Chương 81 & 82 & 83 & 84 & 85
Becker mệt
mỏi, anh đang đứng cạnh bốt điện thoại ở khu sân bay đông đúc. Mặc
dù mặt đỏ
bừng bừng và hơi buồn nôn nhưng anh cảm thấy tinh thần rất phấn chấn.
Vậy là đã
kết thúc, kết thúc thật rồi. Anh đang trên đường trở về nhà. Chiếc nhẫn
trên tay
anh là vật mà mấy hôm nay anh tìm kiếm. Anh duỗi bàn tay ra dưới ánh
sáng và liếc
nhìn chiếc nhẫn. Lúc này anh không đủ tập trung để đọc ra hàng chữ
nhưng rõ là
lời đề tặng không phải bằng tiếng Anh. Ký tự đầu tiên là Q, O hay 0 gì
đó, mắt anh
đau đến mức anh không thể phân biệt nổi. Becker nhìn mấy kí tự đầu
tiên, chúng
chẳng có nghĩa gì cả. Liệu đó có phải là mật khẩu an ninh quốc gia
không nhỉ?
phần mã
quốc tế, anh nghe thấy giọng nói trong điện thoại: "Hãy cúp máy và gọi lại
sau" -
Becker nhau mày và gác máy. Anh quên mất rằng kết nối điện thoại quốc tế
ở Tây Ban
Nha giống y như trò cò quay. Rất tốn thời gian và phụ thuộc nhiều vào
may rủi.
Anh phải gọi lại một vài phút sau nữa.
Becker cố
gắng quên đi những dấu hiệu làm mắt anh cay xè.
Megan đã
dặn anh rụi mắt chỉ làm chúng đau hơn; anh ta đã không tưởng tượng
được. Nóng
lòng, anh lại gọi điện thoại. Vẫn không kết nối được. Becker không thể
đợi thêm
nữa. Mắt anh như có lửa, anh cần rửa mặt. Strathmore sẽ phải đợi thêm
một hai
phút nữa. Becker cảm thấy mình chẳng nhìn thấy gì nữa, anh đi về phía
phòng tắm.
Anh lờ mờ
thấy chiếc xe ngựa sạch sẽ vẫn đứng trước phòng dành cho đàn ông, anh
quay sang
phòng có chữ DAMAS. Anh nghĩ mình vừa nghe thấy tiếng động phía
bên trong,
anh gõ cửa và hỏi:
- Hola?
Im lặng.
Có thể là
Megan, anh nghĩ. Cô còn năm tiếng nữa mới đến giờ bay. Và cô có nói cô
sẽ đi rửa
tay.
- Megan?
Becker lại
gọi. Và anh gõ cửa. Không có tiếng đáp lại Anh đẩy cửa vào.
- Có ai ở
đây không? Anh vừa hỏi vừa đi vào. Phòng tắm trống trơn. Becker nhún vai rồi đi
đến bồn rửa.
Chiếc bồn
rất bẩn thỉu nhưng nước thì lại mát lạnh. Becker thấy từng lỗ chân lông
của mình co
lại khi anh vốc nước lên mắt. Anh nhìn mình trong gương. Trông anh
cứ như đã
khóc rất nhiều ngày.
Anh lấy tay
áo lau khô mặt, và bỗng dưng anh sực tỉnh. Trong lúc hào hứng anh
chợt quên
mất mình đang ở đâu. Anh đang ở sân bay. Ngay ngoài kia, tại một trong
ba khu máy
bay đỗ, một chiếc Learject 60 đang đợi đưa anh về nhà. Viên phi công
đã nói rất
rõ, tôi nhận được lệnh sẽ ở đây cho đến khi anh quay trở lại.
Thật khó mà
tin được. Becker nghĩ, sau tất cả những chuyện này anh quay lại vạch
xuất phát.
Anh đang làm gì ở đây nhỉ? Anh cười. Mình chắc rằng viên phi công có
thể nhắn
cho Strathmore rồi.
Cười một
mình, Becker nhìn vào gương, anh sửa cà vạt ngay ngắn. Anh toan bước
đi thì qua
gương anh thấy một vật gì ngay sau mình. Anh quay lại. Đó là một đầu
chiếc khăn
của Megan.
- Megan!
Anh gọi.
Không có tiếng đáp lại.
- Có phải
là Megan không nhỉ?
Becker bước
đi. Anh nói một mình khi bước qua bên kia vách ngăn. Không ai trả
lời lời nói
của anh. Anh nhẹ nhàng đẩy cửa. Cửa mở toang.
Becker ghìm
lại không hét lên hãi hùng. Megan đang ở trong nhà vệ sinh, mắt cô
trợn ngược.
Máu đang rỉ ra từ một lỗ đạn ngay ở giữa trán của cô.
- Ôi Chúa
ơi! - Becker kêu lên sửng sốt.
- Está
muerta! - một giọng rền rĩ thốt lên ngay sau Becker - Cô ấy chết rồi.
Như trong
một giấc mơ, Becker quay lại.
- Senor
Becker - Giọng kì quái hỏi.
Bối rối,
Becker thấy người đàn ông đang đi vào phòng vệ sinh.
Trông hắn
quen quen.
- Soy
Hulohot- kẻ giết người nói - Tôi là Hulohot - Những lời nói phát ra như từ
đáy dạ dày
hắn. Hulohot chìa tay ra - El anillo. Chiếc nhẫn.
Becker thờ
ơ.
Người đàn
ông đưa tay vào túi, lấy ra khẩu súng. Hắn giơ vũ khí lên, nhắm vào trán
Becker. -
El anillo.
Rõ ràng chỉ
trong một giây, Becker thấy một cảm giác lạ mà trước kia anh chưa
bao giờ
biết đến. Bản năng sinh tồn trỗi dậy, tất cả các thớ thịt trên cơ thể anh căng
lên tức
thởi. Bay qua không khí khi viên đạn phát ra, anh ngã xuống gần đầu của
Megan.Viên
đạn làm bức tường phía sau nổ tung.
- Mierda! -
Hulohot tức tối. Bằng cách nào đó, David Becker lao ra khỏi cửa ngay
khoảnh khắc
cuối cùng có thể. Tên giết người bám sát theo anh.
Becker băng
qua cơ thể bất động của Megan. Có tiếng chân phía sau. Tiếng thở.
Tiếng súng
đang lên đạn.
- Tạm biệt!
- người đàn ông nói nhỏ khi hắn ta nhào tới như con báo, hắn chĩa súng
vào phía
vách ngăn.
Súng nồ. Có
ánh sáng màu đỏ. Không phải máu. Đó là một vật gì khác. Một vật
hiện ra từ
đâu vướng vào chân hắn, ngực hắn đập mạnh xuống đất làm súng nổ sớm
hơn một
khắc. Đó là chiếc khăn của Megan.
Becker nhảy
ra từ vách ngăn. Anh dùng vai của mình đầy người đàn ông về phía
bồn. Một
cuộc va chạm đến rợn người. Chiếc gương vỡ tan. Khẩu súng rơi xuống.
Hai người
đàn ông đổ xuống nền nhà. Becker đẩy người mình ra, lao ra ngoài.
Hulohot quờ
quạng tìm khẩu súng, hướng theo Becker và bắn. Viên đạn găm vào
cánh cửa
phòng tắm vừa sập lại.
Khoảng
không mở rộng của khu sân bay đông đúc đã lờ mờ hiện ra trước Becker
như một sa
mạc không thể vượt qua. Đôi chân guồng vội vã, nhanh hơn cả anh
nghĩ.
Khi anh
trượt qua cánh cửa xoay tròn, một tiếng đạn vang lên ngay phía sau anh.
Mảng kính
thuỷ tinh trước mặt vỡ vụn. Becker dùng vai đẩy mạnh khung cửa,
chiếc cửa
xoay tròn về phía trước.
Một khắc
sau anh loạng choạng trên vỉa hè bên ngoài.
Một chiếc
taxi đang đợi.
- Déjame
entrar! - Becker hét lên, và anh đấm vào cửa kính, anh nói - Cho tôi vào!
Người lái
xe lắc đầu: người khách kính gọng kim loại đã trả tiền để anh ta đợi ở
đây. Becker
quay lại và thấy Hulohot tay cầm súng, đang chạy rất nhanh qua đám
đông.
Becker nhìn thấy chiếc Vespa nhỏ của mình bên vệ đường. Mình tiêu rồi, anh
nghĩ thế.
Hulohot đi qua cánh cửa đang quay tròn đúng lúc Becker đang đạp nổ chiếc Vespa
của mình
một cách tuyệt vọng. Hulchot mỉm cười và đưa súng lên.
- Chết
tiệt! Becker lóng ngóng với cái cần khởi động. Anh lại đạp nổ lần nữa. Máy
hộc lên rồi
chết.
- Elanillo.
Chiếc nhẫn - Giọng nói đã gần hơn.
Becker nhìn
lên. Anh thấy nòng súng đang xoay. Anh lại đạp nổ.
Phát súng
của Hulohot trượt qua đầu Becker khi chiếc xe của anh khởi động được
và chồm lên
phía trước. Becker ghì chặt chiếc xe lúc nó nảy lên xuống trên khu
đường đắp
cao đầy cỏ dành cho xe lửa và loạng choạng của khỏi góc toà nhà vụt ra
cầu tàu.
Hulohot tức
giận chạy về phía chiếc taxi đang đợi mình. Vài giây sau, người lái xe
nằm chỏng
gọng trên vỉa hè, sững sờ nhìn chiếc xe của mình lao ra khỏi đám bụi.
Chương 82
Sau khi đã bớt choáng váng bởi những lời ám chỉ của ngài chỉ huy với
đội An
ninh, Greg Hale thấy mình trở nên yếu ớt vì sự sợ hãi. Đội An ninh đang
đến. Susan
bắt đầu trượt ra khỏi tay hắn.
Hale bừng
tỉnh, anh ta bám chặt lấy hông cô, kéo cô lại.
- Để tôi
đi! - Cô kêu lên, qua mái vòm giọng nói của cô vang vọng lại.
Đầu óc Hale
trong trạng thái căng thẳng. Anh ta hoàn toàn ngạc nhiên vì cuộc điện
thoại của
ngài chỉ huy. Strathmore đã gọi cho đội An ninh! Ông ta chấp nhận hi
sinh những
kế hoạch của mình với Pháo Đài Số.
Có đến hàng
triệu năm nữa thì Hale cũng không thể tưởng tượng nổi Strathmore để
Pháo Đài Số
trôi qua như thế. Cánh cửa sau cài vào Pháo Đài Số là cơ hội cả đời
ông ta.
Khi sợ hãi,
tâm trí Hale như đang chơi trò bịp bợm vớị chính anh ta. Hale thấy
nòng khẩu
Beretta của Strathmore ở mọi nơi. Anh ta bắt đầu quay cuồng, giữ chặt
Susan, cố
tránh phát bắn của Strathmore. Sợ hãi, Hale kéo lê Susan tới phía cầu
thang. Chỉ
năm phút nữa, nơi này sẽ tràn ngập ánh sáng, cửa sẽ mở, và đội SWAT
sẽ tràn
vào.
- Anh đang
làm đau tôi! - Susan nghẹt thở kêu lên. Cô hổn hển, loạng choạng vấp
phải những
ngón chân xoay xở một cách tuyệt vọng của Hale.
Hale cân
nhắc giữa việc thả Susan ra và việc lao điên cuồng vào chiếc thang máy
của
Strathmore, nhưng như thế là tự sát. Anh ta không có mật khẩu. Hơn nữa, một khi
ra khỏi NSA mà không có con tin anh ta sẽ không làm được gì cả. Ngay cả
chiếc Lotus
của anh ta cũng không thể chạy thoát khỏi một đội máy bay của NSA.
Susan là
người duy nhất sẽ giúp anh ta không bị Strathmore giết chết - Susan! -
Anh ta thốt
lên, kéo lê cô về phía cầu thang. - Đi với tôi! Tôi sẽ không làm cô đau!
Khi Susan
chống cự lại anh ta, Hale nhận ra hắn đang gặp thêm những rắc rối nữa.
Ngay cả khi
bằng cách nào đó đi chăng hắn có thể làm cho thang máy của
Strathmore
mở cửa, và kéo Susan đi với mình, chắc chắn cô ta sẽ chống cự lại suốt
chặng đường
họ đi ra khỏi toà nhà. Và Hale biết rõ rằng thang máy của Strathmore
chỉ dùng
lại ở một điểm duy nhất: Khu cao tốc dưới tầng hầm. Đó là một đường
dẫn bị cấm
qua lại, chỉ có một số nhân viên của NSA được đi lại bí mật. Hale
không muốn
bị lạc trong hành lang của trụ sở NSA với một con tin chống cự. Đó
quả là một
cái bẫy chết người.
Ngay cả khi
anh ta ra được bên ngoài, anh ta cũng không có một khẩu súng nào
trong tay.
Làm sao anh ta có thể đưa Susan qua chỗ đậu xe? Làm sao anh ta có thể
lái xe
được?
Và rồi anh
ta đã tìm thấy câu trả lời khi nhớ lại câu nói của một trong những giáo
sư chiến
lược quân sự khi anh ta còn ở Hải quân. Đó là: "Ép buộc một người, người
ta sẽ chống
cự lại anh, nhưng thuyết phục một người nghĩ theo cách anh muốn, anh
sẽ có một
đồng minh".
- Susan -
Hale nghe mình nói - Strathmore là một kẻ giết người. Cô đang gặp nguy
hiểm ở đây!
Dường như
Susan không nghe. Hale biết đó là điều kì cục vì dù gì Strathmore cũng
sẽ không
bao giờ làm Susan đau, và cô ấy biết điều đó.
Hale căng
mắt trong bóng tối, băn khoăn không biết ngài chỉ huy đang trốn ở đâu.
Bỗng nhiên
Strathmore im lặng, điều này làm cho Hale thấy hoảng hốt hơn. Anh ta
nhận thấy
thời gian của mình đã hết. Đội An ninh có thể đến bất cứ lúc nào.
Với một sức
mạnh dâng trào, anh ta vòng tay qua người Susan, kéo cô lên phía cầu
thang. Cô
móc gót giầy vào nấc thang đầu tiên và kéo người lại nhưng chẳng có tác
dụng gì,
Hale khoẻ hơn.
Anh ta cẩn
thận lôi Susan lên cầu thang. Đẩy cô lên sẽ dễ dàng hơn nhưng đầu cầu
thang được
máy quan sát vi tính của Strathmore chiếu rọi. Nếu Susan đi trước,
Strathmore
sẽ bắn vào lưng Hale. Kéo Susan phía sau mình, anh ta có thể dùng cô đỡ đạn.
Leo đến một
phần ba cầu thang, Hale thấy có sự chuyển động dưới cuối cầu thang.
Strathmore
đang di chuyển! Anh ta rít lên.
- Ngài chỉ
huy, đừng cố! Ông sẽ chỉ làm cô ta chết thôi!
Hale chờ
đợi. Nhưng chỉ có sự im lặng. Anh ta lắng nghe.
Không có gì
cả. Phía dưới cầu thang hoàn toàn tĩnh lặng. Có phải là anh ta tự nghĩ
ra không
nhỉ? Điều đó không quan trọng.
Strathmore
sẽ không bao giờ liều mạng bắn khi Susan đang ở giữa anh ta và tầng
Crypto thế
này.
Nhưng khi
Hale dựa vào cầu thang kéo lê Susan thì có điều bất ngờ xảy ra. Có
tiếng động
phía trên đầu cầu thang phía sau. Anh ta dừng lại, mặt nóng lên. Liệu
Strathmore
có trượt trên tầng? Linh tính mách báo với Hale rằng Strathmore đang ở
dưới cầu
thang.
Nhưng khi
đó, tiếng động lại vang lên. Lần này to tiếng động to dần lên. Tiếng
bước đi rõ
ràng trên phía đầu cầu thang.
Hale hoảng
sợ nhận ra sai lầm của mình. Strathmore đang ở trên đầu cầu thang
ngay phía
sau mình. Ông ta ngắm trúng lưng mình. Anh ta tuyệt vọng quay lưng
Susan lên
phía trên và bắt đầu lùi lại phía dưới.
Khi xuống
dưới cầu thang, anh ta nhìn đến man dại lên phía đầu cầu thang, hét lên.
- Lùi lại,
ngài chỉ huy! Lùi lại nếu không tôi sẽ bẻ cổ cô ta… Khẩu Berreta trượt
qua không
khí, xuống chân cầu thang và đập vào đầu Hale.
Khi Hale
nẳm vật xuống dưới sàn. Susan đã thoát khỏi anh ta nhưng lúc này đầu óc
cô lại quay
cuồng bối rối. Strathmore chộp lấy Susan, ôm và vỗ về cơ thể đang run
rẩy của cô.
- Suỵt! -
Ông trấn tĩnh – Là tôi đây. Cô ổn rồi!
Susan vẫn
run rẩy:
- Sếp… - Cô
thở hổn hển - Tôi nghĩ… tôi đã nghĩ ông ở trên kia… tôi nghe thấy….
- Thư giãn
đi nào! - Ông thì thầm. - Cô nghe thấy tôi kéo lê tên đó trên đầu cầu
thang chứ?
Susan thấy
mình trong tình thế khóc dở mếu dở. Strathmore đã cứu cô.
Đứng trong
bóng tối, cô thấy tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm.
Tuy nhiên
điều đó không có nghĩa là cô không cảm thấy có lỗi. Đội An ninh đang đến. Cô đã
ngốc nghếch để cho Hale bắt mình, và anh ta đã dùng cô để chống lại
Strathmore.
Susan biết chỉ huy đã trả một giá đắt để cứu cô.
- Tôi rất
tiếc - cô nói.
- Vì sao?
- Những dự
định của ông với Pháo Đài Số … chúng đã tan tành.
Strathmore
lắc đầu.
- Không sao
đâu.
- Nhưng…
Nhưng đội An ninh thì sao? Họ sẽ ở đây ngay bây giờ. Chúng ta sẽ
không có
thời gian để..
- Đội An
ninh không đến đâu, Susan. Chúng ta có thời gian để thực hiện công việc
của mình.
Susan bối rối. Không đến. Nhưng ông đã gọi
điện… Strathmore cười khoái trá.
- Kế xưa
nhất trong sách. Tôi giả vờ đấy!
Chương 83
Rõ ràng là chiếc Vespa của Becker là phương tiện nhỏ nhất đi với tốc
độ như phá
hỏng đường băng Seville. Nó đang đi với tốc độ lớn nhất- 93km/h,
tiếng rền
rĩ phát ra từ động cơ nghe giống tiếng cưa xích hơn là tiếng xe máy. Rủi
ro là nó
đang chạy dưới công suất cần thiết để đến được chiếc máy bay.
Qua gương
chiếu hậu, Becker thấy chiếc taxi đã đi được hơn một trăm mét. Nó
đánh võng
ra khỏi khu đường băng tối tăm.
Ngay lập
tức chiếc xe lấy lại thăng bằng. Becker nhìn về phía trước.
Dưới bầu
trời đêm, anh thấy những bóng khu chứa máy bay ở phía xa, cách đó
khoảng 900
mét. Anh tự hỏi không biết liệu từ đây đến đó thì chiếc taxi có vượt xe
anh không.
Anh biết Susan trong hai giây có thể làm phép toán cho anh. Đột nhiên
Becker thấy
sợ hãi, anh chưa bao giờ có cảm giác như vậy.
Anh cúi
đầu, vặn hết ga. Chiếc Vespa đang đi hết tốc độ. Becker đoán chiếc taxi
đang đi với
tốc độ 170 km/h, gấp đôi xe anh. Anh nhìn ba khu chứa máy bay lờ mờ
hiện ra ở
phía xa. Chiếc Learjet ở khu thứ hai. Một phát đạn vang lên.
Viên đạn
rơi xuống đường cách Becker một vài mét. Anh nhìn lại, kẻ ám sát đang
thò đầu ra
ngoài cửa, ngắm vào mục tiêu. Becker bất thình lình đổi hướng đi, chiếc
gương xe
của anh vỡ tan. Anh có thể thấy tác động của viên đạn trên phía tay cầm.
Becker nằm
sạt người xuống xe. Anh kêu lên: "Chúa hãy giúp con!"
Phần đường
trước mặt Becker trở nên rõ hơn. Chiếc taxi đang tiến gần anh hơn. Ánh đèn taxi
chiếu đường như những hình bóng ma quái. Lại một phát đạn nữa.
Viên đạn
trượt qua thân xe.
Becker cố
không để xe bị đổ. Mình phải đến nơi để máy bay.
Anh tự hỏi
không biết liệu viên phi công có thấy họ đang đến không Liệu anh ta có
vũ khí
không nhỉ? Anh ta có mở cửa đúng lúc không? Nhưng khi Becker tiến đến
khu để máy
bay, anh nhận thấy một vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra. Anh không
thấy chiếc
Learjet nào cả. Anh nhìn mờ mờ và cầu nguyện rằng mình đang bị ảo
giác. Nhưng
không phải. Khu để máy bay trống trơn. Ôi lạy Chúa, chiếc máy bay!
