Chương 10 & Chương 11
- Ensei
Tankado chết rồi ư? - Susan cảm thấy buồn nôn - Ngài đã thủ tiêu anh ta ư?
Tôi tưởng
ngài đã nói rằng… - Chúng ta không hại anh ta - Strathmore an ủi - Anh
ta chết vì
một cơn đau tim. COMINT đã gọi điện cho tôi sáng sớm hôm nay.
Máy vi tính
của họ đã phát hiện tên Tankado trong quyển sổ nhật kí cảnh sát thông
qua
Interpol.
- Đau tim?
- Susan nghi ngờ - Anh ta mới ba mươi tuổi.
- Ba mươi hai
- Strathmore sửa lại - Anh ta bị suy tim bẩm sinh.
- Tôi chưa
hề nghe nói đến điều đó.
- Hãy chú ý
đến sức khỏe của anh ta khi ở NSA, chứ không phải là những điều anh
ta khoe
khoang, khoác lác.
tim suy yếu
có thế giết chết anh ta - chỉ đơn giản vậy thôi sao?" Thật là tiện lợi.
Strathmore
nhún vai.
- Yếu tim…
cộng với cái nắng khắc nghiệt của Tây Ban Nha, sự căng thẳng của
việc gửi
thư tống tiền NSA… Susan im lặng giây lát. Dù là do nguyên nhân gì đi
chăng nữa
thì cô vẫn cảm thấy dằn vặt trước cái chết của một nhân viên mật mã tài
ba như thế.
Giọng nói trang nghiêm của Strathmore cắt ngang dòng suy nghĩ của
cô.
- Tuy nhiên
trong cái rủi có cái may: Tankado đã đi du lịch một mình. Có nhiều khả
năng cộng
sự của anh ta vẫn chưa phát hiện ra cái chết của Tankado. Các quan
chức Tây
Ban Nha cho biết họ sẽ cố che giấu thông tin này càng lâu càng tốt.
Chúng ta
biết được tin đó là nhờ COMINT rất thạo tin - Strathmore dịu mắt lại -
Chúng ta
phải tìm ra người cộng sự trước khi anh ta phát hiện ra cái chết của
Tankado. Đó
là lí do tôi cho gọi cô. Tôi cần sự giúp đỡ của cô.
Susan thấy
khá bối rối. Đối với cô thì cái chết đúng lúc của Ensei Tankado đã giải
quyết hết
vấn đề của họ.
- Thưa sếp
- cô phản đối - Nếu các nhà chức trách nói anh ta chết vì bệnh tim thì
chúng ta
làm gì còn trở ngại nào. Cộng sự của anh ta sẽ biết chúng ta không có
trách nhiệm
trong vụ này.
- Không có
trách nhiệm ư?- Strathmore trợn mắt kinh ngạc - Một người đã gửi thư tống tiền
tới NSA và vài ngày sau anh ta chết, thế mà cô bảo chúng ta không có
trách
nhiệm? Tôi cá với cô cả trăm triệu đô la là người bạn bí ẩn của anh ta sẽ
không nghĩ
như thế đâu. Bất cứ chuyện gì xảy ra thì chúng ta có chạy đằng trời
cũng không
thoát tội được. Rất có khả năng đó là một vụ đầu độc, một cuộc khám
nghiệm tử
thi giả, hay bất cứ thứ gì - Strathmore ngập ngừng - Thế cô còn nhớ lúc
đầu cô đã
phản ứng như thế nào khi tôi thông báo về cái chết của Tankado không:
"Tôi
đã nghĩ NSA thủ tiêu anh ta".
- Chính
xác. Nếu NSA có thế đặt năm chiếc vệ tinh Rhyolite trong quỹ đạo quanh
khu vực
Trung Đông, tôi nghĩ việc giả định chúng ta đã mua chuộc mấy viên cảnh
sát Tây Ban
Nha là điều không thể tránh khỏi.
Susan thở hắt ra. Ensei Tankado đã chết. Người
ta sẽ đồ tội cho NSA.
- Liệu ngài
có kịp tìm ra người cộng sự đó không?
- Chắc là
được. Chúng ta đang có một manh mối thuận lợi. Tankado đã rất nhiều
lần công
khai về việc phối hợp với một cộng sự. Tôi nghĩ anh ta hi vọng thông tin
đó sẽ làm
các hãng phần mềm từ bỏ ý định hãm hại anh ta hay cố gắng đánh cắp
chìa khoá
giải mã. Anh ta doạ rằng chỉ cần một ai đó chơi xấu, thì người cộng sự sẽ
công khai
chìa khoá giải mã, và tất cả các hãng phần mềm bỗng nhiên sẽ phải cạnh
tranh với
một phần mềm miễn phí.
- Thông
minh! - Susan gật gù công nhận.
Strathmore
tiếp tục nói.
- Đã nhiều
lần phát biểu trước công chúng. Tankado đã nhắc đến tên của người
cộng sự đó.
Anh ta gọi gã là North Dakota.
- North
Dakota? Rõ ràng đó là một kiểu bí danh.
- Đúng thế,
nhưng để cho chắc ăn, tôi đã điều tra trên mạng với từ khoá là North
Dakota. Tôi
đã nghĩ là sẽ chẳng tìm được cái gì ra hồn. Nhưng cuối cùng tôi đã tìm
thấy địa
chỉ thư điện tử - Strathmore ngập ngừng - Tất nhiên cứ cho đó không phải
là gã North
Dakota mà chúng ta đang tìm kiếm, nhưng tôi đã kiểm tra địa chỉ thư
điện tử này
chỉ để cho chắc mà thôi. Cô có biết tôi đã ngạc nhiên như thế nào khi
thấy địa
chỉ đó chứa đầy các lá thư điện tử từ Ensei Tankado không? - Strathmore
nhướng mày
- Và tất cả những tin nhắn đó đều ám chỉ đến Pháo Đài Số và những
kế hoạch
tống tiền NSA của Ensei Tankado.
Susan nghi
ngờ nhìn Strathmore. Cô thực sự thấy ngạc nhiên khi thấy một người chỉ huy tài
giỏi như thế mà lại dễ bị rơi vào tròng đến vậy.
- Thưa sếp
- cô phản đối - Tankado chắc chắn biết rằng NSA có thể đọc trộm thư
điện tử
trên mạng; anh ta sẽ không bao giờ sử dụng thư điện tử để gửi những thông
tin bí mật.
Đó là một cái bẫy. Ensei Tankado đã cố tình để ông tìm ra North
Dakota. Anh
ta biết thế nào ông cũng điều tra trên mạng nên bất kì thông tin nào
gửi đi, anh
ta đều muốn ông tìm thấy. Rõ ràng anh ta muốn đánh lạc hướng..
- Khá lắm -
Strathmore độp lại - ngoại trừ một vài thứ. Tôi đã không thể tìm được
thứ gì khi
sử dụng từ khoá North Dakota, nên tôi đã ngắt các kí tự tìm kiếm ra. Địa
chỉ thư
điện tử mà tôi ớm thấy có tên hơi khác một chút, đó là - NDAKOTA.
Susan lắc
đầu.
- Cách hoán
đổi vị trí các ký tự là một thao tác thông thường. Tankado biết thế nào
ông cũng
thử hoán đổi vị trí các kí tự cho đến khi nào vỡ vạc ra một điều gì đó.
NDAKOTA là
một cái tên quá dễ phát hiện.
- Cũng có
thể - Strathmore nói, rồi viết nguệch ngoạc mấy chữ lên một mẩu giấy
đưa cho
Susan - Nhưng cô hãy nhìn cái này đã.
Susan đọc
mảnh giấy và chợt hiểu được người chỉ huy này đang nghĩ gì. Trên mảnh
giấy có ghi
địa chỉ thư điện tử của North Dakota.
NDAKOTA@ara.anon.org.
Chính ba
chữ ARA của địa chỉ này đã làm Susan chú ý tới.
ARA là chữ
viết tắt của những người viết thư nặc danh, một máy chủ nặc danh nối
tiếng.
Các nhà
cung cấp nặc danh không xa lạ với những người sử dụng Internet muốn
giấu tên
truy cập. Để nhận tiền dịch vụ, những công ty này bảo vệ bí mật của những
người gửi
thư điện tử, với tư cách là người trung gian. Điều này cũng giống như là
các hòm thư
lưu ký ở bưu điện - người ta có thể gửi và nhận thư mà không cần tiết
lộ tên và
địa chỉ thật của mình. Công ty đó sẽ nhận các lá thư điện tử ghi sẵn bí
danh và gửi
thẳng vào điạ chỉ thư điện tử thật của khách hàng. Công ty chuyển tiếp
thư điện tử
bắt buộc phải tuân theo hợp đồng không được tiết lộ tên và địa chỉ thật
của người
sử dụng.
- Đó không
phải là bằng chứng - Strathmore công nhận - Nhưng rất đáng ngờ.
Susan gật
đầu, thấy thuyết phục hơn.
- Vì vậy mà
ngài liên tục nói rằng Tankado không để ý đến việc có ai đó tìm kiếm tên North
Dakota vì đã được ARA bảo vệ tên và địa chỉ.
- Chính
xác!
Susan suy
nghĩ một lát rồi nói:
- ARA chủ
yếu phục vụ các địa chỉ thư điện tử của Mỹ. Ngài cho là North Dakota
có thể đang
quanh quẩn ở đâu đó?
Strathmore
nhún vai:
- Có thể
lắm chứ. Với một người cộng sự người Mỹ, Tankado có thể giữ hai chiếc
chìa khoá
giải mã ở hai vùng khác nhau. Đó có thể là một hành động thông minh.
Susan suy
ngẫm. Cô nghi ngờ không biết liệu Tankado có giao chiếc chìa khoá cho
bất kì ai
hay không. nếu như đó không phải là bạn thân của anh ta. Và theo như cô
biết thì
Ensei Tankado không có nhiều bạn ở Mỹ.
- North
Dakota - Susan đăm chiêu, bộ óc chuyên gia mật mã của cô nghiền ngẫm
về tất cả ý
nghĩa có thể của bí danh này - Lá thư anh ta gửi cho Tankado sẽ như thế
nào nhỉ?
- Làm sao
tôi biết được. COMINT chỉ tìm thấy những lá thư mà Tankado đã gửi đi.
Tại thời
điểm này tất cả những gì chúng ta chẳng biết gì về North Dakota, ngoại trử
đó là một
địa chỉ nặc danh.
Susan suy
nghĩ một lát rồi nói.
- Có khả
năng là một cái bẫy không?
Strathmore
nhíu mày.
- Như thế
nào?
- Tankado
có thể sẽ gửi một lá thư ma đến một địa chỉ thư điện tử chết với hi vọng
là chúng ta
sẽ đọc trộm nó. Chúng ta sẽ nghĩ là anh ta đã được bảo vệ, và sẽ không
bao giờ mạo
hiểm chia sẻ chiếc chìa khoá giải mã. Anh ta có thể hành động một
mình.
Strathmore
mỉm cười công nhận.
- Một ý
tưởng tinh quái, ngoại trừ một điều. Anh ta sẽ không sử dụng bất kì một
account gia
đình hay công việc nào cả. Anh ta sẽ ghé qua Trường Đại học Doshisha
và đăng
nhập vào máy tính chủ. Dường như anh ta có một địa chỉ thư điện tử bí mật
ở đó. Đó là
một địa chỉ được giấu rất kĩ và tôi chỉ tình cờ phát hiện ra mà thôi -
Strathmore
ngập ngừng - Vì vậy… nếu Tankado muốn chúng ta đọc trộm thư của
anh ta, tại
sao anh ta lại sử dụng địa chỉ thư điện tử bí mật đó để gửi thư? Sau một hồi
suy ngẫm, Susan lên tiếng:
- Có thể
anh ta đã sử dụng một địa chỉ thư điện tử bí mật vì vậy ngài sẽ không nghi
ngờ về âm
mưu này? Có thể Tankado chỉ giấu địa chỉ này với ý đồ để ngài có thể
tìm ra và
nghĩ rằng đó là do may mắn? Điều đó sẽ làm anh ta tin tưởng hơn về lá
thư của
mình.
Strathmore cười mỉm:
- Lẽ ra cô
phải là một trinh thám. Đó là một ý tưởng thông minh. Nhưng thật không
may, mọi lá
thư Tankado gửi đi đều được trả lời. Tankado viết thư và cộng sự của
anh ta trả
lời.
Susan nhăn
mặt.
- Cũng
đúng. Vì vậy mà ngài nói rằng North Dakota là có thật?
- Tôi sợ là
thế. Và chúng ta phải tìm ra anh ta. Và bí mật. Nếu anh ta nghe phong
phanh biết
ý định của chúng ta, mọi thứ sẽ hỏng bét.
Bây giờ
Susan biết chính xác tại sao Strathmore che gọi cô đến.
- Để tôi
đoán xem - Ngài muốn tôi đọc trộm dữ liệu mật của ARA và tìm ra tên thật
của North
Dakota?
Strathmore
cười gượng.
- Cô
Fletcher, cô luôn đi guốc trong bụng tôi.
Về khả năng
dò tìm Internet, không ai có thể sánh với Susan Fletcher. Năm ngoái,
một thượng
sĩ của Nhà Trắng đã nhận liên tục nhận được những lá thư đe doạ nặc
danh. NSA
được giao nhiệm vụ phải tìm ra kẻ chủ mưu. Mặc dù NSA thừa sức yêu
cầu công ty
cung cấp dịch vụ thư điện tử tiết lộ tên của người sử dụng, nhưng nó đã
chọn một
giải pháp tinh vi hơn - đó là "phần mềm tự dò tìm".
Thực ra
phần mềm này đã tạo ra một dấu hiệu chỉ đường được nguỵ trang dưới
dạng thư
điện tử. Cô có thể gửi thư này đến địa chỉ ma, và công ty cung cấp dịch vụ
thư điện
tử, theo đúng hợp đồng đã kí, sẽ gửi nó đến địa chỉ thật của người sử dụng.
Ngay lập
tức chương trình này sẽ lưu lại địa chỉ trên mạng của người gửi và gửi nó
về NSA.
Tiếp đến chương trình này sẽ tự phân huỷ mà không để lại một dấu vết
nào. Từ đó
trở đi, đối với NSA, những kẻ gửi thư nặc danh chỉ là muỗi.
- Cô có thể
tìm ra anh ta không - Strathmore hỏi.
- Chắc
chắn. Tại sao mãi đến bây giờ ngài mới gọi cho tôi?
- Thực ra
thì… - Strathmore cau mày - Tôi đã không hề có ý định gọi cho cô. Tôi không
muốn bất kì ai dính vào cái mớ thòng lọng này. Tôi đã thử gửi phiên bản dò
tìm của cô,
nhưng vì cô đã sử dụng thứ ngôn ngữ quái quỉ gì đó nên tôi không thể
vận hành nó
được. Nó liên tục gửi về những dữ liệu vô nghĩa. Cuối cùng tôi đành
phải ngậm
đắng nuốt cay và lôi cô vào cuộc.
Susan cười
khúc khích. Strathmore là một lập trình viên mật mã tài giỏi, nhưng ông
ta rất hạn
chế về các công việc liên quan đến thuật toán, ông ta không thể nào đánh
bại nổi các
chương trình được bảo vệ vô cùng kĩ lưỡng. Hơn thế nữa, Susan đã viết
phần mềm dò
tìm của cô bằng một ngôn ngữ lập trình mới, được tạo ra từ hai ngôn
ngữ khác,
mà cô gọi là LIMBO. Cô hiểu rằng Strathmore đã gặp phải vấn đề khó
khăn.
- Tôi sẽ lo
chuyện đó! - Cô vừa cười vừa đi về phòng - Tôi sẽ tìm bằng ra thì thôi.
- Mất khoảng bao lâu?
Susan ngập
ngừng:
- À… điều
đó phụ thuộc vào tốc độ chuyển thư nhanh hay chậm của ARA. Nếu
như anh ta
đang ở đây, ở chính bang này và sử dụng AOL hay Compuserve, tôi sẽ
đọc trộm
được thẻ tín dụng và tìm được địa chỉ thanh toán của anh ta trong vòng
một tiếng
đồng hồ. Nếu anh ta đang ở một trường đại học hay một công ty nào đó,
sẽ mất
nhiều thời gian hơn - Cô cười gượng - Sau đó, phần còn lại là do ngài giải
quyết, thưa
ngài Strathmore.
Susan biết
rõ "phần còn lại" sẽ là một đội đột kích của NSA, cắt điện nhà gã đó
và
đột nhập
vào nhà qua cửa so với những khẩu súng to đùng. Có thể cả đội sẽ cho
rằng mình
đang chuẩn bị khám xét một hang ổ ma tuý. Chắc chắn ngài Strathmore
sẽ đàng
hoàng sải bước trên đám sỏi để nhặt chiếc chìa khoá gồm sáu mươi tư kí tự.
Sau đó, ông
sẽ phá huỷ nó. Pháo Đài Số sẽ bị huỷ bỏ hoàn toàn, vĩnh viễn.
- Cần phải
rất cẩn trọng! - Strathmore căn dặn - Nếu North Dakota biết là đang bị
chúng tra
truy tìm, hẳn anh ta sẽ lo sợ, và đội quân của chúng ta sẽ không thể kịp
tới đó
trước khi anh ta biến mất cùng với chìa khoá giải mã.
- Chạy và phân huỷ - cô quả quyết.- Ngay sau
khi tìm ra địa chỉ thư điện tử của
anh ta, nó
sẽ tự phân huỷ. Anh ta sẽ không bao giờ biết là chúng ta đã lần ra địa chỉ.
Người chỉ
huy gật đầu vẻ mệt mỏi.
- Cảm ơn.
Susan mỉm
cười dịu dàng. Cô luôn cảm thấy ngạc nhiên về khả năng giữ bình tĩnh của ngài
Strathmore những lúc đối mặt với nguy hiểm. Cô tin rằng khả năng đó
chính là
thế mạnh đã giúp ông nắm giữ chức phó giám đốc NSA..
Khi Susan
tiến ra cửa, cô cúi xuống nhìn TRANSLTR một hồi lâu. Sự tồn tại của
một thuật
toán không thể giải mã được là điều mà cô vẫn đang vắt óc để lý giải. Cô
cầu chúa
giúp mình tìm ra North Dakota.
- Nhanh lên
- Strathmore giục - và cô sẽ có mặt ở dãy núi Smoky Mountain trước
hoàng hôn.
Susan thấy
cứng đờ cả người. Cô chưa bao giờ tiết lộ với Strathmore về chuyến đi
này.
- Có phải
NSA đã cài máy nghe lén điện thoại của tôi - Susan mấp máy.
Strathmore
mỉm cười hối lỗi.
- Sáng nay
David đã kể cho tôi về chuyến đi này.
Susan cảm
thấy vô cùng lúng túng.
- Sáng nay
ngài đã nói chuyện với David?
- Đương
nhiên - Strathmore dường như rất lúng túng trước phản ứng của Susan -
Tôi đã phải
chỉ dẫn cho anh ta rất tận tình.
- Chỉ dẫn
cho anh ấy? - Cô kêu lên - Về cái gì kia chứ?
- Về chuyến
đi của anh ấy. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha.
Chương 11
"Tây Ban Nha. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha". Những lời của vị
chỉ huy cứ
nhảy múa trong đầu Susan.
- David
đang ở Tây Ban Nha? - Susan nói vẻ đầy hoài nghi - Ngài đã cử anh ấy đến
Tây Ban Nha
- Đột nhiên cô chuyển giọng giận dữ - Tại sao chứ?
Strathmore
sững người. Rõ ràng ông không hề quen với việc bị người khác la ó,
ngay cả đó
là nhân viên mật mã đắc lực nhất. Ông bối rối đưa mắt nhìn Susan. Cô
xù lông cứ
như con hồ mẹ đang bảo vệ đứa con bé nhỏ của mình.
- Susan à!
Cô đã nói chuyện với anh ấy rồi, đúng không? David đã giải thích rồi
chứ?
Cô bị sốc
đến nỗi không để ý đến những gì Strathmore nói. Tây Ban Nha? Đó là lý
do tại sao
David lại trì hoãn chuyến đi đến Stone Manor của hai người?
- Sáng nay
tôi đã gửi đến cậu ta một chiếc ô tô. Anh chàng nói rằng sẽ gọi cho cô
trước khi
đi. Tôi rất tiếc. Tôi tưởng… - Tại sao ngài lại cử David đến Tây Ban
Nha?
Strathmore ngập ngừng, nhìn thẳng Susan nói.
- Để lấy
một chiếc chìa khoá giải mã khác.
- Chiếc chìa khoá khác nào cơ?
- Phiên bản
của Tankado.
Susan cảm thấy thật sự lúng tứng.
- Ngài đang
nói về cái gì vậy?
Strathmore
thở dài:
- Tankado
chắc chắn đã giữ một phiên bán của chìa khoá giải mã khi anh ta chết.
Tôi chắc
như đinh đóng cột rằng anh ta không muốn để nó trôi nổi ở một nhà xác ở
xứ Seville.
- Vì vậy ngài đã cử David Becker - Susan đã
vượt qua cơn sốc. Mọi thứ đều vô
nghĩa -
David thậm chí không làm việc cho ngài cơ mà!
Strathmore
giật mình. Từ trước đến nay không một ai dám nói bằng cái giọng như
thế với phó
giám đốc của NSA.
- Susan! -
ông nói trong khi cố gắng trấn tĩnh - Đó chính là mấu chốt vấn đề. Tôi
cần!
Susan chợt
trở nên dữ dằn.
- Ông đã có
hai mươi nghìn nhân viên sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của ông. Ai
cho phép
ông cử chồng chưa cưới của tôi?
- Tôi cần
một thường dân làm giao liên, một ai đó hoàn toàn không dính líu đến
chính
quyền. Nếu tôi chọn các cách thông thường, thì có người sẽ chộp được tin
này.
- Và David Becker là người dân thường duy nhất
mà ông biết?
- Không!
David Becker không phải là người dân thường duy nhất mà tôi biết.
Nhưng 6 giờ
sáng nay, mọi thứ diễn ra nhanh như chớp! David biết tiếng Tây Ban
Nha, cậu ta
vô cùng thông minh, Tôi tin tưởng và đã ban cho anh chàng một đặc
ân!
- Một đặc
ân… - Susan lắp bắp - Cử anh ấy đi Tây Ban Nha là một ân huệ hay sao?
- Đúng thế!
Tôi sẽ trả anh ta mười nghìn đô la chỉ cho một ngày làm việc. Anh ta sẽ
lấy tất cả
đồ đạc của Tankado và bay về nhà. Đó là một đặc ân!
Susan im
lặng và chợt hiểu ra tất cả. Đó là vì tiền.
Cô nhớ lại
5 tháng trước đây, vào cái đêm mà hiệu trưởng Trường Đại học Georgetown đã đề
nghị thăng chức cho David, giữ ghế chủ nhiệm khoa ngôn ngữ.
Hiệu trưởng
đã cảnh báo anh là anh sẽ bị giảm giờ lên lớp và sẽ phải làm nhiều
công việc
giấy tờ hơn, nhưng không được tăng lương. Susan đã muốn gào to lên,
David, đừng
làm điều đó. Anh sẽ chẳng sung sướng gì đâu! Chúng ta có nhiều tiền
- do ai làm
ra cũng thế cả thôi mà! Nhưng cô không có quyền. Cuối cùng, cô đành
phải chấp
nhận quyết định của anh.
Đêm đó,
trước khi chìm vào giấc ngủ, cô đã cố gắng bắt mình phải mừng cho anh,
nhưng vẫn
có một cái gì đó không ngừng mách bảo cô rằng đó sẽ là một tai hoạ. Cô
đã đúng -
không tin nổi là linh cảm của mình lại đúng đến mức này.
- Ông đã
trả cho anh ấy mười nghìn đô la. Đó là một cái bẫy bẩn thỉu!
Bây giờ đến
lượt Strathmore nổi giận đùng đùng.
