điện tử siêu nhỏ, và trong
vòng năm
năm, bất kì chiếc máy vi tính nào cũng có thể được cài sẵn mạch điện tử
Pháo Đài
Số.. Xưa nay không một nhà sản xuất vì lợi nhuận nào nghĩ đến việc tạo
ra một loại
mạch điện tử mã hoá bởi vì các thuật toán mã hoá thông thường nhanh
chóng trở
nên lỗi thời. Nhưng Pháo Đài Số sẽ không bao giờ lỗi thời; với chức
năng xoá
văn bản liên tục, không một nỗ lực từ bên ngoài nào có thể tìm ra mật mã
đúng. Một
chuẩn mực mới về kỹ thuật mã số hoá. Mọi mật mã đều là bất khả xâm
phạm. Từ
bây giờ và mãi mãi về sau. Giám đốc ngân hàng, kẻ môi giới, bọn khủng
bố, gián
điệp. Mỗi một ngành có một thuật toán riêng.
Hỗn loạn.
- Sự lựa
chọn ở đây là gì? - Susan thăm dò. Cô biết chắc rằng trong những lúc nguy
kịch thì
cần phải có những biện pháp liều lĩnh thậm chí ở NSA.
- Chúng ta
không thể thủ tiêu anh ta, nếu đó là cái mà cô định hỏi.
Đó chính là
cái mà Susan định hỏi. Trong suốt thời gian làm việc tại NSA, cô đã
nghe đồn về
những mối quan hệ ngầm của NSA với những sát thủ chuyên nghiệp
nhất trên
thế giới. Những gã này được thuê đế làm những công việc đen tối trong
giới tình
báo.
Strathmore
lắc đầu.
- Tankado
quá thông minh nên chúng ta không thể làm như thế. Susan cảm thấy bớt căng
thẳng một cách kỳ lạ.
- Anh ta đã
phòng bị?
- Không hẳn
là thế.
- Hay là đi
trốn?
Strathmore
nhún vai.
- Tankado
đã rời Nhật Bản. Anh ta định kiểm tra cuộc đấu thầu qua điện thoại.
Nhưng chúng
ta biết anh ta đang ở đâu.
- Và ngài
không định có động tĩnh gì sao?
- Không.
Anh ta đã mua bảo hiểm. Tankado đã đưa bản copy của chìa khoá giải mã
cho một
người thứ ba nặc danh…trong trường hợp có chuyện gì xảy ra.
Đương nhiên
là Susan cảm thấy hết sức kinh ngạc. Một thiên thần hộ mệnh.
- Và tôi
cho rằng nếu có chuyện gì xảy ra với Tankado, thì kẻ bí ẩn đó sẽ bán chìa
khoá giải
mã?
- Còn tồi
tệ hơn thế. Nếu ai đó giết Tankado, thì người đó công khai hoá chìa khoá.
Susan có vẻ
lúng túng.
- Cộng sự
của anh ta sẽ công bố chìa khoá giải mã?
Strathmore
gật đầu:
- Tung nó
lên mạng, trên báo, trên các bảng quảng cáo. Nói nôm na là đem cho
không.
Susan trợn
mắt kinh ngạc:
- Tải miễn
phí ư?
- Chính
xác. Tankado đã nói rằng nếu anh ta chết, anh ta sẽ không cần tiền - tại sao
không ban
cho thế giới này một món quà vĩnh biệt nho nhỏ chứ!
Cả hai im
lặng một hồi lâu. Susan thở sâu cứ như là chuẩn bị đón nhận một sự thật
khủng
khiếp. Ensei Tankado đã phát minh ra một thuật toán không thể giải mã
được. Anh
ta giữ chúng ta làm con tin.
Bỗng nhiên
cô đứng bật dậy, quả quyết:
- Chúng ta
phải liên lạc với Tankado! Phải có cách nào đó để thuyết phục anh ta
không bán
chìa khoá giải mã! Chúng ta có thể trả cho anh gấp ba lần số tiền của
người trả
cao nhất! Chúng ta có thể trả lại thanh danh cho anh ta! Bất cứ điều gì!