Khi hai
chiếc xe lao thẳng vào khu để máy bay trống trơn, Becker tìm lối thoát một
cách tuyệt
vọng. Bức tường sau của toà nhà làm bằng kim loại lượn sóng, chẳng có
cửa hay cửa
sồ nào cả.
Chiếc taxi
gầm lên ngay bên cạnh Becker. Anh nhìn sang bên trái, thấy Hulohot
đang giơ
súng lên.
Phản xạ.
Becker nhấn mạnh vào phanh xe. Anh đi chậm lại. Sàn khu để máy bay
đầy dầu
trơn. Chiếc Vespa trượt dài. Bên cạnh anh, tiếng taxi rít lên chói tai khi
phanh và
bánh xe trượt dài trên bề mặt trơn tuột. Chiếc xe quay tít quanh đám khói
và những
miếng cao su đang cháy lên chỉ cách chiếc Vespa vài mét.
Ngay bên
cạnh nhau, hai chiếc xe ngoài sự kiểm soát lướt qua đề tránh đụng phải
phía sau
khu nhà. Becker tuyệt vọng dậm phanh nhưng chiếc xe không có khả năng
bám đất,
như là lái xe trên băng vậy. Trước mặt anh, bức tường kim loại hiện ra.
Mọi chuyện
xảy ra quá nhanh. Khi chiếc taxi quay tròn điên cuồng bên cạnh anh,
Becker đối
mặt với bức tường và chờ đợi hậu quả.
Có tiếng va
chạm inh tai nhức óc giữa thép và bức tường kim loại Nhưng anh
không cảm
thấy đau đớn. Becker thấy mình vẫn cưỡi trên chiếc Vespa, nảy lên nảy
xuống trên
đồng cỏ. Cứ như thể là bức tường đã biến mất trước mắt anh. Chiếc taxi
vẫn ở bên
cạnh anh, lật nghiêng trên cánh đồng. Một màng kim loại khồng lồ từ
phía sau
bức tường khu nhà để máy bay đổ xuống mui chiếc taxi, mồi nảy lên lướt
qua đầu
Becker.
Tim đập
mạnh, Becker rồ chiếc Vespa và biến mất trong đêm.
Chương 84
Khi hoàn thành những lỗ hàn cuối cùng, Jabba thở nhẹ nhõm.
Ông ta tắt
mỏ hàn, đặt chiếc đèn nhỏ xuống và nằm một lát trong bóng tối dưới
gầm chiếc
máy chủ. Ông mệt mỏi. Cổ ông đau nhức. Công việc bên trong các thiết bị luôn bị
cản trở, đặc biệt là với khổ người của ông.
Và họ thì
cứ làm chúng ngày càng nhỏ hơn, ông nghĩ.
Khi Jabba
nhắm mắt lại để tận hưởng giây phút thư giãn, nhưng có ai đó phía bên
ngoài kéo
ủng của ông.
Midge tìm
thấy mình rồi. Ông rên rỉ.
- Jabba, ra
đi!
Ông miễn
cưỡng trượt ra.
- Chúa ơi,
Midge! Tôi đã bảo với bà… Nhưng đó không phải là Midge. Jabba nhìn
lên ngạc
nhiên.
- Soshi?
Soshi Kuta
là một cô gái gầy nhẳng chỉ nặng 45kg. Cô ta là cánh tay phải của
Jabba, một
chuyên viên An ninh hệ thống giỏi, tốt nghiệp MIT(1). Cô ta thường
làm việc
khuya cùng với Jabba và là nhân viên duy nhất không bị ông quát nạt. Cô
ta nhìn
thẳng vào ông, hỏi:
- Vì lí do
quái quỷ gì mà ông không trả lời điện thoại hay tin nhắn của tôi?
- Tin nhắn
của cô - Jabba nhắc lại.
- Tôi nghĩ
đó là… - Thôi đừng bận tâm, có điều gì rất lạ đang xảy ra trong cơ sở dữ
liệu chính.
Jabba kiểm
tra đồng hồ.
- Lạ à -
Giọng ông trở nên quan tâm hơn đến lời của Sohsi Kuta.
- Cô nói cụ
thể hơn xem nào? - Ông nói.
Hai phút
sau, Jabba lao xuống sảnh đi về phía phòng dữ liệu.
Chú thích:
(1) MIT học
viện công nghệ Massachusett.
Chương 85
Greg Hale nằm cuộn tròn trên sàn nhà Node 3. Strathmore và Susan đã
kéo hắn qua
Crypto và trói chân tay hắn lại với những đoạn dây cáp 12 ly lấy từ các
máy in
trong Node 3.
Susan vẫn
chưa hết bàng hoàng với những gì sếp vừa làm. Ông ấy đã giả cuộc gọi.
Bằng cách
nào đó Strathmore đã bắt được Hale, cứu Susan và có đù thời gian để
viết lại
Pháo Đài Số.
Susan nhìn
kẻ vừa bắt cô đang bị trói một cách bất động. Hale đang thở nặng nhọc.
Strathmore
ngồi trên ghế với khầu Berreta được chống vụng về trên lòng, Susan lại để tâm
vào máy tính của Hale và tiếp tục cuộc tìm kiếm các ký tự ngẫu nhiên của
mình.
Cô tiến
hành cuộc tìm kiếm thứ tư và vẫn không thấy gì.
- Vẫn chưa
may mắn - Cô thở dài và nói với chỉ huy - Có lẽ chúng ta phải chờ
David tìm
bản copy của Tankado.
Strathmore
nhìn cô với vẻ không hài lòng. Ngài chỉ huy đặt ra giả thiết xấu nhất:
- Nếu David
không tìm được và mật mã của Tankado rơi vào tay kẻ xấu…
Strathmore
không cần nói hết. Susan vẫn hiểu. Cho đến khi file Pháo Đài Số trên
Internet
được thay bằng phiên bản đã thay đổi của Strathmore thì mật khẩu của
Tankado mới
không còn nguy hiểm nữa.
- Sau khi
chúng ta tạo ra sự thay đổi! - Strathmore nói thêm. - Tôi không cần quan
tâm có bao
nhiêu mật khẩu đang trôi nổi, càng nhiều càng thú vị - Ông ra hiệu cho
Susan tiếp
tục tìm kiếm - Nhưng từ giờ cho đến lúc đó, chúng ta đang chơi trò tính
thời gian -
Strathmore nói.
Susan há
miệng như nuốt từng lời Strathmore vừa nói nhưng những lời đó trôi tuột
ra ngoài
bởi một âm thanh chói tai xuất hiện đột ngột. Sự tĩnh lặng của Crypto bị
phá vỡ bởi
tiếng còi báo động từ phía trên. Susan và Strathmore giật mình nhìn
nhau.
- Cái gì
thế - Susan hét lên khi có khoảng lặng giữa hai hồi tiếng nổ.
- TRANSLTR!
- Strathmore trả lời, giọng lo lắng.
- Nó quá
nóng.
Có lẽ Hale
đã đúng khi nói về chiếc máy phát nguồn không đủ chất làm lạnh.
- Bộ phận
huỷ tự động thì sao?
Strathmore
nghĩ một lát rồi kêu lên.
- Có cái gì
đó vừa vỡ vụn.
Một luồng
ánh sáng báo động màu vàng quay quanh sàn nhà khu Crypto và lướt
qua khuôn
mặt của chỉ huy.
- Ông nên
huỷ nó đi! - Susan nói.
Strathmore
gật đầu. Chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ba triệu con chíp xử lí
silicon quá
nóng và bốc cháy. Strathmore phải đi lên tầng, tới chỗ làm việc của
mình và huỷ
bộ phận dùng để chạy Pháo Đài Số đặc biệt là trước khi có ai đó bên
ngoài phát
hiện thấy rắc rối này và gửi quân vào. Strathmore nhìn qua Hale, anh ta vẫn
đang nằm bất tỉnh. Ông đặt khẩu Berreta lên
trên bàn và
nói át tiếng còi báo động.
- Tôi sẽ
quay trở lại ngay! - Khi biến mất qua cái lỗ trên tường Node 3, Strathmore
nói với lại
- Hãy tìm cho tôi cái mật khẩu đó!
Susan nhìn
lại những kết quả tìm kiếm không hiệu quả của mình và cảm thấy thất
vọng. Cô hi
vọng Strathmore sẽ làm nhanh và trở lại đây. Tiếng động và ánh sáng ở
Crypto lại
phát ra nghe như cuộc phóng tên lửa.
Trên sàn,
Hale bắt đầu cựa quậy. Cứ mỗi lần chiếc còi báo động rú lên, hắn ta lại
nhăn mặt.
Susan thấy ngạc nhiên với chính mình khi cô chộp lấy khẩu Berreta.
Hale mở mắt
nhìn Susan Fletcher đứng với khẩu súng chĩa vào đũng quần hắn.
- Mật khẩu
đâu? - Susan hỏi, giọng ra lệnh.
Hale vẫn
đang khổ sở với tư thế bị trói của mình. Anh ta hỏi cô:
- Chuyện gì
đã xảy ra vậy?
- Anh đã ra
tay. Đó là tất cả những gì đã diễn ra. Nào, mật khẩu đâu?
Hale cố di
chuyển cánh tay nhưng rồi hắn nhận ra hắn đã bị trói Gương mặt hắn trở
nên căng
thẳng.
- Thả tôi
ra! - hắn gào lên.
- Tôi cần
mật khẩu - Susan nhắc lại.
- Tôi không
có. Hãy thả tôi ra! - Vừa gào anh ta vừa cố đứng dậy nhưng hắn hầu
như không
thể lăn được.
Susan hét
lên giữa hai tiếng rú của còi báo động.
- Anh là
North Dakota và Ensei Tankado đã đưa bản sao mật khẩu của anh ta cho
anh. Tôi
cần nó ngay bây giờ.
- Cô điên
rồi! - Hale thở hổn hển quát lại.
- Tôi không
phải là North Dakota!
Hắn ta cố
giãy giụa.
Susan giận
dữ buộc tội hẳn ta.
- Đừng có
nói dối tôi. Tại sao toàn bộ email của North Dakota lại ở trong hòm thư
của anh?
Tôi đã nói
với cô rồi! - Hale khẩn khoản thanh minh khi tiếng còi lại vang lên - Tôi
đã theo dõi
Strathmore! Những email trong hòm thư của tôi, tôi đã sao từ email của
Strathmore
- email COMIN lấy trộm từ Tankado! - Chết tiệt! Anh không bao giờ có thể theo
dõi hòm thư của ngài chỉ huy.
- Cô không
hiểu - Hale hét lên - Trong hòm thư của Strathmore đã có cài máy theo
dõi.- Hale
nói trong lúc tạm ngưng ngắn ngủi giữa các hồi còi.
- Có ai đó
đã đặt máy theo dõi ở đó. Tôi nghĩ đó là Giám đốc Fontaine. Tôi chỉ sao
các email
thôi. Cô phải tin tôi. Đó là lí do tại sao tôi phát hiện ra kế hoạch viết lại
Pháo Đài Số
của ông ta. Tôi đã đọc được các bản phần mềm BrainStorm của
Strathmore.
BrainStorm?
Susan ngưng lại suy nghĩ. Rõ ràng Strathmore đã viết kế hoạch của
mình về
Pháo Đài Số lên phần mềm BrainStorm. Nếu ai đó theo dõi hòm thư của
ngài chỉ
huy thì bây giờ thông tin hẳn đã lan rộng.
- Viết lại
Pháo Đài Số là một công việc điên rồ! - Hale kêu lên - Cô biết thừa là
điều đó có
ý nghĩa như thế nào - NSA có thể truy nhập toàn bộ các máy tính!
Tiếng còi
báo động lại kêu lên, như muốn át tiếng Hale đi nhưng hắn vẫn tiếp tục
nói:
- Cô nghĩ
là chúng ta đã sẵn sàng chịu trách nhiệm chưa? Cô nghĩ là ai sẽ chịu trách
nhiệm đây?
Cực kì thiển cận. Cô nói chính phủ quan tâm tới lợi ích của mọi người
à? Tuyệt!
Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chính phủ trong tương lai không hề quan
tâm đến
quyền lợi của chúng ta. Công nghệ này sẽ tồn tại mãi mãi!
Hầu như
Susan chẳng nghe thấy anh ta nói gì bởi tiếng động ở Crypto thật đinh tai
nhức óc.
Hale bắt
đầu cố xoay xở để thoát ra. Hắn nhìn vào mắt cô và lại tiếp tục hét lên.
- Làm sao
mà những người dân có thể tự bảo vệ mình khỏi nhà nước, cảnh sát khi
người đứng
đầu có thể tiếp cận mọi đường dây liên lạc?
Susan đã
nghe cái luận điệu này bao nhiêu lần rồi. Những chính phủ tương lai luôn
là đề tài
để EFF phàn nàn.
- Cần phải
ngăn chặn Strathmore lại! - Hale hét lên khi tiếng còi rú - Tôi thề tôi sẽ
ngăn chặn
ông ta. Đó là những gì tôi đã và đang làm ở đây - theo dõi hòm thư của
ông ta, chờ
ông ta có bất kì nhất cử nhất động gì để tôi ghi lại việc tiến triển của
việc thay
đổi Pháo Đài Số. Tôi cần bằng chứng cho thấy ông ta đã viết cửa hậu. Đó
là lí do
tại sao tôi sao tất cả email của ông ta về hòm thư của tôi. Đó là bẳng chứng
ông ta đã
theo dõi Pháo Đài Số. Tôi dự định sẽ đưa thông tin này đến cho báo chí.
Tim Susan
đập mạnh. Có đúng là cô đã nghe thấy thế không nhỉ? Có thể lắm chứ. Nếu Hale
biết về kế hoạch của Strathmore sẽ phổ biến phiên bản Pháo Đài Số đã
sửa đổi,
hắn sẽ đợi đến lúc cả thế giới đang sử dụng phiên bản đó và đưa ra thông
tin chết
người này với đầy đủ chứng cớ.
Susan nghĩ
đến cái tít trên báo: Nhân viên mật mã Greg Hale tiết lộ kế hoạch bí mật
kiểm soát
thông tin toàn cầu của Mỹ!
Đó chẳng
phải là một vụ Skipjack nữa sao? Khám phá một "cửa hậu" khác của
NSA lần thứ
hai sẽ khiến Greg Hale trở nên nồi tiếng hơn cả trong những giấc mơ
điên dại
của anh ta. Điều này cũng có thể nhấn chìm NSA. Tự dưng Susan băn
khoăn không
biết những điều anh ta nói có thật không. Không! Cô quyết định. Dĩ
nhiên là
không rồi.
Hale tiếp
tục năn nỉ.
- Tôi dừng
chương trình của cô vì nghĩ là cô đang tìm tôi. Tôi nghĩ cô nghi ngờ
Strathmore
đang bị theo dõi. Tôi không muốn cô tìm ra chỗ hở và phát hiện ra tôi.
Điều đó
nghe hay đấy nhưng có vẻ là không như vậy.
- Tại sao
anh giết Chartrukian - Susan chớp lấy.
- Tôi không
giết! - Hale gào lên át cả tiếng ồn. Strathmore đã đẩy cậu ta. Tôi nhìn
thấy toàn
bộ sự việc! Chartrukian định gọi cho đội An ninh hệ thống và phá huỷ kế
hoạch với
cửa hậu của Strathmore!
Hale khá
lắm. Anh ta có một mắt xích cho mọi chuyện.
- Thả tôi
ra! - Hale van xin - Tôi không làm gì.
- Không làm
gì à - Susan quát lên, cô tự hỏi không biết tại sao Strathmore lại lâu
thế.
- Anh và
Tankado đã bắt giữ con tin của NSA. Ít nhất anh đã chơi trò hai mặt với
anh ta. Hãy
nói đi - Cô nhấn mạnh - Tankado chết vì đau tim hay do anh đã cho
người giết
anh ta?
- Cô thật
mù quáng! - Hale hét to - Cô không thấy là tôi chẳng có dính dáng gì đến
việc đó à?
Cởi trói cho tôi trước khi đội An ninh đến.
- Đội An
ninh sẽ không đến đâu - Cô nói luôn.
Mặt Hale
trắng bệch và gào lên:
- Cái gì?
-
Strathmore giả cuộc gọi.
Mắt Hale
trở nên điên dại. Anh ta như tê liệt trong giây lát. Sau đó anh ta nhăn nhó một
cách khổ sở.
-
Strathmore sẽ giết tôi! Tôi biết ông ta sẽ giết tôi. Tôi quá biết!
- Thoải mái
đi nào, Greg!
Tiếng còi
rú lên khi Hale hét.
- Nhưng tôi
vô tội!
- Anh nói
dối. Và tôi có bằng chứng! Anh có nhớ chương trình anh đã dùng không
- Cô hỏi,
và đi tới chỗ làm việc của mình.
- Tôi đã
gửi nó lại! Chúng ta sẽ xem nó đã ở đây chưa.
Cô bấm
chuột và mở tin nhắn. Dữ liệu này sẽ quyết định số phận của Hale, cô nghĩ
thế. Hale
là North Dakota. Hộp dữ liệu mở ra. Hale là… Susan dừng lại. Chương
trình dần
hiện ra. Và Susan đứng lặng yên sững người. Không có nhầm lẫn.
Chương
trình đã phát hiện ra một kẻ khác - một người không ngờ nhất.
Susan đứng
im gần bàn phím và đọc lại hộp dữ liệu trước mặt.
Đó vẫn là
thông tin mà Strathmore đã nói với cô, ông nhận được khi cho chương
trình hoạt
động. Susan phát hiện Strathmore đã nhầm lẫn và cô biết mình sẽ làm
cho chương
trình hoạt động thật tốt. Thế nhưng thông tin hiện trên màn hình thật
không thể
ngờ được.
***
"ET" - cô tự hỏi, đầu óc cô chới với. "Ensei Tankado là North
Dakota?".
Thật không
thể nào tin được. Nếu dữ liệu đúng, Tankado và đối tác của anh ta chỉ
là một,
những suy nghĩ của Susan bỗng nhiên đứt đoạn. Cô ước gì tiếng còi báo
động tắt
đi.
- Tại sao
Strathmore không tắt cái thứ quái quỷ ấy đi? - cô thầm nghĩ.
Hale quay
người trên sàn, căng mắt ra nhìn Susan.
- Dữ liệu
nói gì thế hả Susan? Nói cho tôi biết!
Nếu Tankado
là North Dakota, vậy thì anh ta tự gửi thư cho mình… điều đó có
nghĩa là
North Dakota không tồn tại. Đối tác của Tankado chỉ là một trò xỏ lá.
North
Dakota là một bóng ma. Cô tự nói với bản thân. Tất cả chỉ là số không.
Cái mánh
khoé này quả là xuất sắc. Rõ ràng, Strathmore chỉ nhìn trận đấu tennis từ
một phía.
Bởi vì quả bóng cứ quay trở lại nên ông ta cho rằng hẳn là bên kia lưới
phải có
người. Nhưng Tankado đang chơi với một bức tường. Anh ta tuyên bố
những tính
năng của Pháo Đài Số trong những bức thư anh ta gửi cho chính mình,
gửi cho một
hòm thư nặc danh trả lời tự động và vài giờ sau, hòm thư đó sẽ trả lời thư anh
ta ngay.
Bây giờ thì
Susan đã nhận ra. Mọi chuyện thật rõ ràng. Tankado muốn Strathmore
theo anh
ta… anh ta muốn ông ấy đọc được những bức thư anh ta gửi cho chính
mình. Ensei
Tankado đã tạo ra một cách bảo hiểm tưởng tượng mà không phải tin
tưởng bất
cứ ai có mật khẩu của mình. Dĩ nhiên để trò khôi hài trở nên giống thật
hơn, anh ta
đã lập nên một hòm thư mật… chỉ đủ bí mật để thuyết phục được
những ai
nghi ngờ rằng mọi chuyện chỉ là một sự sắp đặt. Màn độc diễn.
Bỗng dưng
Susan có một ý nghĩ thật đáng sợ. Tankado có thể đã dùng sự trao đổi
giả mạo của
anh ta để thuyết phục Strathmore bất cứ chuyện gì.
Susan nhớ
lại phản ứng của cô khi Strathmore nói với cô về một thuật toán không
có thuật
giải. Cô đã thề rằng điều đó là không thể. Dần dần Susan cũng hiểu được
sự nguy
hiểm của tình hình. Họ không có bằng chứng nào cho thấy Tankado thực
sự tạo ra
Pháo Đài Số. Tất cả chỉ là những thổi phồng lừa gạt trong email của anh
ta. Và dĩ
nhiên… TRANSLTR. Chiếc máy tính đã bị khoá trong một chiếc vòng bất
tận suốt
hai mươi giờ đồng hồ. Tuy nhiên Susan biết có những chương trình khác
dễ chế tạo
hơn nhiều so với một thuật toán không thể phá vỡ, có thể làm
TRANSLTR
hoạt động lâu thế.
Virus
chăng?
Toàn thân
cô ớn lạnh.
Nhưng làm
thế nào mà virus có thể xâm nhập TRANSLTR được?
Giọng Phil
Chartrukian như vọng lên từ dưới mồ: "Strathmore bỏ qua Gauntlet!".