- Bẫy à? Đó
không phải là một cái bẫy chết tiệt nào hết! Thậm chí tôi đã không nói
với anh ta
về số tiền đó. Tôi đã yêu cầu anh ta làm cho tôi một việc dưới danh
nghĩa cá
nhân. Anh ta đã đồng ý đi.
- Tất nhiên
là anh ta đồng ý? Ông là sếp của tôi! Ông là phó giám đốc của NSA!
Làm sao anh
ấy dám từ chối cơ chứ?
- Cô nói
đúng! - Strathmore ngắt lời - Đó là lí do tại sao tôi gọi anh ta. Tôi không
có nhiều
lựa chọn.
- Giám đốc
có biết ông cử một người dân thường đi hay không?
- Susan! -
Strathmore cố tỏ ra kiên nhẫn - Giám đốc không liên quan đến vụ này.
Ông ta
không biết gì hết.
Susan nhìn
Strathmore kinh ngạc, không thể nào tin được.
Dường như
cô không còn hiểu nổi con người này nữa. Ông ta đã gửi chồng chưa
cưới của cô
- một giáo viên, đi làm nhiệm vụ của NSA và không thông báo với
giám đốc về
cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử NSA.
- Ngài
Leland Fontaine không được thông báo?
Strathmore
không thể chịu được nữa, hét lên:
- Nghe này,
Susan! Tôi gọi cô đến đây là vì tôi cần một đồng minh, chứ không phải
một điều
tra viên. Tôi đang sống cảnh địa ngục trần gian đây. Đêm qua, tôi đã tải
file của
Tankado và ngồi hàng giờ ở đây, bên chiếc máy in, cầu nguyện
TRANSLTR có
thể giải mã được. Sáng sớm nay, tôi đã dẹp lòng tự ái và gọi điện
cho giám
đốc - nói cho cô biết tôi rất muốn nói ra chuyện này. Xin chào ngài giám đốc.
Tôi xin lỗi vì đã đánh thức ngài. Tại sao tôi lại gọi điện à? Tôi vừa mới phát
hiện ra
rằng TRANSLTR đã lỗi thời rồi. Chỉ có một thuật toán thôi mà toàn bộ ê
kíp ăn
lương cao ngất ngưởng tại Crypto không thể lập trình nổi! - Strathmore đập
mạnh tay
xuống bàn.
Susan đứng im
bất động. Mười năm nay, cô đã từng thấy Strathmore mất bình tĩnh
một vài
lần, nhưng chưa bao giờ ông nổi giận với cô.
Mười giây
trôi qua, cả hai không nói với nhau một lời nào.
Strathmore
ngồi xuống và Susan có thể nghe thấy ông cố nén thở bình thường trở
lại. Cuối
cùng ông nói, giọng đã bình tĩnh trở lại.
- Thật
không may - Strathmore nói chậm rãi - Giám đốc đang tham dự một cuộc
họp với
Tổng thống của Columbia ở Nam Phi. Bởi vì ông ấy không thể làm được
điều gì từ
bên đó, cho nên tôi chỉ có hai giải pháp - thứ nhất, yêu cầu giám đốc rút
ngắn thời
gian ở bên đó và sớm quay về - thứ hai, tự mình giải quyết.
Cả hai im
lặng một hồi lâu. Rốt cuộc, Strathmore ngầng lên và ánh mắt mệt mỏi
của ông
chạm phải ánh mắt Susan. Ngay lập tức ông hạ giọng.
- Xin lỗi
Susan. Tôi kiệt sức mất. Cơn ác mộng này đang biến thành sự thật. Tôi
biết cô
buồn về chuyện của David. Tôi không định nói với cô chuyện ấy theo kiểu
này. Tôi
tưởng cô đã biết rồi.
Susan cảm
thấy vô cùng ân hận.
- Tôi đã
phản ứng quá dữ dội. Xin lỗi ngài. David quả là một sự lựa chọn tốt.
Strathmore
lơ đãng gật đầu.
- Tối nay
anh ta sẽ quay về.
Susan nghĩ
đến những thứ mà vị chỉ huy này đang phải trải qua - áp lực của việc
giám sát
TRANSLTR, làm việc, rồi họp hành liên tục không có thì giờ nghỉ ngơi.
Người ta
đồn rằng người vợ chung sống đã ba mươi năm cũng đang định bỏ ông
mà đi. Bây
giờ lại thêm chuyện Pháo Đài Số - hiểm hoạ đáng sợ đối với ngành tình
báo trong
lịch sử của NSA. Ấy vậy mà người đàn ông khốn khổ này đang phải đơn
thương độc
mã gánh chịu. Chẳng trách lúc nào ông ta cũng có vẻ như sáp nồ tung
ra vậy.
- Trong
những trường hợp thế này - Susan lên tiếng - Tôi nghĩ có lẽ ngài nên gọi
cho giám
đốc.
Strathmore lắc đầu, một giọt mồ hôi nhỏ xuống
bàn. - Tôi sẽ không thông báo cho giám đốc về một cuộc khủng hoảng mà ông ta
không
làm gì
được. Để tránh làm hại đến sự an toàn của ông giám đốc hay làm rò rỉ thông
tin này.
Susan biết rằng ngài chỉ huy đã đúng. Ngay cả
trong những giờ phút khó khăn như
thế này,
Strathmore vẫn giữ được tỉnh táo.
- Ngài đã
nghĩ tới việc gọi điện cho Tồng thống chưa?
Strathmore
gật đầu.
- Có. Tôi
vừa quyết định không làm điều đó.
Susan hiểu.
Cấc quan chức hàng đầu của NSA có quyền giải quyết các trường hợp
tình báo
được xác nhận là khấn cấp mà không phải thông báo cho cơ quan hành
pháp. NSA
là tồ chức tình báo duy nhất của Mỹ được hưởng quyền miễn hoàn toàn
tất cả các
hình thức giải trình trách nhiệm trước Toà án Liên bang.
Strathmore
thường tận dụng đặc quyền này để tự mình giải quyết các công việc.
- Thưa sếp!
Việc này quá phức tạp và không thể giải quyết một mình. Ngài cần
phải tìm ai
đó để cùng giải quyết.
- Susan, sự
tồn tại của Pháo Đài Số liên quan mật thiết đến tương lai của NSA. Tôi
không hề có
ý định báo cáo với Tổng thống khi giám đốc đi vắng. Chúng ta đang
phải đối
mặt với một cuộc khủng hoảng, và tôi sẽ tự giải quyết - ông trầm ngâm
đưa mắt
nhìn cô - Tôi là phó giám đốc ở đây - Một nụ cười mệt mỏi hiện lên khuôn
mặt ông -
Và ngoài ra, tôi không phải đơn thương độc mã. Tôi đã có cô - Susan
Fletcher -
làm hậu thuẫn.
Vào giây
phút đó. Susan chợt thấy vô cùng kính trọng Strathmore. Mười năm qua,
dù thuận
lợi hay khó khăn, ông luôn là người chỉ đường vạch lối cho cô. Vững
vàng, kiên
định, trước sau như một. Sự tận tuy của ông làm cô thấy kinh ngạc -
lòng trung
thành không gì lay chuyển đối với những nguyên tắc, đối với Tổ quốc và
lý tưởng.
Dù chuyện gì xảy ra, chỉ huy Trevor Strathmore luôn là ngọn đuốc soi
đường trong
một thế giới đầy rẫy những quyết định dường như không thể.
- Cô đứng
về phía tôi, đúng không?
Susan mỉm cười:
- Vâng,
thưa ngài. Một trăm phần trăm.
- Tốt. Bây
giờ chúng ta tiếp tục công việc được chứ?
Chương 12 & Chương 13
Đây không
phải là lần đầu David Becker đi dự tang lễ và chứng kiến xác chết,
nhưng lần
này có một cái gì đó khiến anh cảm thấy vô cùng khó chịu. Đây không
phải là một
xác chết được vận bộ đồ sang trọng, sạch sẽ nằm yên nghỉ trong chiếc
quan tài
bọc lụa. Cơ thể này trần truồng, nằm chềnh ềnh trên chiếc bàn nhôm. Anh
ta chết mà
không nhắm mắt. Thay vì đó, cặp mắt nhìn thẳng lên sàn nhà lộ vẻ tiếc
nuối và
kinh hoàng.
- Tư trang
của anh ta đâu - Becker hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha khá sõi.
- Kia kìa -
viên trung uy hé môi trả lời, để lộ ra hàm răng vàng khè. Anh ta chỉ
đống quần
áo và những tư trang cá nhân khác.
- Tất cả
đây sao?
- Đúng thế!
Becker hỏi
xin một cái thùng giấy. Viên trung uý vội vã đi tìm.
Đó là tối
thứ Bảy, và nhà xác Seville đã sắp tới giờ đóng cửa.
Viên trung
uý trẻ được lệnh trực tiếp của giám đốc phòng xác dẫn đường cho
Becker -
dường như vị khách người Mỹ này là người rất có vai vế.
Becker đưa
mắt nhìn đống quần áo. Có một hộ chiếu, một cái ví một cặp kính mắc
vào chiếc
giầy. Còn có thêm một miếng vải len thô mà người bảo vệ đã lấy từ
khách sạn
nơi người đàn ông này đã ở.
Becker được
hướng dẫn khá rõ ràng, cụ thể: Không sờ vào bất kì cái gì. Không đọc
một cái gì.
Chỉ mang tất cả chúng về Mỹ. Mọi thứ. Không được để sót một thứ gì.
Becker quan
sát đống quần áo, cau mày nhăn nhó. NSA định làm gì với đống rác
rưởi này
chứ?
Viên trung
uý trẻ tuổi mang lại về một chiếc hộp nhỏ, và Becker nhanh chóng nhét
quần áo vào
trong.
Anh ta chọc
vào chân tử thi và hỏi:
- Quienes?
Gã này là ai?
- Không
biết.
- Trông
giống người Trung Quốc.
Người Nhật
chứ, Becker nghĩ.
- Tội
nghiệp gã. Đau tim à? Becker gật đầu lơ đãng.
- Tôi thấy
họ nói vậy - Viên trung uý thở dài, lắc đầu đầy vẻ cảm thông - Nắng ở
Seville rất
khắc nghiệt. Ngày mai khi đi ra ngoài, anh hãy cẩn thận nhé!
- Cảm ơn!
Nhưng tôi sẽ về nhà luôn.
- Anh vừa
mới đến cơ mà - Viên trung uý vô cùng ngạc nhiên.
- Tôi biết,
nhưng người đàn ông mua vé máy bay cho tôi đang chờ những vật này.
Viên trung
uý dường như thấy bị xúc phạm theo đúng kiểu người Tây Ban Nha.
- Ý anh là
anh sẽ không chiêm ngưỡng Seville sao?
- Năm ngoái
tôi đã đến đây rồi. Quả là một thành phố xinh đẹp. Tôi rất thích ở lại.
- Vậy anh
đã thăm La Girilda chưa?
Becker gật
đầu. Thực ra anh chưa bao giờ đặt chân lên toà tháp của người Marốc cổ
xưa này,
nhưng anh đã nhìn thấy nó.
- Thế còn
Alcazar?
Becker vừa
gật đầu vừa nhớ lại buổi tối anh được thưởng thức điệu nhạc Flamenco
của Pacode
Lucia ở sân, dưới ánh sao hiền dịu ở một pháo đài được xây từ thế kỷ
XIX. Anh
ước giá mà đã gặp Susan từ ngày ấy.
- Và tất
nhiên cả Christopher Columbus nữa cũng ở đó! - anh thanh niên tươi cười -
Ông ấy được
chôn cất tại nhà thờ của chúng tôi.
Becker
ngửng lên.
- Thật
không? Tôi tưởng người ta lưu giữ thi hài của Columbus ở Cộng hoà Domini
chứ?
- Chúa ơi!
Đồn nhảm đấy! Thi hài của Columbus hiện đang được lưu giữ ở đây,
trên đất
nước Tây Ban Nha xinh đẹp này. Tôi tưởng anh nói anh đã đi học đại học.
Becker nhún
vai.
- Chắc tôi
đã để lỡ giờ giảng đó.
- Nhà thờ
Tây Ban Nha rất tự hào được bảo quản thi hài của ông ấy.
Nhà thờ Tây
Ban Nha. Berker biết ở Tây Ban Nha chỉ có một kiểu nhà thờ duy nhất
- đó là nhà
thờ của người theo đạo Thiên chúa giáo La mã. Nhà thờ Thiên chúa giáo
La mã ở đây
thậm chí còn hùng mạnh hơn cả ở thành phố Vantican.
- Tất nhiên
chúng tôi không được vinh dự bảo quản - viên trung uý nói thêm - Chỉ
một phần
thôi.
Becker
ngừng xếp đồ, nhìn chằm chằm viên trung uý. Chỉ một phần thôi sao? Anh cố nhịn
cười.
- Chỉ một
phần thôi sao?
Người sĩ
quan gật đầu đầy vẻ tự hào.
- Vâng. Khi
nhà thờ lưu giữ thi hài của một người vĩ đại như thế, họ tấn phong ông
là thánh và
chia sẻ thi hài đó cho các nhà thờ khác vì vậy mà ai cũng có thể chiêm
ngưỡng vẻ
đẹp đặc biệt của những nhà thờ này.
- Và ở đây
các anh có… - Becker cố nén cười.
- Ô! Đó là
một phần rất quan trọng! Không giống như việc chúng tôi có một giẻ
xương sườn
hay một đốt ngón tay như những nhà thờ khác ở Galicia. Anh nên ở lại
đây để
chiêm ngưỡng.
Becker gật
đầu cho phải phép.
- Có thể
trên đường về tôi sẽ ghé qua.
- Tiếc quá
- Viên trung uý thở dài. Đến tận bình minh nhà thờ mới mở cửa.
- Thế thì
lần khác vậy - Becker mỉm cười, nhấc chiếc hộp lên.
- Có lẽ tôi
nên đi. Máy bay đang chờ tôi - Nói xong, anh đưa mắt nhìn căn phòng
lần cuối.
- Anh có
muốn tôi đưa đến sân bay không? Tôi có xe môtô Guzzi ở ngoài cửa.
- Ồ không
cảm ơn. Tôi sẽ đi ta-xi.
Becker đã
từng lái xe môtô một lần khi anh còn là sinh viên, và suýt chết. Từ đó trở
đi, anh
không có ý định đi môtô thêm một lan nào nữa, bất kể do ai cầm lái.
- Cho dù
anh nói gì đi chăng nữa - viên trung uý vừa nói vừa bước về phía cửa ra
vào - Tôi
cũng phải tắt đèn.
Becker vòng
tay ôm chiếc thùng giấy. Mình đã có hết mọi thứ chưa nhỉ? Anh nhìn
lần cuối
vào xác chết đang nằm trên bàn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, một thân hình
trần như
nhộng, không một mảnh vải che thân lồ lộ trước mắt anh. Đôi tay biến
dạng đã thu
hút ánh mắt của Becker. Anh cúi xuống nhìn nó chằm chằm.
Viên trung
uý tắt đèn, căn phòng chìm vào bóng tối.
- Khoan đã!
- Bật đèn lên! - Becker ra lệnh.
Đèn nhấp
nháy rồi sáng trở lại.
Becker đặt
chiếc hộp xuống sàn và tiến lại gần xác chết. Anh cúi xuống và nhìn
không chớp
mắt vào cánh tay trái của người đàn ông xấu số. Viên trung uý nhìn theo Becker,
nhận xét:
- Rất xấu,
đúng không?
Nhưng cái
mà Becker chú ý đến không phải là việc cánh tay bị biến dạng. Anh đã
phát hiện
ra một thứ khác. Quay sang viên trung uý, anh nói:
- Có chắc
là mọi thứ đều ở trong hộp chứ?
Người trung
uý gật đầu.
- Vâng.
Đúng thế.
Becker
chống tay vào hông. Một lát sau anh nhặt chiếc hộp lên, mang nó quay lại,
và đặt
phịch xuống đất. Rất cẩn thận anh giũ tung đống quần áo ra. Sau đó anh dốc
ngược đôi
giày xuống rồi bóp nó như thể là đang cố gắng vất bỏ một hòn sỏi trong
giầy ra.
Sau khi làm
xong lần thứ hai, anh bước lại chỗ viên trung uý, cau mày:
- Có chuyện
gì chăng?
- Đúng thế
- Becker nói.
- Chúng ta
đã để sót một thứ gì đó…
Chương 13
Tokugen Numataka đang ở văn phòng sang trọng của mình trên tầng
cao nhất
của một toà nhà chọc trời ở Tokyo. Tất cả nhân viên và đối thủ cạnh tranh
đều biết rõ
ông ta, một sakuta same - một con cá mập nguy hiểm. Trong vòng ba
thập kỷ
qua, ông ta luôn vượt trội so với tất cả các đối thủ cạnh tranh ở Nhật Bản;
và bây giờ
sắp trở thành một người khổng lồ trên thị trường thế giới.
Ông ta đang
hoàn tất cuộc làm ăn lớn nhất trong đời - một cuộc làm ăn có thể tạo
dựng tương
lai cho Tập đoàn Numatech trở thành một Microsoft của tương lai.
Mạch máu
của ông sôi lên như có thuốc kích thích. Thương trường là chiến trường
- Và chiến
trường thì luôn sôi động.
Mặc dù ba
hôm trước, Tokugen Numataka nghi ngờ về cuộc gọi đó, nhưng hôm
nay ông
biết đó chính là sự thật. Tự dưng ông ta được món hời trên trời rơi xuống.
Chúa đã
chọn ông ta.
*** - Tôi
có một phiên bản chìa khoá giải mã của Pháo Đài Số - Một giọng Mỹ -
Ông có muốn
mua không?
Numataka
suýt bật cười thành tiếng. Ông ta biết đó là một âm mưu. Tập đoàn
Numatech đã
bỏ ra một khoản tiền khồng lồ để có được thuật toán mới của Ensei
Tankado, và
bây giờ một đối thủ cạnh tranh với Numatech đang giở trò, hòng biết được số
tiền mà Numatech trả cho cuộc đấu giá này.
- Anh có
chìa khoá giải mã - Numataka giả vờ quan tâm.
- Tôi có.
Tôi là North Dakota.
Numataka
nén cười. Ai mà chẳng biết North Dakota. Tankado đã nhiều lần tiết lộ
với cánh
báo chí về một cộng sự bí mật.
Tankado quả
là rất khôn ngoan khi có một người cộng sự, bởi vì ngay cả ở Nhật
Bản, giới
kinh doanh cũng sẵn sàng giở đủ mọi trò đê tiện. Ensei Tankado không
thể an
toàn. Chỉ cần một hành động thái quá của một hãng phần mềm đang khao
khát có
chìa khoá giải mã, ngay lập tức nó sẽ được công khai, và không một hãng
phần mềm
nào trên thế giới không bị tổn thất.
Numataka
hít một hơi thuốc xì gà Umani và định chơi xỏ lại.
- Anh đang
muốn bán chiếc chìa khoá giải mã? Thú vị đây. Thế Ensei Tankado có
ý kiến gì
không?
- Lòng
trung thành của tôi không dành cho ngài Tankado. Ông ấy thật là ngốc vì đã
tin tưởng
tôi. Chiếc chìa khoá giải mã này đáng giá gấp hàng trăm lần cái giá mà tôi
được trả để
giữ nó cho ông ta.
- Tôi rất
tiếc - Numataka nói - Chỉ riêng chiếc chìa khoá giải mã của anh thì chẳng
có nghĩa lý
gì với tôi. Khi phát hiện ra hành động của anh, Tankado chỉ việc công
bố phiên
bản mà anh ta giữ, và nó sẽ tràn ngập trên thị trường.
- Ông sẽ
nhận được cả hai chiếc - giọng nói đầu dây bên kia lên tiếng - Của
Tankado và
cả của tôi..
Numataka bịt ống nghe và cười phá lên. Ông ta
không thể không hỏi:
- Anh muốn
bao nhiêu cho cả hai chiếc chìa khoá?
- Hai mươi
triệu đôla Mỹ.
Hai mươi triệu đôla Mỹ. Gần bằng cái giá mà
Numataka đã đưa ra trong cuộc đấu
giá.
- Hai mươi
triệu? - Ông ta giả vờ thở kinh ngạc - Điên rồ!"
- Tôi đã
trông thấy thuật toán đó. Tôi cá là nó đáng giá như thế.
Mẹ kiếp,
Numataka nghĩ. Nó đáng giá gấp mười lần số tiền đó ấy chứ.
- Nhưng
thật không may - Ông ta nói giọng mệt mỏi vì trò đùa này - Cả tôi và anh
cùng biet
là ngài Tankado sẽ không bao giờ tán thành việc này. Hãy nghĩ đến
những hậu
quả nếu vụ việc này được đưa ra pháp luật. Người gọi ngập ngừng:
- Thế nếu
ngài Tankado không còn sống nữa?
Numataka
suýt cười phá lên, nhưng lại gật đầu đầy quyết đoán:
- Nếu
Tankado không còn sống nữa - Numataka suy nghĩ - Thì tôi và anh sẽ có một
cuộc mua
bán.
- Tôi sẽ
liên lạc lại! - giọng nói lên tiếng, rồi máy bị cúp.
Chương 14 & Chương 15
Becker cúi
nhìn xác chết. Thậm chí nhiều giờ sau khi chết, gương mặt của một
người châu
Á này vẫn hằn các vệt hồng hồng do bị cháy nắng. Các phần khác đều
tái nhợt,
xám xịt, trử một phần vết thâm tím trên ngực anh ta.
Có lẽ là
CPR (phương pháp hồi sức cho tim), Becker ngẫm nghĩ. Đáng tiếc là
không có
tác dụng.
Anh lại
tiếp tục nghiên cứu đôi bàn tay tử thi. Lần đầu tiên anh gặp đôi bàn tay thế
này. Mỗi
bàn tay chỉ gồm ba ngón xẹo và vặn xoắn. Tuy nhiên, sự dị dạng này
không phải
là cái mà Becker để mắt tới.
- Hừm, tôi
sẽ… - Tử góc bên kia vườn, viên trung uý làu bàu - Anh ta là người
Nhật đấy,
không phải người Trung Quốc đâu.
Becker ngẩng đầu lên. Anh ta đang cầm hộ chiếu
của người đã chết.
- Tốt hơn
là anh không nên xem nó - Becker yêu cầu. Đừng, đừng đọc bất cứ thử
gì.
- Ensei
Tankado… sinh tháng Một… - Làm ơn đi mà - Becker lịch sự nói - Hãy để
nó lại chỗ
cũ.
Viên sĩ
quan nhìn chằm chằm vào quyển hộ chiếu một hồi rồi ném nó về đống quần
áo.
- Gã này có
chiếc visa loại 3. Anh ta có lẽ đã ở đây hàng năm trời rồi.
Becker lấy
bút chọc vào tay nạn nhân.
- Có thể
anh ta đã sống ở đây.
- Không.
Tuần trước anh ta mới đến đây.
- Có thể
anh ta đang chuẩn bị chuyến đến đây - Becker sẵng giọng.
- Vâng, có
thể lắm. Tuần đầu bận rộn nên say nắng rồi đau tim. Khổ thật.
Becker phớt lờ lời nói của viên sĩ quan và
quan sát kỹ bàn tay.
- Anh có
cho rằng anh ta đã không đeo bất kì một loại trang sức nào khi chết
không?
Viên sĩ
quan ngấng đầu thảng thốt.
- Trang sức
ư?
- Đúng thế.
Hãy nhìn đây!
Viên sĩ
quan tiến lại gần. Da tay trái của Tankado chứng tỏ rằng anh ta đã bị cháy
nắng, mọi chỗ trừ một
vòng thịt
nhỏ quanh ngón út.
Becker chỉ
vào vòng thịt tái nhợt.
- Hãy nhìn
này. Tại sao chỗ này không bị cháy nắng? Có vẻ như là anh ta đã đeo
một chiếc
nhẫn.
Viên sĩ
quan tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên.
- Một chiếc
nhẫn ư? - Đột nhiên anh ta lúng tứng. Sau một hồi nghiên cứu ngón tay
của tử thi,
anh ta thẽ thọt thốt lên - Lạy Chúa! Câu chuyện này có thật sao?