- Quá muộn
- Strathmore lên tiếng. Hít một hơi thở sâu, ông nói - Sáng nay người
ta đã phát
hiện Ensei Tankado chết ở Seville, Tây Ban Nha. Chương 8 & Chương 9
Chiếc máy
bay Learjet 60 hạ cánh xuống dải đường băng nóng như thiêu đốt. Bên
ngoài cửa
sổ, khung cảnh hoang vu của vùng chiêm trũng Extremadura, Tây Ban
Nha hiện ra
mờ mờ, ảo ảo..
- Thưa ông
Becker - một giọng nói vang lên - Chúng ta đến nơi!
Becker đứng
dậy, vươn vai. Sau khi mở ngăn đựng đồ, anh sực nhớ ra là mình
không có
hành lý. Anh đã chẳng có thời gian để chuẩn bị hành lý. Nhưng chẳng sao
cả - họ đã
hứa với anh là chuyến đi này rất gọn nhẹ, đến rồi đi ngay.
Khi động cơ
tiếp đất, chiếc máy bay đậu khuất bóng mặt trời dưới tán râm của rừng
cây đối
diện với cảng chính. Một lúc sau, viên phi công xuất hiện và đập cửa.
Becker ném
bình nước man việt quất cuối cùng ra sau, đặt chiếc cốc lên quầy bar
ẩm ướt, rồi
giũ tung chiếc áo choàng.
Viên phi công
lôi từ chiếc áo bay ra một chiếc phong bì dày cộp.
- Tôi được
lệnh đưa cho ông cái này - Anh ta đưa nó cho Becker. Bên ngoài phong
bì là dòng
chữ viết nguệch ngoạc bằng mực xanh:
"HÃY
GIỮ SỐ TIỀN NÀY"
Becker giở
một tập giấy bạc đo đỏ dày cộp.
- Cái này
là…?
- Tiền địa
phương - Viên phi công tỏ ra hiểu biết.
- Tôi biết
nó là cái gì - Becker lắp bắp.
"Nhưng
thế này là… quá nhiều. Tất cả những gì ta cần chỉ là vé taxi mà thôi"
Becker tự
nghĩ trong đầu.
- Ở đây làm
gì có cái gì đáng giá hàng nghìn đôla cơ chứ!
- Đó là
nhiệm vụ của tôi, thưa ngài - Viên phi công quay người và quay lại cabin.
Cánh cửa
đóng sập lại sau lưng anh.
Becker hết
nhìn trân trối vào chiếc máy bay rồi lại nhìn xuống xấp tiền trên tay anh.
Sau một hồi
đứng trong khu rừng hoang vắng, anh nhét chiếc phong bì vào túi áo
ngực, vắt
áo khoác lên vai, và đi khỏi đường băng. Một khởi đầu lạ lùng. Becker cố
gắng xua
đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Với một chút may mắn, anh có thể kịp quay
về để đi
Stone Manor với Susan.
Đến rồi đi
ngay, anh tự nhủ. Đến rồi đi ngay. Anh không biết phải làm gì hơn.
Chương 9 Kỹ
thuật viên an ninh hệ thống Phil Chartrukian chỉ định vào Crypto
một phút để
lấy tờ giấy phân công công việc mà hôm kia anh bỏ quên. Nhưng mọi
chuyện
không đơn giản chỉ có thế.
Sau khi
băng qua Crypto, vào phòng An ninh - Hệ thống, đột nhiên anh phát hiện
có một điều
gì đó không ổn. Không có ai điều khiển thiết bị đầu cuối, thiết bị thực
hiện chức
năng giám sát liên tục sự vận hành của TRANSLTR và bộ kiểm tra đã
tắt.
Chartrukian
gọi to:
- Xin chào,
có ai ở đây không?
Không có
tiếng trả lời. Căn phòng sạch bóng cứ như là chưa có ai đặt chân đến
trong nhiều
tiếng đồng hồ.