Sau cảm
giác nôn nao khi khám phá ra điều bí mật, Susan đã biết được sự thật.
Strathmore
đã tải file Pháo Đài Số của Tankado và cố gửi file này vào TRANSLTR
để phá huỷ
nó. Nhưng Gauntlet đã từ chối file đó vì nó có nhiều đoạn mã nguy
hiểm.
Thường thì Strathmore sẽ rất quan tâm đến vấn đề này nhưng ông ta đã đọc
những email
của Tankado- đoạn mã chỉ là những những mánh khoé. Bị thuyết phục
rằng Pháo
Đài Số có thể được tải xuống một cách an toàn, Strathmore đã bỏ qua bộ
lọc của
Gauntlet và gửi file vào TRANSLTR.
Susan như
câm lặng. Chẳng có Pháo Đài Số nào cả. Cô thấy nghẹn lại khi những
tiếng còi
hú vang lên. Chậm chạp, yếu ớt, cô dựa vào bàn phím. Tankado chỉ trêu
chọc những
kẻ ngốc… Và NSA đã dính mồi của anh ta.
Từ trên
tầng, có tiếng kêu dài đau đớn. Đó là Strathmore. Chương 86 & 87 & 88 & 89 &
90
Susan bước
nhẹ nhàng qua cửa phòng, cô thấy Trevor Strathmore đang ngồi khòm
người bên
bàn. Đầu ông cúi gục, những giọt mồ hôi nhễ nhại khiến mái tóc của ông
như có vẻ
loáng nước dưới ánh sáng hắt ra từ màn hình vi tính. Còi báo động dưới
tầng hầm
vẫn rú inh ỏi.
Susan lao
ngay tới bên bàn.
- Thưa chỉ
huy? - cô kêu lên.
Strathmore
không nhúc nhích.
- Thưa chỉ
huy! Phải tắt TRANSLTR thôi. Chúng ta bị… Strathmore nói, đầu vẫn
cúi gục:
- Hắn thắng
rồi. Tankado đã biến tất cả chúng ta thành một lũ ngớ ngẩn….
Nghe giọng
nói của chỉ huy cô biết ông đã hiểu ra sự việc.
Những lời
khoác lác của hắn về một thuật toán không thể phá vỡ… về cuộc bán
đấu giá mã
khoá- rốt cục tất thảy chỉ là một trò chơi lừa bịp mà thôi. Tankado đã
lừa NSA, để
họ phải mở trộm hộp thư của hắn, đã lừa mọi người rằng hắn có một
đối tác và
lừa họ tải xuống một tệp chương trình vô cùng nguy hiểm.
- Mã tuần
hoàn", Strathmore ngập ngừng - Tôi biết.
Ngài chỉ
huy chậm chạp nhìn lên. Ông nói với Susan:
- Tệp
chương trình mà tôi tải từ trên mạng xuống…chỉ là một….
Susan cố
giữ bình tĩnh. Tất cả các con bài đều đã được lật ngửa.
Chưa bao
giờ có thuật toán bất khả giải- trên đời này chẳng có Pháo Đài Số nào
hết. Tệp
chương trình Tankado tung lên mạng là một con virus đã được mã hoá, có
thể chỉ là
một trong số những thuật mã hoá đầy rẫy trên thị trường, một cái vỏ đủ
mạnh để
tránh cho mọi người khỏi hiếm hoạ - tất cả, trừ NSA. TRANSLTR đã phá
vỡ lớp mã
khoá bảo vệ ra và giải phóng con virus.
- Một loạt
ký tự tuần hoàn - Ngài chỉ huy rên rỉ. - Tankado nói chúng chỉ là một
phần của
thuật toán này - Strathmore sụp xuống bàn.
Susan hiểu
nỗi đau mà ngài chỉ huy đang phải nếm trải. Ông đã hoàn toàn bị lừa.
Tankodo
chưa bao giờ có ý định bán cho bất cứ công ty máy tính nào thuật toán
của anh ta.
Không hề có thuật toán nào ở đây cả. Tất cả sự việc này chỉ là một trò
bịp bợm.
Pháo Đài Số chẳng qua chỉ là một con ma, một trò hề, một thứ mồi nhử cho NSA sa
bẫy. Mọi động thái của Strathmore đều do Tankado, kẻ bí mật chỉ đạo
giật dây
màn múa rối này.
- Tôi đã
tắt Gauntlet! - giọng Ngài chỉ huy dằn xuống.
- Lúc ấy
ông không biết là… Strathmore đấm tay xuống bàn.
- Lẽ ra tôi
phải nhận thấy điều đó chứ! Cái tên xỏ xiên của hắn. Chúa ơi!
NDAKOTA!
Nhìn xem!
- Chỉ huy
nói vậy nghĩa là sao?
- Hắn ta
đang cười nhạo chúng ta! Đây chỉ là một phép đảo chữ khốn khiếp!
Susan lặng
đi trong giây lát. NDAKOTA là phép đảo chữ? Cô thật không ngờ.
Trong đầu
cô hiện lên hình ảnh các chữ cái, và Susan bắt đầu sắp xếp lại
Ndakota…Kado-tan…Oktadan…Tandoka…
Đầu gối cô muốn quỵ xuống. Chỉ huy
nói đúng.
Mọi thứ đều rõ như ban ngày.
Làm sao họ
lại có thể lú lẫn đến như thế cơ chứ? North Dakota không phải là tên
một bang ở
Mỹ - Quả là một lỗi đau gớm ghiếc.
Hắn ta thậm
chí còn ngầm gửi lời cảnh báo cho NSA, đây là một manh mối rõ ràng
rằng hắn ta
chính là NDAKOTA. Khi ghép vần lại thì đúng là TANKADO. Ấy thế
mà chính
những chuyên gia mật mã giỏi nhất thế giới lại bỏ qua điều đó, và tệ nhất
là ngay từ
đầu hắn đã chủ tâm khiến họ rơi vào tình trạng lú lẫn này.
- Tankado
đã lừa chúng ta - Strathmore nói. - Bây giờ phải tắt ngay TRANSLTR -
Susan nói.
Strathmore
đăm đăm nhìn bức tưởng trước mặt.
- Thưa chỉ
huy. Hãy tắt máy đi! Chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đang xảy ra ở đây!
- Tôi đã
thử rồi - Strathmore rên rỉ với dáng vẻ của một người đang lả đi và sắp xỉu.
- Tôi không
hiểu từ "Thử rồi" ở đây nghĩa là gì?
Strathmore
xoay màn hình về phía cô. Màn hình chuyển về màu nâu sẫm. Ở phía
dưới một
hộp thoại hiện lên vô số những lần chỉ huy nhập lệnh tắt TRANSLTR.
Lần nào
cũng chỉ có một hàng chữ trả lời:
XIN LỖI.
KHÔNG THỂ HUỶ BỎ.
XIN LỖI.
KHÔNG THỂ HUỶ BỎ.
XIN LỖI.
KHÔNG THỂ HUỶ BỎ.
Susan cảm
thấy thật chua chát. Không thể huỷ bỏ? Tại sao ư?
Cô e rằng
mình đã tìm ra câu trả lời. Hay đây chính là hành động trả thù của Tankado? Phá
huỷ TRANSLTR! Suốt bao năm trời Ensei Tankado đã muốn cho cả
thế giới
này biết đến TRANSLTR, nhưng chẳng ai chịu tin anh ta. Vì vậy, anh ta đã
tìm cách
phá huỷ nó. Anh ta đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì những gì anh ta
tin tưởng,
và đó là quyền cá nhân của mỗi người.
Dưới gác,
còi báo động vẫn tiếp tục hú lên từng hồi.
- Chúng ta
phải tắt tất cả hệ thống điện - Susan yêu cầu - Ngay bây giờ!
Susan biết
nếu hành động khẩn trương, họ có thể cứu được bộ xử lý song song.
Giống như
mọi máy tính trên toàn thế giới - từ các máy tính truyền thông đơn lẻ
cho đến các
hệ thống kiểm soát vệ tinh của NASA - đều có một cơ chế nội tại có
tác dụng đề
phòng những tình huống như thế này. Đây không phải là thượng sách
nhưng ít ra
nó cũng giúp cho hệ thống không bị phá huỷ. Như mọi người đều biết,
việc đơn
giản nhất là "rút phích cắm ra".
Bằng cách
tắt nguồn điện bên trong Crypto, họ có thể tắt được TRANSLTR. Còn
con virus
thì họ có thể diệt sau. Vấn đề đơn giản chỉ là định dạng lại các ổ cứng của
TRANSLTR.
Làm như thế sẽ xoá sạch bộ nhớ của máy tính - dữ liệu, chương trình,
virus và
mọi thứ.
Trong những
tình huống phải định dạng lại thế này, họ sẽ phải mất hàng nghìn tệp
thông tin,
đôi khi là tất cả công sức của một năm làm việc Nhưng TRANSLTR thì
khác -
người ta có thể cài đặt lại máy mà không mất nhiều dữ liệu. Bộ máy xử lý
song song
được thiết kế để suy nghĩ, chứ không phải để nhớ. Trên thực tế
TRANSLTR
không hề chứa gì trong bộ nhớ của nó. Một khi đã giải xong một
thông điệp
mã hoá, nó sẽ gửi kết quả cho ngân hàng dữ liệu rủa NSA để lưu giữ.
Susan thấy
mình như hoá đá. Cô bất giác đưa tay lên ôm miệng và thét lên nghẹn
ngào.
- Ngân hàng
dữ liệu chính!
Strathmore
trân trân nhìn bóng đêm, giọng ông nghe thật lạ. Ông đã nhận ra điều
đó từ
trước.
- Đúng rồi.
Susan ạ. Ngân hàng dữ liệu chính… - Susan ngây dại và gật đầu.
Tankado đã
sử dụng TRANSLTR để đưa một virus vào trong ngân hàng dữ liệu
chính.
Strathmore
đưa con mắt mệt mỏi nhìn màn hình máy tính.
Susan quay
lại nhìn chằm chằm vào màn hình trước mặt cô và đọc hộp thoại. Ở đây hiện lên
hàng chữ.
HÃY CHO CẢ
THẾ GLỚI BIẾT VỀ TRANSLTR.
CHỈ CÓ SỰ
THẬT MỚI CÚU ĐƯỢC CÁC NGƯỜI… Susan thấy toàn thân lạnh
toát. Hầu
hết các thông tin đã được phân loại của quốc gia đều được lưu trữ tại
NSA: những
nghị định thư của quân đội, các mã số SIGINT, thông tin về các điệp
viên nằm
vùng ở nước ngoài, kế hoạch chi tiết về các loại vũ khí mới, các tài liệu
đã được số
hoá, các hiệp định thương mại - và còn vô số các thông tin quan trọng
khác.
- Tankado
không dám thế đâu! - cô quả quyết với ngài chỉ huy - Anh ta làm sao mà
dám động
đến các hồ sơ mật đã được phân loại của cả một quốc gia.
Susan không
thể tin nối Ensei Tankado dám tấn công ngân hàng dữ liệu của NSA.
Cô chằm
chằm nhìn thông điệp của anh ta.
CHỈ CÓ SỰ
THẬT MỚI CỨU ĐƯỢC CÁC NGƯỜI… - Sự thật? - Cô tự hỏi - Sự
thật về cái
gì?
Strathmore
thở một cách nặng nhọc.
- TRANSLTR
- Ông càu nhàu - Sự thật về TRANSLTR.
Susan gật
đầu. Đúng là một pha ngoạn mục. Tankado buộc NSA phải công bố cho
cả thế giới
biết về TRANSLTR. Rốt cục thì đây cũng là một kiểu tống tiền. Giờ anh
ta bắt NSA
phải lựa chọn - một là cho cả thế giới biết sự thật về TRANSLTR, hai
là mất toàn
bộ ngân hàng dữ liệu. Cô đờ đẫn nhìn thông điệp đó. Ở phía cuối màn
hình, một
dòng chữ llên tục nhấp nháy như muốn hăm doạ họ.
HÃY NHẬP MÃ
KHOÁ… Đọc những con chữ đang nhấp nháy này, Susan hiểu
tất cả -
con virus, chìa khoá mật khẩu, chiếc nhẫn của Tankado, một âm mưu tống
tiền quả là
ngoạn mục. Chìa mã khoá ở đây chẳng liên quan gì đến việc giải mã
thuật toán,
đó chỉ giống như một loại thuốc giải độc. Chìa mã khoá ấy sẽ chặn đứng
con virus.
Susan đã đọc rất nhiều về những virus thuộc dạng này - những chương
trình phá
hoại bao gồm một chương trình xử lý sẵn có ở bên trong, một chìa khoá
mật để kích
hoạt chương trình này sẽ chặn đứng hoạt động của con virus. Tankado
chưa bao
giờ chủ tâm phá hoại ngân hàng dữ liệu của NSA - anh ta chỉ muốn chúng
ta công bố
TRANSLTR cho công chúng biết? Sau đó anh ta mới đưa ra mã khoá để
tiêu diệt
con virus đó!
Kế hoạch
của Tankado diễn ra không suôn sẻ. Anh ta đã không lên kế hoạch về cái chết của
mình. Có lẽ con người này dự định sẽ ngồi ở một quán bar nào đó ở Tây
Ban Nha để
xem chương trình thời sự của đài CNN về một siêu máy tính gián điệp
tuyệt mật
mà chính phủ Hoa kỳ buộc phải tiết lộ cho công chúng, sau đó sẽ gọi điện
cho
Strathmore, đọc chìa khoá mã khắc trên chiếc nhẫn và kịp thời cứu nguy cho
ngân hàng
dữ liệu; rồi sau một trận cười no nê, người hùng của EFF sẽ dần chìm
vào quên
lãng.
Susan đấm
bàn:
- Chúng ta
cần chiếc nhẫn đó! Chỉ có duy nhất một mã khoá thôi! - Giờ đây cô đã
hiểu không
hề có North Dakota nào cả, không có mã khoá thứ hai. Thậm chí nếu
NSA có công
bố về TRANSLTR trước toàn thế giới thì Tankado cũng không thể
nào xuất
hiện để cứu nguy cho họ nữa.
Strathmore
không nói lời nào.
Tình huống
lúc này gay go hơn Susan tưởng lúc đầu rất nhíều.
Không ngờ
Tankado dám đẩy sự việc đến nước này. Anh ta thừa hiểu sự thể sẽ thế
nào nếu NSA
không có chiếc nhẫn - và lúc ấy, vào những giây phút cuối đời, anh ta
đã kịp
quẳng chiếc nhẫn ấy đi.
Tankado đã
cố tình giấu chiếc nhẫn đi. Susan tự nhủ không thể mong Tankado giữ
chiếc nhẫn
lại nếu như anh ta lầm tưởng bị NSA hãm hại.
Susan vẫn
không thể ngờ Tankado chủ tâm gây ra tình thế này. Anh ta là một người
theo chủ
nghĩa hoà bình, và chắc hẳn không bao giờ muốn phá hỏng bất kỳ thứ gì,
tất cả
những gì anh ta muốn chỉ là làm NSA phải chịu cảnh bẽ bàng. Tất cả là vì
TRANSLTR.
Tất cả là để bảo vệ quyền riêng tư của mọi người. Tất cả là để cho cả
thế giới
biết rằng NSA đang nghe lén. Xoá ngân hàng dữ liệu của NSA là một hành
động cực kỳ
hiếu chiến, Susan vẫn không tin Ensei Tankado chủ ý gây ra chuyện
tày trời
này.
Tiếng còi
báo động kéo cô về thực tại. Susan nhìn ngài chỉ huy lúc này rũ như một
tàu lá và
cô hiểu ông đang nghĩ gì. Kế hoạch về một cánh cửa sau lại một lần nữa bị
đổ bể. Hơn
thế nữa, sự thiếu cảnh giác của ông đã đẩy NSA vào một hoàn cảnh vô
cùng trớ
trêu - một hiểm hoạ về an ninh khủng khiếp nhất trong lịch sử nước Mỹ.
- Đây không
phải là lỗi của chỉ huy - Giọng cô đầy kiên quyết, lẫn trong tiếng còi
báo động
inh ỏi - Nếu Tankado không chết, chúng ta đã có thể thương lượng yởi
anh và đã
có quyền chọn lựa! Nhưng dường như Chỉ huy chẳng nghe thấy gì hết. Cuộc sống
của ông giờ đã kết
thúc. Ông
đã cống hiến cho đất nước suốt ba mươi năm trời. Những tưởng sắp đến
thời son
vàng rực rỡ - một cánh cửa sau bí mật trong làng mật mã thế giới. Nhưng
không,
chính ông lại thả virus vào hệ thống ngân hàng dữ liệu của NSA.
Chẳng còn
cách nào khác - không thể không ngắt tất cả các nguồn điện và xoá sạch
hàng tỷ đơn
vị dữ liệu. Phải có chiếc nhẫn mới cứu vãn được tình hình, và nếu đến
bây giờ
David vẫn chưa thấy chiếc nhẫn thì… - Tôi sẽ tắt ngay TRANSLTR! -
Susan tỏ ra
cương quyết hơn - Tôi sẽ xuống ngay tầng hầm để ngắt cầu giao điện.
Strathmore
uể oải quay lại nhìn cô như vừa từ cõi chết trở về.
- Để tôi! -
ông gào lên bi thảm. Ông đứng lên và suýt ngã nhào khi định bước ra
khỏi chỗ
ngồi.
Susan ép
ông ngồi lại.
- Không!
Tôi sẽ đi - Giọng của Susan khiển ông hiểu giờ không phải là lúc tranh
cãi.
Hai tay
Strathmore ôm chặt.
- Thôi
được. Ở tầng dưới cùng. Cạnh những chiếc máy bơm khí tản nhiệt.
Susan lao
ra cửa. Được nửa đường, cô quay trở lại.
- Thưa chỉ
huy - Cô nói - Mọi chuyện chưa chấm dứt đâu. Chúng ta vẫn chưa bị
đánh bại
mà. Nếu David kịp thời tìm thấy chiếc nhẫn thì chúng ta vẫn có cơ hội bảo
vệ được
ngân hàng dữ liệu!
Strathmore
không nói gì.
- Hãy gọi
cho bên ngân hàng dữ liệu! - Susan ra lệnh - Hãy cảnh báo họ về loại
virus này!
- Ông là phó giám đốc của NSA cơ mà. Ông phải là người điều hành
chứ!
Strathmore
chậm chạp ngẩng đầu lên. Với dáng vẻ của người đang đưa ra một
quyết định
có tính sống còn, ông quay sang cô và gật đầu đồng ý.
Lòng tràn
đầy quyết tâm, Susan lao vào bóng tối.
Chương 87
Chiếc xe vespa loạng choạng lao ra khỏi ngõ hẻm Carretera de Huelva.
Trời chưa
sáng hẳn nhưng đường phố đã đông đúc - những cư dân trẻ tuổi của xứ
Seville
đang trở về sau cuộc chơi thâu đêm ngoài bãi biển. Một xe lớn chật cứng
toàn thanh
niên bấm còi inh ỏi rồi phóng vụt qua. Chiếc xe máy của Becker trông
chẳng khác
gì một món đồ chơi đang chạy trên đường.. Phía sau, cách anh khoảng một phần tư
dặm, có một chiếc taxi bẹp dúm đã đi chệch
đường cao
tốc làm loé lên vô số các tia lửa điện. Nó tăng tốc và lao vào một chiếc
Peugeot 504
làm chiếc xe này bắn ra bãi cỏ và nằm phơi gầm máy lên trời.
Becker
phóng qua một tấm biển chỉ đường ghi dòng chữ Trung tâm Sevilla - 2 km.
Chỉ cần đến
được trung tâm của thị trấn là anh sẽ có cơ hội sống sót. Đồng hồ đo
tốc độ chỉ
60km/giờ. Hai phút nữa là thoát. Nhưng anh biết mình không có đủ
chừng ấy
thời gian.
Đâu đó phía
sau, chiếc taxi đang tăng tốc. Becker nhìn lên những chiếc đèn của thị
trấn
Seville trải dài trước mặt và cau nguyện có thể sống sót để tới được đó.
*** Khi anh
chỉ còn cách đích nửa đường nữa thì đột nhiên một viên đạn réo ngay
sau lưng.
Anh gập người trên xe, vặn tay ga hết cỡ. Có tiếng súng giảm thanh và
viên đạn
bay sượt qua. Becker liên tiếp lạng sang trái rồi lại sang phải với hy vọng
có thể kéo
dài thời gian. Nhưng vô ích. Còn những ba trăm mét nữa mới hết con
đường thoát
hiểm gập ghềnh những dốc thì chiếc taxi đã lao lên chỉ còn cách anh
có vài thân
xe. Becker biết chỉ vài giây nữa anh sẽ bị bắn hoặc bị đâm. Anh phóng
hết tốc lực
với hi vọng có thể thoát thân. Hai bên đường cao tốc này chỉ toàn là
những sườn
đá dốc đứng. Một tiếng súng nữa vang lên. Becker đã quyết định anh
phải làm
gì.