Becker đột
nhiên thấy rất nôn nao.
- Anh vừa
nói cái gì?
Viên sĩ
quan lắc đầu.
- Lẽ ra tôi
phải nói từ trước… nhưng tôi tưởng gã đó chỉ là một gã gàn gàn dở dở.
- Gã nào -
Becker nghiêm mặt.
- Gã đã gọi
điện trong trường hợp rất khẩn cấp. Một khách du lịch người Canada
nào đó.
Luôn mồm nhắc đến chiếc nhẫn. Lão nói tiếng Tây Ban Nha dở kinh
khủng.
- Ông ta
nói rằng ngài Tankado có đeo một chiếc nhẫn?
Viên trung
uý gật đầu, lôi từ túi áo ra một điếu Ducado, nhìn thấy biển cấm hút
thuốc lá,
anh ta do dự rồi cuối cùng vẫn châm lửa.
- Lẽ ra tôi
nên nói một điều gì đó, nhưng thằng cha đó điên rồ không chịu được.
Becker nhăn
mặt. Những lời nói của Strathmore vang vọng trong tai anh: "Tôi
muốn tất cả
mọi thứ Ensei Tankado mang theo bên mình. Tất cả. Không để sót bất
kì một cái
gì, thậm chí là một mẩu giấy thừa bé tẹo".
- Chiếc
nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker hỏi.
Viên sĩ
quan thả một hơi thuốc:
- Đó là một
câu chuyện dài.
Có một điều gì đó mách bảo Becker rằng đây
không phải là một tin tốt lành.
- Dù gì anh
cũng phải kể cho tôi.
Chương 15
Susan Fletcher ngồi trước máy ở Node 3. Node 3 là một phòng kín,
cách âm,
khuất sau tầng một, nơi các nhân viên mật mã làm việc. Một lớp kính dày
hai inch
với một mặt cong cho phép các nhân viên mật mã có được bức tranh toàn
cảnh đại
sảng trung tâm Crypto, đồng thời ngăn không cho ai nhìn từ ngoài vào trong
phòng.
Ở phía cuối
Node 3 đặt mười hai chiếc máy vi tính được đặt quây thành hình tròn.
Mục đích là
để khuyến khích các nhân viên mật mã trao đối ý kiến, và để nhắc rằng
họ là một
phần của một êkíp lớn - giống như là các hiệp sĩ giải mã ngồi Bàn Tròn.
Vậy mà, mỉa
mai thay, ngay trong Node3 vẫn có những điều được coi là bí mật.
Được mệnh
danh là cái cũi. Node 3 không giống với tất cả các phòng khác của
Crypto,
được thiết kế để đem lại cảm giác khoan khoái giống như ở nhà, những
chiếc thảm
trải nhà sang trọng, hệ thống âm thanh công nghệ cao, chiếc tủ lạnh chất
đầy đồ ăn,
thức uống, một gian bếp nhỏ, sân bóng rổ Nerf. Lãnh đạo NSA am hiểu
rất tường
tận về Crypto, đừng có bao giờ đổ vài tỷ đô la vào một chiếc máy vi tính
giải mã nếu
không dụ được những người thông minh nhất trong những người thông
minh theo
dõi và sử dụng nó.
Nhón chân
trên đôi giày Salvatore Ferragamo đế bằng, Susan rón rén đặt chân lên
những tấm
thảm dày cộp để bước ra ngoài.
Nhưng viên
chức nhà nước được hưởng lương cao đều được khuyến khích không
nên khoa
trương sự giàu có của mình. Điều này chẳng bao giờ làm Susan phải bận
tâm - cô
luôn cảm thấy hài lòng với căn hộ nhỏ bé, chiếc ô tô hiệu Volvo và chiếc
tủ quần áo
khiêm nhường. Nhưng giày dép lại là một vấn đề khác. Thậm chí hồi
còn là sinh
viên, cô sẵn sàng mua những đôi đắt nhất chỉ đơn giản chỉ vì cô thích
chúng.
Chân đau
thì chẳng thế mơ leo lên được đến trời, dì cô đã từng nói thế. Và một khi
đã đến được
nơi cần đễn, chúng ta thực sự được mãn nguyện.
Susan cho
phép mình nghỉ một lúc rồi lại lao vào công việc. Cô tìm phần mềm dò
tìm và
chuẩn bị định dạng nó, mắt liếc nhìn địa chỉ e-mail mà Strathmore đã đưa.
NDAKOTA@ARA.ANON.ORG
Người đàn ông tự xưng là North Dakota có một
địa chỉ thư
điện tử nặc danh, nhưng Susan chắc chắn nó sẽ nhanh chóng không còn
là nặc danh
nữa. Phần mềm dò tìm sẽ xâm nhập vào ARA, gửi đến North Dakota,
rồi sau đó
sẽ gửi lại những thông tin liên quan đến địa chỉ Internet thật của anh ta.
Nếu như mọi
thứ suôn sẻ, phần mềm sẽ nhanh chóng xác định được vị trí của North
Dakota, và
Strathmore sẽ có thể lấy được chìa khoá giải mã. Khi David tìm ra
phiên bản
của Tankado thì cả hai chiếc chìa khoá có thể sẽ đều bị phá huỷ, quả bom
hẹn giờ của
Tankado sẽ trở nên vô dụng như một khối thuốc nổ không có ngòi. Susan kiểm tra
hai lần địa chỉ hiện ra trước mặt cô và nhập thông tin vào phần kiểm
tra dữ liệu
đúng. Cô thích thú cười thầm khi thấy Strathmore không thể tự gửi phần
mềm dò tìm
này được.
Rõ ràng là
ông ta đã gửi đi hai lần, nhưng cả hai lần đều nhận được địa chỉ e-mail
của Tankado
chứ không phải của North Dakota. Đó là một sai lầm rất dễ hiểu; có
thể
Strathmore đã thay đổi trường dữ liệu, vì vậy phần mềm dò tìm đã tìm không
đúng
account cần tìm.
Susan nhập
xong thông tin một lát thì chiếc máy vi tính kêu lên một tiếng bíp.
PHẦN MÊM DÒ
TÌM ĐÃ ĐƯỢC GỬI.
Bây giờ thì
chỉ việc ngồi chờ.
Susan bỗng
nhiên thở dài, cô thấy có lỗi vì đã phản ứng quá mạnh đối với chỉ huy
của mình.
Nếu có một ai đó đủ năng lực để một mình giải quyết vấn đề, thì người
đó không
thể là ai khác ngoài Trevor Strathmore. Ông thực sự là một thiên tài trong
việc thu
phục những người thách thức mình.
Sáu tháng
trước, khi EFF khui ra vụ một tàu ngầm mà NSA dùng để cài máy nghe
trộm vào hệ
thống đường dây điện thoại dưới nước, Strathmore đã khôn ngoan tung
thông tin
rằng chiếc tàu ngầm đó thực ra đang chở chất thải độc hại phi pháp. Ngay
lập tức,
EFF và các nhà bảo vệ đại dương đã mất nhiều thời gian tranh luận xem
thông tin
nào là đúng đến nỗi cuối cùng các phương tiện thông tin đại chúng trở
nên mệt mỏi
và bỏ qua toàn bộ vụ việc. Trước bất kỳ hành động nào, Strathmore
đều lên kế
hoạch kĩ lưỡng, tỉ mỉ.
Cũng giống
những nhân viên khác của NSA, Strathmore đã sử dụng một phần mềm
do NSA xây
dựng, được gọi là BrainStorm- một phần mềm chương trình máy tính
có khả năng
nêu ra tất cả các khả năng diễn biến của sự việc nhằm bảo mật sự tồn
tại của
TRASTLR.
BrainStorm
là tên một thử nghiệm tình báo nhân tạo mà các tác giả của nó đã dựa
trên nguyên
lý nhân quả. Lúc đầu nó được chế tạo để phục vụ cho các cuộc vận
động chính
trị như là một phương pháp tạo ra các mô hình xử lý thông tin trong
"một
môi trường chính trị cụ thể". Được nạp một khối lượng dữ liệu khổng lồ,
chương
trình này đã tạo ra một môi trường ảo - một mô hình giả thuyết về sự tương
tác giữa
các biến cố chính trị, bao gồm các nhân vật chính trị lỗi lạc, nhân viên của
họ, những
mối quan hệ cá nhân với nhau, những vấn đề nóng bỏng, những động cơ cá nhân
được tính toán dựa trên những tiêu chí khác nhau như giới tính, tính cách,
sắc tộc,
tiền bạc và quyền lực. Sau đó người sử dụng có thể nhập một sự kiện mang
tính giả
thuyết vào và BrainStorm sẽ dự đoán những ảnh hưởng của sự kiện đó đối
với môi
trường này.
Là một
thiết bị TFM (Time-Line, Flowchart, Mapping) nó là một công cụ hữu ích
để vạch ra những
chiễn lược phức tạp và dự đoán những điểm yếu của chiến lược
đó. Và đó
chính là lý do tại sao chỉ huy Strathmore thường xuyên sử dụng
BrainStorm.
Susan cho rằng bên trong máy tính của Strathmore có thể có những kế
hoạch có
khả năng làm biến đổi cả thế giới.
Mình đã
không phải với ông ấy, Susan tự nhủ.
Tiếng mở
cửa Node 3 làm cô giật mình.
Strathmore
thình lình xuất hiện.
- Susan!
David vừa gọi điện về. Đã có một manh mối.
Chương 16 &Chương 17
- Một chiếc
nhẫn ư? - Susan hoài nghi.
- Tankado
bị mất một chiếc nhẫn?
Đúng thế.
May mà David đã tìm thấy. Màn kịch đã kết thúc.
- Nhưng ông
đang tìm chìa khoá giải mã chứ có tìm đồ trang sức đâu.
- Tôi biết,
nhưng cũng thế cả thôi mà.
Susan lúng
túng.
Đó là một
câu chuyện dài.
Susan đưa
tay chỉ màn hình vi tính và nói:
- Vẫn chưa
đâu vào đâu cả!
Strathmore
thở dài, đi tới đi lui.
- Như chúng
ta biết một số người đã chứng kiến cái chết của Tankado. Theo lời
viên trung
uý phụ trách nhà xác, sáng nay một du khách người Canada đã hốt
hoảng gọi
cảnh sát và báo rằng một người Nhật Bản đang bị cơn đau tim hành hạ
trong công
viên. Khi viên trung uý ấy đến thì Tankado đã chết, vị du khách Canada
vẫn còn ở
đó, anh ta đã gọi các nhân viên y tế. Trong khi các nhân viên y tế đưa xác
Tankado đi
anh ta đã cố gắng yêu cầu vị du khách tường thuật lại toàn bộ sự việc.
Điều duy
nhất ông già Canada đó có thể làm là bập bẹ nói về một chiếc nhẫn mà
Tankado đã
đem cho trước khi chết.
Susan đưa
mắt nhìn một cách đầy nghi ngờ.
- Tankado
đã đem cho chiếc nhẫn?
- Đúng thế.
Rõ ràng là khi anh ta dúi nó vào tay gã này, anh ta đã năn nỉ hắn cầm
lấy. Có vẻ
như người Canada này đã kịp quan sát chiếc nhẫn - Strathmore đột nhiên
dừng lại,
quay đầu về Susan - Ông ta nói rằng trên chiếc nhẫn có khắc một kiểu chữ
nào đó.
- Chữ ư?
- Đúng thế,
và còn cho biết đó không phải là tiếng Anh. - Strathmore nhướng mày
chờ phản
ứng của Susan.
- Hay là
tiếng Nhật?
Strathmore
lắc đầu:
- Lúc đầu
tôi cũng nghĩ thế. Nhưng ông ta nói rằng không thể đánh vần được những chữ cái
đó. Ông ta không thể nhầm chữ Nhật với các con chữ Latinh. Ông ta còn
thấy những
hình chạm khắc đó giống mèo cào cơ… Susan cười phá lên.
- Thưa sếp,
ngài không thực sự cho rằng… Strathmore ngắt lời cô:
- Susan,
mọi chuyện đã rõ như ban ngày.
Tankado đã
khắc chìa khoá Pháo Đài Số lên chiếc nhẫn. Vàng là thứ kim loại tốt.
Bất kể khi
ngủ, tắm hay ăn, thì chiếc chìa khoá giải mã luôn ở bên anh ta, sẵn sàng
cho giây
phút đem ra công bố.
Susan dường
như vẫn còn hoài nghi.
- Trên ngón
tay? Lộ liễu như thế kia à?
- Tại sao
không? Tây Ban Nha không phải là thế giới của các chuyên gia giải mã.
Không một
ai biết những chữ đó hàm ẩn điều gì. Hơn thế nữa, nếu chiếc chìa khoá
đó là một
bit 64 chữ cái thì thậm chí giữa ban ngày cũng chẳng ai nhớ được tất cả
sáu mươi tư
kí tự như thế.
- Và
Tankado đã đưa chiếc nhẫn đó cho một người hoàn toàn xa lạ trước khi chết -
Susan thắc
mắc - Tại sao chứ?
Strathmore
nheo mắt:
- Theo cô
thì tại sao nào?
Chỉ một
tích tắc Susan đã hiểu ra vấn đề. Mắt cô mở to.
Strathmore
gật đầu.
- Tankado
cố gắng vứt nó đi. Anh ta biết mình sắp chết và có thể cho rằng chúng ta
có trách
nhiệm trong việc này. Thời điểm của cái chết giống như trời định. Anh ta
có thể cho
rằng chúng ta đã truy tìm anh ta, một người đang bị rối loạn tim chỉ chờ
ngày chết,
để đầu độc hay làm gì đó tương tự. Điều duy nhất anh ta biết chắc chắn
là nếu tìm
được North Dakota, chúng ta sẽ thủ tiêu anh ta.
Susan cảm thấy
ớn lạnh.
- Đương
nhiên - cô thì thầm.
- Tankado
nghĩ rằng biện pháp tự vệ của anh ta đã bị chúng ta vô hiệu hoá, thì
đương nhiên
là anh ta sẽ bị tiêu diệt.
Bây giờ
Susan đã rõ tất cả. Thời điểm xảy ra bệnh đau tim có vẻ có lợi cho NSA
đến nỗi
Tankado cho rằng NSA dính líu trong vụ này. Mục đích cuối cùng của anh
ta là trả
thù. Ensei đã đem cho chiếc nhẫn để công bố chìa khoá giải mã. Và hiện
giờ một du
khách Canada lại đang nắm giữ trong tay thuật toán giải mã vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân loại.
Susan hít
một hơi thở dài và hỏi tiếp.
- Vậy bây
giờ du khách Canada đó ở đâu?
Strathmore
nhăn mặt.
- Vấn đề
chính là ở chỗ đó.
- Viên
trung uý không biết ông ta ở chỗ nào à?
- Không.
Lời khai của du khách đó khó tin đến mức anh ta cho rằng đó là đo ông ta
bị sốc hoặc
là do tuổi già. Vì vậy anh ta đã lấy xe máy chở ông ta về khách sạn.
Nhưng ông
già đó không biết ngồi sau xe máy, kết quả là chưa đi đầy 1 mét, ông ta
đã bị ngã
vỡ đầu và gẫy tay.
- Cái gì
cơ! - Susan cảm thấy ngạt thở.
- Viên
trung uý muốn đưa ông ta đến bệnh viện, nhưng ông ta đã rất tức giận - nói
rằng phải
quay về Canada và nhất định không leo lên xe máy lần nào nữa. Vì vậy
tất cả
những gì mà viên cảnh sát có thể làm là dìu ông ta đến một trạm xá gần đó và
để cấp cứu
ông ta ở đó.
Susan cau mày.
- Tôi cho
rằng chúng ta không cần hỏi David đang đi đến đâu.
Chương 17
David Becker bước vào toà nhà Plaza de Espana nóng như thiêu như
đốt. Đằng
sau anh là toà thị chính thành phố cố kính El Ayuntamiento với những
vòm mái màu
xanh dương và trắng ẩn sau những rặng cây, toạ lạc trên vùng đất
rộng ba héc
ta. Những chóp mái kiểu Ảrập và mặt tiền được chạm trố tinh vi khiến
cho toà nhà
trông giống như một lâu đài hơn là một văn phòng làm việc.
Mặc dù ở
đây đã xảy ra những vụ bạo động, hoả hoạn, treo cố tự vẫn, nhưng khách
du lịch vẫn
đến vùng đất này vì những cuốn hướng dẫn du lịch luôn so sánh nó với
một trung
tâm quân sự trong phim Lawrence xứ Ảrập. (Hãng phim Columbia
Pictures
làm phim tại Tây Ban Nha vì chi phí rẻ hơn nhiều lần so với ở Ai Cập. Và
những ảnh
hưởng của phong cách Bắc Phi trong lối kiến trúc ở Seville cũng đủ sức
thuyết phục
mọi khán giả xem phim là họ đang chiêm ngưỡng Cairo.) Becker chỉnh
đồng hồ
theo thời gian địa phương: 9:10 tối, giờ này vẫn được dân địa phương coi
là buổi
chiều. Một người Tây Ban Nha chính gốc không bao giờ dùng bữa tối trước
khi mặt
trời lặn, mà ông mặt trời lười nhác ở vùng Andalusia thì chỉ khuất núi sau
mười giờ
tối. Mặc cho không khí nóng bức của buổi chiều tà, Becker vẫn rảo bước nhanh
qua
công viên.
Sáng ngày hôm đó, mệnh lệnh của ngài Strathmore trở nên cấp bách hơn
bao giờ
hết. Yêu cầu của ông ta rất rõ ràng: tìm tay người Canada, lấy chiếc nhẫn.
Làm bất cứ
điều gì, chỉ cần lấy được chiếc nhẫn.
Becker tự
hỏi có gì quan trọng ở chiếc nhẫn có khắc chữ đó chứ. Nhưng Becker
không hỏi.
NSA, anh tự nghĩ, nghĩa là không được hỏi gì hết.
Ở phía bên
kia của toà nhà Avenida Isabela Catolica, phòng khám chữa bệnh hiện
rõ trong
ánh hoàng hôn. Trên nóc nhà phấp phới lá cờ chữ thập đỏ trong hình tròn
trắng. Nhân
viên cảnh sát Guardia đã đưa tay người Canada đến đây vài tiếng
trước, cổ
tay bị gẫy, đầu bị vỡ. Không còn nghi ngờ gì nữa, nạn nhân đã được sơ
cứu và đưa
vào đây. Becker hy vọng bệnh viện sẽ cung cấp thông tin về một khách
sạn địa
phương hay một số điện thoại nào đó nơi tìm thấy người đàn ông này. Với
chút xíu
may mắn, Becker nghĩ mình có thể tìm thấy tay người Canada, lấy chiếc
nhẫn và trở
về nhà mà không chút rắc rối nào cả.
Ngài
Strathmore nói với Becker: "Dùng mười nghìn đô tiền mặt để mua chiếc nhẫn
đó, nếu cần
thiết. Tôi sẽ hoàn trả lại anh sau".
"Điều
đó không cần thiết" Becker nói. Anh định sẽ trả lại tiền. Anh đến Tây Ban
Nha không
phải vì tiền, mà là vì Susan. Ngài Trevor Strathmore là người thầy,
người giám
hộ của Susan. Susan nợ ông ta rất nhiều, những gì Becker có thể làm
chỉ là một
chuyến đi kéo dài một ngày.
Thật không
may, mọi thứ vào sáng nay đã không hoàn toàn như kế hoạch của
Becker. Anh
hy vọng sẽ gọi cho Susan từ máy bay và giải thích mọi thứ. Becker đã
cố gọi cho
Susan ba lần. Trước tiên từ bốt điện thoại nhỏ gần ngay trạm điện thoại
của sân bay
nhưng nó đã bị hỏng. Một lần từ nhà xác. Nhưng Susan không nhấc
máy.
David băn
khoăn không biết cô đã đi đâu. Anh chỉ nghe thấy tiếng máy trả lời tự
động, nhưng
anh không để lại lời nhắn gì cả. Những gì anh muốn nói không thể
như tin
nhắn cho chiếc máy trả lời tự động được.
Khi ra đến
đường, anh đến trạm điện thoại gần lối vào công viên. Anh bước vào, vồ
lấy ống
nghe, cắm thẻ điện thoại vào gọi.
Một khoảng
khá lâu đợi máy kết nối. David nghe thấy tiếng chuông đổ.
Thôi nào,
nhấc máy đi.. Sau năm hồi chuông đổ - Xin chào! Đây là số điện thoại của Susan
Fletcher. Xin
lỗi tôi
không có nhà, nếu bạn để lại tên… Becker nghe tin nhắn và tự hỏi, cô ấy đi
đâu nhỉ?
Lúc này nhất định Susan đang rất lo lắng. Liệu cô ấy đến Stone Manor mà
không có
anh không? Sau đó có một tiếng bíp.
- Chào em,
David đây! - Anh dừng lại, không biết phải nói gì.
Điều anh
ghét nhất ở máy trả lời tự động là nếu dừng lại để nghĩ thì nó sẽ cắt cuộc
gọi ngay.
- Xin lỗi
vì anh đã không gọi cho em.
Anh thốt ra vừa kịp lúc. Không biết có nên nói
cho cô ấy biết chuyện gì đang xảy
ra hay
không? Nhưng anh nghĩ tốt hơn hết là gọi cho ngài Strathmore. Ông ấy sẽ
giải thích
cho Susan. Tự nhiên trái tim anh thót lên, "Thật là ngu xuẩn"
"Anh yêu
em"
David nói nhanh và cúp máy.
Becker đợi
xe đến Avenida Borbolla. Anh nghĩ chắc Susan sẽ nghĩ đến điều tồi tệ
nhất. Cung
cách này không giống anh chút nào. Không gọi điện như đã hứa.
Becker bước
trên đại lộ bốn làn đường và tự nhủ "Tiếp tục hay thoái lui?". Anh
chợt thấy
lo lắng khi thấy một người đàn ông đeo kính gọng kim loại đang quan sát
suốt dọc
đường phố.
Chương 18 & Chương 19
Đứng sau
tấm cửa sổ kính rộng rãi của một căn phòng tại cao ốc của mình ở Tokyo,
Numataka
rít một hơi xì gà và mỉm cười. Ông ta không thể tin nối mình lại may
mắn đến
thế. Ông ta đã nói chuyện với tên người Mỹ, nếu mọi chuyện theo đúng kế
hoạch Ensei
Tankado đã bị trừ khử, và ông ta sẽ có bản sao mật khẩu.
Thật nực
cười, Numataka tự nghĩ, là mình lại có được mật khẩu của Ensei
Tankado.
Tokugen Numataka gặp Tankado nhiều năm về trước. Một lập trình viên
trẻ tuổi
mới ra trường đã đến tìm việc tại công ty Numatech Corp. Numataka đã từ
chối người
đó. Không có gì nghi ngờ là Tankado rất thông minh, nhưng vào thởi
gian đó, có
nhiều sự lựa chọn khác nữa. Mặc dù nước Nhật đang phát triển, nhưng
Numataka
lại được đào tạo trong một ngôi trường kiểu cũ, ông ta sống theo luật
menboko -
trọng danh dự và thể diện. Ông ta không thể chấp nhận bất cứ điều gì
không hoàn
hảo. Nếu ông ta thuê một kẻ tàn tật, điều này là không thể chấp nhận
được ở công
ty của ông ta. Cho nên ông ta vứt ngay sơ yếu lý lịch của Tankado mà
không thèm
xem qua.
Numataka
kiểm tra đồng hồ một lần nữa. Đáng ra tên người Mỹ, North Dakota, đã
phải gọi
cho ông ta rồi. Numataka cảm thấy hơi bồn chồn. Hy vọng không có điều
gì xấu xảy
ra.
Nếu mật
khẩu hoạt động như lời đảm bảo thì họ có thể bẻ khoá một chương trình
đang được
săn lùng nhất hiện nay trong kỷ nguyên máy tính, một chương trình mã
hoá không
thể giải mã được. Numataka có thể giữ chương trình mã hoá này trong
con chíp đóng
dấu VSLI chống giả mạo và rao bán rộng rãi cho cho các nhà sản
xuất máy
tính, chính phủ các nước, các ngành công nghiệp, và có lẽ cả thị trường
đen… thị
trường của bọn khủng bố.