Mặc dù mới
chỉ hai mươi ba tuổi và là lính mới trong kíp nhân viên An ninh - Hệ
thống, nhưng
Chartrukian được đào tạo khá bài bản, và anh biết được kỷ luật của
phòng thí
nghiệm. Phải luôn có một nhân viên An ninh hệ thống trực ở Crypto, đặc
biệt là vào
thứ Bảy khi tất cả các mật mã viên đều nghỉ.
Không một
phút chần chừ, anh khởi động bộ kiểm tra và ngước nhìn bảng phân
công trực
trên tường.
- Ai trực
hôm nay - Anh gào to lên trong khi liếc nhìn danh sách nhân viên. Theo
kế hoạch
thì Seidenberg, một nhân viên trẻ mới vào nghề lẽ ra đã phải bắt đầu ca
trực đúp từ
nửa đêm hôm kia. Chartrukian đảo mắt nhìn quanh căn phòng trống
rỗng. cau
có:
- Hắn ở nơi
chết dẫm nào không biết?
Trong khi
nhìn bộ điều khiến khởi động, Chartrukian tự hỏi không biết Strathmore
có biết là
không có ai trực không. Lúc vào đây anh đã nhận thấy cửa rèm phòng
làm việc
của Strathmore đã đóng, điều đó có nghĩa là sếp đã ra ngoài - một điều
không phải
là không bình thường cho một ngày thứ Bảy: mặc dù cho phép các mật
mã viên
nghỉ ngày thứ Bảy, nhưng Strathmore dường như làm việc cả 365 ngày
trong năm.
Nhưng
Chartrukian biết chắc chắn là nếu Strathmore phát hiện thấy không có ai
trực ở
phòng An ninh - Hệ thống thì anh chàng mới vào nghề đó sẽ bị mất việc.
Chartrukian
nhìn chằm chằm vào chiec điện thoại, băn khoăn không biết có nên gọi tên kỹ
thuật viên trẻ tuổi đó và giúp anh ta hay không. Có một nguyên tắc ngầm
giữa các
nhân viên an ninh hệ thống là họ phải tương trợ lẫn nhau. Ở Crypto, nhân
viên an
ninh hệ thống đều là những công dân hạng hai. Các nhân viên mật mã luôn
luôn là
người đứng đầu trong số những người giàu có, nhân viên an ninh hệ thống
được cảm
thông chỉ bởi vì họ phải giữ cho đống đồ chơi này hoạt động liên tục.
Chartrukian
quyết định nhấc chiếc điện thoại lên. Nhưng chiếc ống nghe chưa kịp
chạm tới
tai anh. Anh lập tức dừng lại ngay, nhìn như chọc thủng bộ điều khiển
đang ở đúng
tầm nhìn. Anh từ từ đặt máy điện thoại xuống, và há hốc mồm nhìn
chằm chằm
vào nó… Suốt tám tháng làm nhân viên an ninh hệ thống, Phil
Chartrukian
chưa bao giờ nhìn thấy Bộ điều khiển chính của TRANSLTR hiển thị
bất kì một
cái gì khác ngoài hai con số không, chỉ giờ. Hôm nay là lần đầu tiên:
THỜI GIAN
SỬ DỤNG: 15:17:21 - Mười lăm giờ mười bảy phút ư? - Anh cảm
thấy nghẹt
thở. - Không thể nào!
Vừa khởi
động lại màn hình, anh vừa cầu chúa cho đó chỉ là lỗi màn hình hỏng.
Nhưng sau
khi khởi động lại xong thì những cơn số ấy lại hiện ra như cũ…
Chartrukian
rùng mình. Nhân viên an ninh hệ thống của Crypto chỉ có một nhiệm
vụ duy nhất
là giữ TRANSLTR "sạch"- không bị nhiễm virus.