*** Mặc
tiếng lốp cao su mài chà xuống mặt dốc đá nghe đến ghê mợn và vô số
những tia
lửa do ma sát, anh nghiêng hẳn người sang bên phải và quẹo ra khỏi con
đường. Lốp
xe tiếp tục chà vào chân con đường để. Becker gồng mình giữ thăng
bằng khi
chiếc Vespa lao xuống vệ đường rải sỏi. Hai bánh xe quay điên cuồng,
bám vào mặt
đất xốp mềm. Động cơ xe rú lên như thể nó đang đào mặt đường.
Becker tăng
ga, hy vọng chiếc xe không bị chết máy. Anh khơng dám nhìn lại đằng
sau. Bất cứ
lúc nào chiếc taxi cũng có thể phanh lại và súng có thể nổ.
Nhưng chẳng
có tiếng súng nào cả.
Xe của Becker
đã vượt qua được đỉnh đồi, giờ đây anh đã nhìn thấy nó - trung tâm
thị trấn.
Ánh đèn thị trấn trải dài trước mắt anh như ngàn sao đang lấp lánh trên bầu
trời. Anh
đâm ngang qua mấy bụi rậm và ra đến mặt đường. Chiếc Vespa bỗng lao
nhanh hơn.
Có cảm giác như anh đang bay dọc đại lộ Luis Montoto. Chiếc xe lướt
qua sân vận
động bên trái đường. Anh đang đi trong một khung cảnh thật yên bình.
Ngay sau đó
Becker nghe tiếng kim loại nghiến vào bê tông. Anh nhìn lên. Trước anh mấy chục
mét, chiếc taxi đang gầm rú chồm lên. Nó đã
lao xuống
đường Luis Montolo và đang tăng tốc phóng thẳng về phía anh.
Đáng ra
Becker phải thấy vô cùng hốt hoảng. Nhưng không, anh biết rõ mình đang
đi đâu. Anh
lách sang bên trái chiếc xe Menendez Pelayo đang bám đuổi quyết liệt
và nhả côn.
Chiếc xe loạng choạng băng qua một công viên nhỏ và con đường
Mateus Gago
rải đầy sỏi cuội - con đường một chiều rất hẹp dẫn tới cổng khu
Barrio
Santa Cruz.
Chỉ còn một
đoạn ngắn nữa thôi, anh nghĩ.
Chiếc taxi
vẫn theo sau, tiếng rú của động cơ mỗi lúc một rõ hơn. Nó bám sát
Becker qua
cổng Santa Cruz, gương chiếu hậu vỡ vụn do va chạm với trụ chiếc
cổng mái
vòm nhỏ hẹp. Becker biết anh đã thắng. Santa Cruz là khu vực cổ kính
nhất ở xứ
Seville này.
Chẳng thể
tìm thấy một con đường nào giữa các toà nhà, chỉ có toàn những lối đi
bộ nhỏ hẹp
liên kết các toà nhà xây từ thời La Mã với nhau. Những lối đi này chỉ
đủ cho
khách bộ hành và một vài chiếc mô tô hai bánh hiếm hoi. Becker đã từng bị
lạc hàng tiếng
đồng hồ trong cái mê cung nhỏ hẹp này.
Becker tăng
tốc lao xuống con đường thẳng cuối cùng của Mateu Gago, và sừng
sững như
một ngọn núi, toà thánh đường kiểu Gôtic xây từ thế kỷ XI hiện ra trước
mắt. Ngay
cạnh đó, với độ cao 419 thước Anh, tháp Gửalda thẳng tắp vươn lên
trong áng
bình minh. Đây chính là Santa Cruz, thánh đường lớn thứ hai trên thế
giới, nơi
hành lễ của những gia đình Thiên chúa giáo sùng đạo và danh tiếng nhất
xứ Seville
này.
Becker lao
vút qua quảng trường đá. Một viên đạn vút tới nhưng đã quá muộn.
Becker cùng
chiếc xe đã mất hút trong một ngõ nhỏ có tên Callita de la Virge.
Chương 88
Chiếc đèn pha của chiếc Vespa rọi sáng những bức tường của con hẻm
nhỏ. Becker
chật vật đổi số, chiếc xe gầm lên giữa dãy phố có các toà nhà sơn
trắng, làm
khuấy động buổi bình luận Chủ nhật yên tĩnh của những cư dân ngoan
đạo xứ
Santa Cruz.
Từ lúc
Becker rời khỏi sân bay đến giờ mới chưa đầy ba mươi phút. Trong lúc
phóng thục
mạng, đầu anh luôn căng ra vì những câu hỏi chưa có lời giải đáp: Ai
muốn sát
hại mình? Chiếc nhẫn này có gì đặc biệt? Máy bay phản lực của NSA ở
đâu? Nghĩ
đến cái chết của Megan trong nhà vệ sinh công cộng, một cảm giác nôn nao lan
toả khắp người anh.
Becker hy
vọng có thể đi cắt ngang được con hẻm và thoát sang phía bên kia nhanh
chóng,
nhưng Santa Cruz là một một mê cung của những con hẻm lắt léo. Và càng
rắc rối hơn
nếu người ta bắt đầu điểm xuất phát sai rồi đâm đầu vào ngõ cụt.
Becker bỗng
bị mất phương hướng. Anh cố gắng tìm toà nhà Giralda để làm mốc
nhưng xung
quanh tường quá cao, anh không thể thấy gì trừ vầng sáng nhàn nhạt
của buổi
bình minh phía trên đầu.
Becker phân
vân không biết người đàn ông đeo kính gọng kim loại kia là ai, anh
thừa hiểu
rằng hắn không bỏ cuộc. Có thể hắn đang chạy bộ đuổi theo anh. Becker
thận trọng
lái chiếc Vespa vòng quanh những góc hẹp. Tiếng động cơ rú vang rền
các ngõ
hẻm.
Becker biết
anh là một mục tiêu de tóm trong bầu không khí yên ắng nhường này
của khu
Santa Cruz. Vào lúc này tất cả những gì anh có thể làm là sử dụng tốc độ.
Phải sang
được bên kia!
Sau hàng
loạt những của rẽ và tăng ga bạt mạng. Becker phanh gấp tại ngã ba
đường
Équina de los Reyes. Anh thấy mình đang lao vào ngõ cụt - con đường này
anh vừa
phóng qua rồi kia mà.
Ngồi tần
ngần trên chiếc xe méo mó, Becker cố gắng tìm một lối rẽ, động cơ xe
dường như
đã tắt hẳn. Kứn đồng hồ xăng đã gần chạm vạch đỏ. Có điềm gở, một
bóng người
xuất hiện bên trái anh ở cuối ngõ hẻm.
Có thể nói
bộ não của con người là chiếc máy tính nhanh nhất, không gì sánh bằng.
Chỉ trong
một tích tắc thôi mà bộ não của Becker đã phân tích và định dạng ngay
hình ảnh
của người đàn ông đeo kính, lục lại kí ức để kết nối, anh nhận ra, nguy
hiểm gần kề
đòi hỏi người ta phải quyết định ngay. Anh đã quyết định. Anh quẳng
chiếc xe
sang một bên và lấy đà chạy hết tốc lực.
Nhưng thật
không may cho Becker, Hulchot bây giờ đang đứng trên nền đất cứng
chứ không
phải trong chiếc xe méo mó kia.
Hắn lạnh
lùng nâng khẩu súng lên bắn.
Viên đạn
trúng ngay người Becker đúng lúc anh vừa bị trượt chân ở một góc quẹo.
Chạy thêm
được vài mét nữa anh mới biết mình đã bị trúng đạn. Đầu tiên, cảm
tưởng như
cơ bắp bị bật tung, ngay phía trên hông. Sau đó, một thứ chất lỏng âm
ấm chảy ra.
Nhìn thấy máu, anh biết mình đã bị thương. Anh không hề cảm thấy đau đớn, chỉ
biết trước
mắt vẫn còn một chặng đua ngay trong mê cung của khu Santa Cruz.
Hulohot lao
tới con mồi. Thoạt đầu hắn ta định nện một cú nện vào đầu Becker,
nhưng rồi
lại đổi ý. Một sát thủ chuyên nghiệp không làm thế bao giờ. Becker là
con mồi
đang di chuyển. Ngắm: bắn vào giữa thân người kiểu này là một việc khó,
hắn muốn
thể hiện đẳng cấp của mình. Becker đã chuyển hướng vào tích tắc cuối
cùng và
thoát được một viên đạn nhằm vào đầu. Kẻ thích chơi trội đã phải trả giá.
Becker bất
thần chạy nhanh hơn hẳn và thoát chết.
Humhot kịp
bắn trúng vào một bên mạng sườn anh. Dù viên đạn chỉ sượt nhẹ,
nhưng tên
sát thủ cũng đã đạt được mục đích.
Becker lao
thục mạng. Rẽ, ngoặt, tránh những con đường thẳng. Tiếng chân chạy
phía sau
anh nghe rõ mồn một. Đầu Becker hoàn toàn trống rỗng. Anh chẳng còn
suy nghĩ gì
nữa - anh đã ở đâu, ai đang rượt đuối anh - tất cả còn lại bây giờ là hành
động theo,
bản năng, tự bảo vệ, không đau đớn, chỉ có nỗi sợ hãi đang bủa vây và
phần năng
lượng tiềm tàng trong cơ thể đang phát ra trên đôi chân của anh.
Một phát
súng nữa vang lên, viên đạn trúng vào một mái nhà ngay sau lưng anh.
Những mảnh
kính vỡ văng đúng vào gáy Becker. Anh rẽ trái, sang một con hẻm
khác. Anh
không kịp kêu cứu ngoại trừ tiếng chán chạy và tiếng thở dốc, còn buổi
bình minh
hoàn toàn yên ắng.
Mạng sườn
Becker nóng như lửa đốt. Sợ rằng vệt máu đỏ trên con đường trải sỏi
trắng sẽ
làm lộ tung tích của mình, anh tìm xung quanh xem có cánh cửa nào mở
không, cửa
nhà hay cống cũng được chỉ cốt sao để anh thoát khỏi con hẻm ngột
ngạt này.
Chẳng có gì hết. Con đường ngày một thu hẹp lại.
- Cứu tôi
với! - Giọng Becker lạc hẳn đi - Ai cứu tôi với!
Con đường
cứ hẹp dần. Đã hết đường chạy. Becker cố tìm ra một ngã rẽ, một lối
thoát dù
nhỏ bé nhất. Nhưng giờ con đường đã chuyển thành ngõ cụt. Mọi cánh cửa
đều khoá im
ỉm. Đường hẹp dần. Các cánh cổng cũng đã khoá hết cả. Bước chân
như bị chặn
đứng lại.
Chẳng phải
anh đang đi trên đường thẳng hay sao? Đột nhiên con hẻm bắt đầu dồc
lên. Becker
thấy chân mình tê dại. Anh không thể chạy nhanh được nữa rồi.
Và anh nhìn
thấy.
Giống như
một con đường cao tốc đã đến đoạn không được thi công vì hết vốn đầu tư, con
hẻm nhỏ này đột ngột chấm dứt. Trước mặt anh là một bức tường cao, một
chiếc ghế
băng gỗ, và chẳng còn gì khác nữa. Cùng đường rồi. Becker ngước nhìn
qua ba tầng
gác, nhìn lên tận nóc toà nhà rồi quay trở lại con hẻm dài, nhưng đi
được vài
bước anh phải dừng gấp lại.
Dưới chân
dốc một bóng người xuất hiện. Hắn lạnh lùng tiến về phía Becker.
Trong tay
hắn, khẩu súng ánh lên dưới ánh nắng sớm mai.
Becker bỗng
cảm nhận được tình huống của mình rõ ràng hơn khi đi thụt lùi về
phía bức
tường. Vết thương bên mạng sườn chợt đau dội lên. Anh chạm vào chỗ
đau và nhìn
xuống. Máu chảy đầm đìa trên tay anh, chảy xuống cả những ngón tay
và cả chiếc
nhẫn vàng của Tankado. Choáng váng. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc
nhẫn, lòng
rối bời. Anh không nhớ chiếc nhẫn đã ở trên tay mình từ khi nào. Anh
cũng không
nhớ được tại sao mình lại ở Seville.
Anh ngước
mắt nhìn tên sát thủ đang tiến về phía mình, rồi cúi xuống nhìn chiếc
nhẫn. Anh
lại ngước nhìn lên một lần nữa, bắt gặp hình ảnh một người đang tiến về
phía mình,
rồi lại nhìn xuống chiếc nhẫn. Có phải vì chiếc nhẫn này mà Megan đã
chết? Có
phải cũng chỉ vì nó mà anh sắp phải lìa đời không?
Cái bóng
bắt đầu bước lên con dốc. Becker thấy xung quanh chỉ là những bức
tường. Cũng
có một vài cánh cổng của những ngôi nhà trong ngõ, nhưng đã quá
muộn, không
kịp kêu cứu nữa rôi.
Becker tựa
lưng vào tường. Đột nhiên anh cảm nhận được rõ ràng từng viên đã cuội
dưới đế giày,
mọi tiếng lạo xạo ở bức tường sau lưng. Những hình ảnh quá khứ
chợt ùa về
trong tâm trí, thời ấu thơ, cha mẹ anh và… Susan.
- Ôi! Chúa
ơi!… Susan!
Lần đầu
tiên kể từ khi trưởng thành, anh cầu nguyện. Anh không cầu cho bản thân
mình thoát
chết, anh không tin vào phép màu nhiệm. Anh cầu cho người phụ nữ
của anh có
thêm sức mạnh và luôn cảm nhận được tình yêu vô bờ anh dành cho cô.
Anh nhắm
mắt lại. Bao kỷ niệm chợt tràn về như một dòng thác lũ. Không phải kỷ
niệm về
những buổi họp khoa, không phải kỷ niệm về đời sinh viên, không phải
những sự
kiện quan trọng trong sự nghiệp của anh, mà là những kỷ niệm về cô.
Những điều
giản dị như dạy cô cách cầm đũa, hay chèo thuyền ở Cape Cod. Anh
yêu em, anh
thầm nói với lòng mình. Em hãy luôn nhớ là anh yêu em.
Dường như
mọi sự che đậy, mọi vỏ bọc, mọi điều cường điệu về sự bất an trong anh chợt tan
biến. Anh đang đứng đây, không vỏ bọc màu mè - hoàn toàn mộc mạc
trước Chúa.
Mình là một người đàn ông, anh tự nhủ. Và trong một khoảng khắc
buồn bã anh
nghĩ, anh là một người chân thành. Anh đứng đó, hai mắt nhắm nghiền
trong lúc
đó gã đeo kính đang tiếp tục tiến lại gần. Bỗng có tiếng chuông nhà thờ
vang lên
lảnh lót. Becker chờ đợi trong bóng tối chờ đợi thứ âm thanh sẽ kết thúc
cuộc đời
anh.
Chương 89
Mặt trời chiếu muôn ngàn tia nắng ban mai ấm áp xuống những mái
nhà vùng
Seville và rọi vào từng ngõ hẻm. Tiếng chuông nhà thờ từ tháp Giralda
vang lên
báo hiệu một ngày mới.
Đây là thời
điểm mà mọi cư dân ở đây đều đón chờ. Ở mọi nơi trong thành phố cổ
này, những
cánh cổng bỗng rộng mở và người người đổ ra đường. Sự sống giống
như dòng
máu chảy đều khắp các mạch máu của vùng Santa Cruz, tất cả đều hướng
về trung
tâm trái tim của thị trấnt hướng về cốt lõi của lịch sử, hướng về Chúa,
hướng về
thánh đường linh thiêng nhất.
Đâu đó
trong tâm trí Becker vang vọng tiếng chuông. Mình đã chết hay còn sống?
Anh mở mắt
một cách miễn cưỡng và hé nhìn tia nắng đầu tiên của buổi bình minh.
Anh biết rõ
mình đang ở đâu.
Anh quan
sát xung quanh và tìm kiếm kẻ đang muốn sát hại mình.
Nhưng người
đàn ông đeo kính gọng kim loại ấy đã biến mất. Thay vào đó là
những gia
đình người Tây Ban Nha trong những bộ trang phục lịch lãm, bước qua
cổng rồi
hoà vào dòng người trên đường, chuyện trò và cười nói.
Phía cuối
hẻm, khuất tầm mắt Becker, Hulchot đang lầm rầm nguyền rủa đầy tức
tối. Lúc
đầu chỉ có một đôi vợ chồng ngăn cản hắn tiếp cận con mồi. Hulohot tin
chắc họ sẽ
đi khỏi. Nhưng tiếng chuông cứ liên tục vang lên và mọi người đua nhau
đổ ra
đường.
Lại một đôi
nữa, lần này có thêm trẻ con. Họ chào nhau rồi trò chuyện, cười đùa,
hôn má nhau
ba lần. Lại một nhóm khác xuất hiện, và lần này Hulohot không còn
quan sát
được con mồi nữa.
Giận sôi
lên, hắn cũng hoà vào dòng người lúc một đông đúc. Hắn phải tóm bằng
được
Becker!
Kẻ giết
người cố lách xuống cuối ngõ. Nhưng hắn đang mắc kẹt giữa một biển
người với
nào áo khoác, cà vạt, nào váy đầm đen, nào áo choàng may đăng ten của những bà
to quá khổ. Tất cả họ chẳng ai để ý đến sự hiện diện của Hulchot. Họ
bước đi hối
hả, tất thảy đều mặc đồ màu đen, tất thảy đều đi về một hướng và chặn
mất đường
của hắn. Hulohot cố lách qua đám đông và tiến nhanh đến cuối con
hẻm, tay
lăm lăm vũ khí. Nhưng ngay sau đó hắn gào lên như một con ác thú.
David
Becker đã biến mất tự lúc nào.
Becker hối
hả lê một chân len qua đám đông. Hãy đi theo đám đông, anh nghĩ. Họ
biết đường
ra. Anh đến chỗ ngõ giao nhau và con hẻm dần mở rộng ra trước mắt.
Mọi cánh
cổng vẫn mở và mọi người tiếp tục đổ ra đường. Chuông nhà thờ vẫn
gióng giả
vang lên.
Một bên
mạng sườn của Becker như đang bị thiêu đốt, nhưng anh cảm thấy máu đã
ngừng chảy.
Anh tiếp tục đi. Đâu đó phía sau anh là tên sát thủ đang lăm lăm khẩu
súng trong
tay.
Becker cúi
đầu xuống thật thấp và len vào giữa những tốp người đang trên đường
đến nhà
thờ. Không còn xa nữa. Anh có thể cảm nhận được điều đó. Đám người lúc
một đông
hơn. Con hẻm rộng dần ra. Giờ không còn như một dòng suối nhỏ nữa,
con đường
mở ra như một dòng sông lớn. Khi đi vòng qua chỗ rẽ, Becker đột nhiên
nhìn thấy,
sừng sững trước mắt anh - thánh đường và tháp Giralda.
Tiếng
chuông dội inh ỏi vào những bức tường cao của toà tháp.
Mọi người
dồn lại, tất cả đều mặc trang phục màu đen, đều băng qua quảng trường
và hướng về
cửa thánh đường Seville. Becker cố gắng chen ngang để hướng tới
Mateu Gago,
nhưng anh bị mắc kẹt.
Anh bị ép
chặt, vai liền vai, từ đầu gối đến ngón chân đều bị mắc trong đám đông
đang chen
lấn xô đẩy. Cảm nhận của những người Tây Ban Nha về khoảng cách
bao giờ
cũng khác với mọi dân tộc khác. Becker bị ép chặt giữa hai bà béo, cả hai
đều nhắm
nghiền mắt và mặc cho đám đông đưa họ đi. Họ lầm rầm cầu nguyện, tay
nắm chặt
tràng hạt.
Khi đám
đông hợp thành một khối chặt như nêm, Becker một lần nữa cố gắng rẽ
phải, nhưng
đám đông cản anh lại. Người thì đi nhanh, người thì xô đẩy, người thì
nhắm mắt
phó mặc và còn có người chỉ lầm rầm cầu nguyện. Anh cố xoay người
lại, cố tạo
một lực đẩy ngược lại đám đông đang xô đẩy. Nhưng vô ích. Chẳng khác
nào bơi
ngược dòng trên một khúc sông nước chảy xiết và sâu tới cả dặm. Anh vẫn
cố xoay
người. Những cánh cửa Thánh đường hiện ra lờ mờ trước mắt anh như điểm khởi đầu
của một hành trình tăm tối mà anh không hề muốn dcm thân vào.
David
Becker nhận ra anh đang tiến vào nhà thờ.
Chương 90
Tiếng còi báo động từ trung tâm Cryto đang vang lên không ngớt.
Strathmore
không biết Susan đã đi được bao lâu. Ông ngồi một mình trong bóng
tối, tiếng
o o phát ra từ dòng chữ TRANSTR như đang nhắc nhở. Mình vẫn là
người sống
sót…mình vẫn là người sống sót… Đúng vậy, ông nghĩ. Mình là người
sống sót -
nhưng là sự sống sót vô nghĩa chẳng có gì đáng tự hào cả. Thà chết còn
hơn là sống
trong bóng tối của sự ô nhục như thế này.
Nhục nhã-
đó là những gì đang chờ đợi ông phía trước. Ông đã che dấu thông tin,
đã cố tình
không báo cáo giám đốc. Ông đã thả một con virus vào mạng máy tính
an toàn
nhất trên toàn liên bang!