Numataka
mỉm cười. Như thường lệ, ông ta lại được hưởng sự may mắn do thần
Shichigosan
ban tặng. Công ty Numatech Corp sẽ kiểm soát bản sao duy nhất của
Pháo Đài
Số. Hai mươi triệu đô la là một khoản tiền lớn, nhưng nếu đem so với
chương
trình mã hoá này thì đó quả là vụ trộm béo bở nhất trong thế kỷ.
Chương 19 -
Nếu như cũng có ai đó đang tìm kiếm chiếc nhẫn thì sao? - Susan tự
hỏi và bỗng
nhiên cảm thấy lo lắng. - Có thể David đang gặp nguy hiểm.
Ngài
Strathmore lắc đầu: - Không ai biết rằng chiếc nhẫn đó tồn tại. Vì thế mà tôi
đã cử David đi. Tôi muốn
làm như
vậy. Những kẻ quan tâm sẽ chẳng buồn theo đuôi một thầy giáo đâu.
- Anh ấy là
một giáo sư - Susan chữa lại, nhưng lại cảm thấy hối tiếc Giáo sư David
cũng chẳng
là gì đối với ngài chỉ huy, và ông ta nghĩ dù sao thì cô cũng làm tốt hơn
một thầy
giáo - Thưa sếp! - Susan nói - nhỡ có ai biết được là sáng nay ngài chỉ dẫn
cho David
bằng điện thoại trên ô tô thì sao?
- Cơ hội
ngàn năm có một. - Ngài Strathmore cắt ngang lởi cô, giọng ông làm cô
yên lòng -
Bất cứ kẻ nghe trộm nào trong những tình huống cụ thể sẽ phải biết
mình sẽ
phải lắng nghe cái gì - Ông đặt bàn tay của mình lên vai cô và nói - Tôi
không bao
giờ cử David đi nếu có nguy hiểm - Ông cười với cô. - Hãy tin tôi. Nếu
có bất cứ
dấu hiệu nguy hiểm nào, tôi sẽ cử một chuyên gia đi hỗ trợ.
Những lời
nói của ông bị ngắt quãng do tiếng ai đó đập mạnh vào Node 3. Susan và
Strathmore
cùng quay lại.
Nhân viên
Phil Chartrukian đang in mặt mình trên tấm kính đối diện và đang đụng
rất mạnh
vào tấm cửa, khuôn mặt căng thẳng và anh ta đang cố nói qua cửa kính.
Nhưng họ
không thể nghe thấy anh ta đang cố nói gì qua tấm cửa kính cách âm.
Trông anh
ta kinh hoàng như vừa nhìn thấy ma.
-
Chartrukian đang làm cái quái gì ở đây vậy nhỉ? - Strathmore lẩm bẩm - Anh ta
có
phải trực
hôm nay đâu cơ chứ?
- Hình như
anh ta có van để rồi - Susan nói.
- Có thế
anh ta đã nhìn thấy màn hình vi tính đang chạy bên kia.
- Quái quỷ
thật! - Strathmore rít lên - Tôi đã nói những nhân viên an ninh hệ thống
phải trực
không được đến đây cơ mà.
Susan không
hề thấy ngạc nhiên. Hoãn lịch làm việc của nhân viên là điều bất
thường,
nhưng ngài Strathmore muốn được ở một mình trong toà nhà này. Điều
ông lo sợ
là những nhân viên này sẽ hoảng sợ và tiết lộ thông tin về Pháo Đài Số.
- Tốt hơn
hết là chúng ta nên dừng TRANSLTR - Susan nói.
- Chúng ta
chỉnh lại màn hình chạy và nói cho Phil biết cái gì đang xảy ra.
Strathmore
xem xét điều Susan nói, nhưng ông lắc đầu.
- Không
được máy TRANSLTR đã chạy được 15 tiếng rồi. Tôi muốn nó chạy giải
mã trong 24
tiếng, để đảm bảo thật chắc chắn.
Điều này
tác động đến Susan. Pháo Đài Số lần đầu tiên sử dụng chức năng giải mã văn bản
gốc tuần hoàn. Biết đâu Tankado bỏ qua điều gì đó, có thể máy
TRANSLTR sẽ
bẻ khoá được trong vòng 24 tiếng. Tuy nhiên Susan vẫn nghi ngờ
khả năng
đó.
- TRANSLTR
vẫn đang chạy - Strathmore quyết định - Tôi cần biết chắc chắn rằng
mật mã đó
là không thể giải mã được.
Chartrukian
vẫn tiếp tục dộng vào cánh cửa.
- Thật chả
ra làm sao cả - Strathmore rên rỉ - Giúp tôi nhé.
Ngài chỉ
huy hít một hơi thật sâu, sau đó vươn tay ấn nút. Đĩa áp suất trên cánh cửa
hoạt động
va đẩy cánh cửa mở ra.
Chartrukian
lập tức bị ngã ngay xuống phòng.
- Thưa
ngài,… Tôi xin lỗi vì làm phiền, nhưng màn hình chạy… Tôi đã cho chạy
phần mềm
chống virus và… - Phil, Phil, Phil…- Strathmore đặt tay lên vai anh ta
và nói từ
tốn - Bình tĩnh, có chuyện gì vậy?
Nghe giọng
nói bĩnh tĩnh ấy, không ai có thể nghĩ là thế giới như đang sụp đổ
quanh ông.
Ông đứng sang một bên và đưa Chartrukian đến bên cửa kính Node 3.
Chàng nhân
viên miễn cưỡng bước tới, giống như một con chó đã được rèn luyện
kỹ và biết
điều gì là tốt hơn cho mình.
Cái nhìn
kinh ngạc trên khuôn mặt của Chartrukian cho thấy rõ ràng anh ta chưa
bao giờ
thấy cái gì bên trong căn phòng đó cả.
Dường như
nỗi sợ hãi của anh biến mất trong giấy lát. Anh quan sát bên trong căn
phòng,
đường dẫn riêng, những chiếc đi văng, giá sách, đèn chiếu sáng. Khi ánh
mắt bắt gặp
nữ hoàng của Crypto, Susan Fletcher, anh vội nhìn sang chỗ khác.
Susan như
đang đe doạ anh. Cô làm việc theo một cách khác. Trước vẻ đẹp của cô,
những lời
nói của anh trở nên vụng về lắp bắp. Bầu không khí quanh cô càng khiến
anh cảm
thấy choáng ngợp.
- Có vấn đề
gì vậy, Phil? - Strathmore hỏi rồi mở tủ lạnh - Uống chút gì nhé!
- Không, à
- không, thưa ngài - Anh cảm thấy lưỡi mình như cứng lại, không biết
ngài chỉ
huy có hoan ngênh sự xuất hiện của mình không - Thưa ngài,… Tôi nghĩ
máy
TRANSLTR có vấn đề.
Strathmore
đóng tủ lạnh và nhìn Chartrukian không mảy may ngạc nhiên.
- Ý của anh
là màn hình chạy…?
- Vâng,
thưa ngài. Nó đã chạy được 16 tiếng rồi. Tôi chắc không nhìn lầm, thưa ngài -
Chartrukian rất ngạc nhiên - Vâng, thưa ngài, 16 tiếng. Nhưng không chỉ có
vậy. Tôi đã
cho chạy phần mềm chống virus. Nhưng có một điều hết sức kỳ lạ đang
diễn ra.
- Thế sao -
Strathmore không có vẻ quan tâm - Điều kỳ lạ gì vậy?
Susan nhìn
ông và thực sự ngưỡng mộ vẻ bình tĩnh của ngài chỉ huy.
Chartrukian
bắt đầu run.
- TRANSLTR
đang giải mã cái gì đó rất siêu việt mà bộ lọc chưa bao giờ gặp phải.
Tôi e rằng
máy TRANSLTR bị nhiễm một loại virus gì đó.
- Virus -
Strathmore cười thầm và hơi cúi xuống - Phil, tôi đánh giá cao sự quan
tâm của
anh. Thật đấy. Nhưng cô Fletcher và tôi đang thử một phương pháp mới,
một phần
mềm hết sức ưu việt. Đáng ra tôi phải nói cho anh biết điều đó, nhưng
hôm nay có
phải phiên trực của anh đâu.
Chàng nhân
viên đã chống đỡ hết sức tài tình.
- Tôi đổi
ca làm với một đồng nghiệp mới. Tôi làm ca cuối tuần của anh ấy.
Strathmore
nheo mắt lại.
- Thật vô
ý, tôi đã nói với anh ta tối qua rồi mà. Anh ta không cần phải đến ngày
hôm nay. Và
anh ta cũng không nói gì về chuyện đổi ca làm cả.
Chartrukian
cảm thấy cổ họng anh như tắc lại. Một bầu không khí căng thẳng bao
trùm.
Cuối cùng
Strathmore thở dài và nói.
- Có vẻ như
có chuyện nhầm lẫn ở đây - Ông đặt tay lên vai chàng trai trẻ và đẩy
anh về phía
cửa - Nhưng một tin tốt là anh không phải ở đây nữa. Cô Fletcher và tôi
sẽ ở đây cả
ngày. Chúng tôi sẽ trực chiến ở đây. Và anh hãy tận hưởng ngày nghỉ
cuối tuần
của mình đi.
Chartrukian
cảm thấy miễn cưỡng.
- Thưa sếp,
tôi nghĩ là chúng ta nên kiểm tra….
- Phil! -
Strathmore nhắc lại vẻ nghiêm nghị - TRANSLTR vẫn hoạt động tốt. Nếu
phần mềm
của anh thấy có gì lạ, là do chúng tôi đã cài vào trong đó. Bây giờ thì
đừng bận
tâm nữa… Strathmore bước lại, và Chartrukian hiểu rằng đã hết thời gian
dành cho
anh.
- Một
phương pháp mới, quái quỷ! - Chartrukian lẩm bẩm khi bước vào phòng An
ninh hệ
thống - Loại phương pháp nào mà làm cho bộ xử lý trị giá ba triệu đô la hoạt
động suốt 16 tiếng đồng hồ.
Chartrukian
băn khoăn không biết có nên báo cho lãnh đạo phòng An ninh hệ thống
hay không.
- Những kẻ
viết mật mã chết tiệt! - Anh nghĩ - Họ chẳng hiểu an ninh là cái quái gì
cả.
Lời thề của
Chartrukian khi anh gia nhập lực lượng An ninh hệ thống đã trỗi dậy
trong anh.
Anh đã thề dùng hết kiến thức chuyên môn, kỹ năng và bản năng tự
nhiên của
mình để bảo vệ khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ đô la cho trung tâm NSA.
"Phải
vận dụng giác quan!" - Chartrukian bướng bỉnh nghĩ. Ta không cần quan tâm
xem chương
trình quái nào đang được vận hành!
Chartrukian
quay lại phòng chỉ huy và bật toàn bộ hệ thống phần mềm xử lý của
TRANSLTR.
- Thưa sếp.
hệ thống của chúng ta có vấn đề - Anh lầm bầm - Ngài không tin vào
bản năng
sao? Tôi sẽ chỉ cho ngài thấy!
Chương 20 &Chương 21
La clinica
de salud Publia giống như một trường tiểu học hơn là một bệnh viện. Đó
là một ngôi
nhà một tầng dài lợp ngói, với những ô cửa sổ to và một chiếc xích đu
phủ đầy bụi
ở đằng sau.
Becker bước
lên bậc tam cấp.
Phía trong
toà nhà rất tối và ồn ào. Phòng đợi có dãy ghễ gấp bằng kim loại chạy
dọc theo
hành lang. Một biển chỉ dẫn trên giá ghi OFICINA với một mũi tên chỉ
xuống phía
hội trường.
Becker đi
bộ dọc theo hành lang tối mờ mờ trông như một cảnh rùng rợn trên bộ
phim của
Hollywood. Không khí bốc mùi khó chịu như mùi nhà vệ sinh. Ánh sang
yếu ớt hắt
lại từ phía đằng xa cho thấy trong khoảng cách 15 đến 20 mét nữa chẳng
có gì ngoài
những cái bóng câm lặng. Một phụ nữ đang bị chảy máu… một cặp
đang khóc…
một bé gái đang cầu nguyện… Becker bước đến cuối căn phòng.
Cánh cửa
phía tay trái anh hơi hé mở, anh đẩy cửa bước vào. Căn phòng trống trơn,
duy chỉ có
một bà già tiều tuỵ trần truồng trên chiếc bô vệ sinh dành cho bệnh
nhân.
Thật tuyệt
nhỉ! - Becker rít lên. Anh đóng cửa lại - Văn phòng ở nơi quỷ tha ma bắt
nào đây?
Xung quanh
góc tối nhỏ trong phòng, anh nghe thấy có tiếng nói. Anh đi theo âm
thanh đó và
đến bên một cánh cửa kính mờ, hình như có tiếng cãi nhau phía bên
trong.
Becker miễn cưỡng đẩy cánh cửa bước vào. Chính là văn phòng. Cực kỳ hỗn
độn. Đúng
những gì anh tưởng tượng.
Có khoảng
mười người đang xô đẩy, quát tháo nhau. Người Tây Ban Nha không
được nổi
tiếng về hiệu quả làm việc cho lắm, nhưng Becker sẵn sàng đợi ở đây cả
đêm để lấy
thông tin về người Canada kia. Duy nhất chỉ có một nữ thư ký phía sau
bàn đang
làm việc. Cô ta đang cố sức đối phó với những bệnh nhân hết sức cáu
kỉnh.
Becker đứng ở phía cửa một lúc và nảy ra một ý. Có cách hay hơn.
- Tôi chịu
hết nổi rồi! - một ông già hét lên. Đám đông dãn ra khi ông ta lao ra khỏi
phòng.
Becker vội
chạy theo ông ta và hỏi:
- Ở đây có
điện thoại không ạ? Ông già chỉ tay về phía vào cánh cửa đôi mà không thèm quay
lại nhìn và biến mất
sau một góc
quanh. Becker bước đến và đẩy cửa bước vào.
Căn phòng
trước mặt anh thật rộng lớn - một phòng tập thể dục cũ Sàn nhà màu
xanh nhạt
loang lổ dưới ánh sáng huỳnh quang yếu ớt. Một cái lưới tròn để chơi
bóng rổ
được gắn trên tường. La liệt khắp phòng là những chiếc giường bệnh cũ kỹ.
Ở góc xa
của căn phòng, ngay dưới bảng ghi tỷ số, có một máy điện thoại trả tiền
xu đã cũ.
Becker hy vọng nó còn hoạt động được.
Vừa đi
ngang qua sàn nhà, anh vừa lần tìm tiền xu trong túi áo Chỉ còn thấy 75
pesetas
loại đồng xu cinco-duros, tiền thừa khi đi taxi, thế cũng đủ cho hai cuộc
điện thoại
nội hạt. Anh mỉm cười lịch sự với cô y tá ở đó và bước đến chỗ máy điện
thoại. Chụp
lấy ống nghe, Becker quay số trợ giúp danh bạ. Ba mươi giây sau anh
đã có số
điện thoại văn phòng chính của bệnh viện.
Ở đâu cũng
vậy, các nhân viên văn phòng luôn có một thói quen. Đó là cứ chuông
reo thì
phải trả lời điện thoại. Dù cho có bao nhiêu khách hàng đang chờ đợi đi
chăng nữa
thì người thư ký vẫn cứ dừng công việc lại và nhấc máy trả lời.
Becker bấm
sáu con số. Ngay lúc đó anh đã nối máy với văn phòng bệnh viện.
Không nghi
ngờ gì nữa, chỉ có duy nhất một người Canada bị gẫy cố tay và chấn
thương não
nhập viện ngày hôm nay, cho nên thông tin về người này rất dễ tìm
thấy.
Becker biết rằng văn phòng không muốn cung cấp tên và địa điểm của nạn
nhân cho
người lạ, nhưng anh đã có cách.
Chuông điện
thoại bắt đầu đổ. Becker đoán chỉ reo khoảng năm chuông, nhưng
chuông reo
những 19 lần.
- Đây là
trạm y tế công cộng - cô thư ký cáu giận nói.
Becker nói
bằng giọng người Mỹ gốc Pháp nặng.
- Tôi là
David Becker. Tôi ở đại sứ quán Canada. Một công dân của chúng tôi đã
được cứu
chữa trong bệnh viện ngày hôm nay. Tôi muốn biết thông tin về anh ta để
đại sứ quán
có thể trả chi phí.
- Được
thôi! - Cô thư ký trả lời - Tôi sẽ gửi đến đại sứ quán vào thứ hai.
- Thựrc ra
- Becker nhấn mạnh - Điều này rất quan trọng, tôi muốn có ngay lập tức.
- Không thể
được! - cô thư ký ngắt lời. - Chúng tôi đang rất bận.
Becker càng
tỏ vẻ trịnh trọng.
- Đây là
một vấn đề rất cấp bách. Một người đàn ông bị gãy cổ tay và chấn thương đầu.
Anh ta được cứu chữa sáng nay. Vậy thông tin của anh ta phải ở ngay phía
trên cùng.
Becker nói
giọng Tây Ban Nha, đủ rõ để đạt được yêu cầu của mình, nhưng cũng
đủ gây bực
tức. "Bị chọc tức, cô thư ký sẽ bỏ qua quy định để cung cấp thông tin
cho xong
chuyện", anh nghĩ.
Nhưng
không, cô thư ký chửi thề tên Bắc Mỹ tự cao tự đại và ném phịch ống nghe
xuống.
Becker nhăn
mặt và bỏ ống nghe xuống bước ra ngoài. Viễn cảnh phải chờ đợi suốt
nhiều giờ
trong căn phòng ấy khiến anh thấy hơi nản. Kim đồng hồ vẫn đang quay.
Và tay
người Canada kia có thể đang ở bất cứ nơi đâu. Có thế hắn đã quyết định
quay trở về
Canada. Cũng có thể hắn đã bán chiếc nhẫn. Becker không có thời gian
để chờ đợi
hơn nữa. Anh quyết định nhấc máy và quay số một lần nữa. Anh áp chặt
ống nghe
vào tai và dựa lưng vào tường. Chuông bắt đầu đổ. Becker nhìn ra phía
ngoài
phòng. Một chuông…hai chuông…ba… Bỗng nhiên một niềm phấn khích
trào dâng
trong anh.
Becker quay
lại và đặt mạnh ống nghe xuống máy. Sau đó anh quay trở ra và nhìn
chằm chằm
vào căn phòng yên ắng đó. Trong phòng, trên chiếc giường ngay trước
mặt anh là
một ông già cổ tay băng trắng toát đang nẳm trên những chiếc gối cũ kỹ.
Chương 21
Giọng tên người Mỹ trên đường dây riêng của Tokungen Numataka
nghe có vẻ
rất tức giận.
- Ông
Numataka, tôi chỉ có một phút thôi.
- Tồt, tôi
tin anh có cả hai mật khẩu chứ.
- Có một
chút chậm trễ - Tên người Mỹ trả lời.
- Không thể
được! - Numataka rít lên. - Anh đã nói chậm nhất là hết ngày hôm nay
sẽ có cơ
mà!
- Nhưng có
một điểm sơ hở vào phút cuối.
- Tankado
đã chết chưa?
- Hắn chết
rồi! - tên người Mỹ trả lời. - Người của tôi đã giết Tankado, nhưng hắn
lại không
lấy được mật khẩu. Trước khi chết Tankado đã cho một khách du lịch
mật khẩu
đó.
- Khốn nạn!
- Numataka gầm lên. - Thế mày đã hứa thế nào về… - Bình tĩnh đã
nào! - Tên
người Mỹ nói. - Ông sẽ có hàng ngay. Tôi đảm bảo như vậy. Ngay khi mật khẩu còn
lại được tìm thấy thì Pháo Đài Số sẽ thuộc về ông.
- Nhưng mật
khẩu đó có thế bị sao chép?
- Bất cứ ai
ngửi thấy mật khẩu đó đều bị tiêu diệt.
Một lúc im
lặng trôi qua. Cuối cùng Numataka nói:
- Mật khẩu
đó đang ở đâu?
- Tất cả
những gì ông cần biết là nó sẽ được tìm thấy.
- Làm sao
anh có thể biết chắc chắn như vậy.
- Bởi vì
tôi không phải là người duy nhất đang tìm nó. Tình báo Mỹ đã đánh hơi
thấy mã
khoá này. Vì nhiều lý do họ phải ngăn chặn việc phát tán Pháo Đài Số. Họ
đã cử một
tên đi tìm mã khoá. Tên hắn là David Becker.
- Làm thế
nào mà anh biết được điều đó?
- Câu hỏi
không thích hợp rồi thưa ông.
Numataka
ngừng lại một chút.
- Nếu tên
Becker tìm được mã khoá đó?
- Người của
tôi sẽ lấy mã khoá từ hắn.
- Và sau
đó?
- Ông không
cần phải quan tâm - Tên người Mỹ lạnh lùng nói - Khi nào Becker tìm
được, anh
ta sẽ được mã khoá trọng thưởng.
Chương 22
David
Becker bước đến và nhìn chăm chú nhìn ông già đang ngủ trên giường. Cổ
tay phải
của ông ta quấn đầy băng. Ông ta khoảng 60 hay 70 tuổi gì đó. Mái tóc bạc
phơ của ông
ta được chải gọn gàng sang một bên. Ở giữa trán có một vết khâu bầm
tím kéo dài
xuống gần mắt phải..
Một vụ va
chạm nhẹ ư? Becker nghĩ thầm, nhớ lại lời kể của viên tnmg uý, và kiểm
tra những
ngón tay của ông ta. Không hề có chiếc nhẫn vàng nào cả. Anh chạm nhẹ
vào cánh
tay của ông già không cử động.
- Thưa ông!
- Xin lỗi cho tôi hỏi…?
Becker thử
lại một lần nữa, nói to hơn.
- Thưa ông!
Ông già cựa
mình.
- Mấy giờ
rồi?
Ông ta từ
từ mở mắt và nhìn Becker. Rõ ràng ông ta tức giận vì bị làm phiền.
- Anh muốn
gì?
Đúng rồi,
Becker nghĩ, một người Canada nói tiếng Pháp! Anh mỉm cười với ông
già.
- Tôi có
thể phiền ông vài phút không ạ?
Mặc đù
tiếng Pháp của anh rất hoàn hảo, nhưng anh nói bằng thứ tiếng mà anh cho
là ông ta
không giỏi lắm, tiếng Anh. Thuyết phục một người lạ cho mượn một chiếc
nhẫn vàng
thì phải khôn khéo một chút! Becker có thể làm bất cứ điều gì có thể.
Sự im lặng
bao trùm khá lâu trước khi ông già lấy lại được tỉnh táo ông ta quan sát
xung quanh
và dùng những ngón tay dài vuốt bộ ria mép bạc phơ. Cuối cùng ông ta
lên tiếng,
đó là thứ tiếng Anh giọng mũi the thé.
- Anh muốn
gì?
- Thưa
ngài! - Becker nói thật to như đang nói chuyện với người điếc - Tôi muốn
hỏi ngài
vài câu.
Ông già
ngạc nhiên trừng trừng nhìn David.
- Anh có bị
làm sao không đấy?
Becker tức
giận, tiếng Anh của ông già không chê vào đâu được. Ngay lập tức anh
vứt bỏ vẻ
mặt trịnh thượng. - Tôi xin lỗi vì làm phiền ngài, nhưng hôm nay ngài có tình
cờ có mặt tại Plaza de
Espana
không?
Ông già
nheo mắt lại.
- Anh là
người của Hội đồng thành phố hả?
- Không ạ,
thực ra tôi….
- Hay từ
văn phòng du lịch?
- Không,
tôi….
- Này, tôi
biết vì sao anh đến đây đấy! - Ông già gượng ngồi dậy. - Tôi không dễ bị
hăm doạ
đâu! Tôi đã nói rồi, tôi đã nói hàng nghìn lần - Pierre Cloucharde luôn viết
về cuộc đời
này theo đúng cái cách mà ông ta sống ở đời. Mấy quyển sách hướng
dẫn du lịch
tạp nham của các anh thì thế nào cũng được. Nhưng tờ Montreal Times
không phải
để cho thuê! Tôi từ chối!