Chartrukian
biết rằng việc TRANSLTR đã vận hành mười lăm tiếng đồng hồ sẽ
đồng nghĩa
với việc nó đã bị nhiễm virus. Ai đó đã để quên một file bị nhiễm virus
ở trong
TRANSLTR và nó đang phá huỷ các chương trình. Ngay lập tức, anh quên
cả mục đích
ban đầu của mình; việc không có ai trực phòng thí nghiệm hay bộ điều
khiến đã
ngắt bây giờ không còn là điều quan trọng nữa. Không chần chừ anh tập
trung ngay
vào vấn đề chính - TRANSLTR. Ngay lập tức anh tra tìm danh sách các
file đã lưu
vào TRANSLTR trong vòng bốn mươi tám tiếng vừa qua. Liếc nhìn
danh sách
các file anh tự hỏi, chẳng lẽ có một tệp tin bị nhiễm virus đã thâm nhập
vào ư?
Chẳng lẽ bộ lọc an toàn bỏ sót một cái gì?
Để đề phòng
virus, tất cả các file thâm nhập vào TRANSLTR đều phải đi qua
Gauntlet
một loạt các cổng nối mạch, bộ lọc gói tin, và các chương trình diệt virus.
Các file
chứa các chương trình "lạ" sẽ bị bộ lọc Gauntlet loại ra ngay lập
tức.
Chúng phải
được các nhân viên an ninh hệ thống kiểm tra. Đôi khi bộ lọc Gauntlet
từ chối
những file hoàn toàn vô hại vì những file này chứa những chương trình mà
nó chưa bao
giờ gặp. Trong trường hợp đó, các nhân viên an ninh hệ thống phải tự kiểm tra
hết sức cẩn thận, và chỉ khi khẳng định được file đó hoàn toàn sạch thì họ
mới đưa nó
qua bộ lọc Gauntlet, rồi chuyển vào TRANSLTR… Virus vi tính cũng
phong phú
chẳng kém gì vi khuẩn. Cũng giống như những người anh em sống trên
cơ thể con
người, virus vi tính chỉ có một mục đích duy nhất là bám chặt vào hệ
thống máy
chủ và sinh sôi nảy nở. Ở đây, máy chủ chính là TRANSLTR.
Chartrukian
cảm thấy rất ngạc nhiên vì từ trước đến nay NSA chưa bao giờ bị
nhiễm
virus. Tuy Gauntlet là một người lính gác tốt, nhưng NSA là bộ phận cuối
cùng, nhận
hằng hà sa số thông tin điện tử từ tất cả các hệ thống trên thế giới. Việc
nhận hàng
núi dữ liệu như vậy cũng giống như việc quan hệ giới tính bừa bãi hay
không cẩn
trọng, không sớm thì muộn cũng sẽ bị nhiễm phải một cái gì đó.
Chartrukian
đã kiểm tra xong danh sách các file hiển thị trước mặt. Anh cảm thấy
lúng túng
hơn bao giờ hết. Tất cả các file đều được kiểm tra, và thiết bị loại -
Gauntlet
không phát hiện được điều gì bất thường. Điều này có nghĩa là file trong
TRANSLTR
hoàn toàn sạch.
"Thế
thì tại sao nó chạy lâu vậy" - anh gào lên trong căn phòng vắng lặng.
Chartrukian
vã mồ hôi. Anh băn khoăn không biết, có nên quấy rầy Strathmore vì
chuyện này
hay không.
- Diệt
virus - Chartrukian nói một cách kiên quyết, cố gắng trấn tĩnh lại - Mình nên
diệt virus.
Chartrukian
biết thế nào Strathmore cũng yêu cầu diệt virus trước tiên. Liếc nhanh
cả Crypto
trống hơ trống hoác, Chartrukian quyết định làm ngay. Anh tải phần
mềm diệt
virus và cho chạy.
Phải mất
mười lăm phút phần mềm này mới chạy xong.
- Sạch lại
đi bé yêu - anh thì thầm - Sạch sành sanh, bé yêu nhé. Hãy nói với anh là
bé không
sao cả.
Nhưng
Chartrukian cảm nhận thấy có một cái gì đó không phải là "không sao".
Bản
năng nói
với anh rằng có một cái gì đó bất thường đang xâm nhập vào bên trong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]