Chẳng còn
gì nghi ngờ nữa, ông sẽ bị nguyền rủa cho tới chết. Ông dự định thể
hiện tinh
thần ái quốc, nhưng sự việc tiến triển ngược lại hoàn toàn. Chỉ còn lại cái
chết và tội
phản quốc. Sẽ có những phiên toà, hình phạt, dư luận công chúng. Ông
đã phục vụ
quốc gia với tất cả tấm lòng và sự chính trực bao nhiêu năm trời, để rồi
đến phút
cuối là một số không to tướng.
"Mình
là người sống sót", ông thầm nghĩ.
"Mày
là kẻ nói dối". Cũng chính ông lại tự trả lời.
Đó là sự
thực ông là một kẻ nói dối. Ông đã không trung thực hoàn toàn với mọi
người.
Susan Fletcher là một trong số những người đó. Có quá nhiều thứ ông đã
không nói
cho cô biết – những thứ giờ khiến ông cảm thấy xấu hổ với chính mình.
Bao nhiêu
năm trời hình ảnh của Susan cứ ám ảnh ông không rời. Đêm đêm ông
mơ thấy cô,
rồi gọi tên cô trong giấc ngủ. Ông không thể không nghĩ về cô. Trong
tâm trí ông
Susan thật tuyệt vời, thông minh và xinh đẹp. Vợ ông đã cố chịu đựng
và bỏ qua
cho ông, nhưng bà ấy đã thực sự tuyệt vọng khi gặp Susan. Bà
Strathmore
không bao giờ lên án chồng vì những tình cảm ấy. Bao lâu nay bà đã cố
kìm nén nỗi
đau trong lòng, nhưng rồi nỗi đau ấy lớn dần vượt quá sức chịu đựng
của con
người. Bà tuyên bố li hôn vì không thể chung sống với cái bóng của một
người đàn
bà khác trong cuộc hôn nhân của họ.
Dần dần
tiếng chuông báo động đã đánh thức Strathmore khỏi ảo tưởng. Ông cố
gắng bật
dậy để tìm cách thoát ra khỏi sự mê muội hiện tại. Bộ não của ông miễn
cưỡng khẳng
định những gì trái tim mình đã hoài nghi. Chỉ có một cách thực sự thoát khỏi
tình trạng này, chỉ một cách mà thôi.
Strathmore
chăm chú nhìn bàn phím và bắt đầu gõ. Không cần bật màn hình, ông
biết rõ
mình đang làm gì. Ông gõ từng phím chữ chậm chạm nhưng dứt khoát:
"Những
người bạn thân mến của tôi, hôm nay tôi sẽ từ biệt cõi đời này"
Bằng cách
này, sẽ chẳng còn ai nghi ngờ hay băn khoăn gì nữa.
Sẽ không có
thẩm vấn. Sẽ không có buộc tội. Ông sẽ quét sạch những gì đã xảy ra.
Rất nhiều
người đã chết… nhưng còn một mạng sống cần phải giữ lấy.
Chương 91 & 92 & 93 & 94 & 95
Trong thánh
đường, ánh ban mai bị thay dần bằng bóng tối. Hơi ấm mặt trời bị thay
thế bởi sự
giá lạnh đến ghê người. Tiếng xe cộ bên ngoài không thể vọng qua
những bức
tường đá granít dày.
Những cột
đèn trong thánh đường không đủ sức xua tan bóng đêm dần ngự trị.
Bóng tối
bao phủ hầu khắp mọi nơi. Một miếng kính cũ đã ngả mầu ở trên cao
thanh lọc
những xấu xa, nhơ bẩn của trần gian ngoài kia thành những tia sáng màu
xanh và đỏ
yếu ớt.
Thánh đường
Seville, giống như nhiều thánh đường khác ở châu Âu, được xây theo
kiến trúc
hình chữ thập. Nơi hành lễ và bàn thờ được đặt ở giữa và nối với điện thờ
chính.
Những chiếc ghế dài được xếp theo hàng dọc dài khoảng 113 yard tính từ
điện thờ
đến chỗ đặt thánh giá. Bên trái và bên phải của điện thờ là gian nhà ngang,
phòng xưng
tội, những nấm mồ thiêng và một vài dãy ghế phụ.
Becker thấy
mình bị mắc kẹt giữa hai chiếc ghế giữa nhà thờ.
Trên đầu,
một khoảng không cao vòi vọi, một lư hương cỡ bằng chiếc tủ lạnh treo
lơ lửng
đang toả hương trầm. Tiếng chuông tiếp tục vang lên từ thánh đường
Giralda, âm
thanh vang dội qua những bức tường đá. Ánh mắt Becker hướng vào
bức tường
được trang trí công phu sau điện thờ. Anh thầm cảm ơn Chúa. Anh đang
thở Anh còn
sống. Cứ như một phép màu.
Trong khi
vị linh mục đang sửa soạn bài giảng mở đầu buổi lễ, Becker xem xét vết
thương bên
mạng sườn. Có một vệt máu trên áo sơ mi của anh, nhưng máu đã
ngừng chảy.
Vết thương nhỏ, giống một vết rách hơn là một vết đâm. Becker gập
mép áo sâu
vào trong và chỉnh lại cổ áo. Đằng sau anh, những cánh cửa đang từ từ
khép lại.
Anh biết nếu có kẻ bám theo anh thì giờ này chắc cũng bị mắc kẹt ở ngoài
rồi. Thánh đường
Seville chỉ có một lối đi chính, được thiết kế từ thời nhà thờ được
sử dụng làm
pháo đài, một nơi an toàn để tránh quân Moro xâm lược. Với một lối
đi duy nhất
như thế này, thì chỉ có một cửa cần bảo vệ. Ngày nay thì lối đi này còn
có một chức
năng khác - nó đảm bảo tất cả du khách đến thánh đường đều phải
mua vé vào
cửa.
Cánh cửa cũ
kỹ cao khoảng bốn mét đã đóng lại. Becker đang ngồi đây, trong ngôi
nhà của
Chúa. Và chợt nhận thấy mình là người duy nhất trong nhà thờ không mặc đồ đen,
anh nhắm mắt và cố khom lưng xuống. Dàn đồng ca bắt đầu hát.
Phía cuối
nhà thờ, một bóng người đang di chuyển chậm chạp dọc theo hành lang,
ẩn trong
bóng tối. Hắn ta kịp len vào nhà thờ ngay trước khi những cánh cửa được
đóng lại.
Hắn mỉm cười một mình. Cảm giác hứng thú trong cuộc săn đuổi này
đang mỗi
lúc một tăng. Becker đang ở đây…Ta có thể cảm nhận thấy điều đó.
Hắn di
chuyển một cách thận trọng, bước từng hàng một. Trên đầu, chiếc lư hương
đung đưa
đều đều tựa hồ như một quả lắc… Chết ở một nơi như thế nà y quả là lý
tưởng.
Hulohot nghĩ. Ta hy vọng ta về sau cũng sẽ được như vậy.
Becker quỳ
gối xuống sàn thánh đường lạnh lẽo và cúi đầu để tránh bất cứ cái nhìn
nào. Người
đàn ông ngồi cạnh anh cúi xuống nhìn - đây là một hành vi bất thường
trong ngôi
nhà của Chúa.
- Xin lỗi -
Becker nói - Tôi bị ốm.
Becker biết
anh phải quỳ thật thấp. Anh vừa thoáng nhìn thấy cái bóng quen thuộc
lướt qua
hành lang. Chính là hắn! Hắn đang ở đây!
Mặc dù đang
ở giữa đám đông khổng lồ này, Becker vẫn sợ rằng anh rất dễ bị phát
hiện. Giữa
đám đông toàn đồ đen này, chiếc áo anh đang mặc chẳng khác gì một
tấm biến
phủ sơn phản quang trên đường. Anh đã định cởi ra nhưng chiếc áo sơ mi
trắng bên
trong cũng không có gì khá khẩm hơn. Thay vào đó anh cúi thật thấp
xuống. Ông
già ngồi ghế bên cạnh có vẻ giận dữ.
- Sao vậy?
- Ông ta gầm gừ. Sau đó ông ta thì thầm, nửa châm biếm - Tôi gọi bác sĩ
nhé?
Becker
ngước nhìn khuôn mặt đầy nốt ruồi của ông gia và đáp:
- Không,
cảm ơn, tôi không sao.
Có vẻ càng
giận dữ hơn ông ta nói: "Thế thì ngồi xuống! " Ai đó bên cạnh ra hiệu
phải im
lặng. Ông già mím môi và nhìn thẳng về phía trước.
Becker nhắm
nghiền mắt và cúi xuống thật thấp, phân vân không biết buổi lễ sẽ kéo
dài đến bao
giờ. Becker, vốn là người theo đạo Tin Lành, luôn cho rằng đặc điểm
của đạo
Thiên Chúa là dông dài và chậm chạp. Anh thầm ước cho đó là sự thật, vì
ngay sau
khi buổi lễ này kết thúc, anh sẽ buộc phải đứng dậy và theo mọi người ra
ngoài. Mặc
chiếc áo kaki sáng màu này hẳn anh sẽ khó thoát khỏi tay tên sát thủ
kia.
Becker biết
anh không còn sự lựa chọn nào khác. Cách duy nhất bây giờ là quỳ gối trên sàn
nhà lạnh ngắt của thánh đường rộng lớn này. Cuối cùng ông già nọ cũng
chẳng buồn
để ý đến anh nữa. Tất cả mọi người đều đã đứng dậy và đang hát thánh
ca. Becker
vẫn quỳ gối. Chân anh bắt đầu tê cứng như bị chuột rút. Chẳng có chỗ
nào để duỗi
chân ra cả. Hãy kiên nhẫn, anh nghĩ. Hãy kiên nhẫn.
Anh nhắm
mắt lại và thở thật sâu.
Chỉ vài
phút sau, Becker cảm thấy có người đang đá mình. Anh nhìn lên. Ông già
nọ đang
đứng đó, bên phải anh, tức tối, chờ anh tránh ra khỏi đãy ghế.
Becker
hoảng hồn. Ông ta muốn ra về? Mình sẽ phải đứng dậy!
Becker ra
hiệu bảo ông ta bước qua đầu anh. Ông già cố kiềm chế cơn giận của
mình. Ông
ta giật vạt áo, kéo chúng xuống đầy tức giận và ngả người về phía sau
để cho anh
thấy tất cả những người còn lại trong dãy ghế vẫn đang chờ ra khỏi đây.
Becker nhìn
sang trái và thấy người phụ nữ trước đó ngồi cạnh anh giờ không còn ở
đó nữa.
Những chiếc ghế bên trái hoàn toàn trống, người ta đã bước ra hành lang
chính.
Buổi hành
lễ chưa thể kết thúc được! Không thể như thế! Mọi thứ vừa mới đến
xong cơ mà!
Nhưng khi
Becker nhìn thấy cậu bé ở điện thờ đứng cuối hàng và hai hàng người
đơn lẻ đang
di chuyển trên hành lang chính hướng tới điện thờ anh hiểu điều gì
đang diễn
ra.
Lễ ban
thánh thể. Anh rên rỉ. Những người Tây Ban Nha tiến hành nghi lễ này
trước!
Chương 92
Susan theo lối cầu thang đi xuống tầng ham. Hơi nước dày đặc bao
trùm
TRANSLTR. Các tấm sàn ướt nhoèn vì hơi nước ngưng đọng. Cô suýt ngã vì
để giầy
không đủ độ bám. Cô phân vân không biết TRANSLTR còn duy trì hoạt
động được
bao lâu nữa. Còi báo động vẫn tiếp tục rú từng hồi. Hệ thống đèn báo
động cứ hai
phút lại nhấp nháy. Dưới đó ba tầng, những chiếc máy phát đang rung
lên nặng
nhọc. Susan biết công tắc mạch ở chỗ tận cùng của toà nhà, chỗ đang bị
hơi nước mờ
mịt bao phủ. Cô cảm thấy thời gian đã gần hết.
Ở trên gác,
Strathmore cầm khẩu Beretta trong tay. Ông đọc lại những gì vừa đánh
máy và đặt
tờ giấy xuống sàn nhà. Những gì ông sắp làm là một hành động hèn
nhát, chắc
chắn là thế. Ta là người sống sót, ông nghĩ. Ông nghĩ về con virus trong
ngân hàng
dữ liệu của NSA, về David Becker ở Tây Ban Nha, và về những kế hoạch cho cánh
cửa hậu. Ông đã nói dối quá nhiều, và giờ thực sự cảm thấy hối lỗi.
Ông biết
đây là cách duy nhất để thoát khỏi trách nhiệm… cách duy nhất để thoát
khỏi sự
nhục nhã. Ông cẩn thận nâng khẩu súng, rồi nhắm mắt lại và bóp cò.
Susan xuống
được khoảng sáu tầng thì nghe thấy tiếng súng.
Tiếng nổ
vang lên từ khá xa và gần như bị tiếng máy phát át đi.
Chưa bao
giờ nghe thấy tiếng súng, ngoại trừ trên tivi, nhưng cô biết chắc đó là
tiếng súng.
Cô dừng lại
một lúc, tiếng súng như vang lên trong tâm trí.
Hoảng hốt,
cô nghĩ đến tình huống xấu nhất. Cô nhớ lại những ước mơ của ngài chỉ
huy - cánh
cửa hậu của Pháo Đài Số, nếu thành công sẽ là một kỳ tích. Trong tâm
trí cô hiện
lên hình ảnh con virus trong ngân hàng dữ liệu, cuộc hôn nhân đổ vỡ của
ông, và cả
cái gật đầu ủng hộ mà ông dành cho cô. Chân Susan loạng choạng, cô
quay trở lên,
tay không dám rời tay vịn cầu thang. Chỉ huy! Không!
Susan thấy
toàn thân như tê dại, đầu óc trống rỗng. Tiếng súng dội lại một lần nữa
khiến cô
rối bời. Lý trí mách bảo cô phải xuống tiếp nhưng đôi chân thì cứ bước
ngược lên.
- Chỉ huy!
- Lập tức cô quay trở lên, quên hẳn những nguy hiểm đang rình rập.
Cô cố chạy
thật nhanh, chạy mải miết rồi trượt ngã trên sàn kim loại. Phía trên đầu,
hơi ẩm
chẳng khác nào mưa phùn. Khi tới được đầu cầu thang và trèo lên, cô cảm
thấy như bị
đẩy lên trên bởi đám hơi nước khổng lồ đang bốc lên ngùn ngụt. Cô
ngã lăn
trên sàn Crypto, không khí lạnh giá như những mũi kìm châm vào từng thớ
thịt. Chiếc
áo blu trắng của cô dính bết vào người, toàn thân ướt sũng.
Tối mịt
mùng. Susan dừng lại, cố gắng chịu đựng. Tiếng súng vẫn tiếp tục vang
vọng trong
đầu. Hơi nước nóng bốc lên từ cánh cửa xếp giống như khí ga bốc ra từ
miệng núi
lửa và sắp sửa phun nham thạch.
Susan thầm
nguyền rủa bản thân vì đã để khẩu Beretta lại bên Strathmore. Có phải
trước đó cô
đã để súng lại chỗ Strathmore? Hay ở trong Node 3? Khi mắt đã quen
với bóng
tối, cô nhìn thấy lỗ hổng tại Node 3 trên tường. Ánh sáng lờ mờ hắt ra từ
màn hình
máy tính, nhưng từ khoảng cách này cô nhìn thấy Hale vẫn nằm bất động
trên sàn y
như ban nãy. Và nơi Strathmore vẫn không có động tĩnh gì. Quá sợ hãi
trước những
gì vừa chứng kiến, cô quay về phòng ngài chỉ huy.
Chưa kịp
cất bước, Susan chợt nhận thấy một điều lạ lùng. Cô quay lại vài bước và nhìn
vào Node 3 một lần nữa. Trong ánh sáng mờ nhạt cô có thể nhìn thấy cánh tay
Hale. Nó
không xuôi theo người anh ta nữa. Anh ta không bị bó lại giống như một
xác ướp
nữa. Cánh tay anh ta gác qua đầu. Anh ta nằm chình ình trên sàn nhà. Hay
ta anh ta
đã tự cởi trói rồi? Chẳng có cử động nào. Hale đã chết từ bao giờ.
Susan ngước
nhìn phòng Strathmore ở tầng trên.
- Ngài chỉ
huy? - cô gọi.
Im lặng.
Cô từ từ
tiến đến Node 3. Có một vật gì đó trong tay Hale. Vật đó le lói phản chiếu
ánh sáng
hắt ra từ màn hình vi tính. Susan đến gần hơn… gần hơn nữa. Đột nhiên
cô nhận ra
Hale đang cầm gì trong tay. Đó chính là khẩu Beretta.
Susan há
hốc miệng. Cô nhìn cánh tay, rồi khuôn mặt của Hale.
Những gì cô
thấy thật kinh khủng. Một nửa khuôn mặt Hale bê bết máu. Máu bắn
tung toé
trên thảm trải sàn.
Ôi lạy
Chúa! Susan loạng choạng bước thụt lùi. Đó không phải là phát súng của
ngài chỉ
huy mà là của Hale.
Ngỡ ngàng,
Susan đến bên cái xác. Rõ ràng là Hale đã tự giải thoát cho mình. Dây
điện lúc
trước được lấy ra từ máy in để dùng làm dây trói bị vứt ngổn ngang trên
sàn, ngay
bên cạnh thi thể to lớn của anh ta. Chắc mình đã để khẩu súng trên ghế,
cô nghĩ.
Vũng máu chảy ra từ vết đạn trong sọ anh ta giờ đã chuyển sang màu đen
dưới ánh
sáng xanh.
Trên sàn,
cạnh Hale, có một mẩu giấy. Susan loạng choạng bước qua và nhặt lên.
Đó là một
bức thư.
"Gửi
những người bạn của tôi, tôi phải từ biệt cõi đời này trong nhục nhã vì những
tội lỗi
sau…"
Susan không
tin vào mắt mình, cô đang cầm trên tay một bức thư tuyệt mệnh.
Susan đọc
chậm chạp. Thật hoang đường - không hề giống Hale ngày thường một
chút nào -
tại sao lại là một danh sách các tội lỗi ở đây? Anh ta đã thú nhận tất cả,
Hale thú
nhận rằng NDAKOTA chỉ là một trò lừa đảo, chính anh ta đã thuê một kẻ
hám tiền
giết Ensei Tankado và lấy mất chiếc nhẫn, đẩy Phil Chartrukian rơi xuống
tầng hầm,
và cuối cùng lên kế hoạch bán Pháo Đài Số.
Susan nhìn
dòng cuối cùng. Cô không muốn tin hai chữ ấy là có thật những con
chữ cuối
cùng khiến toàn thân cô tê dại. "Trên hết, tôi thành thực xin lỗi David
Becker. Hãy tha lỗi cho tôi, tôi đã mù quáng
vì tham
vọng".
Susan đứng
run rẩy bên xác Hale. Có tiếng chân chạy phía sau.
Susan từ từ
quay người lại.
Strathmore
xuất hiện phía sau cửa sổ vỡ, mặt tái nhợt và thở không ra hơi. Ông
nhìn xuống
xác Hale, lặng người đi vì kinh ngạc.
- Chúa ơi!
- Ông nói - Chuyện gì thế này?
Chương 93
Lễ ban thánh thể.
Hulohot xác
định được Becker ngay lập tức. Chiếc áo kaki không thể lẫn vào đâu
được, đặc
biệt lại thêm cả vết máu khô ở một bên vạt áo. Kẻ mặc áo ka ki đang tiến
dần vào
giữa hành lang đông đúc. Hắn chẳng thế nào biết mình đang ở ngay đây.
Hulohot
nhếch mép cười tinh quái. Hắn ta sắp tiêu rồi.
Hắn đẩy
miếng kim loại nhỏ tiếp điểm trên những ngón tay, sẵn sàng báo cho kẻ
chủ mưu ở
Mỹ một tin vui. Sớm thôi, hắn nghĩ, sớm thôi mà.
Với điệu bộ
y như con dã thú đang di chuyển ngược chiều gió, Hulohot tiến về phía
cuối nhà
thờ. Rồi bắt đầu đến gần lối đi giữa. Hulohot không có ý định tìm kiếm
Becker lẫn
trong đám đông đang rời khỏi nhà thờ. Con mồi đã bị mắc bẫy, vận may
đã đến dù
hơi muộn - Tên sát nhân nghĩ vậy. Hulohot có thể dễ dàng khử hắn một
cánh kín
đáo. Thiết bị giảm thanh của hắn là loại tốt nhất trên thị trường, và tiếng
súng chỉ khẽ
như tiếng hắng giọng. Mọi việc sẽ ổn cả.
Khi Hulohot
đi gần sát đến chiếc áo kaki, hắn không thèm để ý những lời phàn nàn
của những
người hắn vừa chen qua. Đám đông có thể hiểu được sự phấn khích của
người đàn
ông này muốn nhận được lời ban phúc của Chúa, nhưng nguyên tắc là
nguyên tắc,
trong thánh đường này mọi người chỉ được đi theo hai hàng đơn.