- Tôi xin
lỗi, thưa ngài. Tôi không dám coi thường… - Đồ rác rưởi! Tôi hiểu lắm
chứ! - Ông
già hươ hươ bàn tay xương xẩu về phía Becker, miệng nói oang oang -
Anh không
phải là người đầu tiên! Moulin Rouge, bọn chúng cũng làm thế ở lâu
đài Brown,
cả Golfigno ở Lagos cũng thế! Nhưng cái gì đã được đăng trên báo chí?
Sự thật! Đó
là món Wellington kinh tởm tôi chưa bao giờ ăn. Đường hầm bẩn thỉu
nhất mà tôi
được nhìn thấy! Và bãi biển đầy đá lởm chởm nhất mà tôi đã từng bước
chân tới!
Bạn đọc của tôi không thể cần sự thật!
Các bệnh
nhân ở các giường gần đó bắt đầu ngồi dậy để xem cái gì đang diễn ra.
Becker nhìn
xung quanh sợ một cô y tá nào đó có thế xuất hiện. Anh không hề
muốn bị
người ta tống cổ ra khỏi chỗ này chút nào.
Cloucharde
tiếp tục la hét ầm ĩ.
- Điều tồi
tệ nhất là nhân viên cảnh sát ở đây! Hắn bắt tôi trèo lên chiếc xe máy của
hắn! Anh
nhìn xem tôi có còn ra người nữa không? - Ông ta cố giơ bên cổ tay bị
thương lên.
- Bây giờ thì ai viết các bài cho tôi đây?
- Thưa
ngài, tôi… - Đi đây đi đó suốt 43 năm trời tôi chưa bao giờ cảm thấy khó
chịu như
bây giờ! Nhìn chỗ quái quỷ này xem! Anh có biết là chuyên đề tôi phụ
trách rất…
- Thưa ông! - Becker giơ cả hai tay làm dấu tạm ngừng - Tôi không
quan tâm
đến chuyên đề báo của ông; tôi là nhân viên Lãnh sự Canada. Tôi đến đây
để giúp
ông.
Bỗng nhiên
cả căn phòng trở nên im lặng. Ông già nhìn người thanh niên lạ mặt đầy ngờ vực.
Becker nói
khẽ.
- Tôi đến
đây để xem có giúp gì được không. Chẳng hạn như lấy cho ông một chút
Valium.
Sau một lúc
im lặng, người Canada nói.
- Lãnh sự
quán? - Giọng của ông ta trở nên mềm mỏng hơn.
Becker gật
đầu.
- Vậy ra
anh không đến đây vì bài báo của tôi?
- Không,
thưa ngài.
Dường như
cơn giận dữ bỗng bùng lên trong con người Pierre Cloucharde. Nhưng
ông từ từ
nằm xuống đống gối. Trông cực kỳ đau khổ.
- Tôi tưởng
anh là nhân viên Hội đồng thành phố… định thuyết phục tôi đến… -
Đầy vẻ thất
vọng, ông ta ngước nhìn lên - Nếu không phải vì bài báo của tôi thì tại
sao anh lại
đến đây?
Một câu hỏi
hay, Becker nghĩ thầm và lại mơ tưởng về Smoky Mountains.
- Chỉ là
một cuộc viếng thăm ngoại giao thân mật thôi. - Anh nói dối.
Ông già
ngạc nhiên:
- Một cuộc
viếng thăm ngoại giao?
- Đúng vậy
thưa ngài, tôi chắc rằng ngài hiểu vấn đề ở đây. Chính phủ Canada làm
hết sức
mình để bảo vệ công dân của mình không phải chịu bất cứ phiền toái nào ở
những quốc
gia, à, nên dùng từ gì nhỉ, những quốc gia không được phát triển cho
lắm.
Cặp môi
mỏng dính của Cloucharde hé mở trông giống như một điệu cười mỉm.
- Nhưng mà…
rất thú vị.
- Ông là
một công dân Canada đúng không?
- Tất nhiên
rồi. Tôi thật ngốc. Hãy tha lỗi cho tôi. Những người ở vị trí như tôi
thường được
đối xử một cách… tôi nghĩ là anh hiểu.
- Vâng,
thưa ngài, tôi hiểu. Đó là cái giá phải trả cho sự nổi tiếng.
- Đúng vậy
- Cloucharde thở dài. Ông là một kẻ tử vì đạo bất đắc dĩ nay buộc phải
tha thứ cho
số đông.
- Anh có
tin nổi rằng một nơi ghê tởm như thế này lại có ở trên đời không - Ông
đưa mắt
nhìn xung quanh. - Thật là một sự báng bổ. Thế mà người ta định để tôi ở đây
suốt đêm nay đấy.
Becker nhìn
xung quanh.
- Tôi hiểu.
Ở đây thật kinh khủng. Rất tiếc tôi đã không thể đến sớm hơn.
Cloucharde
có vẻ bối rối.
- Tôi không
nghĩ là anh sẽ tới.
Becker thay
đổi chủ đề.
- Hình như
ông bị một vết toạc rất lớn ở đầu. Có đau lắm không?
- Không,
không đau lắm. Sáng nay tôi đã uống thuốc rồi - Đúng là làm phúc phải
tội. Cổ tay
tôi đau quá. Tên cảnh sát ngu xuẩn! Bắt một người ở tuổi tôi ngồi xe
môtô. Không
thể thông cảm được"
- Tôi có
thể giúp gì cho ông không?
Cloucharde
nghĩ một lúc, có vẻ hài lòng vì được quan tâm.
- Ô! thực
ra… - ông nghẹo đầu sang phải rồi sang trái - Tôi có thể dùng chiếc gối
khác được
không?
- Không
thành vấn đề - Becker lấy một chiếc gối ở giường gần đó và giúp ông già
cảm thấy
thoải mái hơn.
Ông già rất
vừa ý.
- Tốt hơn
rồi… Cảm ơn!
Becker nói:
- Pas du
tout. (tiếng Pháp - Có gì đâu ạ) - Ah! - Ông già mỉm cười thân thiện:
- Vậy ra
anh biết nói ngôn ngữ của thế giới văn minh.
- Chỉ chút
ít thôi ạ - Becker cười ngượng.
- Không vấn
đề gì. - Cloucharde nói - Chuyên mục của tôi nói về nước Mỹ, tôi nói
tiếng Anh
tốt lắm đấy.
- Tôi biết
- Becker cười nói. Anh ngồi xuống mép giường của ông già. - Bây giờ,
nếu mấy câu
hỏi của tôi không làm phiền ông, thưa ông Cloucharde, tại sao một
người như
ông lại đến một nơi như thế này? Ở Seville có những bệnh viện tốt hơn
nhiều.
Cloucharde
bực mình.
- Tên cảnh
sát đó… Hắn kéo tôi lên xe máy rồi bỏ mặc tôi máu me như thế trên
đường y như
một con vật vậy. Tôi phải tự lết đến đây.
- Anh ta
không đưa ngài đến một bệnh viện tốt hơn sao? - Trên chiếc xe khủng khiếp đó à?
Không, cảm ơn.
- Vậy sáng
nay điều gì đã xảy ra vậy?
- Tôi kể
hết cho viên trung uý rồi.
- Tôi vừa
nói với anh ta và… - Tôi hy vọng anh sẽ kỷ luật hắn! - Ông già cắt ngang.
Becker gật
đầu.
- Theo
những điều luật nghiêm khắc nhất. Cơ quan của tôi sẽ xem xét vấn đề này.
- Tôi cũng
hy vọng là như vậy.
- Monsieur
Cloucharde - Becker mỉm cười và lấy một chiếc bút trong túi áo của
anh ra.
- Tôi sẽ
gửi một kiến nghị lên thành phố. Ông giúp tôi chứ? Một người như ông sẽ
là một nhân
chứng tốt.
Cloucharde
trông như chết đuối vớ được cọc khi thấy có người định ghi lại lời nói
của mình.
Ông ta ngồi dậy.
- Tại sao,
ồ… tất nhiên rồi. Tôi rất lấy làm vinh dự.
Becker lấy
ra một cuốn số ghi chép nhỏ và bắt đầu.
- Được rồi,
bắt đầu từ sáng nay. Xin ông kể về vụ tai nạn.
Ông ta thở
dài.
- Đó là một
chuyện buồn. Có một người châu Á đáng thương bị ngã quỵ xuống. Tôi
cố giúp anh
ta, nhưng không kịp.
- Ông đã sơ
cứu tim cho anh ta?
Cloucharde
trông ngượng ngùng.
- Tôi e
rằng tôi không biết cách. Tôi đã gọi xe cấp cứu.
Becker nhớ
đến vết thương trên ngực của Tankado.
- Có phải
các nhân viên y tế đã ép tim anh ta?
- Lạy chúa,
không phải vậy - Cloucharae cười to - Không có lý do gì để cứu một
con ngựa
chết. Người đàn ông đó đã chết trước khi xe cấp cứu đến. Họ kiểm tra
mạch đập và
chở ông ta đi, bỏ lại tôi với tên cảnh sát kinh khủng đó.
Thật kỳ lạ.
Becker nghĩ, và anh băn khoăn không hiểu vết bầm đó từ đâu ra. Anh
gạt nó ra
khỏi đầu và tập trung vào vào vấn đề chính.
- Thế còn
chiếc nhẫn? - Anh nói với giọng lãnh đạm hết sức có thể.
Cloucharde
ngạc nhiên.
- Viên
trung uý nói với ông về chiếc nhẫn? - Đúng anh ta có nói.
Cloucharde
thực sự ngạc nhiên.
- Thật sao?
Tôi nghĩ hắn ta không tin câu chuyện của tôi. Hắn quá lỗ mãng, có thể
hắn cho
rằng tôi nói dối. Nhưng chuyện đó có thật. Tôi xin cam đoan như vậy.
- Chiếc
nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker nhấn mạnh.
Cloucharde
dường như không nghe thấy. Ông ta đờ đẫn nhìn vào khoảng không.
- Một vật
trông rất lạ, những chữ viết trên đó không giống bất cứ ngôn ngữ nào mà
tôi đã từng
biết.
- Có thể là
tiếng Nhật - Becker phỏng đoán.
- Hoàn toàn
không phải.
- Vậy ông
nhìn thấy dòng chữ đó?
- Lạy chúa,
đúng thế! Khi tôi quỳ xuống định giúp anh ta, anh ta cứ dúi bàn tay vào
người tôi.
Anh ta muốn cho tôi chiếc nhẫn đó.
Thật khủng
khiếp, đôi bàn tay của anh ta bị dị dạng.
- Và ông đã
lấy chiếc nhẫn đó?
Cloucharde
mở to mắt.
- Gì? Tên
trung uý đó nói với anh như thế sao? Rằng tôi lấy chiếc nhẫn?
Becker hơi
bối rối.
Cloucharde
quát to:
- Tôi biết
là hắn ta không hiểu tôi nói gì mà! Lại tai nọ xọ tai kia. Tôi nói với anh ta
rằng người
Nhật đó đã đưa chiếc nhẫn, nhưng tôi không nhận. Tôi không muốn lấy
bất cứ thứ
gì của một người đang hấp hối. Chúa ơi, chỉ ý nghĩ đó thôi… Becker bắt
đầu thấy
căng thẳng.
- Vậy ông
đã không lấy chiếc nhẫn đó?
- Lạy chúa,
không!
Becker thấy
bụng đau nhói.
- Vậy thì
ai đã lấy chiếc nhẫn?
Cloucharde
bực bội nhìn Becker.
- Tên người
Đức! Tên người Đức đã lấy chiếc nhẫn. Tên người Đức ở trong công
viên! Tôi
đã nói với cảnh sát về hắn! Tôi từ chối chiếc nhẫn nhưng tên phát xít đó
lại lấy.
Becker viết
vào cuốn sổ. Trò chơi đã kết thúc. Có một vấn đề ở đây - Vậy tên người Đức đã
lấy chiếc nhẫn đó?
- Đúng vậy!
- Ông ta đã
đi đâu?
- Tôi không
biết. Tôi chạy đi báo cảnh sát. Khi tôi trở lại hắn đã đi mất.
- Ông có
biết hắn là ai không?
- Một khách
du lịch.
- Ông có
chắc không?
- Cả đời
tôi nghiên cứu về du lịch mà - Cloucharde ngắt lời.
- Nhìn
thoáng qua là tôi biết ngay. Hắn và bạn gái hắn đang đi dạo trong công viên.
Becker càng
thấy bối rối hơn.
- Bạn gái
sao? Có một người đi cùng tên người Đức đó?
Cloucharde
gật đầu.
- Một cô
gái gọi, tóc đỏ tuyệt đẹp, lạy Chúa! Rất xinh đẹp.
- Gái gọi -
Becker sửng sốt - Tức là gái điếm à?
Cloucharde
nhăn mặt.
- Đúng, nếu
anh thích cái từ thô tục đó.
- Nhưng…
viên trung uý kia không nói gì về… - Ồ tất nhiên là không rồi! Tôi
không nhắc
đến cô gái đó.
Cloucharde
xua tay.
- Họ không
phải là tội phạm… Thật vô lý nếu họ bị coi như những tên trộm"
Becker vẫn
chưa hết bàng hoàng.
- Có ai ở
đó nữa không?
- Không,
chỉ có ba chúng tôi thôi. Trời rất nóng.
- Và ông
cho rằng cô gái đó là gái điếm?
- Đúng vậy.
Không một phụ nữ nào đẹp như vậy lại đồng ý cặp với tên đó, trừ khi
cô ta được
trả cao! Chúa ơi! Hắn trông quá béo! Một tên người Đức mồm rộng, béo
phì và đáng
ghét - Cloucharde nhăn mặt lại khi ông thay đổi tư thế. Nhưng ông nén
cơn đau và
tiếp tục nói - Tên người Đức đó trông giống như một con thú, nặng ít
nhất 135
kg. Hắn ghì cô gái đáng thương như thế sợ cô ta chạy mất. Tôi không đổ
lỗi cho cô
gái. Ý của tôi là, hắn vòng tay ôm chặt cô ta, cứ như thể hắn bao cô ta cả
tưần với
giá 300 đô la. Chính hắn là kẻ đáng phải chết chứ không phải là người
châu Á đáng
thương kia - Cloucharde hít lấy hơi, và Becker liền hỏi: - Ông có biết tên của
hắn không?
Cloucharde
nghĩ một lúc rồi lắc đầu.
- Tôi không
biết - Ông ta lại nhăn mặt vì đau và nằm lại xuống gối.
Becker thở
dài. Chiếc nhẫn vừa bốc hơi trước mắt anh. Ngài Strathmore hẳn sẽ
không vui
khi biết tin này.
Cloucharde
vỗ nhẹ vào trán. Sự nhiệt tình của ông đã hết.
Trông ông
rất mệt mỏi.
Becker cố
gắng theo cách khác.
- Ông
Cloucharde, tôi muốn biết về tên người Đức và cô gái đó. Theo ông thì họ ở
đâu?
Cloucharde
nhắm mắt lại, không còn chút sức lực nào, hơi thở yếu dần.
- Bất cứ
điều gì - Becker nhấn mạnh - Tên của cô gái?
Nhưng chỉ
có sự im lặng kéo dài.
Cloucharde
day nhẹ thái dương bên phải. Trông ông thực sự kiệt sức.
- À,…
không, tôi không chắc… - Giọng ông ta phều phào.
Becker cúi
xuống phía ông.
- Ông ổn
chứ?
Cloucharde
hơi gật đầu.
- Ổn
thôi…chỉ một chút… có lẽ do phấn khích quá… - ông nói.
- Hãy nghỉ
đi ông Cloucharde - Becker hối thúc. - Điều này rất quan trọng.
Cloucharde
nhăn mặt.
- Tôi không
biết… cô gái đó… tên kia gọi cô ta là… - ông nhắm mắt lại và rên rỉ.
- Tên cô ta
là gì?
- Tôi không
nhớ nổi… - Cloucharde uể oải.
- Hãy nghĩ
xem? - Becker thúc giục. - Quan trọng lắm đấy. Tài liệu của lãnh sự
quán càng
đầy đủ càng tốt. Tôi cần dẫn chứng câu chuyện của ông bằng những câu
nói của các
nhân chứng khác. Bất cứ thông tin nào của ông cũng giúp tôi tìm ra
họ….
Nhưng
Cloucharde không nghe thấy gì hết. Ông ta đang dùng khăn chấm nhẹ lên
trán của
mình.
- Tôi xin
lỗi… có lẽ ngày mai….
Trông ông
như đang buồn nôn. - Ông Cloucharde, điều này rất quan trọng. Nếu ông nhớ được
ngay bây giờ thì rất
tốt -
Becker đột nhiên nhận thấy minh đang nói quá to. Mọi người ở các giường gần
đó vẫn đang
quan sát cả hai người. Ở phía góc xa, cô y tá xuất hiện, bước qua cửa
và sải bước
đến chỗ họ.
- Bất cứ
điều gì… - Becker nhấn mạnh.
- Tên người
Đức gọi cô gái là… Becker lắc nhẹ ông già, cố gắng làm cho ông ta
tỉnh lại.
Đôi mắt của
Cloucharde loé sáng một chút.
- Tên cô
gái… Ở lại với anh, fella… Dew… Cloucharde lại nhắm mắt. Cô y tá đã
đến, trông
rất giận dữ.
- Dew -
Becker lắc cánh tay ông già.
Ông ta rên
rỉ.
- Hắn gọi
cô gái là… - Cloucharde lẩm bẩm, rất khó nghe rõ.
Cô y tá chỉ
còn hơn 3 mét nữa là đến nơi, và đang giận dữ réo gọi Becker bằng
tiếng Tây
Ban Nha. Becker không nghe thấy gì cả.
Mắt của anh
còn đang nhìn chằm chằm vào môi của ông già. Anh lắc ông ta một
lần cuối
khi cô y tá túm lấy anh.
Cô y tá nắm
lấy vai Becker. Cô kéo anh ra ngay khi đôi môi của ông già hé mở.
Một từ
thoát ra khỏi miệng của ông già, nhưng không hẳn được phát âm. Đó là một
tiếng thở
dài. Giống như hồi tưởng xa xăm… - Dewdrop… Tiếng la rầy kéo Becker
đi ra.
Dewdrop?
Becker nghĩ. Cái tên quái quỷ gì thế nhỉ? Anh tránh khỏi cô y tá và quay
xuống hỏi
Cloucharde một lần cuối.
- Dewdrop?
Ông có chắc không?
Nhưng
Pierre Cloucharde đã lịm đi.
Chương 23 & Chương 24
Chương 23
Susan ngồi một mình trong Node 3 sang trọng. Vừa uống trà chanh vừa
nhìn màn
hình chờ đợi.
Là một
chuyên gia cao cấp về mật mã, Susan được bố trí một căn phòng ở vị trí đẹp
nhất. Nó ở
phía sau dãy vi tính, đối diện với Crypto. Từ căn phòng này, cộ có thể
quan sát
toàn bộ Node 3.
Không những
thế cô có thể nhìn thấy phía bên kia của tấm kính quan sát một chiều,
TRANSLTR
ngay giữa trung tâm của Crypto.
Susan nhìn
đồng hồ. Cô đã đợi được một tiếng. Trung tâm kiểm tra thư tín nặc
danh
(American Remailers Anomymous) rõ ràng đã kiểm tra thư từ của Dakota. Cô
thở dài
nặng nhọc. Mặc dù đã cố quên cuộc nói chuyện với David sáng nay, nhưng
những lời
nói vẫn cứ hiện ra trong đầu cô. Cô biết mình đã quá khắt khe với anh.
Mong rằng
anh sẽ không sao khi ở Tây Ban Nha.
Những ý
nghĩ của cô bị ngắt quãng bởi một tiếng động lớn phía cửa kính. Nhân
viên mật mã
Greg Hale đang đứng ở ngưỡng cửa.
Cao to lực
lưỡng, tóc vàng dầy, Greg Hale có chiếc cằm chẻ sâu. Anh ta thích diện
quá mức,
luôn phô trương những bắp thịt. Đồng nghiệp đặt cho anh biệt danh là
"Halite"-
một chất muối khoáng.
Hale cứ
nghĩ rằng biệt danh này là một chất quý hiếm, tương xứng với trí thông
minh và cơ
thể cường tráng của mình. Chỉ khi tra tên đó trong bách khoa toàn thư,
anh mới
phát hiện ra rằng nó chỉ là chất muối cặn còn lại khi nước biển rút đi.
Giống như
các nhân viên mật mã khác. Hale cố mức lương cao. Tuy nhiên, anh ta
không thể
giữ kín thu nhập của mình. Anh ta lái chiếc xe Lotus mui trần, với một
dàn âm
thanh chói tai. Trông anh ta giống như một tay chơi ngông, và chiếc ô tô
của anh ta
đầy vẻ phô trương với hệ thống vi tính định vị toàn cầu, cửa xe khoá
điều khiển
bằng tiếng nói, máy làm nhiễu năm điểm sóng ra đa, và một máy fax,
điện thoại
di động để không bao giờ bị mất liên lạc. Một đĩa đọc MEGABYTE hảo
hạng được
đặt trong khung có ánh nê-ông tím.
Greg Hale
được Tập đoàn hàng hải Mỹ cứu thoát khỏi một tuổi thơ đầy tội phạm.
Năm ba tuổi
anh ta học vi tính. Anh ta là một trong những lập trình viên giỏi nhất
của Cục
Hàng hải, trên con đường sự nghiệp quân sự đầy vinh quang của mình. Nhưng hai
ngày trước khi hoàn thành chuyến công tác ba ngày của mình, tương lai
của anh ta
bỗng nhiên thay đổi. Hale chẳng may giết chết một đồng nghiệp ở Cục
Hàng hải
trong cơn say. Môn võ tự vệ của Hàn Quốc, Taekwondo, đã không thể
giúp anh ta
tự bào chữa. Và nhanh chóng, Hale bị đuổi khỏi ngành.
Sau một
thời gian ngồi bóc lịch trong nhà tù, Hale bắt đầu tìm kiếm công việc ở các
công ty tư
nhân với tư cách là một lập trình viên. Bị tai tiếng do vụ tai nạn ở Cục
Hàng hải,
Hale luôn phải thuyết phục các ông chủ bằng một tháng làm việc không
lương để
chứng tỏ tài năng. Không thiếu người thuê anh ta và ngay khi họ thấy anh
ta có thể
làm việc với cái máy tính, họ đã không bao giờ để anh ta đi mất.
Khi trình
độ vi tính của mình đã nâng cao, Hale bắt đầu kết nối toàn cầu qua mạng
Internet.
Anh ta lập ra trào lưu mới của những người say mê mạng máy tính cùng
với những
người bạn qua thư điện tử trên khắp thế giới, đăng tải những tuần thư
điện tử vớ
vẩn hoặc các nhóm chát chít ở châu âu. Anh ta đã bị hai ông chủ đuổi
việc do lợi
dụng công việc để đăng tải những hình ảnh khiêu dâm cho bạn bè mình.
- Cô đang
làm gì ở đây vậy? - Hale hỏi, dừng ở ngưỡng cửa và nhìn chằm chằm
Susan. Rõ
ràng anh ta không muốn gặp ai ở Node 3 ngày hôm nay.
Susan cố
gắng tỏ vẻ bình thường.
- Hôm nay
là thứ 7, Greg. Tôi cũng muốn hỏi anh câu đó!
Nhưng Susan
thừa biết Hale làm gì ở đây vào ngày này. Anh ta là kẻ nghiện vi tính
nặng. Mặc
dù là thứ bảy nhưng anh ta vẫn đến Crypto để sử dụng mạng vi tính siêu
việt ở đây
đế chạy thử những chương trình mới của mình.
- Để ngắt
một số đường dây và kiểm tra hòm thư mà thôi - Hale nói - Đó không
phải là
những gì cô đang làm đấy chứ?
- À tôi thì
không - Susan trả lời.
Hale nhướn
lông mày ngạc nhiên.