Hulohot
tiếp tục di chuyển. Hắn đang tiếp cận đối tượng rất nhanh. Hắn mở chốt
khẩu súng
giấu trong túi áo khoác.
Thời cơ đã
đến. Từ đầu đến giờ, David đã may mắn nhiều rồi. Quá nhiều rồi.
Chiếc áo
kaki lấp ló trong đám người đi trước, mặt hướng về phía trước, đầu vẫn
cúi xuống.
Hulohot mường tượng ra vụ ám sát. Mọi hình ảnh rất rõ ràng- bám theo
Becker, hạ
thấp súng, bắn hai phát vào lưng đối tượng, Becker sụp xuống, Hulohot
đỡ lấy nạn
nhân đưa vào chỗ ngồi như thế hắn là một người bạn.
Sau đó,
Hulohot chạy nhanh ra phía sau nhà thờ như thể chạy đi gọi người giúp đỡ. Trong
lúc hỗn loạn, hắn sẽ biến mất trước khi mọi người hiểu được chuyện gì đã
xảy ra.
Năm người.
Bốn. Ba.
Hulohot rút
súng ra khỏi túi, hạ thấp nòng xuống. Hắn sẽ bắn từ hông dọc lên
xương sống
của Becker. Làm như vậy viên đạn sẽ trúng vào xương sống hoặc phối
trước khi
vào tim. Cho dù viên đạn không trúng vào tim thì Becker cũng chết. Bởi
phổi đã bị
thủng thì không thể cứu vãn được, trừ khi nơi nào đó y học tiến bộ.
Nhưng ở Tây
Ban Nha, thì không thể cứu sống được.
Hai người…
một. Và Hulohot đã đến đích. Hắn lách sang phải khéo léo như một vũ
công, đặt
tay lên vai người mặc áo kaki, ngắm và… bắn, hai phát đạn.
"Áo
kaki" cứng đờ. Rồi ngã xuống. Hulohot xốc nách nạn nhân. Rất nhanh chóng,
hắn đưa cái
xác vào ghế trước khi có bất cứ vết máu nào loang trên lưng. Mọi
người xung
quanh quay lại nhìn hắn.Không thèm để ý. Hulohot sẽ nhanh chóng tẩu
thoát.
Hắn mò mẫm
lần những ngón tay đã đờ của nạn nhân để tìm chiếc nhẫn. Không
thấy đâu.
Hắn thử lại. Trên những ngón tay chẳng có gì. Hắn tức tối xoay mặt
người đàn
ông lại. Thật kinh hoàng. Khuôn mặt ấy không phải là David Becker.
Rafael de
la Maza, một nhân viên ngân hàng ở ngoại ô thành phố Seville, chết gần
như ngay
tức khắc. Tay anh ta vẫn đang cầm 50,000 pezơta, số tiền mà một người
Mỹ lạ mặt
đã trả để đổi lấy cái áo đen cộc tay rẻ tiền anh ta đang mặc trên người.
Chương 94
Midge Milken giận dữ đứng tại chỗ vòi nước lạnh gần lối ra vào của
phòng họp.
Fontaine đang làm cái quái gì không biết? Bà ta vò nhàu chiếc tách
bằng giấy
và ném thẳng vào thừng rác một cách không thương tiếc. Chắc hẳn có
điều gì xảy
ra bên trong Crypto rồi! Mình có thể cảm thấy điều đó! Midge biết rằng
chỉ có một
cách duy nhất để chứng minh rằng suy đoán của mình là đúng. Bà ta sẽ
tự đến kiểm
tra Crypto - theo dõi Jabba nếu cần thiết.
Midge quay
gót và tiến tới cánh cửa.
Brinkerhoff
đột ngột xuất hiện và chặn đường. Ông ta hỏi Midge:
- Bà định
đi đâu?
- Về nhà! -
Midge nói dối.
Nhưng
Brinkerhoff không cho bà ta đi qua.
Midge quay
sang nhìn thẳng Brinkerhoff: - Fontaine bảo anh không cho tôi ra ngoài phải
không?
Brinkerhoff
nhìn tránh ra chỗ khác.
- Chad, tôi
xin nói với anh rằng có chuyện gì đó xảy ra với Crypto rồi - một điều gì
đó thật
kinh khủng. Tôi không hiểu tại sao Fontaine lại câm lặng như thế, nhưng
TRANSLTR
đang gặp trục trặc. Tối nay có cái gì đó hỏng hóc ở dưới kia kìa?
- Midge -
anh ta cố thuyết phục, đi qua mụ và hướng tới cánh cửa sổ phòng họp,
anh nói với
mụ hãy để giám đốc tự giải quyết chuyện đó.
Midge nhìn
anh ta lạnh lùng.
- Anh có
biết điều gì sẽ xảy ra với TRANSLTR nếu hệ thống tản nhiệt bị hỏng
không?
Brinkerhoff
nhún vai rồi tiến đến cửa sổ. Anh khẳng định với mụ ta là nguồn điện
lại có ngay
bây giờ thôi. Anh ta kéo nhẹ tấm rèm và nhìn sang.
- Sao vẫn
tối om thế kia? - Midge hỏi.
Nhưng
Brinkerhof không trả lời. Anh ta ngẩn ra như bị bùa mê.
Khung cảnh
dưới mái vòm Crypto thật lạ lẫm. Khắp mái vòm bẳng kính, đèn báo
động đang
nhấp nháy liên hồi, và cả một cột hơi nước đang cuồn cuộn bên trong.
Brinkerhoff
sững sờ, nhìn toà nhà dưới vòm kính không chớp mắt. Và trong trạng
thái hoảng
loạn, anh ta gào lên:
- Giám đốc!
Giám đốc!
Chương 95
Máu. Máu của Chúa. Chúa ơi! Hãy cứu rỗi linh hồn này!
Đám đông
xúm quanh người đang nằm trên ghế. Phía trên đầu, chiếc lư hương vẫn
đung đưa
theo nhịp. Hulohot lao như điên dại về phía hành lang giữa rồi xục xạo
khắp nhà
thờ. Chắc chắn Becker đang ở đây! Hắn lại lao lên phía điện thờ.
Cách đó ba
mươi hàng ghế, lễ ban thánh thể vẫn tiếp tục diễn ra khiến Hulohot
không tài
nào lách vào được. Padre Gustaphes Herrera, vị linh mục chính đảm
nhiệm việc
bưng cốc rượu lễ, tò mò nhìn về phía đám đông náo loạn chỗ dãy ghế
trung tâm.
Tuy nhiên vẻ mặt ông ta hoàn toàn hờ hững. Đôi khi cũng có những kẻ
quá sùng
đạo đến mức điên rồ như vậy. Cũng có thể một phần là do không khí quá
ngột ngạt.
Trong khi
đó, Hulohot vẫn đang xục xạo như điên. Becker mất tăm. Có tới cả trăm
người vẫn
đang quỳ gối dọc theo điện thờ để nhận lễ ban thánh thể.
Hulchot
phân vân không biết liệu Becker có trong trong đám người này không. Hắn tìm cẩn
thận từng người một từ đằng sau lưng. Hắn ta định nhắm bắn từ cách xa
khoảng mấy
chục mét rồi sẽ lẩn ngay vào đám đông.
El cuerpo
de Desus, el pan del cielo.(1) Người thầy tu trẻ, người đang ban thánh thể
cho Becker,
nhìn anh đầy vẻ nghi ngờ. Cha có thể hiểu được vì sao người lạ mặt
này háo hức
muốn nhận lời ban phước của Chúa, nhưng anh ta không thể chen
ngang được.
Berker cố
gắng cúi đầu xuống và cố gắng nhai miếng bánh xốp.
Anh có cảm
giác có điều gì đó đang xảy ra ngay sau mình, một sự hỗn loạn. Anh
chợt nghĩ
đến người đàn ông đã bán cho mình chiếc áo đen cộc tay và hi vọng anh
ta đã nghe
lời cảnh báo của anh là không nên mặc chiếc áo ka ki ấy. Berker muốn
xoay người
lại để nhìn, nhưng anh sợ gọng kính kim loại kia sẽ nhận ra anh. Anh
hy vọng
chiếc áo khoác đen sẽ che được chiếc quần kaki. Nhưng hoàn toàn vô ích.
Người bưng
rượu đang đi nhanh qua bên phải anh. Mọi người đều đã uống rượu,
làm động
tác cầu nguyện rồi đứng dậy đi về.
Chậm lại!
Becker không vội vàng gì rời điện thờ này. Nhưng với hai ngàn người
đợi được
làm lễ ban thánh thể trong khi chỉ có tám thầy tư thì xem ra buổi lễ này
còn kéo dài
cho đến khi hết rượu.
Người bưng
rượu lễ gần đi tới phía bên phải Becker thì Hulohot chợt nhận ra chiếc
quần kaki
không đồng bộ với áo khoác ngoài màu đen. Hắn huýt sáo nhẹ, "Mày sắp
chết rồi
con ạ!". Hulohot di chuyển nhanh tới lối đi trung tâm. Thời gian dành cho
sự thận
trọng đã hết rồi. Chỉ cần hai phát súng; rồi sau đó hắn sẽ chộp lấy chiếc
nhẫn và bỏ
chạy. Điểm đỗ taxi lớn nhất Seville là Mateus Gago. Hắn luồn ngón tay
vào cò
súng.
Adios,
Senor, Becker… La sangre de Cristo, la copa de la salvacion (2) Mùi rượu
đỏ rất nặng
xộc vào mũi Becker khi Padre Herrera hạ cốc rượu lễ bằng bạc xuống.
Uống rượu
giờ thì hơi sớm. Becker nghĩ thầm khi vươn người về phía trước.
Nhưng chiếc
cốc bạc vừa được đưa xuống cho anh thì từ đâu đến xuất hiện một
bóng người
đi rất nhanh, hình dáng của hắn hiện lên trên mặt chiếc cốc.
Becker thấy
ánh kim loại của vũ khí. Ngay lập tức anh lao về phía trước như một
vận động
viên vừa nhận được phát súng báo hiệu bắt đầu chạy. Vị linh mục ngã
ngửa về
phía sau vì sợ hãi, làm cho cốc rượu lễ bật tung lên không trung, rượu đỏ
đổ tung toé
lên nền đá thạch trắng. Các linh mục khác và những tiểu đồng đã chạy xô vào
nhau khi Becker cố gắng thoát khỏi đám đông. Kẻ sát nhân bắn một phát
súng.
Becker nằm rạp xuống một cách khó nhọc, viên đạn nổ ngay trên đá hoa
cương sát
bên cạnh. Ngay sau đó anh đã lê người xuống ba bậc cau thang đá dẫn
vào trong
một lối đi nhỏ mất hẹp dành cho các linh mục để họ có thể tiến thẳng ra
điện thờ
như có phép màu nhiệm.
Đến bậc
thang cuối, anh sẩy chân ngã. Becker cảm giác như đang trượt tự do trên
nền đá, các
vết thương trên người anh đau dữ dội khi mạng sườn đập xuống nền.
Một lát sau
anh lại bị trượt xuống một lối có rèm che bên cánh gà, và tiếp tục lăn
xuống một
cầu thang gỗ.
Đau dữ dội,
Becker cố chạy qua phòng thay đồ. Tối như hũ nút.
Ngoài điện
thờ vọng lại những tiếng la hét. Bước chân của kẻ sát nhân vẫn đang
rượt đuổi.
Becker đâm sầm vào một cánh cửa đôi và ngã nhào vào phòng đọc sách.
Căn phòng
tối om nhưng anh vẫn lờ mờ thấy những tấm thảm dệt kiểu phương
Đông và đồ
gỗ bóng lộn Trên tường phía góc xa là cây thánh giá gắn hình Chúa
Giê Su to
bằng người thật. Becker bước lảo đảo rồi dừng lại. Đường cụt.
Anh đứng
ngay cạnh cây thánh giá. Có thể nghe được tiếng Hulohot đang tới gần.
Becker nhìn
trân trối cây thánh giá và nguyền rủa vận rủi của mình.
- Chúa ơi!
- anh gào lên.
Có tiếng
chai đổ vỡ bên trái Becker. Anh xoay người ra. Một người đàn ông trong
chiếc áo
choàng đỏ đang thở hổn hển và hoảng sợ nhìn Becker. Giống như một con
mèo bị bắt
quả tang đang ăn vụng, con người thánh thiện nọ đang chùi mép, và cố
che đi chai
rượu lễ đã bị vỡ dưới chân mình.
- Cho tôi
ra khỏi đây mau - anh yêu cầu - Cho tôi ra ngoài mau!
Linh mục Guena phản ứng lại ngay lập tức. Một
con quỉ lao vào căn phòng bí mật
của ông rồi
lại gào lên đòi ra khỏi ngôi nhà của Chúa. Ông phải ban ân huệ đó cho
anh ta ngay
lập tức. Người lạ mặt này xuất hiện vào thời điểm không thích hợp chút
nào.
Mặt tái
nhợt, vị linh mục chỉ tay ra phía tấm rèm trên tường phía bên phải ông.
Đằng sau
tấm rèm đó chính là cửa ra vào. Ông đã cho đục cái của này cách đây ba
năm. Cánh
cửa thông trực tiếp với sân ngoài. Ông không thích vào nhà thờ qua
cánh cửa
chính giống như những con chiên đến xưng tội.
Chú thích:
(1) Tiếng Tây Ban Nha (Người dịch).
(2) Tiếng
Tây Ban Nha (Người dịch).
Chương 96 & 97 & 98 & 99 &
100
Susan ướt
sũng và run rẩy vì lạnh, ngồi co ro trên chiếc đi văng ở Node 3.
Strathmore
choàng chiếc áo khoác lên vai cô. Thi thể Hale nằm cách đó vài mét.
Còi báo
động lại tiếp tục rú. Như đá tan ra trên mặt ao đã đóng băng, TRANSLTR
phát ra
tiếng gãy rắc nghe thật khủng khiếp.
- Tôi sẽ
xuống tắt nguồn, Strathmore nói và đặt tay lên vai động viên cô - Và tôi sẽ
quay trở
lại đây ngay!
Susan thẫn
thờ nhìn chằm chằm phía sau ngài chỉ huy khi ông lao qua sàn Crypto.
Ông không
còn là người đàn ông khác thường của mười phút trước nữa. Ngài chỉ
huy Travor
Strathmore đã trở lại bình thường, sáng suốt, quyết đoán, làm mọi thứ
để ổn định
tình hình.
Những chữ
cuối cùng trong bức thư tuyệt mệnh của Hale cứ chạy vùn vụt qua tâm
trí cô như
một đoàn tàu bị mất lái. "Trên hết, tôi thành thật xin lỗi anh, David
Becker. Hãy
tha thứ cho tôi, tôi đã mù quáng vì tham vọng".
Cảm giác lo
lắng lại bao trùm tâm trí Susan. David đang gặp nguy hiểm…hay còn
tồi tệ hơn
thế nữa cũng nên. Có lẽ tất cả đã quá muộn mất rồi. "Tôi thành thật xin
lỗi anh,
David Becker".
Cô nhìn bức
thư chằm chằm. Hale vẫn chưa hề kí tên - anh ta mới chỉ đánh máy tên
ở cúối thư.
Greg Hale. Anh ta nói thật những gì anh ta nghĩ, nhấn nút in, rồi sau đó
tự vẫn -
chỉ có vậy. Hale đã thề sẽ không quay lại nhà tù; anh ta đã giữ lời bằng
cách chọn
cái chết để thay thế.
- David… -
cô thổn thức - David!
Lúc đó, ở
độ cao 10 foot phía dưới sàn Crypto, ngài chỉ huy Strathmore bước
xuống cầu
thang đến tầng hầm thứ nhất. Quả là một ngày thảm bại. Những dự định
đầy tinh
thần yêu nước đều vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Ngài chỉ huy buộc phải đưa
ra những
quyết định khó khăn, tiến hành những hành động khủng khiếp - những
hoạt động
mà ông không bao giờ tưởng tượng là mình đủ khả năng để làm.
*** Đó là
một lối thoát! Lối thoát duy nhất và đáng nguyền rủa! Chỉ có hai điều
ông luôn
nghĩ tới: Đất nước và danh dự.
Strathmore
biết vẫn còn thời gian. Ông có thể tắt nguồn điện TRANSLTR. Ông có
thể sử dụng
chiếc nhẫn để bảo vệ cơ sở dữ liệu vô giá của quốc gia. Đúng, ông nghĩ, vẫn còn
thời gian.
Strathmore
xem xét quang cảnh hỗn độn xung quanh mình. Hệ thống phun hơi
nước cứu
hoả của toà nhà đã làm việc. TRANSLTR đang gầm gừ như một con
mãnh thú bị
trọng thương. Còi báo động rú lên liên tục. Những chiếc đèn xoay tít
trông như
những chiếc trực thăng đang hạ cánh trong màn sương dày đặc. Dò dẫm
từng bước,
tất cả những gì ông có thể nhìn thấy là Greg Hale - một chuyên gia giải
mã trẻ tuổi
đang ngước nhìn lên, ánh mắt như đang cầu xin và sau đó là một phát
súng. Sự hy
sinh của Hale là vì quốc gia và vì danh dự. NSA không thể chịu thêm
một vụ tai
tiếng nào nữa. Strathmore cần một vật hy sinh. Ngoài ra Greg Hale còn
là một quả
bom chưa được tháo ngòi.
Dòng suy
nghĩ của Strathmore bị cắt ngang bởi tiếng chuông điện thoại di động,
gần như bị
át đi bởi tiếng còi rú và tiếng hơi nước phun phì phì. Ông thò tay vào
thắt lưng
trong khi vẫn sải bước.
- Nói đi.
Mã khoá của tôi đâu? - một giọng quen thuộc vang lên.
- Ai đấy -
Strathmore nói như hét vì lẫn trong tiếng ồn xung quanh.
- Là
Numataka đây! - giọng nói kia trả lời lại giận dữ - Ông hứa bán mã khoá cho
tôi cơ mà!
Strathmore
vẫn tiếp tục đi.
- Tôi muốn
sở hữu Pháo Đài Số! - Numataka rít lên.
- Chẳng có
Pháo Đài Số nào cả! - Strathmore đốp lại.
- Cái gì?
- Chẳng có
thuật toán nào không có thuật giải cả.
- Dĩ nhiên là có chứ! Tôi vừa thấy trên
Internet mà! Mấy ngày nay nhân viên của
tôi vẫn
đang cố gắng giải mã đấy thôi.
- Nó chỉ là
một con virus được mã hoá, may mà ông không giải mã được đấy.
- Nhưng mà…
- Chẳng mua bán gì nữa cả! - Strathmore hét lên. Tôi không phải là
Dakota.
Chẳng North Dakota nào ở đây cả! Hãy quên tất cả những gì tôi đã hứa
hẹn đi!
Ông tắt
điện thoại, nhét vào thắt lưng. Sẽ chẳng còn ai quấy rối ông nữa.
*** Cách đó
khoảng 12 ngàn dặm, Tokugen Numataka đứng như trời trồng bên cửa
sổ kính.
Đlếu thuốc lá hiệu Umami suýt rơi khỏi miệng ông ta. Vụ làm ăn quan
trọng nhất
đời ông giờ chỉ còn là sương khói. Strathmore vẫn tiếp tục đi xuống. Vụ mua bán
thế là đã bị huỷ.
Tập đoàn
Numatech sẽ không bao giờ có được thuật toán không có thuật giải đó và
NSA cũng sẽ
không bao giờ cài được cửa hậu vào đó Giấc mơ của Strathmore từ
rất lâu đã
nằm trong kế hoạch này ông đã cẩn thận khi chọn Numatech. Numatech
là một tập
đoàn mạnh và rất có thể thắng trong vụ đấu giá mã khoá này.
Sẽ chẳng ai
nghi ngờ nếu tập đoàn này có được mã khoá. Hiển nhiên công ty này
không đời
nào chịu bắt tay hợp tác với chính phủ Hoa Kỳ. Tokugen Numataka là
một người
Nhật thực thụ - sẵn sàng chết vì danh dự. Ông ta ghét người Mỹ. Ông ta
ghét cả đồ
ăn, phong tục, và hầu như mọi thứ, ông ta cũng căm ghét cách người Mỹ
thâu tóm
thị trường phần mềm toàn cầu.
Ý tưởng của
Strathmore vô cùng táo bạo. Ông định tạo ra một chuẩn mực về mật
mã chung
cho thế giới với một cửa hậu bí mật cho NSA. Từ lâu ông đã khát khao
được chia
sẻ mơ ước đó với Susan và cùng cô thực hiện nhưng ông biết rằng điều
đó là không
thể. Cho dù cái chết của Ensei Tankado có thể cứu được hàng ngàn
người trên
thế giới trong tương lai thì Susan cũng không bao giờ đồng ý, cô là
người theo
chủ nghĩa hoà bình. Mình cũng là một người yêu hoà bình, Strathmore
nghĩ, mình
chỉ không được phép hành động giống một cách hoà bình mà thôi.
Ngài chỉ
huy không hề do dự khi chọn người khử Tankado. Tankado ở Tây Ban
Nha - và ở
đây có Hulchot, 42 tuổi, người Bồ Đào Nha, hắn là một tên thạo việc,
một trong
những cánh tay đắc lực của Ngài chỉ huy từ nhiều năm nay. Hulohot đã
làm việc
cho NSA trên toàn châu Âu. Chưa bao giờ những vụ giết người của hắn
lại bị phản
hồi về Fort Meade (1).
Duy một
điều lạ lùng là Hulohot bị điếc, do đó không thể liên lạc qua điện thoại
được. Gần
đây Strathmore đã trang bị cho hắn một phương tiện hiện đại của NSA,
một chiếc
máy tính Monocle.
Strathmore
đã mua cho mình một chiếc SkyPaper và đặt cùng tần số với chiếc
Monocle của
Hulchot. Kể từ đó trở đi ông có thể liên lạc trực tiếp với Hulchot mà
không bị
theo dõi.
Tin nhắn
đầu tiên mà Strathmore gửi cho Hulohot đã có một chỗ không rõ ràng. Họ
đã thảo
luận về điều này. Hãy giết Ensei Tankado và lấy lại bằng được mã khoá.
Strathmore
chưa bao giờ hỏi tại sao Hulohot có thể làm được những điều phi
thường như
thế. Nhưng dù sao thì hắn đã lại làm điều đó một lần nữa. Ensei Tankado đã chết
và được bác sĩ pháp y chuẩn đoán là do đau tim. Một vụ giết
người hoàn
hảo ngoại trừ một điều: Hulohot đã chọn nhầm địa điếm. Rõ ràng
Tankado
chết nơi cộng cộng và điều đó có thể đánh lừa được mọi người. Nhưng
một điều
không thể tính trước là mọi người xuất hiện quá sớm.
Hulohot bắt
buộc phải trốn đi rồi quay lại kiếm mã khoá trên xác nạn nhân sau.
Trước khi
được chôn cất, xác Tankado đã thuộc quyền của bác sĩ pháp y tại Seville.
Strathmore
vô cùng tức giận. Lần đầu tiên Hulchot đã không hoàn thành sứ mệnh
được giao -
hắn ta đã không gặp may trong vụ này. Lấy được mật khẩu từ Tankado
là rất quan
trọng, nhưng Strathmore biết rằng cử một kẻ sát nhân bị điếc đến nhà
xác của
vùng Sevllle là quá mạo hiểm. Ông đã cân nhắc nhiều lựa chọn khác Kế
hoạch thứ
hai bắt đầu hình thành. Đột nhiên Strathmore nhìn thấy cơ hội đạt được
hai mục
đích - Hai thay vì chỉ một. Vào lúc sáu rưỡi sáng ông gọi điện cho David
Becker.
Chú thích:
(1) Fort
Meade: Cơ quan đầu não của NSA
Chương 97
Fontaine lập tức lao vào trong phòng hội nghị. Brinkerhoff và Midge
theo sát
gót ông.
- Nhìn kìa!
- Midge nói không nên lời, tay run run chỉ về phía cửa sổ.
Fontaine
nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy đèn báo động đang nhấp nháy liên hồi ở mái
vòm Crypto.
Ông mở to mắt. Đó dứt khoát không phải là một phần của kế hoạch.
Brinkerhoff
lắp bắp.
- Sàn nhảy
mắc dịch nào ở đó vậy!
Fontaie
nhìn trân trối, cố nghĩ xem hiện tượng này là thế nào.
TRANSLTR đã
hoạt động trơn tru suốt mấy năm nay, ông chưa thấy có hiện tượng
này bao
giờ. Máy bị nóng quá, ông nghĩ. Băn khoăn không hiểu tại sao Strathmore
chưa tắt
TRANSLTR đi, sau giây lát ông quyết định hành động.
Ông vồ lấy
chiếc điện thoại trên bàn, bấm số tới Crypto. Chỉ có tiếng bíp bíp như
thể đường
dây này không hoạt động được.
Fontaine
ném phịch ống nghe xuống. Ông rủa "Quỷ tha ma bắt!". Ngay lập tức ông
lại nhặt
điện thoại lên và bấm số điện thoại cá nhân của Strathmore. Lúc này điện
thoại mới
bắt đầu đổ chuông.
Sáu hồi
chuông liên tiếp vang lên. Brinkerhoff và Midge nhìn Fontaine kéo căng dây điện
thoại đi đi lại lại y như một
con hổ bị
xích. Một phút sau, ông tái mặt đi vì giận giữ.
Ông lại ném
ống nghe xuống.
- Không thể
tin được! - Ông gầm lên.
- Crypto
sắp nổ đến nơi mà Strathmore vẫn không buồn trả lời cái điện thoại chết
tiệt của
ông ta!
Chương 98
Lao từ phòng của linh mục Guerra ra một khoảng sân nắng chói chang,
Hulohot giơ
tay che mắt và lầm bẩm chửi rủa. Hắn đang đứng giữa khoảng sân nhỏ
của thánh
đường, bao quanh là một bức tường đá cao, phía Tây đối diện với tháp
Giralda và
hai hàng rào sắt Cổng mơ. Phía ngoài là một quảng trường. Ngoài đó
chẳng có
gì. Xa xa là những bức tường của Santa Cruz. Becker không có cách gì
chạy nhanh
đến thế được, hắn ta nghĩ. Hulohot quay lại và kiểm tra sân trong một
lần nữa.
- Hắn vẫn
còn ở đây. Chắc chắn vẫn ở đây. Hulohot nói.
Cái sân
mang tên Jardin de los Naranjos vốn rất nối tiếng ở Seville vì có hai mươi
cây cam rất
sai quả. Những cây cam xứ Seville này được nhiều người coi là "tổ
tiên"
của mứt cam kiểu Anh. Vào thế kỷ 18, một thương nhân người Anh đã mua
ba mươi sáu
cân cam từ nhà thờ Seville để mang về nước Anh, về đến nơi mới biết
rằng chúng
chỉ có mỗi vị chát. Ông ta đành dùng vỏ cam làm mứt và cứ phải cho
thêm đường
mãi mới thấy vừa. Mứt cam ra đời từ đó.
Hulohot
tiến qua những lùm cây, súng giương sẵn. Những cây cam này đã lâu đời
lắm rồi,
tán lá của chúng vươn cao, những cành thấp nhất cũng cao quá tầm tay với,
và dĩ nhiên
chúng không thể che phủ những gốc cây già cỗi. Hulohot nhanh chóng
nhận ra
rằng khoảng sân này trống trơn. Hắn ngước nhìn lên tháp chuông Giralda.
Lối vào cầu
thang hình xoắn ốc của tháp chuông Giralda đã bị người ta chặn lại
bằng dây
thừng và một cái biển gỗ nhỏ. Chiếc dây thừng chăng ngang bất động.
Hai mắt
Hulohot nhìn dán vào toà tháp 419 bậc và ngay lập tức hắn nhận thấy suy
nghĩ của
hắn thật nực cười. Becker không thể ngu ngốc đến mức ấy. Cầu thang
hình xoắn
ốc dẫn thẳng lên một phòng ngủ nhỏ xây bằng đá. Trên tường có những
ô trổ hẹp
cho phép người ta nhìn ra ngoài, tuyệt nhiên không có một lối thoát nào.
David
Becker trèo lên những bậc thang dốc cuối cùng, vừa bước vừa thở hổn hển,
anh bước
vào một căn phòng chật hẹp. Trên bốn bức tường đều có những ô trổ nhỏ. Nhưng
không có một lối thoát nào.
Sáng nay
định mệnh đã không cho Becker gặp may. Khi lao từ nhà thờ ra sân, áo
khoác của
anh bị mắc vào cửa. Miếng vải áo khiến anh phải dừng lại và xoay mạnh
về bên trái
trước khi nó rách hẳn ra. Becker bị chói mắt vì ánh nắng, và trượt ngã.
Khi ngẩng
lên, anh thấy chân mình đã chạy lên một cái cầu thang. Anh đã kịp nhảy
qua dây
thừng và lao lên. Đến khi anh nhận ra cái cầu thang sẽ dẫn đến đâu thì đã
quá muộn.
Giờ đây anh
đứng trong căn phòng ngột ngạt và thở hổn hển.
Mạng sườn
đau rát. Những tia nắng yếu ớt của buổi sáng chiếu rọi qua những chỗ
trổ trên
tường. Anh nhìn ra ngoài. Gã đeo kính đang ở dưới, hắn quay lưng về phía
cầu thang
và đang nhìn ra ngoài quảng.trường. Becker nghiêng người ra đằng trước
khe tường
nứt để nhìn rõ hơn. Ra khỏi quảng trường đi, anh nhủ thầm.
Bóng tháp
chuông Giralda đổ dài xuống quảng trường như cây củ tùng khổng lồ bị
đổ. Hulohot
nhìn chằm chằm cái bóng hồi lâu.
Ba luồng
sáng xuyên qua ba chỗ trố trên đỉnh toà tháp tạo thành một hình tam giác
trên nền
sân rải sỏi phía dưới. Một trong những hình tam giác đó bị bóng một người
đàn ông che
lấp. Thậm chí không cần nhìn lên đỉnh, Hulohot chạy vụt tới cầu thang
của tháp
chuông Giralda.
Chương 99
Fontaine tự đấm vào tay mình. Ông đi đi lại
lại trong phòng và nhìn chằm
chằm vào
những chiếc đèn báo động của Crypto đang xoay tít. Tắt đi! Quỷ tha ma
bắt! Tắt
mấy đi!
Midge xuất
hiện ở lối vào, tay giơ lên một tờ fax:
- Thưa sếp!
Strathmore không thể tắt được TRANSLTR!
- Cái gì? -
Brinkerhoff và Fontaine đồng thanh kêu lên.
- Thưa
ngài, ông ta đã cố tắt máy nhưng không được - Midge tiếp tục báo cáo - Đã
bốn lần
rồi. TRANSLTR đang bị khống chế bởi những vòng xoáy vô tận.
Fontaine lao đến bên cửa số và nhìn ra ngoài:
- Lạy chúa
tôi!
Chiếc điện
thoại trong phòng hội nghị đổ chuông, ngài giám đốc nghĩ: "Chắc là
Strathmore!
Chắc ông ta muốn giải thích vì sao chưa tắt TRANSLTR. Đúng lúc
gớm!"
Brinkerhoff nhấc điện thoại lên, trả lời:
- Văn phòng
giám đốc xin nghe!
Fomtain
chìa tay ra đợi.
Brinkerhoff
quay sang Midge vẻ khó chịu. Ông nói:
- Jabba
đấy. Ông ta muốn gặp bà!
Giám đốc
nhìn chằm chằm Midge, bà ta đã kịp đến bên điện thoại, mở loa ngoài và
nói:
- Nói thẳng
luôn đi, Jabba.
Chất giọng
kim của Jabba vang lên trong phòng:
- Midge!
Tôi đang ở ngân hàng dữ liệu chính đây. Chúng tôi vừa phát hiện những
thứ bất
thường ở đây. Tôi đang phân vân là… - Thôi đi Jabba! - Midge giận dữ -
Lúc nãy tôi
bảo ông mà có chịu nghe đâu.
- Có thể là
không có gì trầm trọng, nhưng…- Jabba rào đón - Nhưng mà… - Bỏ cái
giọng ấy
đi! Có chuyện rồi đấy! Bất cứ điều gì xảy ra ở bên đó đều nghiêm trọng,
rất nghiêm
trọng. Tài liệu của tôi không hề sai, chưa bao giờ sai, và sẽ không bao
giờ sai cả!
Mụ ngừng
lại rồi nói thêm:
- Ô, Jabba
này! Đúng là chẳng có gì đáng ngạc nhiên lắm đâu… Strathmore đã tắt
Gauntlet.
Chương 100
Hulohot chạy ba bước một lên cầu thang. Nguồn
sáng duy nhất trong chiếc
cầu thang
hình xoắn ốc này là những khung cửa sổ hẹp hiếm hoi. David Becker đã
tự sa bẫy,
hắn không thể thoát được nữa rồi. Hulohot khom người leo lên từng bậc
một, súng
giương sẵn. Hắn luôn đi sát vào bức tường phía ngoài để đề phòng David
Becker dùng
chân nến tấn công từ phía trên xuống. Những giá nến bằng sắt đặt ở
các chiếu nghỉ
cầu thang có thể trở thành một thứ vũ khí lợi hại nếu Becker biết
cách sử
dụng. Tránh xa bức tưòng bên trong, Hulohot sẽ phát hiện ra David kịp
thời. Tầm
súng của y chắc chắn phải dài hơn tầm sát thương của cây chân nến.
Hulohot di
chuyển nhanh nhưng rất cẩn trọng. Cầu thang dốc đứng; nhiều khách
khu lịch đã
bỏ mạng vì nó. Đây không phải kiểu cầu thang ở Mỹ, không tay vịn, mà
là kiểu Tây
Ban Nha. Và nếu có ai bị ngã thì đó là do anh ta bất cẩn, người thiết kế
chẳng liên
quan gì hết. Hulohot dừng lại và nhìn quanh. Hắn đang ở phía bắc toà tháp và đã
leo được nửa
cầu thang.
Từ chỗ hắn
đang đứng có thể thấy được ban công tầng cao nhất. Lối lên gian trên
cùng trống
trơn. Không thấy Becker có dấu hiệu chống cự nào. Hulohot đoán chắc
David không
nhìn thấy hắn lên cầu thang. Vậy là hắn nắm phần chủ động trong
cuộc chạm
trán này, mà chưa chắc Holuho đã cần đến thế chủ động ấy. Holuhot
đang có
quân chủ bài trong tay. Thậm chí cách bài trí trong tháp chuông này cũng
có lợi cho
Holuhot, bậc cầu thang giao nhau với ban công ngắm cảnh ở góc Tây
Nam,
Holuhot có thể tha hồ ngắm bắn mà không sợ bị tấn công từ sau lưng. Điều
quan trọng
nhất là Holuhot sắp bước từ chỗ tối ra chỗ sáng. Hắn trầm ngâm, "Thật
đúng là
tình huống chết người".
Hắn ước lượng khoảng cách từ chỗ bắn tới cửa,
chừng bảy bước. Hắn mường
tượng các
bước để hạ sát David. Nếu hắn đứng nguyên ở bên phải cửa thì có thể
bao quát
phía trái căn lầu. Nếu David ở đó, hắn sẽ bắn. Nếu không hắn sẽ bò vào
căn lầu và
David chỉ còn ở bên phải. Hắn mỉm cười đắc chí và nghĩ đến kết quả:
MỤC TIÊU:
DAVID BECKER - THANH TOÁN XONG Thời cơ đã đến. Hulohot
kiểm tra
lại vũ khí.
Hắn lao như
tên bắn về phía trước. Toàn bộ lầu ngắm cảnh nằm gọn trong tầm quan
sát. Góc
trái trống trơn. Đã lường trước tình huống, Hulohot di chuyển nhanh vào
trong. Y
bắn mấy viên đạn về phía cánh phải, đạn trúng vào tường và bật lại suýt
nữa vào
người hắn. Hulohot quay người và gầm lên. Không có ai cả.
David
Becker đã biến mất.
Cách lầu
ngắm cảnh ba nhịp cầu thang, David Becker đang treo lơ lửng phía bên
ngoài
Giralda, trên độ cao 325 foot, trông anh giống như người đang thực hiện
động tác
đứng bằng đầu trên bệ cửa sổ. Khi Hulohot chạy lên đến nhịp cầu thang
trên cùng
thì David Becker đã kịp tụt xuống ba nhịp cầu thang và núp phía ngoài
một lỗ trổ
trên tường, vừa kịp để hắn không nhìn thấy. Tên sát nhân vừa đi qua
ngay cạnh
David Becker mà không hay biết. Hắn quá vội vã nên không thể nhận
thấy có
người đang thở hổn hển ngay phía ngoài bức tường.
Treo người
lơ lửng bên ngoài của sổ, David Becker thầm tạ ơn Chúa vì những buổi
rèn luyện
cơ bắp bằng máy Nautilus, dù mỗi lần tập chỉ kéo dài khoảng 20 phút.
Oái ăm
thay, dù có hai cánh tay rất chắc khoẻ, Becker lúc này không còn đủ sức để co
người rồi lăn vào bên trong. Vai nóng ran, hai bên xương sườn mỏi rã mời. Cạnh
đá thô ráp
lại có pha thuỷ tinh cứa vào ngón tay, làm tay anh đau rát.
Becker biết
chỉ lát nữa thôi tên sát nhân sẽ từ tầng trên lao xuống, và hắn sẽ dễ
dàng nhìn
thấy những ngón tay anh đang bám trên bệ cửa số.
Becker nhắm
mắt và cố co người lại, thầm nghĩ phải có phép màu nhiệm thì anh
mới thoát
khỏi bàn tay tử thần. Các ngón tay đang mất dần sức đu bám. Becker liếc
nhìn xuống
phía dưới, một sân bóng rộng bao quanh là hàng cây cam.
Không thể
sống sót nếu rơi xuống chỗ này. Mạng sườn David ngày càng đau ê ẩm.
Anh không
thể chịu đựng thêm được nữa.
Tiếng bước
chân xuống cầu thang ngày càng to dần, rõ dần.
Becker nhắm
mắt lại. Một là sống, hai là chết. Anh nghiến răng, cố co người. Mép
đá sắc cứa
vào cổ tay đau nhói. Tiếng bước chân xuống cầu thang ngày càng dồn
dập hơn.
Becker níu vào cạnh phía trong của hốc cửa, cố bám vào chỗ dựa. Anh
đẩy chân
vào tường làm điểm tựa để nâng người lên. Cơ thể anh nặng như chì vậy,
như thể có
ai đó đang kéo chân anh xuống.
Becker đu
người lên chống được khuỷu tay lên bờ tường, tạo điểm tựa và dùng cơ
tay kéo
toàn bộ cơ thể lên. Anh đã nhìn thấy mọi thứ bên trong, nửa thân trên đã
ngoi được
lên bục cửa. Tiếng bước chân đang đi mỗi lúc một gần hơn. Anh vội tóm
lấy bục cửa
và trong nháy mắt đã lăng được toàn bộ cơ thể vào bên trong.
Hulohot
nghe rõ tiếng người rơi trên sàn ngay phía tầng dưới.
Hắn nhảy
nhẹ về phía trước rồi lên đạn. Hắn nhìn thấy cánh cửa sổ. Hắn đang ở
đây! Nghĩ
vậy, y di chuyển về phía bức tường bên ngoài và chĩa súng xuống dưới.
Hắn nhìn
thấy chân của Becker vừa thụt vào, khuất khỏi khúc uốn cầu thang.
Hulohot xả
đạn dữ dội, vỏ đạn văng rào rào xuống chân cầu thang.
Chạy xuống
theo con mồi, hắn luôn bám sát bức tường bên ngoài để có góc nhìn
rộng nhất.
Vì đây là loại cầu thang hình xoáy ốc nên dường như Hulohot và David
Becker luôn
là hai điểm đối diện trên một hình tròn. Becker luôn ở phía trước và
ngoài tầm
ngắm của Hulohot. Becker nép vào sát tường để cắt góc nhìn. Anh nhảy
bốn, năm
bậc một. Hulohot đã theo kịp Becker, khoảng cách giờ chỉ còn bằng một
làn đạn.
Hắn đang cố rút ngắn khoảng cách.
Dù Becker
có chạy được xuống dưới thì cũng không còn đường thoát thân. Hắn sẽ
bắn từ đằng
sau, khi Becker chạy qua hành lang lớn. Cuộc truy sát sinh tử diễn ra thật
chóng vánh.
Hulohot di
chuyển vào phía tâm cầu thang để chạy nhanh hơn. Hắn cảm thấy mục
tiêu đã rất
gần. Hắn luôn thấy bóng của Becker mỗi khi cả hai lao qua một ô cửa sổ
trổ trên
tường. Xuống, xuống tiếp, hình trôn ốc. Dường như hắn lúc nào cũng nhìn
thấy David
Becker vừa vụt qua chỗ ngoặt. Hulohot vừa dõi theo bóng Becker vừa
để ý bậc
cầu thang. Bỗng nhiên Hulohot thấy bóng của Becker vấp ngã. Cái bóng
lảo đảo
sang bên trái rồi bổ nhào xuống thềm cầu thang. Hulohot chạy nhanh về
phía trước.
Tóm được hắn rồi! Một vật kim loại vụt sáng loé lên trước mặt Hulohot.
Hắn nhìn
thấy cây chân nến và tránh sang bên trái nhưng không kịp nữa. Bị chân
nến ngáng
trúng vào giữa hai chân.
Khi hắn
nhâc chân sau lên thì bị va mạnh vào thanh sắt, và bị đầu nhọn đâm sâu
vào ống
chân. Hắn chới với giang tay tìm chỗ vịn, nhưng trước và sau chỉ là
khoảng
không. Hulohot ngã nhào, lăn lông lốc trên cầu thang. Hắn lăn qua David
đúng vào
lúc anh cũng vừa ngã sấp, tay chới với. Cây chân nến trên tay Becker giờ
đây đã găm
luôn vào ống chân Hulhot khi tên này tiếp tục lông lốc lăn qua các bậc
thang bằng
đá cho đến khi xuống tận đến chân cầu thang. Khẩu súng trong tay
Hulohot
văng ra, rơi trên sàn, thân thể hắn vẫn lăn thêm năm sáu vòng nữa. Chỉ còn
khoảng 12
bước chân nữa là y văng ra khỏi sân thượng của nhà thờ.