- Không có
gì phải xấu hổ cả. Trong Node 3 không ai giữ bí mật chuyện gì đúng
không nào?
Một người vì mọi người, mọi người vì một người.
Susan nhấp
một ngụm trà và không chú ý đến Hale nữa. Hale nhún vai và đi về
phía tử đồ
uống. Tủ đồ uống bao giờ cũng là điểm dừng chân đầu tiên của anh ta.
Khi Hale đi
ngang qua phòng, anh ta nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm vào cặp
chân của
Susan đang duỗi dài dưới gầm bàn. Susan không thèm nhìn lên, co chân
lại và tiếp
tục làm việc. Hale cười khẩy. Susan đã quen với việc bị Hale cố tình đụng chạm.
Cô quá kiêu hãnh nên không
phàn nàn
với Strathmore về Hale. Tốt nhất là không nên để ý đến anh ta.
Hale đến tử
đồ uống, mở mạnh tấm cửa mắt cáo. Anh ta với hộp đậu phụ, ngoạm
một miếng
rồi đứng dựa vào cái lò sưởi, kéo thẳng chiếc quần Bellvience màu xám
bị chùng và
chiếc áo sơ mi được hồ cứng.
- Cô ở đây
lâu không?
- Cả đêm. -
Susan nói.
- Hmm… -
Halite vừa nhai vừa nói - Một ngày thứ Bảy tuyệt đẹp ở đây chỉ có hai
chúng ta.
- Ba chúng
ta - Susan chữa lại - Ngài Strathmore đang ở trên gác. Anh nên biến đi
trước khi
ông ta nhìn thấy.
Hale nhún
vai.
- Ông ấy
không bận tâm khi cô ở đây sao? Chắc hẳn ông ấy cũng thích cô đến đây
thế này
rồi.
Susan cố
gắng im lặng.
Hale cười
khục khục và bỏ bịch đậu phụ xuống. Sau đó anh ta lấy một hộp dầu ô-
liu, và tợp
vài hụm. Anh ta là một người rất chăm lo cho sức khoẻ, và cho rằng dầu
ô-liu sẽ
rửa sạch ruột. Khi nào không thuyết phục các nhân viên khác uống nước cà
rốt thì anh
ta lại thao thao về tác dụng của vitamin.
Hale đặt
hộp dầu ô-liu xuống và ngồi xuống bên chiếc vi tính của mình đối diện với
Susan. Mặc
dù cách xa, nhưng Susan vẫn có thể ngửi thấy mùi nước hoa Cologne
của anh ta.
Cô nhăn mũi.
- Mùi nước
hoa Cologne cũng thơm đấy nhỉ, Greg. Anh dùng hết cả lọ đấy à?
Hale nhổm
lên khỏi chỗ và nói:
- Chỉ dành
cho riêng em thôi, em yêu.
Khi anh ta
ngồi xuống chỗ của mình đợi máy tính khởi động.
Susan chợt
có một ý nghĩ. Nếu như Hale truy cập vào màn hình chạy của
TRANSLTR
thì sao? Không có lý do hợp lý nào khiến anh ta làm như vậy, tuy
nhiên Susan
biết rằng anh ta sẽ không bao giờ tin một câu chuyện ngớ ngẩn về một
mật mã làm
cho TRANSLTR xử lý trong 16 tiếng. Hale có thể muốn biết sự thật,
và Susan
không có ý định cho anh ta biết. Cô không tin Greg Hale. Anh ta không
phải là
nhân viên của NSA. Cô đã phản đối việc thuê anh ta ngay từ đầu, nhưng NSA không
có lựa chọn nào khác. Anh ta là một món nợ mà NSA phải gánh sau
một phi vụ.
Dự án
Skipjack đã thất bại.
Bốn năm
trước đây, trong một nỗ lực nhằm tạo ra một tiêu chuẩn mã hoá chung,
đơn giản,
Quốc hội đã thuê những nhà toán học giỏi nhất trong nước, những người
làm tại
NSA, viết một siêu thuật toán. Kể hoạch này sẽ được sử dụng cho Quốc hội
trong việc
thông qua một điều luật về một thuật toán chuẩn trong nước, do vậy các
tập đoàn sẽ
không phải chịu những rắc rối do sử dụng cac thuật toán khác nhau.
Tất nhiên
khi yêu cầu NSA giúp một tay trong kế hoạch phát triển tiêu chuẩn mã
hoá chung
là một yêu cầu như thể yêu cầu một người tự xây chiếc quan tài cho
mình vậy.
TRANSLTR lúc đó chưa ra đời, và một tiêu chuẩn mã hoá chỉ giúp đẩy
mạnh việc
sử dụng mã hoá, điều này sẽ làm cho công việc khó khăn của NSA lại
càng khó
khăn hơn.
EFF hiểu rõ
sự mâu thuẫn quyền lợi này và loan tin NSA sẽ tạo ra một thuật toán
kém chất
lượng, có thể bị giải mã một cách dễ dàng. Để đối phó với tình huống
này, Quốc
hội tuyên bố rằng khi nào NSA tạo ra thuật toán, thì công thức đó sẽ
được những
nhà toán học trên thế giới kiểm tra chất lượng.
Một cách
miễn cưỡng, nhóm giải mã của NSA, do ngài Strathmore lãnh đạo, đã tạo
ra một
thuật toán và họ đặt tên là Skipjack. Skipjack được đưa cho Quốc hội thông
qua. Các
nhà toán học trên khắp thế giới kiểm tra Skipjack và đã hoàn toàn bị chinh
phục. Họ
kết luận đó là một thuật toán không thể bẻ khoá, và nó có thể tạo ra một
tiêu chuẩn
mã hoá siêu việt. Nhưng chỉ ba ngày trước khi Quốc hội bỏ phiếu thông
qua, thì
một lập trình viên trẻ tại phòng thí nghiệm Bell, Greg Hale đã gây sốc cho
toàn thế
giới khi thông báo rằng anh ta đã tìm ra lỗ hổng cổng hậu của thuật toán
đó. Lỗ hổng
này bao gồm một vài dòng mã lệnh hết sức tinh xảo mà Strathmore đã
cài vào
trong thuật toán đó. Và phải nói thêm rằng, không một ai ngoại trừ Greg
Hale phát
hiện ra nó. Và trong lời thú nhận của mình, Strathmore đã nói rằng bất cứ
mật mã nào
viết bằng chương trình Skipjack đều bị bẻ khoá thông qua một mật
khẩu bí mật
chỉ có NSA biết. Strathmore sắp biến tiêu chuẩn mã hoá quốc gia trở
thành một
phương tiện tình báo lớn nhất trong lịch sử NSA; NSA cũng nắm giữ
mật khẩu
của các mã hoá khác trên nước Mỹ.
Những người
hiểu biết về máy tính đều cảm thấy bị xúc phạm. EFF coi NSA là kẻ trục lợi, chế
nhạo sự khờ khạo của Quốc hội và tuyên bố NSA
là mối đe
doạ lớn nhất cho một thế glới tự do sau kỷ nguyên Hit-le. Dự án tiêu
chuẩn mã
hoá bị phá sản.
Một điều ngạc
nhiên là chỉ hai ngày sau đó. NSA đã thuê Greg Hale. Strathmore
thấy để anh
ta làm việc cho NSA thì tốt hơn để anh ta ở ngoài và tìm cách phá hoại
nó.
Strathmore
phải đối mặt với vụ xì căng đan. Ông đã bảo vệ cho hành động của
mình. Một
cách đầy thuyết phục trước Quốc hội.
Ông tranh
luận rằng chính yêu cầu đòi quyền riêng tư của người dân sẽ chống lại
chính họ.
Ông khăng khăng rằng dân chúng cần một ai đó đứng ra bảo vệ họ; và
dân chúng
cần NSA bẻ khoá mật mã nhằm duy trì hoà bình. Những nhóm chống
đối như EFF
lại nghĩ khác, và họ tiếp tục phản đối từ đó đến nay.
Chương 24
David Becker đứng trong buồng điện thoại ven đường La Clinica de
Salud
Publica; anh vừa bị tống ra khỏi bệnh viện vì đã làm phiền bệnh nhân số 104,
ông
Cloucharde.
Mọi chuyện
dường như phức tạp hơn rất nhiều so với suy đoán của anh. Yêu cầu
nhỏ của
ngài Strathmore, tìm vài vật dụng cá nhân, nay đã biến thành cuộc truy
lùng một
chiếc nhẫn kỳ quái.
Anh vừa gọi
cho ngài Strathmore và thông báo cho ông biết về vị khách du lịch
người Đức.
Tin tức của anh khiến ông ta có vẻ không vui. Sau khi yêu cầu anh kể
chi tiết sự
việc, Strathmore im lặng một lúc lâu.
- David! -
Strathmore cuối cùng cũng nói, rất nghiêm trọng Tìm chiếc nhẫn là vấn
đề an ninh
quốc gia. Tôi giao nhiệm vụ này cho anh. Đừng làm tôi thất vọng.
Và David
nghe tiếng cúp máy.
David đứng
trong buồng điện thoại và thở dài. Anh bắt đầu lật tìm những trang
vàng trong
cuốn danh bạ điện thoại Guia Telefonica tả tơi.
- Chẳng đi
đến đâu cả - Anh lẩm bẩm một mình - Ở đó chỉ có ba số điện thoại của
"dịch
vụ bạn đồng hành", và anh cũng không có nhiều thông tin lắm. Tất cả những
gì anh biết
là bạn gái của tên người Đức đó có mái tóc đỏ, màu tóc thuộc loại hiếm
ở Tây Ban
Nha. Ông Cloucharde mê sảng đã gọi tên cô gái là Dewdrop. Becker
rùng mình -
Dewdrop? Nghe giống như tên một con bò hơn là một cô gái đẹp. Đây
không phải
là tên của người theo đạo thiên chúa. Cloucharde chắc đã nghe nhầm. Becker quay
số đầu tiên.
- Cơ quan
dịch vụ xã hội Sevilla… - một giọng phụ nữ nhẹ nhàng cất lên.
Becker nói
tiếng Tây Ban Nha với giọng Đức nặng.
- Chào, có
nói được tiếng Đức không?
- Không.
Nhưng tôi nói được tiếng Anh - Có tiếng đáp lại.
Becker giả
vờ nói tiếng Anh một cách khó khăn:
- Cảm ơn,
không biết cô có thể giúp tôi được không?
- Chúng tôi
rất sẵn lòng - Người phụ nữ nói chậm nhằm giúp đỡ khách hàng của
mình.
- Có lẽ anh
cần một người bạn đồng hành?
- Vâng,
đúng vậy. Hôm nay anh trai tôi Klaus có một cô gái rất đẹp Tóc đỏ. Tôi
cũng muốn
một cô như vậy vào ngày mai, làm ơn!
- Anh trai
anh đã đến đây - Giọng cô gái đột nhiên trở nên sôi nổi, như thể họ đã là
bạn từ lâu.
- Vâng, anh
ta rất béo, cô có nhớ anh ta không? Không à? Anh nói là anh ta đến đây
hôm nay?
Becker nghe
thấy tiếng cô gái đang kiểm tra sổ sách. Có thể không có tên Klaus,
nhưng
Becker biết rằng khách hàng ít để lại tên thật của mình.
- Hmm, xin
lỗi! - Cô gái nói. - Tôi không thấy anh ta đến đây. Thế tên cô gái mà
anh trai
anh đi cùng là gì?
- Tóc đỏ. -
Becker có né tránh câu hỏi.
- Tóc đỏ -
Cô gái nhắc lại. Ngừng một chút - Đây là Cơ quan dịch vụ xã hội
Sevilla.
Ông có chắc là anh trai ông đã đến đây?
- Chắc
chắn.
- Senor,
chúng tôi không có ai tóc đỏ cả, Chúng tôi chỉ có vẻ đẹp Andalusian thuần
khiết thôi.
- Tóc đỏ -
Becker nhắc lại, cảm thấy thật ngu xuẩn.
- Tôi xin
lỗi, chúng tôi không có ai tóc đỏ cả. Nhưng nếu ông… - Tên cô ta là
Dewdrop -
Becker thốt ra, cảm thấy ngu xuẩn hơn.
Cái tên
buồn cười này chẳng có nghĩa gì với cô gái cả. Cô ta xin lỗi và nói rằng
Becker đang
nhầm lẫn cô ấy với một dịch vụ khác.
Cô gái lịch
sự cúp máy. Cuộc gọi một.
Becker nhăn
mặt và quay số tiếp theo. Đường được nối ngay lập tức:
- Xin chào
Hội những cô gái Tây Ban Nha, tôi có thể giúp gì cho ngài?
Becker diễn
lại vở kịch. Một người Đức sẵn sàng trả nhiều đô la cho một cô gái tóc
đỏ, người
đã đi cùng với anh trai mình ngày hôm nay.
Lần này,
giọng trả lời là một giọng Đức lịch sự, nhưng cũng không tìm thấy ai tóc
đỏ cả.
- Keine
Rotkopfe, tôi xin lỗi - Người phụ nữ cúp máy.
Cuộc gọi
hai.
Becker nhìn
xuống danh bạ điện thoại. Chỉ còn một số điện thoại cuối cùng. Cái
phao cứu
tinh cuối cùng đây.
Anh bấm số.
- Escortes
Belen - giọng đàn ông trơn tru trả lời.
Một lần nữa
Becker kể lại câu chuyện bịa của mình.
- Si, si
senor. Tôi tên là Senor Roldan. Tôi rất vui được giúp ngài. Chúng tôi có hai
cô gái tóc
đỏ. Những cô gái xinh đẹp.
Tim Becker
đập rộn lên.
- Rất đẹp -
Anh hỏi lại bằng giọng Đức.
- Tóc đỏ?
- Vâng, thế
tên anh trai ông là gì - Tôi sẽ nói cho anh biết ai là người bạn đồng
hành của
anh ấy trong ngày hôm nay. Và ngày mai tôi có thể sẽ cử cô ấy đến chỗ
anh.
- Klaus
Schmidt - Becker thốt ra cái tên mà anh nhớ có trong một quyển sách cũ.
Sau một
lúc.
- Thưa
ngài, chúng tôi không thấy có tên Klaus Schmidt trong danh sách đăng ký,
nhưng có lẽ
anh trai ngài muốn giữ bí mật, vì có một bà vợ ở nhà chăng? - Anh ta
cười một
cách vô duyên.
- Đúng vậy,
Klaus đã lập gia đình. Nhưng anh ấy béo quá. Vợ anh ta không ngủ với
anh ta nữa
- Becker nháy mắt với bóng của mình trong tấm kính trước mặt. Nhỡ
bây giờ
Susan nghe thấy câu này thì sao? Anh nghĩ, "Dù có béo và cô đơn, mình
vẫn muốn
ngủ với cô ấy. Dù phải trả thật nhiều tiền.
Becker đã
tạo một ấn tượng quá mạnh, nhưng anh đã đi quá xa. Gái điếm là bất hợp pháp ở
Tây Ban Nha. Và Senor Roldan là một người cẩn thận. Anh ta đã bị một
nhân viên
điều tra thẩm tra về những khách du lịch quá nhiều ham muốn. Tôi muốn
ngủ với cô
ta. Roldan biết đây là một vụ sắp đặt. Nếu anh nói có, anh có thể bị phạt
rất nặng,
và phải cung cấp những cô gái thông minh nhất cho những tên cảnh sát
miễn phí
cho những ngày cuối tuần.
Khi Roldan
trả lời. Giọng của anh không còn thân thiện nữa.
- Thưa ngài,
đây là Escortes Belen. Tôi có thể hỏi là ai đang gọi vậy?
- Aah…
Sigmund Schimidt - Becker nói yều ớt.
- Làm thế
nào ngài có số điện thoại của chúng tôi?
- La Guia
Telefonica, những trang vàng.
- Vâng thưa
ngài, bởi vì chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành.
- Đúng tôi
cần một người bạn đồng hành - Becker cảm thấy có điều gì không ổn.
- Thưa
ngài, Escortes Belen là một dịch vụ cung cấp bạn đồng hành cho các thương
gia, cùng
đi ăn trưa, ăn tối. Đó là lý do vì sao chúng tôi có trong danh bạ điện thoại.
Công việc
của chúng tôi là hợp pháp. Cái ngài muốn tìm đó là một gái điếm - Từ
đó được anh
ta nói với vẻ kinh tởm.
- Nhưng anh
trai tôi… - Thưa ngài, nếu anh trai ngài hôn một cô gái trong công
viên, thì
cô gái đó không phải là người của chúng tôi. Chúng tôi có những quy định
nghiêm ngặt
về quan hệ giữa khách và người đồng hành.
- Nhưng….
- Ngài đã
nhầm chúng tôi với công ty nào khác rồi. Chúng tôi chỉ có hai cô gái tóc
đỏ,
Inmaculada và Rocio, không ai trong số họ cho phép đàn ông ngủ với họ dù vì
tiền. Đó là
làm điếm, và việc này là bất hợp pháp ở Tây Ban Nha. Chúc ngài một
buổi tối
tốt lành.
- Nhưng….
Cúp máy.
Becker chửi
thề và ném cuốn danh bạ về chỗ cũ. Cuộc gọi thứ ba. Anh chắc chắn
rằng
Cloucharde đã nói tên người Đức thuê cô gái đó trong suốt những ngày nghỉ
cuối tuần.
Becker bước
ra khỏi bốt điện thoại ở khu nối giữa đường Calle Salado và Averủda
Asuncion.
Mặc dù xe cộ nườm nượp, nhưng mùi hương cam ngọt ngào của Serville
vẫn bao
quanh anh. Giờ là hoàng hôn, thời điểm lãng mạn nhất. Anh lại nghĩ đến Susan.
Những lời
trở lại trong tâm trí anh. Hãy tìm chiếc nhẫn. Becker đau khổ ngồi xuống
chiếc ghế
băng và cân nhắc hành động tiếp theo.
Làm gì tiếp
theo đây?
Chương 25 & 26 & 27
Trong bệnh
viện Clinica de Salud Publica, giờ vào thăm đã hết. Ánh sáng trong
phòng tập
thể dục đã tắt. Pierre Cloucharde đang ngủ. Ông không nhìn thấy một
bóng người
đang cúi xuống phía ông. Chiếc kim tiêm loé sáng trong bóng tối. Sau
đó nó được
cắm vào tĩnh mạch ngay trên cổ tay của ông. Mũi tiêm dưới da chứa 30
cc chất
lỏng được ăn cắp trong xe thuốc của người trông coi. Một cách thô bạo, một
ngón tay
cái ấn đầu kim xuống và tiêm chất lỏng màu xanh vào ven của người
bệnh.
Cloucharde chi tỉnh dậy sau đó vài giây, nhưng không thể hét lên đau đớn
đang bịt
chặt miệng ông. Ông đã bị mắc bẫy trên chính giường bệnh của mình, bị
trói chặt
bởi một sức nặng dường như không thể chống cự được. Ông cảm thấy một
luồng lửa
đang thiêu đốt dọc cánh tay. Cơn đau tột cùng đang lan truyền khắp cánh
tay, ngực,
rồi giống như hàng triệu mảnh thuỷ tinh đang ghim vào não ông.
Cloucharde
nhìn thấy một ánh sáng loé lên… và sau đó tối đen.
Người khách
đến thăm nới lỏng tay, qua bóng tối, nhìn soi mói vào tên ông ghi trên
bệnh án
treo ở đầu giường. Sau đó hắn nhẹ nhàng chuồn đi.
Trên đường
phố, có một người đàn ông đeo kính gọng kim loại với một thiết bị nhỏ
gắn vào dây
lưng. Một vật hình chữ nhật to bằng chiếc thẻ tín dụng. Đó là một một
cìiếc máy
tính Monocle mới nhất do Hải quân Mỹ chế tạo để giúp các kỹ thuật viên
kiểm tra
điện áp của ắc qui trong những khu vực nhỏ chật trong tàu ngầm.
Chiếc máy
đắt tiền này được gắn một modem siêu nhỏ và những công nghệ siêu
nhỏ tiên
tiến nhất. Còn gồm có một màn hình tinh thể lỏng trong suốt, được gắn
trên mắt
trái của người sử dụng.
Chiếc máy
Monocle cho thấy một thời đại hoàn toàn mới của máy tính cá nhân.
Người sử
dụng có thể xem số liệu trong khi vẫn liên lạc với môi trường xung
quanh.
Mặc dù vậy
hoạt động của máy Monocle không phải là màn hình thu nhỏ, mà là hệ
thống nhập
dữ liệu của máy. Người sử dụng có thể nhập dữ liệu thông qua bộ phận
tiếp xúc
siêu nhỏ được gắn ở đầu ngón tay. Người sử dụng ấn ngón tay vào bộ phận
tiếp xúc
theo kiểu liên lạc bằng điện đài trong thế chiến thứ nhất. Máy tính sẽ dịch
những tín
hiệu tốc ký đó sang tiếng Anh.
Kẻ giết
người ấn một nút nhỏ, cặp kính của hắn lập loè. Tay của hắn cử động khéo léo
bên cạnh sườn. Hắn bắt đầu ấn những đầu ngón tay khác nhau rất nhanh. Thông
điệp xuất
hiện trước mắt hắn.
MỤC TIÊU:
P. CLOUCHARDE -THANH TOÁN XONG Hắn cười thầm. Chuyển
những thông
báo về các vụ giết người là công việc của hắn. Nhưng việc nêu tên nạn
nhân…đối
với gã đàn ông đeo kính gọng kim loại này, thì lại là một thú tao nhã.
Ngón tay
của hắn lại loé sáng lên lần nữa. Modem siêu nhỏ được kích hoạt.
TIN NHẮN ĐÃ
ĐƯỢC GỬI
Chương 26
Ngồi trên một chiếc ghế băng trước cổng bệnh viện công cộng, Becker
băn khoăn
không biết phải làm gì bây giờ. Các cuộc gọi của anh đến các trung tâm
cung cấp
bạn đồng hành chẳng đem lại kết quả gì. Còn ngài chỉ huy có vẻ không
hài lòng
trong cuộc nói chuyện vừa rồi, không tin tưởng các máy điện thoại công
cộng, đã
yêu cầu anh không gọi lại cho đến khi nào tìm thấy chiếc nhẫn.
Becker định
đến gặp cảnh sát địa phương nhờ giúp đỡ, có thể họ sẽ có các báo cáo
về một gái
điếm tóc đỏ. Nhưng ngài Strathmore đã đưa ra một quy định hết sức
nghiêm
ngặt.
- Anh không
được để mình bị phát hiện. Không ai được biết về sự tồn tại của chiếc
nhẫn.
Becker
lưỡng lự không biết có nên lang thang đến khu nghiện ngập Triana để tìm
cô gái lạ
mặt đó không. Hay có nên kiểm tra tất cả các khách sạn để tìm tên người
Đức phì nộn
đó không. Cách nào cũng chỉ tốn thời gian vô ích mà thôi.
Các câu nói
của Strathmore lại vang lên tâm trí anh: "Đây là vấn đề an ninh quốc
gia… anh
phải tìm bằng được chiếc nhẫn".
Từ sâu thẳm
trong lòng anh cảm thấy mình đang thiếu một cái gì đó một thứ rất
quan trọng
- nhưng anh không thể gọi tên nó một cách chính xác. Mình là giảng
viên, chứ
không phải một điệp viên ngầm! Và anh tự hỏi tại sao Strathmore không
cử một
người chuyên nghiệp.
Becker đứng
dậy thơ thẩn đi dọc phố Calle Delicas nghĩ xem mình nên làm gì.
Những viên
đá rải đường hiện ra lờ mờ dưới mắt anh. Màn đêm đang buông xuống.
Dewdrop.
Cái tên này
có gì thật kỳ lạ. Dewdrop. Giọng nói trơn tuột của gã Senor Roldan ở
Escortes
Belen cứ vang lên trong tâm trí anh: "Chúng tôi có haì cô gải tóc đỏ… Hai
cô tóc đỏ,
lnmaculada và Rocio… Rocio… Rocio…". Becker dừng lại, tìm ra rồi. Mình là
một chuyên gia ngôn ngữ cơ mà! Anh không
thể tin nổi
mình lại bỏ sót chi tiết đó.
Rocio là
một cái tên con gái phổ biến nhất ở Tây Ban Nha. Nghĩa là một cô gái
thiên chúa
giáo thuần khiết, trinh tiết, với vẻ đẹp tự nhiên. Theo nghĩa rộng của từ
thuần khiết
đều bắt nguồn từ nghĩa đen của tên - Drop of Dew! (Giọt sương Mai)
Giọng ông
già người Canada vang vọng bên tai Becker. "Dewdrop". Rocio đã dịch
tên mình
sang thứ tiếng mà cả hai cùng biết, tiếng Anh. Quá phấn khích, Becker
chạy vội đi
tìm bốt điện thoại.
Gã đàn ông
đeo kính gọng kim loại bên qua đường biến mất.
Chương 27
Trên sàn nhà Crypto, bóng nắng trải dài và mờ dần. Phía trên đầu hệ
thống chleu
sáng tự động dần dần sáng lên vẫn ở chỗ của mình, Susan im lặng chờ
đợi tin từ
phần mềm tìm địa chỉ. Không ngờ lại mất nhiều thời gian thế này. Cô suy
nghĩ miên
man - nhớ David và mong Greg Hale ra về. Mặc dù Hale không gây
tiếng động,
ơn chúa anh ta chỉ im lặng, mê mải công việc đang làm. Susan chẳng
cần biết
anh ta đang làm gì, miễn là không truy cập màn hình chạy Run Monitor.
Rõ ràng là
anh ta đã không làm thế. "16 tiếng" có thể gây ra một tiếng kêu kinh
ngạc.
Susan đang
nhấm nháp tách trà thứ ba thì có chuyện xảy ra - cuối cùng máy tính
của cô kêu
một tiếng bíp. Tim cô đập nhanh hơn. Một biểu tượng lá thư hiện ra trên
màn hình
thông báo cô có thư, Susan vội liếc nhìn Hale. Anh ta vẫn chúi mũi vào
công việc.
Cô hít sâu
và kích đúp vào biểu tượng lá thư.
- North
Dakota… - Cô thì thầm - Để xem ngươi là ai?
Trong thư
chỉ có một dòng chữ duy nhất. Susan đọc đi đọc lại lần nữa.
ĂN TỐI TẠI
NHÀ HÀNG ALFREDO? 8PM?
Đi ngang
qua phòng, Hale cố giấu một nụ cười. Susan kiểm tra tên người gửi.
Từ…
GHALE@CRYTO.NSA.GOV Susan rất tức giận nhưng cô cố kìm nén. Cô
xoá bức
thư.
- Ấn tượng
đấy, Greg ạ!
- Họ làm
món gỏi cá ngừ tuyệt lắm - Hale mỉm cười - Cô thấy thế nào? Sau đó
chúng ta có
thể… - Quên giấc mơ ấy đi, Greg.
- Thật hợm
hĩnh - Hale thở dài và quay trở về chỗ của mình. Đó là lần thứ 89 với Susan
Fletcher. Người phụ nữ thông minh của Crypto luôn cuốn hút anh ta. Hale
thường
tưởng tượng cảnh mình ghì chặt Susan vào vỏ TRANSLTR và cả hai cùng
ân ái ngay
trên nền gạch đen của toà nhà. Nhưng Susan chẳng bao giờ thèm ngó
ngàng gì
tới anh ta. Trong suy nghĩ của Hale, điều tồi tệ hơn cả là cô ta đang yêu
một giảng
viên đại học, suốt ngày cắm mũi vào cuốn sách. Thật đáng tiếc là Susan
không đem
nguồn gen quý của mình kết hợp với những người thông minh khác -
đặc biệt là
với Greg. Chúng ta sẽ có những đứa con hoàn hảo. Anh ta nghĩ thầm.
- Cô đang
làm gì vậy - Hale hỏi, đang cố tiếp cận theo cách khác.
Suran không
trả lời.
- Liệu tôi
có hy vọng nào không Susan? - Hale đứng dậy và tiến về phía Susan.
Susan thấy
rằng sự tò mò của Hale có thể gây ra nhưng vẫn đề nghiêm trọng trong
lúc này. Cô
quyết định nhanh chóng.
- Một cách
giải mã mới đây - Cô bắt chước cách nói dối của ngài chỉ huy.
Hale dừng
lại.
- Cách giải
mã - Anh ta nghi ngờ - Cô dùng cả ngày thứ bảy chỉ để chạy thử
chương
trình giải mã mới thay vì đi chơi với chàng giáo sư của cô?
- Tên là gì
chả được! - Susan lườm anh ta - Anh không có việc gì khác để làm à?
- Cô đang
đuổi tôi sao - Hale bĩu môi.
- Thực ra
là đúng như thế.
- Thôi nào,
Sue, tôi buồn đấy!
Susan
Fletcher nheo mắt lại. Cô ghét bị gọi là Sue. Cô không ghét cái tên đó.
Nhưng chỉ
có Hale là người duy nhất gọi cô như vậy.
- Tại sao
tôi lại không giúp cô nhỉ - Hale đề nghị. Bỗng nhiên anh ta lại đi về phía
cô.
- Tôi giỏi
về giải mã lắm đấy. Hơn nữa tôi rất tò mò, cách giải mã nào có thể bắt
một nhân
viên tài giỏi như Susan Fletcher đi làm vào thứ bảy đây?
Susan lo
cuống lên. Cô nhìn xuống chương trình đang chạy trên màn hình. Cô biết
không thể
để Hale nhìn thấy được. Anh ta sẽ hỏi hết câu này đến câu khác.
- Vừa xong
rồi, Greg! - Susan nói.
Nhưng Hale
vẫn bước tới. Cô biết mình cần phải hành động ngay. Chỉ còn vài bước
chân nữa
thôi. Cô đứng dậy chắn ngay trước thân hình lực lưỡng của Hale. Mùi
nước hoa
Cologne của anh ta càng ngào ngạt. Cô nhìn thẳng vào mắt anh ta.
- Tôi nói
không!
Hale nghển
cổ, rõ ràng ngạc nhiên vì cô tỏ ra bí mật. Anh ta tinh nghịch bước tới.
Greg Hale
không chuẩn bị cho điều gì có thể xảy ra tiếp theo.
Với vẻ mặt
nghiêm nghị, cô ấn ngón tay trỏ vào bộ ngực cứng như thép của Hale,
ngăn không
cho anh ta bước đến.
Hale ngớ
người ra, dừng lại và quay trở về chỗ của mình. Rõ ràng Susan Fletcher
rất nghiêm
túc, cô ấy chưa bao giờ chạm vào anh ta. Thế này không giống tưởng
tượng của
Hale về sự gần gũi giữa hai người; nhưng đây có thể là điểm mở đầu.
Anh ta nhìn
cô một lúc lâu không khỏi kinh ngạc, rồi quay trở về chỗ của mình và
ngồi xuống,
có một điều rất rõ ràng: Susan Fletcher đang làm một điều gì đó rất
quan trọng,
chứ không phải là cách giải mã quái quỷ gì đó.
Chương 28 & 29
Senor
Roldan ngồi sau chiếc bàn làm việc của mình ở trung tâm Escortes Belen,
đang rất
hài lòng với bản thân vì đã khôn khéo chặn một âm mưu đáng khinh bỉ của
cảnh sát
nhằm bẫy anh ta. Một nhân viên giả mạo giọng Đức để yêu cầu một cô gái
cho một
đêm, đúng là một cái bẫy. Không biết bọn họ còn nghĩ ra trò gì nữa đây.
Điện thoại
trên bàn bỗng reo chuông. Senor Roldan tự tin cầm lấy ống nghe.
- Buenas
noches, Escortes Belen.
- Xin chào
buổi tối - Người bên kia đáp lại bằng một giọng Tây Ban Nha hơi
nhanh. Anh
ta nói giọng mũi, giống như hơi bị cúm - Đây có phải là khách sạn
không?
- Không,
thưa ngài, số điện thoại ngài vừa gọi là số nào thưa ngài - Senor Roldan
không muốn
rơi vào một cái bẫy lần nữa trong tối hôm nay.
- 34 62-10
- người bên kia trả lời.
Roldan tức
giận. Giọng nói này nghe rất quen. Anh ta đang cố nhớ xem - có thể là
người vùng
Burgos chăng?
- Ngài đã
bấm đúng số thưa ngài - Roldan tò mò - Nhưng đây là dịch vụ bạn đồng
hành.
Bên kia
ngừng một lúc.
- Ồ… tôi
hiểu. Tôi xin lỗi. Có ai đó viết số điện này xuống, tôi nghĩ đó là số điện
khách sạn.
Tôi đang thăm quan khu vực này, từ Burgos đến. Xin lỗi đã làm phiền
anh. Chúc
buổi tối… - Espere! Xin đợi một lát - Senor Roldan không thể ngăn
mình được;
bản năng săn tiền trong anh ta trỗi dậy. Đây có thể là người mới đến?
Một khách
hàng từ miền Bắc? Anh ta không thể để sự hoài nghi của mình làm tụt
doanh số
kinh doanh.
- Anh bạn -
Roldan nói - Tôi nhận ra giọng vùng Burgos của anh bạn rồi. Tôi cũng
từ
Valentica đây. Cái gì đã đưa anh bạn đến với Seville vậy?
- Tôi bán
đồ trang sức. Ngọc trai Majorica.
- Majorica!
Thật chứ! Chắc anh đi rất nhiều nơi?
Giọng bên
kia ho hung hắng.
- Ô, vâng,
đúng thế.
- Anh đến
Seville vì công việc à - Roldan nhấn mạnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, người này
không phải là cảnh sát. Anh ta còn là khách sộp chẳng biết chừng - Để
tôi đoán
xem - một người bạn đưa cho anh số của chúng tôi? Anh ta nói với anh
hãy gọi cho
chúng tôi. Đúng vậy không?
Giọng bên
kia rõ ràng hơi bối rối.
- Ô, thực
ra không hẳn là như thế.
- Không có
gì phải ngượng cả, Senor. Chúng tôi là dịch vụ bạn đồng hành. Không
có gì xấu
hổ cả. Những cô gái đáng yêu, bữa tối, chỉ vậy thôi. Ai đưa cho anh số
điện thoại
của chúng tôi vậy? Có lẽ anh ta là khách hàng thường xuyên. Tôi có thể
giảm giá cho
anh khá đấy!
Giọng bên
kia hơi bối rối.
- Ah… thực
ra không có ai đưa cho tôi số điện thoại này cả. Tôi nhìn thấy nó trong
một tấm hộ
chiếu. Tôi đang cố tìm chủ nhân của nó.
Tim Roldan
trùng xuống. Người đàn ông này không phải là khách hàng.
- Anh vừa
nói là anh tìm thấy số điện thoại này phải không?
Đúng vậy,
tôi tìm thấy trong công viên. Số của anh được viết trong một tờ giấy kẹp
bên trong.
Tôi nghĩ có thể đó là số điện thoại khách sạn của anh ta. Tôi định trả lại
hộ chiếu
cho anh ta: Xin lỗi. Tôi sẽ gửi chuyển cho cảnh sát trên đường đến… -
Perdon -
Roldan ngắt lời ngay - Tôi có một ý hay hơn - Roldan rất tự hào về sự
nhanh nhạy
của mình. Đến cảnh sát ở Guardia có nghĩa là anh ta bị mất một khách
hàng.
- Thử cách
này xem - Anh ta gợi ý - Vì người chủ tấm hộ chiếu đó có có điện thoại
này nên anh
ta chắc là khách hàng ở của chúng tôi. Có lẽ anh sẽ khỏi phải đến đồn
cảnh sát.
Giọng bên
kia lưỡng lự.
- Tôi không
biết. Có lẽ tôi nên… - Đừng vội vàng anh bạn. Tôi thật xấụ hổ phải thú
thật với anh
rằng cảnh sát ở Seville không hoạt động hiệu quả như ở miền Bắc đâu.
Cho tôi tên
của anh ta đi. Tôi có thể giúp anh ta lấy lại được hộ chiếu ngay lập tức.
- Vâng,…
Tôi nghĩ là không có vấn đề gì… - Tiếng vài tờ giấy được lật, và giọng
nói cất lên
- Đó là tên tiếng Đức. Tôi không biết phát âm từ đó… Gusta…
Gustafson?
Roldan
không nhận ra cái tên đó. Nhưng khách hàng của anh ở khắp nơi trên thế
giới. Họ
không bao giờ để lại tên thật. - Ông ta trông như thế nào, trong ảnh ấy? Có lẽ
tôi có thể nhận ra ông ta chăng?
- Oh…-
Giọng nói cất lên - Khuôn mặt ông ta rất rất béo.
Roldan lập
tức nhận ra ngay người này. Anh vẫn nhớ khuôn mặt phì nộn đó. Đó là
người cặp
với Rocio. Thật tồi tệ. Có hai cuộc gọi về tên người Đức này trong một
đêm.
- Ông
Gustafson - Roldan cố cười mỉm.
- Tất
nhiên, tôi biết rất rõ người này. Nếu anh mang hộ chiếu đến đây, tôi sẽ chuyển
cho anh ta.
- Tôi không
có xe ô tô - Giọng nói cắt ngang - Hay là anh nên đến chỗ tôi?
- Thực ra…
- Roldan nói nước đôi - Tôi không thể rời máy điện thoại được. Nhưng
nếu không
quá xa, nếu anh có thể… - Tôi xin lỗi, muộn quá rồi. Có một sở cảnh sát
ở gần đây.
Tôi sẽ ghé vào đó. Vậy nếu anh gặp ông Gustafson, nhờ ông nhắn lại
cho ông ấy
tên đồn cảnh sát cũng được.
- Không,
xin đợi một chút! - Roldan kêu lên - Cảnh sát không can phải tham gia
vào việc
này. Anh nói là anh đang trên đường vào thành phố đúng không? Anh có
biết khách
sạn Alfonso XIII không? Đó là khách sạn xịn nhất thành phố.
- Có, tôi
biết - Giọng nói trả lời - Tôi biết khách sạn Alfonso XIII. Gần đây thôi!
- Tuyệt
vời! Tối nay ông Gustafson là khách ở đó. Có thể ông ta vẫn còn ở đó.
Giọng nói
lưỡng lự.
- Tôi
hiểu,… tôi cho là không vấn đề gì.
- Tuyệt
vời! Ông ấy đang dùng bữa với một trong những người đồng hành của
chúng tôi
trong nhà hàng của khách sạn đó - Roldan biết có thể bây giờ hai người
đó đang ở
trên giường. Nhưng anh ta cần phải cẩn thận không làm mất lòng khách
hàng phật ý
- Chỉ cần đưa hộ chiếu cho nhân viên bảo vệ, tên anh ta là Manuel. Nói
với anh ta
là tôi cử anh đến. Yêu cầu anh ta chuyển nó cho Rocio. Tối nay Rocio là
bạn đồng
hành của ông Gustafson. Cô ấy sẽ đưa hộ chiếu cho ông ta. Anh có thể
ghi lại tên
và địa chỉ - có lẽ ông Gustafson sẽ gửi lởi cảm ơn đến anh.
- Một ý
kiến hay. Khách sạn Alfonso XllI. Rất tốt. Tôi sẽ đến đó ngay bây giờ.
Cảm ơn anh
đã giúp đỡ!
David
Becker gác máy - Alfonson XIII. - Anh cười thầm - Chỉ cần biết cách hỏi
thôi.
Một lúc
sau, một bóng đen lặng lẽ theo sau Becker trên đường Calle Delicias hoà mình
vào ban đêm tĩnh lặng ở Andalusian.
Chương 29
Vẫn còn thấy khó chịu vì cuộc chạm trán với Hale, Susan đưa mắt qua
những bức
tường kính của Node 3. Crypto vắng trơn, Hale giờ đã chịu yên và có vẻ
rất chăm
chú với công việc của mình. Susan ước gì không phải nhìn thấy mặt anh ta
ở đây.
Cô tự hỏi
có nên gọi cho Strathmore hay không. sếp có thể sẽ giúp cô tống cổ anh
ta đi, dẫu
sao thì rõ ràng anh ta cũng chẳng có lý do gì mà lại có mặt ở đây vào
ngày thứ
bảy cả. Tuy nhiên, Susan cũng hiểu nếu như bị đuổi ra ngoài vô cớ chắc
chắn Hale
sẽ nghi ngờ. Và anh ta có thể sẽ dò hỏi các mật mã viên khác xem có
chuyện gì.
Cuối cùng cô quyết định cứ mặc kệ Hale, cô nghĩ nếu không có việc gì
quan trọng
chắc anh ta cũng sẽ sớm rời khỏi chỗ này.
Một thuật
toán không giải nối. Susan thở dài, cô lại nghĩ đến Pháo Đài Số. Đến giờ
cô vẫn
không tin được rằng con người có thể nghĩ ra một thuật toán phức tạp đến
thế, nhưng
bằng chứng đã rõ ràng, TRANSLTR hoàn toàn vô hiệu trước Pháo Đài
Số.
Susan chợt
nghĩ đến Strathmore, ông đối mặt với thảm hoạ này một cách thật can
trưởng. Làm
tất cả những gì cần thiết và vẫn rất bình tĩnh.
Đôi khi
Susan cảm nhận được một phần tính cách của David trong con người
Strathmore,
họ đúng là có nhiều điểm tương đồng, cả hai đều rất kiên trì, sống hết
mình, và
thông minh. Đã có lúc Susan nghĩ rằng nếu không có cô có lẽ Strathmore
đã đi chệch
hướng, chính niềm say mê thuần khiết mà cô dành cho ngành mật mã
đã giúp ông
giữ vững được con đường mà mình đang đi, giúp ông vượt lên trên
những cám
dỗ của đời sống chính trị đầy sóng gió và luôn gợi cho ông nhớ về
những ngày
đầu tiên khi ông còn là một nhân viên giải mã.
Bù lại,
Susan cũng nhận thấy cô có thể trông cậy vào Strathmore, ông che chở cho
cô trong
cái thế giới mà con người như phát điên phát cuồng vì quyền lực này, ông
nâng đỡ cô
trong công việc, bảo vệ cô và, như chính ông vẫn thường đùa: biến
những giấc
mơ của cô thành hiện thực. Cô không đơn thuần coi đó là những lời nói
đùa, cô
biết đó là sự thật, chẳng phải ông chính là người đã gọi điện mời David
Becker đến
với NSA vào buổi chiều định mệnh đó sao? Ý nghĩ của cô lại hướng về
David, một
cách bản năng, cô đưa mắt nhìn cái giá nhỏ bên cạnh bàn phím vi tính.
Có một bản
fax nhỏ được đính ở đó. Bản fax này được đính vào đó từ khoảng bảy tháng trước,
đó là bản mật mã duy
nhất mà cho
đến nay Susan vẫn chưa tài nào giải được. Bản fax đó là của David, cô
đã đọc đi
đọc lại cả trăm lần.
PLEASE
ACCEPT THE HUMBLE FAX (Xin em hãy nhận bản fax này như lời
xin lỗi) MY
LOVE FOR YOU IS WITHOUT WAX (Tình yêu anh dành cho em sẽ
không có
chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa) Anh gửi cho cô bản fax này sau khi
hai người
có một trận cãi nhau nho nhỏ. Trong suốt mấy tháng ròng, cô đã xin anh
giải mã ý
nghĩa của nó, nhưng anh đều từ chối. Without Wax (không có chỗ cho
bất cứ sự
giận dỗi nào nữa), rõ ràng là anh đang trêu lại cô.
Trước đây,
Susan đã hướng dẫn cho David khá nhiều về việc giải mãi và để trêu
anh cô đã
dùng các phương pháp đơn giản để mã hoá tất cả những thông điệp giữa
hai người
từ danh mục hàng hoá khi đi chợ cho đến những lời lê yêu đương. Và dần
dần, David
đã trở thành một mật mã viên khá xuất sắc. Rồi David quyết định đáp lễ
cho Susan,
anh bắt đầu bằng cách ký dưới tất cả các bức thư anh gửi cho cô dòng
chữ đó:
"Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), David".
Susan nhận
được rất nhiều những bức thư như vậy của David, chúng đều được kết
thúc theo
cùng một cách như vậy. Mặc cho cô gạn hỏi ra sao anh cũng không giải
thích, khi
nào cô thắc mắc anh chỉ cười và nói: "Em là một chuyên gia mật mã
mà".
Cô, một chuyên gia hàng đầu của NSA, đã thử
mọi cách có thể từ các phép thế, các
hộp mã hoá
đến các phép đảo chữ cái. Cô đã thử cho cụm từ "Without Wax"
(không có
chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa) vào chạy trong máy vi tính, đặt lệnh
tái sắp xếp
các chữ cái nhằm tạo ra các cụm từ mới. Nhưng tất cả những gì cô nhận
được là
dòng chữ "TAXI HUT WOW" (xe taxi-Túp lều- Oa). Bây giờ thì cô tin
chắc là
không chỉ có Ensei Tankado mới có thể viết ra những dòng mã không thể
giải nổi.
Ý nghĩ của
cô bị gián đoạn bởi tiếng mở cửa, Strathmore bước vào.
- Susan
này, đã tìm được điều gì chưa? - Strathmore nhìn thấy Greg Hale, ông dừng
ngay lại.
- Ô, chào
anh Hale! - ông cau mày, đôi mắt hơi nhíu lại - Làm việc vào thứ Bảy?
Lý do của
hành vi đáng biểu dương này là gì thế?
Hale cười:
- Tôi chỉ
cố gắng hoàn thành phần việc của mình thôi! - Tôi thấy rồi! - Strathmore hạ
giọng, rõ ràng là ông đang cân nhắc cái gì đó. Chỉ
sau một
thoáng, ông như đã quyết định sẽ không đả động gì đến Hale nữa, quay
sang Susan
ông nói – Cô Fletcher, tôi có thể nói chuyện với cô một lát ở ngoài
không?
Susan hơi
bối rối.
- À… vâng,
thưa sếp! - Cô liếc mắt qua màn hình vi tính của mình rồi rảo bước đi
qua chỗ
Greg Hale - Sếp đợi một chút.
Chỉ với một
vài thao tác trên bàn phím, cô đã khởi động chương trình Screenlock
(Khoá màn
hình), đây là một tiện ích bảo mật trên máy vi tính. Tất cả các máy tính
tại Node 3
đều được cài đặt tiện ích này. Do các máy tính tại đây luôn phải hoạt
động liên
tục cả ngày, Screenlock giúp các mật mã viên có thể yên tâm rời máy mà
không sợ bị
ai đụng đến các file được lưu trên máy của họ. Susan nhập một mật mã
gồm 5 ký tự
và ngay lập tức màn hình máy tính của cô chuyển sang màu đen. Nó sẽ
chỉ có thể
trở lại hoạt động như cũ nếu Susan quay lại và nhập đúng mật mã mà cô
đã cài đặt.
- Anh ta
làm cái quái gì ở đấy thế - Strathmore hỏi ngay khi Susan vừa bước ra
khỏi Node
3.
- Như
thường lệ, chẳng làm gì cả - Susan trả lời.
Strathmore
trông có vẻ khá lo ngại:
- Anh ta có
thắc mắc gì về TRANSLTR không?
- Không
đâu, nhưng nếu anh ta tiếp cận Run-Monitor và phát hiện ra con số 17giờ
thì nghĩ
kiểu gì cũng sẽ thắc mắc.
Strathmore
cân nhắc:
- Anh ta
không có lý do gì để tiếp cận Run Monitor cả!
Susan nhìn
sếp.
- Ông muốn
tống Hale khỏi đây à?
- Không, cứ
mặc anh ta! - Strathmore liếc mắt về phía phòng An ninh hệ thống - -
Chartrukian
đã về chưa?
- Tôi không
rõ, tôi không thấy anh ta đâu cả!
- Lạy chúa!
- Strathmore bực bội - Chẳng khác gì một gánh xiếc.