Chương 101 & 102 & 103 & 104
& 105
David
Becker chưa bao giờ cầm súng, nhưng lúc này anh đang có một khẩu trong
tay. Người
Hulohot vẫn cuộn tròn trong bóng tối trên cầu thang Giralda. Becker dí
nòng súng
vào thái dương kẻ địch và cấn thận ngồi thấp xuống. Chỉ cần lên đạn và
bóp cò.
Nhưng khẩu
súng của Hulohot đã lên đạn sẵn. Trong nháy mắt, viên đạn đã kết liễu
cuộc đởi
Hulohot.
Becker
buông súng rồi đổ vật xuống sàn. Bao lâu rồi mới có lúc anh lại muốn được
khóc to
lên. Nhưng phải cố ghìm lòng. Còn khối thời gian để làm điều đó. Đã đến
lúc trở về
nhà. Anh cố đứng lên, song chưa thể đi được vì quá mệt mỏi. Kiệt sức,
David ngồi
nghỉ một lúc lâu trên sàn cầu thang đá.
Lơ đãng,
anh xem xét cái xác đang nằm cạnh đó. Đôi mắt của tên sát nhân bắt đầu
đờ đẫn dần
và như nhìn vào cõi vô định. Có vẻ cặp kính của hắn vẫn nguyên vẹn.
Becker nghĩ
đây là một cặp kính bất thường, có một dây kim loại nối từ tai mắt
kính xuống
một cái hộp nhỏ dắt ở thắt lưng. Anh thấy nó khác những chiếc kính
bình
thường, song cũng không còn đủ sức để xem xét thêm nữa.
Ngồi trên
bậc cầu thang và miên man suy nghĩ, Becker đưa mắt nhìn chiếc nhẫn
trên tay.
Mắt anh vẫn đủ tinh tường để đọc dòng chữ khắc trên đó. Đúng như
Becker suy
đoán, chữ viết không phải là tiếng Anh. Nhìn chăm chú những ký tự
được khắc
trên mặt nhẫn một lát rồi ảnh chau mày nghĩ: Vật này có đáng để đổi lấy
một sinh
mạng không?
Khi Becker
bước ra khỏi tháp chuông Giralda ánh nắng buổi trưa thật chói chang.
Vết thương
hai bên sườn không đau như trước nữa, thị lực cũng trở lại bình thường.
Song anh
vẫn choáng váng.
Becker đứng
lại một lát và ngửi hương hoa cam. Rồi anh chậm rãi đi qua hành
lang.
Khi Becker
đang sải bước ra khỏi pháo đài, một chiếc xe tải thình lình tiến đến, đỗ
lại bên
cạnh anh. Hai người trong xe nhảy ra ngoài, họ đều mặc quân phục và còn
rất trẻ. Họ
tiến tới gần Becker với dáng vẻ cứng đơ như chiếc máy đã được gài sẵn
chương
trình hoạt động. Một người hỏi:
- Có phải
David Becker không? Becker dừng lại, ngạc nhiên vì họ biết tên anh. Becker hỏi:
- Các anh
là ai?
- Hãy đi
theo chúng tôi, ngay bây giờ!
Có điều gì
đó khiến David Becker nghi ngờ cuộc gặp gỡ này.
Suy nghĩ ấy
khiến đầu óc anh lại quay cuồng. Anh lùi lại. Người thấp hơn ném cho
Becker một
cái nhìn sắc lạnh. Anh ta nói:
- Lối này,
ông Becker, đi ngay.
Becker quay
đầu toan chạy, nhưng anh vừa nhấc chân thì một trong hai người đã
rút súng
ra. Becker cảm thấy ngực đau dữ dội, rồi cơn đau lan lên tận đỉnh đầu.
Những ngón
tay anh cứng đơ lại, mồi anh ngã xuống. Một giây sau, chỉ còn là mầu
đen bao
phủ.
Chương 102
Strathmore xuống đến nền tầng máy TRANSLTR,
xuống khỏi chiếc thang hẹp
và lội bì
bõm trên nền nhà lõng bõng nước. Chiếc máy tính khổng lồ đang rung dữ
dội. Hơi
nước mù mịt, ngưng đọng thành những giọt lớn và rơi xuống như mưa.
Còi báo
động rú như sấm dậy.
Ông nhìn
chiếc máy phát điện chính đã ngừng hoạt động. Xác của Phil vẫn đó, nằm
vắt trên
cánh quạt tản nhiệt. Quang cảnh nơi này chẳng khác gì một màn trình diễn
dạ hội hoá
trang.
Strathmore
thấy tiếc về cái chết của Phil, nhưng đó chỉ là một tai nạn rủi ro. Chính
anh ta đã
buộc ông phải hành động như vậy.
Khi anh
nhân viên An ninh hệ thống lao xuống cầu thang, luôn miệng khẳng định
có virus
xâm nhập, Strathmor đã chặn anh ta lại ở ngay chân cầu thang và cố giải
thích mọi
chuyện. Nhưng Phil nhất định không chịu tin: "Có virus, tôi sẽ gọi
Jabba".
Phil cố lao về phía trước, ngài chỉ huy cố chặn lại. Đầu cầu thang thì quá
chật hẹp,
mào chắn lại thấp. Mỉa mai thay, Phil đúng, đó chỉ là một con virus mà
thôi. Cú
ngã thật đáng sợ. Một tiếng thét kinh hoàng vang lên chỉ trong vòng một
khoảnh khắc
rồi lập tức im bặt. Nhưng cái mà ngài chỉ huy Strathmore nhìn thấy
ngay sau đó
còn hãi hùng hơn gấp nhiều lần. Từ một góc tối dưới chân cầu thang.
Greg Hale
đang ngước nhìn lên, vẻ mặt đầy kinh hãi. Đó chính là khoảnh khắc ông
quyết định
Greg Hale phải chết.
TRANSLTR
kêu răng rắc. Strathmore bắt đầu quay ra xem xét cỗ máy. Phải cắt hẳn nguồn
điện. Ông có thể thấy rất rõ thiết bị ngắt mạch vòng nằm ở bên kia máy
bơm khí
freon, bên trái thi thể của Phil. Strathmore biết chỉ cần kéo chiếc cần lên là
mọi nguồn điện
trong Crypto bị ngắt hoàn toàn. Vài giây sau những máy chính sẽ
lại tiếp
tục hoạt động, toàn bộ thiết bị làm lạnh sẽ trở lại bình thường và
TRANSLTR sẽ
an toàn.
Nhưng khi
Strathmore định gạt cầu dao, ông nhận ra còn một trở ngại cuối cùng
nữa: thi thể
của Phil vẫn nằm vắt trên cánh quạt của một máy tản nhiệt. Tắt và bật
lại máy
chính chỉ gây thêm sự cố về điện nữa. Phải chuyển cái xác đó đi.
Strathmore
túm cổ tay Phil lôi ra. Xác Phil đã cứng đơ lại. Toàn bộ nước trong cơ
thể đã bay
hơi hết, cái xác lúc này đã khô đét lại. Ngài chỉ huy nhắm mắt lại, nắm
lấy cổ tay
xác chết rồi lôi ra. Cái xác xê dịch vài inch.
Strathmore
cố hết sức lôi mạnh hơn nữa. Bỗng nhiên cái xác lộn về phía sau.
Strathmore
chới với rồi ngã nhào xuống cửa buồng máy.
Ông kinh
hãi nhìn bàn tay mình. Trong tay ông là cánh tay của Phil đã long rời
khỏi cơ
thể.
Trên lầu,
Susan vẫn tiếp tục chờ đợi. Cô ngồi trên ghế trong Node 3, người tê dại.
Xác của
Hale ngay dưới chân cô. Susan không thể tưởng tượng được ngài chỉ huy
sẽ đi lâu
như vậy. Cô cố gắng không nghĩ tới David nhưng vô ích. Lời của Hale
như những
lưỡi dao găm vào trái tim cô. "Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện của
David".
Susan nghĩ
mình sắp phát điên mất.
Cô định
chạy xuống Crypto thì Strathmore đã cắt nguồn điện.
Chỉ còn
bóng đêm và sự im lìm bao trùm. Còi báo động im bặt và các màn hình
trong Node
3 tắt ngấm. Trong bóng tối, không còn nhìn thấy xác của Greg Hale
nữa, Susan
sợ hãi co cả hai chân lên đi văng. Cô quấn chiếc áo khoác của
Strathmore
quanh mình.
Bóng tối
tĩnh mịch bủa vây lấy cô.
Susan chưa
bao giờ chứng kiến không khí tĩnh mịch đáng sợ như vậy ở Crypto.
Thường thì
luôn có tiếng máy kêu rền rĩ. Nhưng giờ đây dường như chỉ có tiếng
thở dài
thất vọng của một cỗ máy khổng lồ, tiếng lách tách nổ, tiếng quạt gió dần
dần nhỏ đi.
Susan nhắm mắt và cầu nguyện cho David. Cô cầu xin Chúa lòng lành
che chở,
bảo vệ người cô yêu. Vốn không phải là một con chiên ngoan đạo, cô chưa bao giờ
tin rằng Chúa sẽ nghe
thấy lời
cầu nguyện của mình. Nhưng lúc này, trong tâm trạng bất an, cô cần một
chỗ dựa
tinh thần. Bỗng nhiên cảm thấy có cái gì rung nhẹ ở ngực làm cô giật nảy
mình.
Susan đặt
tay lên ngực tự trấn an. Một lát sau cô hiểu ra đó không phải bàn tay của
Chúa mà là
vật gì đó trong túi áo khoác của ngài chỉ huy Strathmore. Ông đã đặt
chế độ rung
cho chiếc máy nhắn tin hiệu SkyPager. Có người vừa gửi cho
Strathmore
một tin nhắn.
Dưới đó 6
tầng nhà, Strathmore đang đứng cạnh thiết bị ngắt mạch vòng. Toàn bộ
Crypto tối
đen như mực. Ông tận hưởng bóng đêm một lúc. Có tiếng ống thoát
nước đang
chảy. Một cơn bão đã xảy lúc nửa đêm. Strathmore ngửa đầu ra sau cho
nước mưa
rơi xuống mặt để rửa trôi tội lỗi của mình. Mình sẽ không bị đánh bại,
Ông ta quỳ
xuống và rửa thật sạch mùi thịt của Phil ám vào bàn tay.
Giấc mơ về
Pháo Đài Số của Strathmore đã không thành, ông có thể chấp nhận
thực tế đó.
Thứ duy nhất quan trọng với Strathmore bây giờ là Susan. Lần đầu tiên
trong đời,
ngài chỉ huy nhận ra Tổ quốc và vinh quang không phải là tất cả. Tình
yêu cũng là
một phần tất yếu và không thể thiếu được. Ông đã hy sinh tuổi thanh
xuân cho Tổ
quốc, và danh dự. Ông đã sống khắc kỷ suốt bao nhiêu năm. Nhưng để
được cái gì
chứ? Để chứng kiến một gã giảng viên oắt con cướp đi giấc mơ của
mình sao?
Strathmore đã chăm sóc Susan, bảo vệ cô. Ông ta đã mong chinh phục
được cô. Và
bây giờ cuối cùng thì ông ta sẽ có được cô. Susan có thể cần đến bờ
vai của
ông. Khi Susan đau khố tột cùng, vô vọng vì mất mát, thì ông sẽ kịp thời
xuất hiện
để chứng minh cho cô thấy rằng tình yêu sẽ chữa lành mọi vết thương.
Danh dự, Tổ
quốc, Tình yêu. David Becker sắp chết vì cả ba thứ đó.
Chương 103
Ngài chỉ huy chui lên từ cửa tang hầm như thể
một người vừa từ cửa tử chui
lên. Mặc dù
quần áo sũng nước, nhưng bước chân ông vẫn rất nhẹ nhàng.
Strathmore
tiến đến Node 3, đến bên Susan tình yêu của ông, tương lai của ông.
Crypto đã
sáng trở lại. Freon lại đang chảy xuống TRANSLTR như một dòng máu
mang đầy
dưỡng khí. Strathmore biết rằng chỉ vài phút nữa chất lỏng làm lạnh sẽ
tràn xuống
tầng hầm và những bộ vi xử lý ở bên dưới sẽ không bốc cháy. Cho rằng
mình đã
hành động kịp thời, Strathmore thở phào tự đắc, không hề biết rằng ông ta đã
quá muộn mất rồi.
Ta là kẻ
bất diệt, Strathmore nghĩ. Phớt lờ lỗ hổng ở Node 3.
Ông tiến
tới cánh cửa điện, cánh cửa tự động mở ra. Strathmore bước vào phòng.
Susan đứng
đó, mình vẫn khoác chiếc áo của ông, toàn thân ướt sũng, mái tóc rối
bù. Trông
cô như một nữ sinh năm thứ nhất vừa bị gặp mưa, còn Strathmore tưởng
như mình là
sinh viên năm cuối mang áo che mưa đến cho cô. Lần đầu tiên sau
nhiều năm
Strathmore thấy mình trẻ lại, và giấc mơ cửa ông giờ đang sắp thành
hiện thực.
Nhưng khi
tiến lại gần Susan, ông thấy mình đang nhìn vào ánh mắt của một người
hoàn toàn
xa lạ. Ánh mắt thật lạnh lùng, không còn thấy ánh nhìn trìu mến mọi khi
nữa. Cô
đứng bất động như một pho tượng, mắt đẫm lệ.
- Susan?
Một giọt
nước mắt đang lăn xuống gò má run ray.
Strathmore
hỏi gặng:
- Susan,
chuyện gì vậy?
Máu của
Hale đã chảy thành một vũng lớn trên sàn. Strathmore nhìn cái xác một
cách lo
lắng, rồi lại nhìn Susan. Liệu cô ấy có biết không? Không thể nào.
Strathmore
đã rất cấn trọng, không có gì sơ suất:
- Susan? -
Ông tiến lại gần - Có chuyện gì vậy?
Susan vẫn
không nhúc nhích.
- Em lo
lắng cho David đúng không?
Môi cô mấp
máy, nhưng vẫn chưa thể cất thành lời. Ông bước lại gần hơn, định
chạm vào
người cô, song lại do dự. Cái tên David rõ ràng đã tác động mạnh đến
tâm trạng
đau khổ của Susan. Đầu tiên chỉ là một cơn rùng mình, là sự run rẩy. Rồi
dường như
những đau khổ chợt trào lên trong lồng ngực của cô. Susan mấp máy
môi muốn
nói, nhưng không một âm thanh nào thoát ra khỏi cổ họng.
Không một
lời nào.
Vẫn chằm
chằm nhìn Strathmore với ánh mắt băng giá, cô rút từ trong túi áo ra một
vật rồi giơ
cho ông xem, cánh tay run rẩy.
Strathmore
nhìn xuống, tưởng đó là khẩu Beretta. Khẩu súng vẫn ở trên sàn, nằm
gọn trong
tay Hale. Còn Susan đang cầm một vật nhỏ hơn. Ông nhìn nó và trong
giây lát
hiểu ra tất cả. Strathmore nhìn trân trối. Thời gian nặng nề chậm chạp, không
gian im lìm đến
mức ông có
thể nghe rõ tiếng tim mình đang đập.
Một vị anh
hùng bao năm nay đã hạ gục vô số tên khổng lồ giờ chỉ trong chốc lát
đã gục ngã.
Ông đã bị hạ gục bởi chính tình yêu và chính sự ngu ngốc của mình.
Ông đã
nghĩa hiệp đưa chiếc áo khoác cho Susan, cùng với chiếc áo là thiết bị nhắn
tin cá nhân
của mình.
Giờ đến
lượt Strathmore như hoá đá. Tay Susan run rẩy. Chiếc máy nhắn tin rơi
xuống cạnh
chân Hale. Mắt Susan mở to đầy kinh ngạc và ngỡ ngàng, một ánh mắt
Strathmore
không thể nào quên.
Gạt ông
sang một bên, Susan lao ra ngoài.
Ngài chỉ huy
không cản đường, cúi xuống và nhặt chiếc máy nhắn tin lên. Không
có tin nhắn
mới, vậy là Susan đã đọc hết.
Strathmore
xem từng tin trên danh mục.
MỤC TIÊU:
ENSEI TANKADO THANH TOÁN XONG.
MỤC TLÊU:
PIERRE CLOUCHARDE- THANH TOÁN XONG.
MỤC TIÊU:
HANS HUBER- THANH TOÁN XONG.
MỤC TIÊU:
ROCIO EVA GRANADA- THANH TOÁN XONG.
Nhiều tin
nhắn quá, ông ta bỗng thấy rùng mình. Mình sẽ giải thích, rồi Susan sẽ
hiểu và tha
thứ bởi tất cả cũng chỉ vì danh dự và Tổ quốc.
Nhưng vẫn
còn một tin nữa ông chưa đọc - tin nhắn mà không lời lẽ nào có thể giải
thích nổi.
Run rẩy, ông đọc tin nhắn mới nhất MỤC TIÊU: DAVID BECKER -
THANH TOÁN
XONG.
Strathmore
lắc đầu tuyệt vọng, giấc mơ đã tan thành mây khói.
Chương 104
Susan chạy ra khỏi Node 3.
MỤC TIÊU:
DAVID BECKER - THANH TOÁN XONG Như trong cơn ác mộng,
Susan chạy
về phía cửa chính. Giọng Hale vẫn văng vẳng bên tai: "Susan,
Strathmore
sắp giết tôi. Ông ta yêu cô tha thiết".
Chạy đến
cửa chính, Susan đập tay tuyệt vọng lên bàn phím.
Cửa vẫn
đóng, cô lần nữa cố gõ trên bàn phím nhưng cánh cửa quay vẫn không
nhúc nhích.
Susan gào lên trong câm lặng, mất điện nên mã số đã bị huỷ. Cô vẫn
không thể
thoát ra được. Bỗng nhiên hai cánh tay từ đằng sau ôm quàng quanh thân thể rã
rời của Susan. Một cảm giác quen thuộc nhưng thật ghê tởm.
Cánh tay
này không có sức mạnh của một con thú như cánh tay của Hale, nhưng có
có sức mạnh
của sự tuyệt vọng, của một ý chí cứng như thép Susan quay lại. Khuôn
mặt con
người này đầy vẻ sợ hãi và tuyệt vọng. Một vẻ mặt cô chưa từng nhìn thấy.
Susan ông
ôm lấy cô, van nài:
- Hãy để
tôi giải thích.
Cô cố thoát
ra khỏi vòng tay ấy thì ngài chỉ huy càng giữ chặt hơn.
Susan muốn
kêu thét lên, nhưng không cất nối nên lời. Cô muốn chạy, nhưng bị hai
cánh tay
rắn như thép kìm giữ, níu cô lại.
Ông ta thì
thầm:
- Tôi yêu
em, tôi mãi yêu em.
Susan thấy
lòng đau quặn thắt.
- Hãy ở lại
với tôi.
Đầu óc quay
cuồng bởi những hình ảnh ghê rợn: đôi mắt xanh của David nhắm lại
lần cuối,
thi thể Hale đẫm máu trên sàn, xác Phil gãy rời và bốc cháy dưới tầng
hầm.
- Nỗi đau
sẽ qua đi, rồi trái tim em sẽ ấm lại tình yêu thương.
Không một
lời nào lọt được vào tâm trí Susan.
- Hãy ở lại
với tôi - Giọng nói tiếp tục van nài - Tôi sẽ chữa lành vết thương lòng
của em.
Cô cố dãy
dụa, nhưng vô ích.
- Tôi làm
vậy là vì hai ta, hai chúng ta sinh ra để yêu nhau, tôi yêu em - Những lởi
ấy cứ tiếp
tục tuôn trào như thể chúng đã bị kìm nén từ lâu lắm rồi - Tôi yêu em,
yêu em.
Đúng lúc đó,
cách họ ba mươi thước, có tiếng rít man rợ như thể muốn bác bỏ lời tỏ
tình đầy
tội lỗi của Strathmore. Ngay sau đó, TRANSLTR phát ra một âm thanh
ghê rợn và
khủng khiếp. Một thứ âm thanh họ chưa nghe thấy bao giờ, nghe như
tiếng một
con quái vật mình rắn đang phun phì phì dưới hầm. Chất freon dường
như đã
không xuống hầm kịp thời.
Ngài chỉ
huy buông Susan ra, quay về phía chiếc máy tính trị giá 2 tỷ đô la. Mắt
trợn tròn
kinh hãi, ông ta vò đầu, hét to:
- Không!
Không! Cả toà nhà sáu tầng bắt đầu rung chuyển, Strathmore loạng choạng từng
bước tới
gần rồi
khuỵ gối xuống như kẻ tội đồ đang quỳ trước cơn thịnh nộ của Chúa Trời.
Nhưng vô
ích. Dưới tầng hầm, những bộ vi xử lý cấu tạo bằng chất Titan và Stronti
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]