Ông đưa tay
lên xoa cằm, sau mấy chục giờ không cạo râu khuôn mặt ông bây giờ
như sạm đi
râu ria lởm chởm. - Chương trình tìm địa chỉ có phát hiện được gì không? Tôi
như ngồi trên đống lửa
rồi đấy!
- Chưa có
gì cả, ông có tin của David không?
Strathmore
lắc đầu:
- Tôi đã
yêu cầu cậu ấy không liên lạc gì cho đến khi lấy được chiếc nhẫn.
Susan ngạc
nhiên:
- Tại sao
lại không? Nhỡ ra anh ấy cần được giúp đỡ thì sao?
Strathmore
nhún vai:
- Tôi không
thể ngồi đây mà giúp cậu ta được cậu ta phải tự xoay sở thôi, mà tôi
cũng không
muốn nói chuyện qua điện thoại vì rất dễ bị nghe trộm.
Susan mở to
mắt chú ý:
- Nghĩa là
sao ạ?
Strathmore
cảm thấy mình đã nhỡ mồm, ông cười xoà an ủi Susan. David vẫn ổn
mà, tôi chỉ
muốn cẩn thận một chút thôi.
Cách chỗ
hai người nói chuyện khoảng vài chục bước chân, sau bức tường kính
mầu của
Node 3, Greg Hale đang đứng cạnh máy vi tính của Susan. Màn hình vẫn
toàn một
màu đen. Hale để mắt chú ý theo dõi Strathmore và Susan, rồi anh ta đưa
tay vào ví
rứt ra một tấm thẻ và đọc nó.
Nhìn lại,
biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện Hale cẩn thận gõ năm
ký tự trên
bàn phím máy tính của Susan, chỉ thoáng một lát màn hình hoạt động trở
lại.
- Chuyện
nhỏ! - Hale cười thầm.
Việc ăn
trộm mật khẩu của các máy tính trong Node 3 thực sự quá đơn giản với
Hale. Tại
Node 3, tất cả các máy tính đều được trang bị cùng một loại bàn phím có
thể dễ dàng
tháo lắp. Một buổi tối Hale đã mang bàn phím của mình về nhà và cài
vào đó một
con chip điện tử có khả năng lưu lại tất cả các thao tác trên bàn phím.
Sáng hôm
sau, anh ta chỉ cần đến sớm một chút, tráo đổi bàn phím của mình và bàn
phím trên
máy người khác và chờ đợi. Hết ngày làm việc, Hale lắp lại như cũ và
xem xét
những dữ liệu con chip ghi lại. Mặc dù có đến hàng triệu thao tác trên bàn
phím đã
được lưu lại nhưng việc tìm ra mật mã truy nhập thực sự rất đơn giản.
Thông
thường, thao tác đầu tiên của bất cứ mật mã viên nào cũng là nhập mật khẩu
để truy cập
máy tính của họ. Việc này hiển nhiên giúp công việc còn lại của Hale vô cùng
nhàn hạ, mật khấu chính là 5 ký tự đầu tiên được lưu lại.
Buồn cười
thật, Hale nghĩ vậy khi nhìn vào màn hình của Susan. Anh ta ăn cắp mật
khẩu của cô
chỉ để cho vui, nhưng bây giờ sau khi đã thành công anh ta cảm thấy
rất vui,
chương trình đang chạy trên máy của Susan có vẻ khá là quan trọng.
Hale trải
qua một thoáng lúng túng, chương trình này được viết bằng ngôn ngữ lập
trình LIMBO
- thứ này anh ta không am hiểu cho lắm. Nhưng chỉ cần nhìn thoáng
qua là Hale
đã có thể chắc chắn một điều - đây không phải là một chương trình
chẩn đoán.
Anh ta nhận
ra điều đó chỉ nhờ có hai từ, hai từ là quá đủ.
TRACER
SEARCHING (Chương trình đang tìm kiếm) - Tracer (Phần mềm tìm
kiếm) à -
Hale tự hỏi - Nó đang tìm kiếm cái gì vậy nhỉ - Anh ta đột nhiên cảm thấy
khó hiểu.
Sau khi ngồi một lát quan sát thật kỹ những gì hiện trên màn hình của
Susan anh
ta quyết định hành động.
Kiến thức
vừa đủ của Hale về ngôn ngữ lập trình LIMBO giúp anh ta hiểu rằng nó
được cấu
thành từ hai ngôn ngữ lập trình khác- C và Pascal, cả hai ngôn ngữ này
Hale nắm
chắc như lòng bàn tay.
Ngoái đầu
lại kiểm tra, sau khi biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện
ở ngoài,
Hale bắt đầu thế hiện. Anh nhập một vài lệnh viết bằng ngôn ngữ Pascal
rồi bấm
phím RETURN (phím TRỞ LẠI). Cửa sổ trạng thái của Tracer phản hồi
ngay, đúng
như mong muốn.
TRACER
ABORT?
(Huỷ chương
trình?) Anh ta nhanh chóng đánh: YES (Đồng ý) ARE YOU SURE?
(Bạn có
chắc chắn không?) Anh ta đánh lại một lần nữa: YES (đồng ý) Chỉ một
thoáng sau,
máy vi tính kêu một tiếng Bíp.
TRACER
ABORTED (Chương trình đã bị huỷ) Hale mỉm cười: máy tính đã phát
ra thông
điệp yêu cầu chương trình Tracer mà Susan đang chạy phải ngưng hoạt
động giữa
chừng và thế là cho dù Susan có tìm kiếm cái gì thì cô cũng sẽ phải đợi.
Cẩn thận
không muốn để lại dấu vết, rất chuyên nghiệp, Hale truy nhập vào bản ghi
nhớ các
thao tác trên máy của Susan, xoá toàn bộ các lệnh anh ta đã nhập, sau đó
nhập lại
mật khẩu bảo vệ cho máy tính.
Màn hình
máy tính lại chuyển sang toàn một màu đen.
Khi Susan
Fletcher trở lại Node 3, Greg Hale đã yên vị tại máy vi tính của mình. Chương 30 & 31
Alfonso
XIII là một khách sạn 4 sao tương đối nhỏ, nằm lọt thỏm phía sau khách
sạn Puerta
de Jerezl. Bao quanh khách sạn là một hàng rào sắt khá kiểu cách nhưng
hơi dày với
những bụi câỵ đinh hương. David bước lên bậc thềm lát đá cẩm thạch
của khách
sạn.
Khi anh đến
cửa ra vào, cửa tự mở như có phép màu, rồi một nhân viên xuất hiện.
- Thưa
ngài, tôi có thể mang giúp hành lý cho ngài không?
- Không, cảm
ơn, tôi muốn gặp người phụ trách.
Anh chàng
phục vụ thoáng tự ái, dường như giây gặp gỡ vừa qua với vị khách này
làm anh ta
cảm thấy không hài lòng cho lắm.
- Phía này,
thưa ông! - Anh chàng liền dẫn David vào tiền sảnh, chỉ tay về chỗ
người phụ
trách rồi nhanh chóng quay ra ngoài.
Tiền sảnh
của khách sạn được xây dựng khá kiểu cách, tuy hơi nhỏ nhưng thiết kế
rất trang
nhã. Đúng là thời kỳ hoàng kim của đất nước Tây Ban Nha này chỉ còn là
dĩ vãng,
nhưng ai cũng biết vào giữa năm 1600, đất nước nhỏ bé này đã từng thống
trị gần như
cả thế giới. Khu vực tiền sảnh mà chúng ta đang nói đến đây có thể
được coi
như một minh chứng hùng hồn của thời kỳ rực rỡ đó với những bộ giáp
trụ, những
bức phù điêu mang phong cách nhà binh và cả một tủ trưng bày những
thỏi vàng
được mang về từ Tân Thế Giới.
David tiến
lại một chiếc quầy với dòng chữ nhân viên PHỤC VỤ, trước mặt anh là
một nam
nhân viên gọn gàng chải chuốt, anh ta cười vô cùng thân thiện:
- Tôi cố
thể giúp gì cho quý ông?
Giọng của
anh chàng này có vẻ hơi ngọng một chút, nhưng anh ta cũng đã tranh thủ
ngắm kỹ một
lượt từ đầu đến chân Becker.
Becker trả
lời bằng tiếng Tây Ban Nha.
- Tôi muốn
nói chuyện với anh Manuel.
Khuôn mặt
cháy nắng của anh chàng này trở nên rạng rỡ hơn.
- Vâng,
thưa ông. Vâng, tôi là Manuel đây, tôi có thể biết quý ông cần gì không?
- Ông
Roldan ở Escortes Belen có nói với tôi rằng anh sẽ… Người phục vụ liền đưa
tay ra hiệu
cho David im lặng, anh ta đưa mắt thận trọng quan sát lại toàn bộ tiền
sảnh. - Ông
đi ra đây với tôi! - Anh ta dẫn Becker ra phía cuối quầy và tiếp tục nói nhưng
giọng chỉ
thì thà thì thầm - Nào, bây giờ thì tôi giúp được gì cho ông?
Becker hạ
giọng nói:
- Tôi cần
nói chuyện với một người quen của ông ấy mà tôi biết chắc là người đó
đang ăn tối
ở đây, tên cô ta là Rocio.
Anh chàng
phục vụ thở phào khoan khoái:
- À, Rociol
cô nàng xinh đẹp.
- Tôi cần
gặp cô ta ngay lập tức.
- Nhưng ông
ạ, cô ta đang đi khách!
Becker lắc
đầu không khoan nhượng:
- Việc này
rất hệ trọng, anh nên biết, đây là vấn đề an ninh quốc gia.
Người phục
vụ từ chối:
- Không thể
được, có lẽ ông nên để lại… - Việc này chỉ một lát là xong thôi mà, có
phải cô ta
đang trong phòng ăn không?
Người phục
vụ lắc đầu:
- Chúng tôi
đóng cửa phòng ăn nửa tiếng rồi, tôi sợ là cô nàng và khách đang vui
vẻ rồi. Nếu
ông để lại một lời nhắn, tôi chắc chắn sẽ chuyển đến tay cô nàng vào
sáng mai. -
Anh chàng liền đưa tay về phía mấy chiếc hộp có đánh số ở sau lưng.
- Liệu tôi
có thể gọi phòng cô ta và… - Tôi rất tiếc! - Người phục vụ cứng giọng,
sự lịch
thiệp ban đầu như tan biến - Khách sạn Anfonso XIII chúng tôi luôn rất tôn
trọng
chuyện riêng tư của khách hàng.
Becker bực
mình, rõ ràng là anh không có ý định sẽ ngồi lại đây 10 tiếng đồng hồ
chờ cho đến
khi gã béo và con điếm đó xuống ăn sáng.
- Tôi hiểu!
- Anh nói - Xin lỗi đã làm phiền anh!
Anh quay
lại tiền sảnh, bước thẳng đến chiếc bàn nắp cuộn xinh xắn mà anh bắt
gặp lúc đi
vào. Trong chiếc bàn có đựng rất nhiều thiệp của khách sạn Anfonso
XIII, có cả
bút và phong bì thư. Becker cho vội một tấm thiệp vào bì thư và viết
bên ngoài
mấy chữ. "ROCIO". Sau đó anh trở lại chỗ người phục vụ.
- Xin lỗi
làm phiền anh lần nữa! - Becker nói tỏ vẻ hơi ngượng ngùng - Tôi biết anh
có thể cho
là tôi không bình thường, nhưng tôi chỉ muốn tâm sự mấy câu với cô
nàng về
những khoảnh khắc vui vẻ khó quên mấy hôm trước thôi mà. Có lẽ tôi
đành phải
để lại lời nhắn vậy! - Becker liền đặt chiếc phong bì lên quầy. Anh chàng phục
vụ nhìn chiếc phong bì và cười thầm. Lại một gã si tình, đúng là
rỗi hơi.
Anh ta ngước lên và mỉm cười - Tất nhiên rồi thưa ông…?
- Buisan! -
Becker đáp lại - Miguel Buisan.
- Tôi bảo
đảm cô nàng sẽ nhận được lời nhắn của ông vào sáng mai.
- Cảm ơn! -
Becker mỉm cười và quay trở ra.
Sau khi đã
chắc chắn là Becker đã quay lưng đi ra, người phục vụ liền nhặt phong
bì lên và
quay lại phía những chiếc hộp có đánh số ở trên tường. Đúng lúc người
phục vụ đưa
phong bì vào chiếc hộp cần thiết, Becker ngoái lại thăm dò lần cuối.
- Tôi có
thể kiếm một chiếc taxi ở đâu được nhỉ?
Người phục
vụ quay lại trả lời nhưng Becker đâu có để ý đến lời nói của anh ta.
Khoảnh khắc
đó quá đủ để Becker nhận ra anh chàng vừa dời tay ra khỏi chiếc hộp
có dòng chữ
Phòng 301.
Becker cảm
ơn anh chàng phục vụ rồi thong thả rảo bước tìm đến chỗ thang máy.
Vào nhanh
rồi ra nhanh, anh lẩm bẩm với chính mình.
Chương 31
Susan quay trở lại Node 3. Cuộc trò chuyện với Strathmore làm cô cảm
thấy mỗi
lúc một lo lắng cho sự an toàn của David. Những suy nghĩ vu vơ làm cô
cảm thấy
rất bất an.
Ái chà, ông
Strathmore muốn gì đấy? Chắc là một buổi tối lãng mạn với cô nhân
viên xuất
sắc nhất của mình rồi, đúng không nào?
Susan bỏ
ngoài tai lời bình phẩm đó của Hale và ngồi xuống bên cạnh chiếc máy vi
tính của
mình. Cô nhập mật khấu và chiếc màn hình sáng trở lại. Chương trình tìm
kiếm Tracer
đã hiện ra, vẫn chưa có thông tin gì về North Dakota.
- Chán quá,
Susan nghĩ, sao lại lâu thế nhỉ?
- Sao bực
bội thế - Hale giả vờ ngây ngô - Chương trình chẩn đoán có trục trặc à?
Không có gì
- Susan trả lời, nhưng cô hoàn toàn không chắc chắn một chút nào, rõ
ràng là
Tracer chạy quá chậm. Cô tự hỏi không biết mình có mắc lỗi nào khi viết
chương
trình này không.
Susan đưa
mắt dọc theo những dòng lệnh của ngôn ngữ lập trình UMBO đang hiện
trên màn
hình, cố tìm xem có thấy gì bất ổn không Hale lén lút để ý xem cô đang
làm gì.
- Này, tôi
muốn hỏi… - anh ta thăm dò - Liệu cô có biết gì về thuật toán không có
thuật giải
mà Ensei Tankado nói rằng anh ấy đang viết không? Giật mình, Susan ngước lên
hỏi lại:
- Thuật
toán không có thuật giải - Cô nói dối - À, tôi nghĩ là đã nghe thấy ở đâu đó
rồi.
- Một điều
không tưởng đúng không?
Susan tự
hỏi tại sao tự nhiên Hale lại đề cập đến chuyện này.
- Ai cũng
biết một thuật toán không có thuật giải là điều không thể có thật trên đời.
Hale cười:
- À ừ…Theo
định lý Bergofsky chứ gì.
- Đó là
điều hiển nhiên - cô đáp lời.
- Ai mà
biết được… - Hale thở dài - Cả thiên đàng làm đều phức tạp hơn ta tưởng!
- Anh nói
gì vậy?
- Trích
Shakespeare - Hale đáp - Kịch Hamlet đấy!
- Lúc ngồi
tù chắc anh đọc không ít nhỉ?
Hale cười
khừng khục:
- Nghiêm
tức nhé Susan, cô có bao giờ nghĩ chuyện đó là thật không? Có thể
Tankado
đúng là đã viết ra một thuật toán không có thuật giải lắm chứ.
Susan có vẻ
cảm thấy hơi bí trước những lời này:
- À, chúng
ta còn không thể làm được việc đó nữa là?
- Biết đâu
Tankado giỏi hơn chúng ta thì sao?
- Ừ cũng
không thể - Susan nhún vai giả bộ không quan tâm.
- Chúng tôi
ngày trước hay viết thư cho nhau lắm - Hale nói có vẻ vu vơ - Takando
và tôi, cô
biết chứ?
Susan ngước
lên, cô cố gắng che giấu sự kinh ngạc của mình.
- Thế hả?
- Ừ, sau
khi tôi giải mã được thuật toán Skipjack, anh ta có viết thư cho tôi, anh ta
nói thế
này: "Chúng ta là những chiến hữu trong trận tuyến duy trì tính bảo mật
trong thế
giới kỹ thuật số".
Suýt nữa
Susan không giấu nổi vẻ ngờ vực của mình. Hale có quan hệ cá nhân với
Tankado! Cô
cố hết sức tỏ vẻ không quan tâm.
Hale nói
tiếp:
- Anh ta
chúc mừng tôi vì đã chứng minh được Skipjack có lỗ hổng - anh ta cho
rằng đó là
một chiến công phi thường củng cố quyền lợi bảo mật của người dân trên toàn thế
giới. Cô cũng sẽ thừa nhận điều đó đúng không Susan? Kẽ hở của
Skipjack
thực ra là một trò ba que xỏ lá.
- Có kẻ nào đó muốn đọc thư điện tử của cả thế
giới này ư?
- Nếu cô
hỏi thì tôi sẽ nói thẳng, Strathmore đáng bị tống vào tù.
- Greg! -
Susan bất chợt lên tiếng giận dữ - Anh nên biết kẽ hở đó tồn tại là vì nó
giúp NSA có
thể giải mã những bức thư điện tử có khả năng đe doạ an ninh của đất
nước này.
- Vậy à? -
Hale thở dài rồi ra vẻ ngây thơ hỏi lại - Vậy chuyện nhúng mũi vào
những thông
tin cá nhân của người khác chỉ là việc tình cờ thôi sao?
- Chúng ta
không động chạm gì vào thông tin cá nhân của người khác, chắc anh
biết rõ
điều đó. Như bên FBI chẳng hạn, họ có thể nghe trộm điện thoại, nhưng
điều đó
không có nghĩa là họ đã nghe hết tất cả các cuộc gọi của người dân.
- Nếu họ có
đủ người, tôi dám chắc họ sẽ không từ chối đâu.
Susan bỏ
qua lời bình phẩm đó.
- Mọi chính
phủ đều được quyền thu thập những thông tin có thể gây ảnh hưởng
đến lợi ích
của số đông công dân của mình.
- Lạy chúa!
- Hale thở dài - Hình như cô bị Strathmore tẩy não thực sự rồi. Cô thừa
biết ngay
cả FBI cũng không thể thích nghe trộm cái gì thì nghe, họ cần phải có
giấy phép.
Nhưng một hệ thống mã hoá có lỗ hổng sẽ đồng nghĩa với việc NSA có
thể nghe
trộm bất cứ ai, bất cứ lúc nào và bất cứ chỗ nào mà họ muốn.
- Đúng, và
nên như thế - Giọng nói của Susan trở nên gay gắt - Nếu như không
phải anh
tiết lộ lỗ hổng của Skipjack thì chúng ta đã có thể giải mã được mọi thứ
rồi, đâu
phải dựa vào TRANSLRT như bây giờ.
- Nếu như
tôi không tìm được lỗ hổng - Hale biện minh - thì ai đó khác cũng sẽ tìm
ra, việc
tôi tiết lộ chuyện đó cũng chỉ vì không muốn mọi người tiếp tục sai lầm mà
thôi. Cô đã
bao giờ nghĩ xem hậu quả sẽ ra sao nếu tin tức đó lọt ra ngoài khi
Skipjack đã
được tung ra thị trường chưa?
- Đằng nào
cũng thế thôi! - Susan đáp trả - Bây giờ chúng ta đang bị một lũ hoang
tưởng EFF
nào đó chỉ trích là cố tình tạo ra các kẽ hở trong tất cả các thuật toán mà
chúng ta
viết ra.
Hale hỏi
lại một cách tự mãn:
- À, thế sự
thực không phải vậy sao? Susan nhìn anh ta lạnh lùng.
- Này! -
anh ta thêm vào - cô đã chế tạo TRANSLTR, bây giờ chẳng phải cô đã có
được một
nguồn thông tin vô tận sao? Cô có thể đọc được bất cứ thứ gì tại bất cứ
thời điểm
nào cô muốn mà không sợ kẻ nào thọc mạch. Cô thắng rồi còn gì nữa.
- Anh phải
nói là chúng ta đã thắng chứ. Tôi vừa nghe anh nói rằng anh cũng là
người của
NSA mà.
- Không lâu
nữa đâu! - Hale nói nhỏ nhẹ.
- Ôi, nói
trước bước không qua đâu! - Susan nói kháy.
- Tôi nói
thật đấy. Một ngày nào đó tôi cũng sẽ đi khỏi chỗ này.
- Thế cơ à.
Lúc này,
Susan chỉ muốn nguyền rủa Hale về tất cả mọi chuyện không hay đã xảy
ra, từ
chuyện về Pháo Đài Số cho đến những vấn đề giữa cô và David rồi cả chuyện
cô nhỡ
chuyến đi đến Smokys, nhưng tất cả rõ ràng đâu phải lỗi của anh ta. Lỗi duy
nhất của
Hale là anh ta thực đáng ghét. Susan thấy mình cần phải bao dung độ
lượng hơn.
Là trưởng nhóm, cô cần duy trì được mối quan hệ và phải biết cách dẫn
đạo người
khác, đúng là Hale còn trẻ và quá ngây ngô.
Susan nhìn
Hale, thật đáng tiếc, cô nghĩ. Rõ ràng Hale là một nhân tài tại Crypto,
thế mà anh
ta lại không thông suốt được những sứ mạng quan trọng mà NSA phải
gánh vác.
- Greg này!
- cô nói giọng đã nhẹ nhàng và điềm tĩnh trở lại. Hôm nay hình như tôi
hơi căng
thẳng một chút, vừa rồi tôi rất buồn khi nghe anh nói về NSA cứ như thể
chúng ta là
những kẻ chuyên sử dụng công nghệ cao để làm trò tồi tệ. Tổ chức của
chúng ta
được thành lập ra với một mục đích mà tôi nghĩ anh cũng biết đó là bảo vệ
an ninh
quốc gia. Công việc của chúng ta rõ ràng sẽ có lúc phải soi xét người này
người kia,
can thiệp vào những thông tin cá nhân của họ. Nhưng tôi nghĩ đa số
người dân
sẽ tán thành việc chấp nhận hy sinh một vài sự riêng tư nho nhỏ để tránh
lọt lưới những
thông tin nguy hiểm.
Hale im
lặng.
- Sẽ có
những lúc - Susan tiếp tục - những người dân của cái đất nước này cảm thấy
họ cần phải
đặt niềm tin của họ vào một nơi nào đó. Rõ ràng xã hội của chúng ta đa
số là người
tốt, nhưng anh cũng sẽ thấy không ít kẻ xấu lẩn khuất đâu đó. Phải có ai
đó hiểu rõ
được điều này và đứng ra gánh vác công việc tách bạch giữa cái xấu và cái tốt.
Đó là nhiệm vụ của chúng ta, đó là trách nhiệm của chúng ta. Dù muốn hay
không,
chúng ta luôn phải thừa nhận một điều là chỉ có một ranh giới rất mong
manh giữa
tình trạng dân chủ và sự vô chính phủ, và chính NSA sẽ đóng vai trò
như một
giám sát viên đứng ở giữa ranh giới đó và đảm bảo sự tồn tại của ranh giới
đó.
Hale gật
đầu vẻ rất trầm tư.
- Quis
custodiet ipsos custodies?
Susan bối
rối.
- Tiếng La
tinh đấy! - Hale tiếp lời - Có nghĩa là: Ai sẽ giám sát những giám sát
viên đó?
- Tôi không
hiểu? - Susan nói - Thế nghĩa là sao?
- Vâng, thế
này nhé, chúng ta tự nhận mình là những người bảo vệ xã hội trước
những kẻ
nguy hiểm, vậy thì ai sẽ là người giám sát chúng ta và đảm bảo rằng
chính chúng
ta sẽ không trở thành những kẻ nguy hiểm?
Susan gật
đầu, không biết nên trả lời ra sao.
Hale mỉm
cười:
- Đó là câu
nói mà Takando thường viết trong những bức thư anh ta gửi cho tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]